Jump to content

Advertisements




Con Đường Cái Quan


  • Bạn không thể gửi trả lời cho chủ đề này
9 replies to this topic

#1 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9367 Bài viết:
  • 6535 thanks

Gửi vào 31/01/2013 - 14:01

Không biết bây giờ ông đang ở nơi nào trên Con Đường Cái Quan?



Thanked by 5 Members:

#2 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9367 Bài viết:
  • 6535 thanks

Gửi vào 31/01/2013 - 14:35

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

1960


Con Đường Cái Quan


Trước khi đi học về Sự Thành Hình Và Biến Hình của Ngũ Cung (La Formation et les Tranformations du pentatonique) ở Pháp, tôi đã vô tình sáng tác những bài hát (từ Nhớ Người Thương Binh tới Về Miền Trung) với gần như tất cả những nguyên lý mà các giảng sư đã hệ thống hóa hộ tôi.

Dù rằng tôi không học được gì nhiều trong những tuyệt phẩm của trường phái classic hay neo-classic âu châu sau khi học nơi Giáo Sư Lopez về composition, contrepoint, fugue v.v… (Trần Văn Khê lúc đó rất đắc ý sau khi nghe tôi nói thế) nhưng tôi đã nhờ ở những ngày nghe giảng ở Viện Nhạc Học mà vững lòng đi vào việc sáng tạo những giai điệu Việt Nam.

Tôi thấy rằng tôi có thể thử thách soạn những bài hát dài hơn ba phút với những đề tài lớn lao hơn nhạc kháng chiến và vào lúc có hòa hội Genève chia đôi nước ta, tôi bèn ngồi viết Con Đường Cái Quan để minh định một điều: nước tôi không thể bị cắt đôi như thế được, sau khi trải qua vài trăm năm, con đường thống nhất đã được nối dài với cuộc Nam Tiến.

Con Đường Cái Quan sẽ là một trường ca dài 45 phút và mở màn bằng đoản khúc đầu Tôi Đi Từ Ải Nam Quan. Vừa viết xong đoạn này, ở Paris, tôi hát cho Trần Văn Khê nghe. Tôi thì quên ca từ của đoạn khởi đầu này rồi nhưng Khê còn nhớ và về sau kể lại cho tôi nghe (vì mới chỉ là phác thảo nên có tới 2 versions) :

Tôi đi từ Ải Nam Quan, xa người vợ là Tô Thị y y ý

Ôm con và còn khuyên tôi : chớ có về…

. . . . . . .

Tôi đi từ Ải Nam Quan, tôi gặp Nàng Tô Thị y y ý
Cho tôi gửi một đôi câu : chớ có về...


Khi tôi trở về Việt Nam và tiếp tục soạn tiếp Con Đường Cái Quan thì những gì đã phác thảo tại Paris đã được re-editing lại. Version cuối cùng của đoạn trên sẽ là :

Tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ

Chia đôi một họ trăm con đã lên đường…


… và tôi phải mất 6 năm (từ 1954 tới 1960) mới hoàn tất trường ca này.

Về Saigon sau năm 1955, trong khi tôi đang bế tắc trong sáng tác thì may thay có một người giúp đỡ, tôi mới hoàn tất xong Con Đường Cái Quan. Người đó là Võ Đức Diên.
Tôi quen kiến trúc sư Võ Đức Diên nguyên là sáng lập viên của một đoàn ca vũ kịch ở Hà Nôi và trong kháng chiến khi có ngày Đại Hội Văn Hóa ở Đại Từ, Việt Bắc (1950). Rồi tới khi gặp lại nhau ở Saigon, lúc anh Diên làm chủ tờ báo Sáng Dội Miền Nam. Biết tôi đang viết dở dang Con Đường Cái Quan, anh Diên muốn đăng bài đó trên báo của anh, nhưng vì tôi chưa hoàn tất nó nên tôi ngỏ lời được giúp đỡ phương tiện để có thể đi từ Saigon ra Quảng Trị, lấy cảm hứng soạn nốt phần còn lại của trường ca thì anh Diên đồng ý ngay.
Cùng đi với tôi trên đường thiên lý có họa sĩ của tờ báo là Tạ Tỵ và một thủ quỹ, kèm thêm hai ông thầy bói sáng nổi danh, chuyên môn coi tử vi cho Võ Đức Diên là Dương Thái Ban và ''Thầy'' Diễn.
Thế là tôi lại được dạo bước trên đường cái quan một lần nữa để lấy hứng từ con người, từ lịch sử và phong cảnh của đất nước.
Lần đi trên đường thiên lý này có vẻ thú vị hơn những lần trước. Tôi không còn là lữ khách lầm lũi trong thời nô lệ hay hấp tấp trong thời chiến tranh nữa. Xe hơi đưa chúng tôi đi ven bờ biển Thái Bình, vượt qua những nơi đầy ắp kỷ niệm như Phan Thiết sáng sủa, Nha Trang ấm áp, Qui Nhơn lộng gió, Ðà Nẵng ồn ào, Huế thơ mộng và Quảng Trị cằn khô. Khi ghé Quảng Ngãi, Hồng Vân (nữ ca sĩ) lúc đó còn bé tí teo, leo lên bờ tường khách sạn, ngồi rình xem mặt Phạm Duy. Chúng tôi có những giây phút trầm ngâm trước cảnh tượng hùng vĩ của Ðèo Cả, Ðèo Hải Vân…
Hai ông thầy tử vi vốn là dân hít to phe, rất sợ nước nhưng cũng nhào theo tôi xuống biển để tắm táp và kỳ cọ ở bãi biển Lăng Cô.
Bản Con Ðường Cái Quan -- soạn xong phần đầu ở Paris năm 54 để phản đối ngay lập tức sự chia cắt đất nước -- sau sáu năm bỏ dở, bây giờ nhờ chuyến đi rất thanh bình này, được hoàn tất nhanh chóng. Trong khung cảnh trời cao biển rộng đường dài, trong hoàn cảnh chung của nước Việt trong thời kỳ đầu của nền độc lập, trong niềm hạnh phúc được tự do sáng tác của riêng mình... tôi có nhiều hứng khởi để diễn tả con đường mạch máu của đất nước và tấm lòng khao khát thống nhất của người dân Việt.
Sau khi hoàn tất, Con Đường Cái Quan được in ra trên báo Sáng Dội Miền Nam với bản viết tay của tôi. Ai còn giữ đươc tài liệu này thì làm ơn cho tôi mượn để tôi photo copy lại.

Con Đường Cái Quan gồm 19 đoản khúc, nghĩa là tôi đã phải viết ra hằng trăm motif với từng nấy melody

Muốn biết tính chất của từng giai điệu, hãy xem Phần Từ Miền Bắc với đoạn Tôi Đi Từ Ải Nam Quan để thấy motif mi la doimitation la re fa (có hơi hướng của những điệu ca cổ truyền miền Bắc):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


… và xin chú ý tới tiết tấu : là nhịp hành khúc nhưng không giống như hành điệu của Xuất Quân, Khởi Hành v.v… Chú ý tới chords giọng phụ : rất Á Đông nhưng cũng rất Âu Phương…

Phần Hai Qua Miền Trung phải là những motif, melody dựa vào cái khuông re sol la re với hơi hướng ca Huế… Nhất là với bài Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Phần Ba Vào Miền Nam có những motif, melody có hơi hướng hò, ru Vọng Cổ… Bài Đi Đâu Cho Thiếp Theo Cùng dùng âm giai có bán cung la do# re mi fa#:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Về tinh thần của trường ca, những ca khúc mạnh mẽ trong phần MIỀN BẮC diễn tả sự hào hùng của người đi khai sơn phá thạch. Trong phần MIỀN TRUNG, ca khúc trở nên ngọt ngào, đôi khi xót xa như bước chân Huyền Trân Công Chúa. Phần MIỀN NAM rất hoan lạc vì đó là những bước chân thành đạt của lữ khách để cùng toàn dân hoàn thành nước Việt.


nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 4 Members:

#3 NguaQuaDoc

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2860 Bài viết:
  • 4072 thanks

Gửi vào 31/01/2013 - 14:38

cảm ơn bác !

#4 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9367 Bài viết:
  • 6535 thanks

Gửi vào 31/01/2013 - 14:47

Trường ca Mẹ Việt Nam - Phạm Duy


- Phần 1: Đất Mẹ



- Phần 2: Núi Mẹ



Thanked by 3 Members:

#5 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9367 Bài viết:
  • 6535 thanks

Gửi vào 31/01/2013 - 14:48

Trường ca Mẹ Việt Nam - Phạm Duy

- Sông Mẹ



- Biển Mẹ



Thanked by 2 Members:

#6 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9367 Bài viết:
  • 6535 thanks

Gửi vào 31/01/2013 - 14:50

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Mẹ Việt Nam


Rất vững lòng sau khi soạn xong CON ĐƯỜNG CÁI QUAN vốn đã là sự phát triển về cả hai phần hồn, phần xác :

* về nội dung thì vẫn là tình ca quê hương nghĩalà “khóc hay cười theo mệnh nước ca” nhưng rộng rãi, sâu đậmhơn những bài xưng tụng caTình Hoài Hương, Tình Ca, vì có lịch sử tính, có địa lý tính, có nhiều cảm tính khác nhau (êm đềm, giận dữ, phê phán, tha thứ v.v…) không chỉ ca ngợi một chiềumà thôi…


* về hình thức thìđó là một sự phát triển về nhiều mặt : giai điệu, tiết điệu, hợp âm (chords), cấu phong (composition).


1963, Miền Nam tiến tới một bước ngoặt. Sau một thời tương đối an bình là một thời kỳ hỗn loạn. Trong vòng 20 tháng, sau khi ông Diệm chết, đã xẩy ra 13 cuộc chỉnh lý và tái chỉnh lý, đảo chánh và phản đảo chánh. Có tới 9 chính phủ tranh nhau cầm quyền và có tới 4 bản hiến pháp được soạn ra. Những cuộc bãi khoá, biểu tình, xuống đường xẩy ra thường xuyên, mâu thuẫn giữa Phật Giáo và Công Giáo còn đi đến chỗ đổ máu nữa... Đó là chưa kể những xung đột thường xuyên giữa hai miền Nam, Bắc nữa.

MẸ VIỆT NAM phải ra đời để khóc theo mệnh nước. Đây là một trường ca trong đó, lúc trẻ tuổi, mẹ Việt Nam được biểu tượng bằng đất mầu tươi tốt, đa tình, nền tảng của gia đình, ruộng nương, làng nước. Khi đứng tuổi, mẹ hiện thân là núi non sắt đá, trong sự hi sinh ròng rã, vẫn bền bỉ đợi chờ và che chở người chinh phu chưa hết nợ đao binh. Mẹ còn âm thầm sót thương lũ con sông ngòi, có những đứa dại dột, hiếu thắng, phản bội mẹ vì sự tranh giành lẫn nhau, gây oán hận phân chia, làm nát tan lòng mẹ. Vào lúc tuổi già, mẹ trở thành biển cả đại lượng bao dung, kêu gọi và ôm đón đàn con giang hồ, thành công hay thất bại. Nước mắt vui mừng của mẹ lúc gặp con bốc lên trời cao làm mây đầy đặn và ấm áp, bay đi rửa sạch địa cầu bằng ơn mưa móc, nối chặt chu kỳ trường ca Mẹ Việt Nam.

Về nội dung, phải đọc lời bình của phê bình gia Đặng Tiến:

…mở đầu trường ca, người phụ nữ - chưa là mẹ - hiện ra, tình tứ, lẳng lơ, nghiêng mắt xanh chải tóc mây ngàn... nằm phơi gió trăng... duỗi chân dài chờ mưa tuôn''. Những lời ca rạo rực dục tính như tuổi trẻ người phụ nữ sớm về nhà chồng, duyên thề chắp nối, cuộc đời trôi nổi, thầm mong tình uyên ương, nợ trả thay chồng vẫn giữ lòng sạch trong... là hình ảnh thực tế của cụ bà Nguyễn Thị Hoà, thân sinh Phạm Duy.


Rồi chiến tranh. Những thiếu nữ dù không theo chồng cũng bỏ cuộc chơi. Chồng ra đi, rồi con cũng ra đi. Chiến tranh không dạy Phạm Duy điều phải trái, lẽ thắng lẽ thua, mà nhắc anh:

Mẹ vẫn nguyện cầu
Người sinh ra có nhau
Phải thương nhau mến nhau.


Rồi Mẹ hoá đá. Không phải vì chờ mong như trong truyền thuyết, nhưng vì thương những gieo neo trong cuộc sống, từ cô hàng bánh ế cuối ngày đến con ngựa người vất vả... Mẹ hoá ra hòn núi cao.


Ðất nước chúng ta có dòng sông mang tên sông Thương xanh mát tình yêu, nhưng lại có sông mang tên sông Gianh là ranh giới phân chia đất nước, chia rẽ lòng người. Tính lại không biết bao nhiêu thế kỷ phân tranh, xương máu dù đi qua, hận thù còn đọng mãi.

Nước đi là nước không về
Chia đôi dòng nước chia lìa dòng sông
(...)
Nước ân tình đổi thành ra nước căm hờn


Nhưng nhạc sĩ nhìn dòng sông vẫn nuôi một giấc mơ. Ngày xưa Tản Ðà đã nhìn rất xa : nước đi ra bể lại mưa về nguồn. Phạm Duy sống vào thời đại nhiễu nhương, tình cảm đảo điên, đạo lý xáo trộn, không còn tư vô tà, tâm vô sự của Tản Ðà, nên giấc mơ ngắn ngủi hơn : chỉ mơ sông về đến biển. Ðến biển rồi thì sông Thương, sông Ngô, sông Gianh, Bến Hải hay Thái Bình, sông nào cũng chỉ là sông thôi, đó là hình ảnh Biển Mẹ:

Biển êm, sóng lặng, lăng, lắng nước nôi, nôi hiền lành...


Phạm Duy lại chơi chữ lặng, lăng, lắng và nhất là hai chữ nôi trong từ kép ''nước nôi'' và cái nôi đong đưa trong ''tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi''...


Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, như trong lời hát Y Vân. Phạm Duy sâu sắc, hàm súc, trí tuệ hơn : Biển là cái ''nôi hiền lành'' của cuộc sống, con người và vũ trụ. Ðẹp quá, Biển là Mẹ Cuộc Sống, là cái Nôi Tình có nắng vỗ, gió ru, triều đưa, sóng đẩy.


Trường Ca Mẹ Việt Nam tổng hợp tất cả tình cảm của Phạm Duy đối với quê hương và những trầm luân của mệnh nước nổi trôi qua hình ảnh người mẹ, đồng thời cũng diễn tả trọn vẹn ơn sâu nghĩa nặng của cuộc đời đối với chúng ta. Gọi là Mẹ Việt Nam vì một cách nói, chứ Mẹ là Nguồn vốn không có quốc tịch. Mẹ là Sông - ta có chữ Sông Cái là Sông Mẹ - Mẹ là ''Biển Hồ, lai láng'', là Mẹ Trùng Dương:

Sóng vỗ miên man như câu ru êm của Mẹ dịu dàng
Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương
(...) Sóng vỗ êm êm như khuyên con nên trở lại Mẹ hiền...


Nghe lại Mẹ Việt Nam, trở lại Mẹ hiền, là về lại Yêu Thương, về lại Cội Nguồn, về với Bản Thân.

Đặng Tiến



Về hình thức nghĩa là về nhạc lý, theo tôi, Mẹ Việt Nam mang nhiều tính chất dân ca hơn Con Đường Cái Quan. Vì bài này mang tính chất tả thực (réaliste) nên nó được xây dựng trên âm giai LA MAJEUR nghĩa là với những nốt nhạc có dấu thăng (dièse). Tôi muốn Mẹ Việt Nam mang tính chất tượng trưng (symbolique) nên bây giờ tôi dùng âm thể MIb với những nốt nhạc có dấu giảm (bémol).

Với hai trường ca này, tôi cố gắng đưa ra những chiều hướng (dimensions) của nước tôi. Con Đường Cái Quan là chiều dài của dân tộc, Mẹ Việt Nam là chiều sâu của dân tộc, còn muốn nói tới chiều cao và chiều xa thì phải là Bầy Chim Xa Xứ và Hồi Xứ.

Nói kỹ hơn về nhạc lý, phê bình gia Georges Etienne Gauthier nhận xét về một bài đầu tiên, bài Mẹ Xinh Ðẹp trong trường ca Mẹ Việt Nam là một đoạn nhạc vô thể có nhiều chuyển hệ, điều ấy khiến cho cung ''Do thứ '' không mấy xác đáng, tuy nhiên theo tôi (Gauthier) thì mặc dù có vẻ ''do thứ '', toàn thể khúc điệu này vẫn có một không khí khá đặc biệt. Có lẽ Bach và Beethoven sẽ ưa thích cái luận lý quyết liệt và mạnh mẽ của khúc điệu đầy sinh khí này. Từng câu, từng câu, nhạc kết liền nhau với sự chính xác của máy móc trong một chiếc đồng hồ, nhưng cũng với một vẻ tự nhiên thoải mái. Ít có khúc điệu nào khiến tôi cảm xúc mạnh mẽ như Mẹ Xinh Ðẹp.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ðoạn Mẹ Chờ Mong bắc cầu giữa điệu hát luyện và đoạn tình ca Lúa Mẹ. Bài này là một khúc điệu dịu dàng như ngọn gió đêm hè được nhắc đến trong lời thơ; khúc điệu uể oải vươn mình trong ánh nắng của cung Mi giảm trưởng nhưng rồi lại kết thúc bằng một hái âm Do thứ sang trọng. Rất bình lặng và trữ tình.


Bắt đầu phần hai Núi Mẹ, chúng ta được Mẹ Hỏi đón tiếp, rồi đến điệu lý Mẹ Bỏ Cuộc Chơi. Khúc ngâm dài này là một điệu dân ca (ru con) miền Nam mà Phạm Duy sưu tầm được từ nhiều năm trước. Trong khi chuyển lại ở đây, tác giả đã làm phong phú thêm ít nhiều và nhất là đã thêm lời hát mới vào. Theo ý riêng, tôi ước giả sử Phạm Duy cho vào chỗ này một khúc điệu do ông soạn ra thì thích hơn, tuy vậy tôi thú thật Mẹ Bỏ Cuộc Chơi kết hợp rất chặt chẽ với phần còn lại của bản trường ca.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tiếp theo nỗi buồn sâu xa của điệu ru con ấy, các âm hưởng nhanh nhẹn của Mẹ Trong Lòng Người Ði gây một tương phản tài tình. Ðoạn nhạc có vẻ đại bác ấy -- chỉ được khinh giảm ở đôi đoạn ngắn ngủi giữa bài, vào chỗ các câu ''Ra đi còn nhớ ngày nào. Nuôi con Mẹ vẫn nguyện cầu...'' -- thứ nhạc trọng pháo ấy rõ là một hành khúc, nhưng là một hành khúc theo quan niệm có phần khác hành khúc trong bản trường ca thứ nhất, mặc dù khá mới lạ, khúc điệu này dù sao vẫn ghi rõ dấu vết của nhà soạn giả.


Bây giờ chúng ta đến phần thứ ba của tác phẩm: Sông Mẹ. Ðoạn Muốn Về Quê Mẹ vắn tắt theo lối nhạc vô thể đưa chúng ta vào đoạn Sông Còn Mải Mê cũng viết theo cùng một lối ấy. Ðiệu hò trên sông vóc dáng nặng nề ấy lại một lần nữa được tiếp nối bằng bài bi ca Sông Vùi Chôn Mẹ. Lần này với chủ âm rõ rệt, nói cho đích xác là cung ''Si giảm trưởng''-- khúc điệu bi ca này có giọng bình lặng và phảng phất u hoài. Những nốt tô điểm tinh vi của khúc điệu này làm tăng thêm không khí kỳ dị và mê hoặc của đoạn nhạc. Tuy vậy, vào khoảng giữa bài, nhà phù thùy âm thanh của chúng ta lại đột ngột chuyển sang cung ''Si giảm thứ '' trong vài phách, nhờ đó đem đến một chút bóng dáng cho khung cảnh quá chói chan, và diễn tả rõ ràng mỗi xúc động của thi sĩ trước cảnh tượng Mẹ bị đám con dìm xuống sông qua đoạn Sông Vùi Chôn Mẹ .


Nhưng tuyệt đỉnh của bản trường ca là ở đoạn những Dòng Sông Chia Rẽ. Thật là cao cả, vĩ đại, hùng hồn biết bao trong lời thơ và nhạc điệu ấy, nó kết tinh một cách độc đáo tất cả nỗi buồn của một con người đứng trước định mệnh thảm thương của dân tộc mình! Mỗi một phách nhạc của bài ca tang tóc này như muốn đổ một hồi chuông báo tử cho tất cả những linh hồn trong quá khứ, đổ một hồi chuông báo tử, có lẽ một cách tượng trưng hơn, cho tất cả những người chết của một nước Việt nam gần đây của chúng ta. Khúc điệu này bắt nguồn từ rất cao trong cái hồ bóng tối mênh mông của cung ''Si giảm thứ'', rồi từ đó nó phân ra làm nhiều giọng tiết điệu, lần lượt uốn lượn sát cạnh bờ ''Ré giảm trưởng'', ''Fa thứ''', ''Si giảm thứ''', ''Mi giảm thứ '' và ''Sol giảm trưởng''. Vào đoạn cuối của bài này, điệu nhạc khởi đầu lại tái hiện, nhưng lần này thấp hơn một bát độ. Bút pháp này -- nhân tiện cũng xin nói là bút pháp ấy đã được Phạm Duy nghĩ ra từ nhiều năm trước, đích xác là vào năm 1953, áp dụng vào đoạn ''Nhẹ bàn chân, hương đêm ơi! Nhẹ bàn tay, hương yêu ơi '' trong bài Dạ Lai Hương -- bút pháp này đem lại tính cách hoàn hảo cho tuyệt phẩm Những Dòng Sông Chia Rẽ.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Phần thứ tư, cũng là phần cuối cùng của bản trường ca, Biển Mẹ , mở đầu trong ánh sáng rực rỡ của cung ''Mi giảm trưởng'' của bài Mẹ Trùng Dương. Tôi không cần phải nhấn mạnh về cái đẹp bình lặng và thu hút của khúc điệu này, của điệu ru với âm hưởng loãng chảy này. Tuy nhiên, lần này nhạc sĩ đã đạt được nét đẹp ấy với khá ít phương tiện. Nhân tiện, đối với những người Việt nam đã quen với âm nhạc Pháp thể kỷ thứ 19, tôi cũng xin nhận xét rằng nét nhạc bài Mẹ Trùng Dương nhiều chỗ gần với bài Baccarolle của Jacques Offenbach.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Biển Ðông Sóng Gợn chỉ là một chuỗi liên tiếp những khúc điệu kêu gọi, ở khoảng giữa có xen vào một thứ ngâm khúc. Ðiệu buồn của ''Mi giảm thứ '' khiến cho đoạn nhạc ngắn ngủi này đượm một âm hưởng hoang mang hơi u sầu.

Thênh Thang Thuyền Về là một hành khúc khá dài và độc đáo, như tôi có lần đã nói đến, nó khác hẳn các hành khúc mà Phạm Duy đã soạn trong những năm 40 và 50. Ở đây khúc điệu cố ý nặng nề -- cái nặng nề tuy vậy không thiếu vẻ uyến chuyển -- khiến cho nó mang nặng tính chất giao hưởng. Vả lại toàn thể vẫn giữ một đức tính Việt nam khá rõ, cảm tưởng này càng rõ hơn khi con thuyền khúc điệu kết thúc chuyến phiêu du bằng một câu dân ca rất quen thuộc.

Giữa hai công trình đồ sộ Thênh Thang Thuyền VềPhù Sa Lớp Lớp Mây Trời Cuộn Bay, là dạ khúc Chớp Bể Mưa Nguồn . Cánh ''hoa giữa đôi bờ vực thẳm'' ấy -- như Liszt có thể nói -- sẽ không được chú ý đến nếu nó không có một hình dáng thanh tú và hương thơm ngọt ngào. Khúc điệu ''La giảm trưởng'' mà nhạc sĩ đã phổ vào mấy câu thơ đầy hình ảnh và thâm trầm ấy chắc chắn là khúc điệu đẹp đẽ nhất của phần cuối cùng bản trường ca, một khúc điệu luôn luôn vươn lên và thu hút, một khúc điệu vừa thoáng vui lại vừa gợn buồn -- điểm này được gián tiếp nêu rõ trong lời thơ, là một điểm khá tiêu biểu về tính cách Việt nam... Sau cùng, điều hiếm có ở Phạm Duy, sau khi vắt vẻo trên chót đỉnh suốt trọn bài, vào đoạn chót khúc ca lại chuyển bằng một câu nghiêng xuống và kết thúc bằng cung ''La giảm'' sâu thẳm của giọng trầm. Quả thật là đoạn nhạc đơn sơ ấy chứa đầy nghệ thuật !


Bài ca thứ 21 Mẹ Việt Nam Ơi có phần phảng phất Mẹ Trùng Dương, nhưng ở đây khúc điệu có tích cách nồng nhiệt hơn, oai dũng hơn, và dĩ nhiên có tính dứt khoát hơn. Bởi vì chúng ta đã đến đoạn kết, với bài Việt Nam Việt Nam. Bài ca có một luận lý nghiêm túc và một bút pháp trong sáng này rất tiêu biểu cho đức tính Phạm Duy, vì vậy tôi cũng dễ hiểu tại sao nó nhanh chóng thành ra bài ca được ưa chuộng nhất Việt nam hiện nay, về lời cũng như về nhạc.

Trong khi bình luận về các bản trường ca, tôi đã muốn phân tích tỉ mỉ về những gì mà thứ âm nhạc vô thể của Việt nam hàm chứa trong hai tác phẩm ấy. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ, tôi quyết định không nên làm thế; cũng như tôi đã quyết định không viết bài báo đặc biệt về các bài dân ca. Không phải số kiến thức của tôi về nhạc vô thể và dân ca Việt nam là không đáng kể, tuy nhiên kiến thức ấy chưa đủ chính xác và sâu xa để tôi có thể thảo luận đến cùng kỳ lý với đầy đủ quyền hạn về những điều mà Phạm Duy đã mang đến cho các loại nhạc nó, về cái cách mới lạ nào Phạm Duy đã sử dụng các loại nhạc nó. Một cuộc thảo luận như thế chỉ có thể thực hiện do Trần Văn Khê hay do chính Phạm Duy chẳng hạn, những người mà ai nấy đều biết là hoàn toàn am hiểu về vấn đề này.

Tôi đã nhận thấy, mà không ngạc nhiên, rằng một phần khá lớn công chúng Việt nam thích Con Ðường Cái Quan hơn Mẹ Việt Nam. Tôi thì yêu thích đồng đều cả hai bản trường ca, nhưng tôi xin ghi nhận điều này: Con Ðường Cái Quan được sáng tác suốt quãng thời gian từ năm 1954 đến năm 1960, còn là một bản liên hợp phổ của một người thanh niên, và do đó nhiều bài trong tác phẩm ấy diệu xảo một cách rõ ràng và xuất lộ, dễ dàng gợi... sự chú ý. Ở đây nhạc cũng như lời đều sảng khoái, và thật nghe qua lần đầu người ta đã yêu thích ngay bản liên hiệp phổ mà không cần phải gắng sức. Mẹ Việt Nam được soạn trong vòng chỉ một năm 1964, vào thời kỳ mà Phạm Duy đã gần đứng tuổi, trong tư cách một soạn giả âm nhạc. Lời thơ rõ ràng là thâm thúy hơn cho nên cũng có tính chất siêu hình hơn.

Theo chiều hướng ấy, nhạc cũng siêu hoá hơn, cũng được cấu trí và hoà điệu một cách phong phú hơn; còn cái diệu xảo thì vẫn có đấy, nhưng mà điều độ hơn, hoà hợp kín đáo hơn vào nét nhạc. Trong đại thể, Con Ðường Cái Quan là một liên hợp phổ hoạt náo hơn và thẳng đứng hơn; Mẹ Việt Nam là một bản liên hợp phổ trầm tư hơn và dàn trải hơn. Con Ðường Cái Quan, trên một mức nào đó, có vẻ đột xuất trong cảm hứng, Mẹ Việt Nam thì nhiều công phu hơn.

Mặt khác, vào những năm 40, nếu tôi được quen biết Phạm Duy -- với số kiến thức về nhạc học mà tôi có hiện nay -- thì tưởng chừng tôi có thể tiên đoán không mấy khó khăn rằng ông sẽ có ngày tiến đến Con Ðường Cái Quan. Nhưng tôi thiết tưởng không thể tiên đoán nổi rằng ông sẽ tiến đến Mẹ Việt Nam được. Con Ðường Cái Quan là Phạm Duy thể hiện Phạm Duy; Mẹ Việt Nam là Phạm Duy vượt Phạm Duy. Bản trường ca thứ nhất là sự tận cùng của một cái gì. Bản trường ca thứ nhì là một chuyển hướng lớn lao về một con đường khác, về một cuộc thám hiểm những âm hưởng và tiết điệu mới lạ. Mẹ Việt Nam không chối bỏ Con Ðường Cái Quan. Mẹ Việt Nam tiếp tục Con Ðường Cái Quan, nhưng bằng cách vượt bỏ nó.

Các bài dân ca, bản trường ca Con Ðường Cái Quan, hai vở nhạc kịch nhỏ, các bài tâm ca, đạo ca đều có những vẻ đẹp khác nhau, nhưng Mẹ Việt Nam vẫn là bản liên hợp đẹp đẽ nhất và lớn lao nhất của Phạm Duy từ trước đến nay. Hiếm khi trong tác phẩm của ông mà kỹ thuật và súc cảm, lý trí và tình cảm lại hòa hợp với nhau trong một vẻ vĩ đại và toàn hảo vững vàng được như trong bản Mẹ Việt Nam. Cái đẹp của bản liên-hợp-phổ ấy là cái đẹp cổ điển, một cái đẹp phổ quát. Và cái đẹp, cái toàn thiện của Mẹ Việt Nam ấy chỉ có bản trường ca thứ ba là có thể sánh kịp hay có lẽ vượt qua được.

G.E.Gauthier

Montréal, 2-1972


* * * * * *

Mẹ Việt Nam có bài kết là chung Khúc Việt Nam, Việt Nam.Đó là một bài hát phổ thông nhất từ 1960 cho tới năm 2000. Đó là nguyện ước của tác giả, không muốn Việt Nam bị phân chia thành 2 đối lực, thế nhưng cho tới 2009, sau nhiều sự chia rẽ, chia ly, oán thù… hố sâu giữa người VN vẫn chưa lấp được một milimét và bản thân tác giả cũng là một nạn nhân ngây thơ bị hụt chân, rơi vào cái hố thù hận nghìn đời đó, sau khi chọn sự trở về quê hương để sống nốt đời mình. Than ôi và than ôi !

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Bài Việt Nam Việt Nam có giai điệu thuần túy ngũ cung sol sib do re mib với chuyển hệ ở đoạn cuối lab sib do re mib, nghĩa là thuần túy việt nam nên rất dễ hát, dễ thuộc.

nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 4 Members:

#7 liker

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 118 Bài viết:
  • 444 thanks
  • LocationCây--Khế

Gửi vào 31/01/2013 - 17:51

Trước tôi có đọc hồi ký Phạm Duy (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

) và xem nhạc phẩm Con Đường Cái Quan trên Paris By Night. Phải nói là ngay từ cái tên của nó đã đầy sức gợi - Con Đường Cái Quan. 1 hành trình của đời người gắn liền với con đường âm nhạc, có lúc bằng phẳng, lúc quanh co, gập ghềnh khúc khuỷa. Nhưng dù sao ông cũng đã đi trọn con đường để rồi khi nằm xuống có nhiều người tiếc thương.

Văn Cao và Phạm Duy được ví như là 2 chàng Lưu Nguyễn, tiếc là thời thế loạn lạc, đất nước chia cách nên phải phân ly. Nhiều ý kiến cho rằng giá như 2 ông có thể cùng nhau sáng tác thì sẽ tạo ra những tác phẩm lớn. Nhưng với Phạm Duy tôi lại cho rằng ông vẫn may mắn hơn so với bạn bè mình những người đã tạo nên 1 nền tân nhạc Việt Nam đầy quyến rũ. Con người đa cảm và phóng túng như Phạm Duy có vào miền nam và sau này di cư thì tài năng mới được bộc lộ mà không sa vào bi kịch như bạn bè ông qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm.

Mượn trích đoạn của nhà thơ Chế Lan Viên nói về Phạm Duy trong một bài báo tên "Hồi Ký" đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986. "Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, Mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh."

Sửa bởi liker: 31/01/2013 - 18:07


Thanked by 1 Member:

#8 liker

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 118 Bài viết:
  • 444 thanks
  • LocationCây--Khế

Gửi vào 31/01/2013 - 18:06

Nhân nói về thời kỳ tân nhạc thì nhạc sĩ Đặng Thế Phong cũng là 1 nhạc sĩ để lại nhiều tiếc thương. Bài Giọt Mưa Thu của ông đã là cảm hứng cho rất nhiều nhạc sĩ tên tuổi cùng thời với những tác phẩm hay từ Hoàng Dương với Tiếc Thu đến Trịnh Công Sơn với Ướt Mi.



Thanked by 1 Member:

#9 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9367 Bài viết:
  • 6535 thanks

Gửi vào 03/02/2013 - 07:15

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trường Ca Hàn Mặc Tử


Phải nói rằng thơ Hàn Mặc Tử đã ám ảnh tôi từ khi tôi biết yêu những bài thơ đầu đời của ông và còn yêu cho tới bây giờ. Tôi làm quen với thơ Hàn Mặc Tử từ lúc còn đi học. Rồi theo rõi thơ ông cũng như những bài viết về ông. Đọc cuốn THI NHÂN VIỆT NAM thì thấy Hoài Thanh cho thơ Hàn Mặc Tử là quái dị.
Vũ Ngọc Phan thì viết :

'' Thơ Hàn Mặc Tử có những thi hứng dồi dào nhưng phần nhiều khúc mắc, nhạc điệu hình như không phải là phần quan hệ, lời thơ nhiều khi rất thô. Bệnh ông lại làm cho ông có những ý tưởng khác thường nên nhiều bài thơ của ông chỉ là những bằng chứng rất lạ cho những ai muốn khảo sát về một tâm trạng, một tâm hồn đau khổ...''


Người hết lòng bênh vực thơ Hàn Mặc Tử như Trần Thanh Mại thì đưa thơ Hàn Mặc Tử lên ngang hàng với thơ của Byron, Edgar Poe, Tourgeniew.

Đọc Phạm Thế Ngữ trong VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ thì thấy nhà khảo cứu này cho rằng thơ Hàn Mặc Tử, vào lúc đầu, ca tụng ái tình với một giọng suồng sã đắm đuối, rồi vì ác bệnh nên thi sĩ lấy Đạo như một lẽ sống tuyệt vời và trút vào thơ những chứng nghiệm của tâm hồn ông ráng leo lên đỉnh Thượng thanh.

Bị quyến rũ bởi thơ Hàn Mặc Tử cho nên vào năm 1958, tôi đã phổ nhạc bài thơ Tình Quê. Bài Giết Người Trong Mộng soạn vào cuối thập niên 60 thì xuất xứ từ hai câu thơ của thi sĩ mà có lẽ vì tôi không cực kỳ đau khổ như ông nên tôi kết luận là nên Giữ Người Trong Mộng.

Vào khoảng 1993, sau khi đi vào đạo khúc, thiền ca vì lý do tôi cảm thấy đời sống VN thiên quá nhiều về nhạc trần tục và cần phải có nhạc tâm linh… đột nhiên tôi thấy chủ đề này có thể biểu lộ một cách hùng hồn bằng cách dùng thơ Hàn Mặc Tử, vì thi sĩ đã lấy Đạo như một lẽ sống tuyệt vời và trút vào thơ những chứng nghiệm của tâm hồn mình.

Trước khi soạn Trường Ca hay Chương Khúc Hàn Mặc Tử, tôi đã đọc hầu hết những bài thơ của thi sĩ. Thì ra tôi tìm thấy trong thơ ông những chủ đề mà tôi theo đuổi từ lâu là chủ đề về Tình Yêu, về Sự Đau Khổ, về Cái Chết và về Đạo.

Tôi chia nhạc phẩm này ra làm 3 phần :

Phần I nhan đề TÌNH QUÊ gồm những bài Tình Quê, Đây Thôn Vĩ Giạ, Dalat Trăng Mờ. Phần này diễn tả sự bình thản trong lòng của một con người trong thời Việt Nam thanh bình để, trước hết... có anh thơ thẩn trước sân nhà, có anh đắm đăm trông nhạn về. Rồi anh nhìn thấy mây chiều phiêu bạt, anh bước ra khỏi sân nhà để lang thang trên đồi quê... Anh là thi sĩ Hàn Mặc Tử mà cũng là chúng ta trong thuở Việt Nam thanh bình đó.

Trước đây, chúng tôi thử thách đi vào nhạc đa điệu với những selections Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam - Nhạc Hòa Tấu, Rong Ca, Thiền Ca mà phần giai điệu thiên về nhạc ngũ cung… thì bây giờ với Trường Ca Hàn Mặc Tử, vì tính chất siêu thực của thơ, nhạc thất cung phải chiếm đa số trong giai điệu. Để cho không khí Việt Nam không bị bỏ quên, trong phần phối khí (orchestration), Duy Cường quyết định dùng âm thanh của nhạc cụ dân tộc, ví dụ dùng tiếng sáo Mèo để mô tả sự đau đớn tới tê dại của bệnh phong hay sự hãi hùng của cái chết.

Mở đầu là bài Tình Quê vốn là bản hát đã có sẵn từ những năm trước… lần này, bài hát không cần phải hát ngay và hát liên tục mà có thể hát lên từng đoạn. Nhạc Duy Cường ở đây là nhạc chiều (serenade), là nhạc ấn tượng (impressionist) rất tha thẩn, quanh co, lang bạt, man mác. Giọng hát Duy Quang rất bình thản, nhẹ nhõm bởi vì dường như con người và cảnh vật vào lúc này đều chìm đắm trong một hạnh phúc êm đềm...

Một đoạn intro (không ghi lại ở đây) mượn câu nhạc đầu (re si, la la fa#, fa# mi, re si la…), dùng tiếng sáo để diễn tả cảnh buổi chiều Việt Nam rất yên tĩnh, rất an bình… rồi mới vào đoạn có ca từ (Duy Cường dùng nhiều hợp âm minơ 7, nghe rất lãng mạn) :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sau đó là đoạn B :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Đoạn sau là sự nhắc lại đoạn A (thành đoạn A’) :

Cách xa nhau muôn dặm
Nhớ chi tới trăng thề
Ai dù không lắng đợi
Hay ai không lặng nghe.


Cấu trúc gồm ba đoạn :
1. cấu trúc chính là A
2. biến thể của cấu trúc là B
3. cấu trúc ban đầu là A’

Rồi tới một đoạn nhạc major (coi như là bridge ngắn) không lời, êm đềm nhưng giục giã, để chuyển qua đoạn minor có vẻ nhộn nhịp hơn :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Một đoạn bridge (nhạc không lời) nữa… rồi Duy Quang hát lại mấy đoạn A, B để hết, cuối cùng là đoạn ending với motif chính.

Diễn tiến âm nhạc của bài đầu vừa rồi là sự mô tả con người đi trên hành trình hồn nhiên của tuổi nhỏ. Bây giờ là đoạn nói tới sự xôn xao của tình trẻ :

… Tình yêu đến, anh đi khỏi vùng đồi quê miền Bắc để vào gặp em ở vùng cố đô Huế. Em bèn mời anh... về chơi thôn Vĩ để nhìn nắng hàng cau nắng mới lên, đôi tình nhân đắt nhau vào vườn ai mướt quá xanh như ngọc với lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Từ giai điệu qua hoà điệu tới tiếng hát Thái Hiền, tất cả đều phải rất mượt mà, rất đậm đà, rất ngọc ngà... dù áo em chỉ là áo trắng, hoa đây chỉ là hoa bắp, dòng nước kia chỉ là nước buồn thiu...

Intro do Duy Cường viết, rút từ leitmotif la si (do) re mi fa#,với tiếng sáo réo rắt trên một nền giai điệu với hơi Huế, rồi có giàn violins phóng một nét dài mô tả sự im lìm của giòng nước buồn thiu và hoa bắp lung lay… Rồi Thái Hiền mới hát, với giọng hát không cần phô diễn tình cảm, có thể nói giấu diếm tình cảm là khác.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Đoạn B tiếp theo chuyển qua Mi minor nhưng vẫn là cảnh thôn Vỹ Dạ trong đêm. Yên tĩnh, trong trẻo, như con thuyền chờ trăng lên để chở trăng đi…


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trở về đoạn A (bây giờ là A’), rồi chuyển qua đoạn C để hết :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bài thứ ba của Phần I, Dalat Trăng Mờ,tiếng gọi sâu lắng của nội tâm đã biết băn khoăn thao thức trong sự tìm kiếm

… Rồi con thuyền đậu trên sông trăng xứ Huế hay lối gió đường mây nào đó sẽ đưa đôi tình nhân đi xa hơn nữa, đi vào một miền huyền mơ thực huyền mơ, tức là miền Dalat Trăng Mờ, có hàng thông lấp loáng đứng trong im lìm, có làn sương nhạt, có tiếng nước hồ reo, có tơ liễu run trong gió...

Tính chất thiêng liêng phải được nổi bật trong đoạn này qua sự nhắc đi nhắc lại một nhạc đề có nét nhạc minơ hơi giống âm giai Nhật Bản cho nên dùng tiếng sáo shakuhachi… để rồi chuyển qua đoạn majơ trong sáng ở cuối bài. Hoà âm của Duy Cường càng làm tăng giọng rất đắm đuối của Tuấn Ngọc. Bời vì thi sĩ Hàn Mặc Tử đã thấy ĐẠO ở tất cả, ở đáy nước hồ reo, nhất là ở TÌNH YÊU cho nên toàn thể ca khúc là một sự nín thinh. Khi nghe trời giải nghĩa chữ YÊU thì phút thiêng liêng đã khởi đầu. Cả bầu trời nhuộm một mầu trăng. Tất cả nín thinh. Cả lòng tôi cũng im tiếng. Không một tiếng gì nghe đụng chạm dù rằng có tiếng nổ vỡ của sao băng tức là của vũ trụ.

Motif, giai điệu của Dalat Trăng Mờ nằm trong âm giai Do reb fa sol lab sib do với Intro dùng tiếng kèn oboe để mô tả cảnh đêm huyền mơ, đắm đuối… vàđàn harp thì diễn tả sóng nước lăn tăn trên mặt hồ… trước khi Tuấn Ngọc hát 2 lần câu hát chính, mỗi lần khác nhau trong melody (giống như nhạc thuật tôi thường dùng) :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Láy lại (repetition) đoạn A :

…nhiều

Xin hãy nín thinh chẳng nói nhiều

Ðể nghe đáy nước hồ reo nước hồ reo
Ðể nghe tơ liễu run trong gió
Và để nghe trời giải nghĩa chữ YÊU

. . . . . . .
Ðây phút thiêng liêng đã khởi ý đầu


Qua tới đoạn B là sự chuyển cungqua giọng majơ, vẫnlàcảnh Dalat trăng mờ và hàng thông lấp loáng…

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đoạn A’ (tức là A) là repetitioncủa nhạc điệu chính. Cuối cùng, thêm đoạn C với giọng majơ là sự kết thúc của Phần 1.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Phần 1 vừa rồi với ba đoạn. Đoạn khởi đầu, từ hành âm êm ả thanh thoát đến đoạn vẳng xa u uẩn, rồi chuyển sang đoạn sâu lắng ngẩn ngơ. Xin nhắc lại : Diễn tiến âm nhạc gợi được hình ảnh con người đi trên hành trình hồn nhiên của tuổi nhỏ đến xôn xao tình trẻ, rồi đến tiếng gọi sâu lắng của nội tâm đã biết băn khoăn thao thức trong sự tìm kiếm. Không gian âm nhạc là không gian chiều tà đi vào đêm sâu, tính cách của nhạc cũng vì thế mà êm ả lãng đãng như sérénade hay nocturne của nhạc cổ điển.

Qua tớiPhần II,phần Trăng Sao,phần nói tới sự đau thương và điên loạn đến tột cùng của thi sĩ. Khiến cho thi sĩ nhiều lần phải ngất đi, hồn lìa khỏi xác. Phần này gồm các phân khúc 4, 56 :

Phân Khúc 4 là đoạn tán thán về sự mầu nhiệm của ánh trăng. Tính cách của âm nhạc là tính cách thánh ca, nhưng đối tượng của lời tán thán không là hình tượng siêu nhiên mà chỉ là ánh trăng. Nhà thơ bị trăng mê hoặc và tắm đẫm mình trong ánh trăng. Ðấy là khởi điểm của những xúc cảm thơ trong THƠ ÐIÊN - ÐAU THƯƠNG, tập thơ HMT làm từ khi phát bệnh phong. Hành âm của phân khúc lần lượt đi qua bốn biến điệu : vầng trăng --> chơi với trăng --> trăng tự tử --> rượt trăng.

Trăng Sao là cái gì cao xa lắm, sáng láng lắm. Cho nên có ai ở trên đời này mà chẳng mê trăng sao ? Kể từ William Shakespeare, Lý Bạch tới Tản Đà... Và Hàn Mặc Tử của chúng ta cũng đã yêu trăng.
Cho nên với đoạn mở đầu của Phần II, trong đoạn A, Trăng Sao Rớt Rụng, sau khi đã tìm thấy sự thiêng liêng, thi sĩ lạy xin Chúa :


Lạy Chúa tôi ! Lạy Chúa tôi ! Lạy Chúa tôi !

Ôi vầng trăng cao sáng

Lạy Chúa tôi ! Lạy Chúa tôi ! Lạy Chúa tôi !

Xin ban cho sáng thêm lên.

Sáng thêm lên cho không gian rất đẫm,

Cho hồn thơ mát rợn tới hương nguyền...


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thế rồi cũng như những người chạy cuống cuồng đi tìm hạnh phúc ở trăng sao, thi sĩ cũng chạy theo trăng sao. Có lẽ đây là lần đầu tâm trạng khúc mắc của HMT được thể hiện một cách cụ thể qua hình tượng gợi tả của âm nhạc. Nhạc vờn múa như trong cơn say trong một kết cấu đẹp : hình tượng âm nhạc tăng cường độ xúc cảm dần qua từng biến điệu, cho đến cuối biến điệu thứ tư.

Đoạn B trước tiên là câu nhạc chuyển (modulation) từ Mib của đoạn trước sang giọng Sol (dù cho armature chỉ định 3 bemol) hát với hành điệu moderato :

Sol sol / la si sol re

Tôi đi trong ánh trăng mờ…

. . . . . . . .

Sol sol / la si sol re

Ban khuya ý tứ tôi dò
. . . . . . . .


(chú ý : thay đổi tiết điệu trong đoạn này)
Sol mi sol re / sol do sol sol

Tôi gò mây lại tôi tìm sao bay

Si sol si mi / si sol si si

Gió nào, gió tràn, gió ngập nơi đây

La mi la si / la mi sol mi

Không tràn nước mắt, không thảm thê buồn

Sol mi sol la / sol mi sol re

Tôi doạ không gian, tôi rủa tới cùng

La si la sol / si la sol / si la sol

Tôi khát vô cùng, khát vô cùng, khát vô cùng,

(qua sol minor) sib la sol…

Khát vô cùng...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tiếng hát Tuấn Ngọc vút lên cao như cơn thảng thốt của nhà thơ vừa tắt khi nhà thơ vừa ngất lịm trong cơn xuất thần. Nhạc đi những bước ma quái làm nổi bật xúc cảm của người nghệ sĩ trước nỗi cô đơn vì cảm nhận vẻ Ðẹp mê hồn mà nhân gian không thể hiểu được. Cường độ cảm xúc trong phân khúc này, về mặt bố cục, rất là thành công : Hoà âm của Duy Cường đầy tính tưởng tượng khi tận dụng khả năng gợi tả của tiếng sáo Mèo xa vắng, chìm lẩn như chiều sâu của thế giới nội tâm sừng sững thách đố cuộc đời chung quanh.

Tới đoạn C là đoạn thi sĩ chơi với trăng :


(tiết điệu khác trước)

Tôi riết thời gian / trong nắm tay
Cất tiếng cười ròn
/ đụng vùng mây
Tôi nhập hồn mình
/ trong khúc hát
Ðể nhờ khúc hát
/ đẩy lên trăng (chú ýnét chromatic reb re re)
Lên chơi cung Quế / đây lần đầu
Ðể hớp tinh anh
/ của Nguyệt Cầu
Ðể thoát ly ra
/ ngoài thế giới
Ðể cười để khóc
/ để yêu nhau…


(8 câu cùng có chung một rythm, nhưng contour melodic đều khác nhau)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Với đoạn D, thi sĩ lại đuổi theo trăng : (câu dài hơn trước) Ha ha tôi đuổi theo trăng / Trăng bay tơi tả trăng tan trăng ngã trên cành ngã trên cành vàng / Về đây tôi sẽ gặp nàng / Về đây tôi lại gặp nàng nàng ơi…

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chạy theo trăng, thi sĩ cùng trăng vờn quanh miệng giếng, với đoạn E (tiết điệu giống nhau và khác nhau) :

Lòng giếng lạnh / sao chẳng ai hay /
Nghe nói mùa thu / ẩn náu nơi này /
Cả âm dương đều tụ họp /
Ðể cả trăng mây / ngừng lại nơi đây


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bên bờ giếng, với đoạn F, thi sĩ nghe tiếng si mê và oán hận của bầy trai gái đang tự tình ở đó :

Ðể nghe, à để nghe / lời nói thời loạn ly
Giọng buồn thương gió
/ trăng gió đã thề
Của bầy trai gái
/ trong gió não nề / tự tình bên giếng
Lời oán hận của tuổi si mê…


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thế rồi với đoạn G, đoạn kết. Thấy giếng lạnh mở miệng nuốt trăng sao, thi sĩ vội vàng nhẩy ùm xuống giếng để vớt trăng lên :


Lòng giếng lạnh / mở miệng bao la
Giếng nuốt vì sao
/ rụng với trăng ngà
Loạn rồi loạn rồi
/ tôi hoảng hốt (3 lần, khác nhau về melody)
Nhẩy ùm xuống giếng / vớt trăng lên.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ít khi có một đoản khúc của tôi có nhiều đoạn như thế, tính ra tới 6 cấu trúc khác nhau về tiết điệu, âm điệu (rythm, contour melodic...)

Phân Khúc 5 (trong Phần II,phần Trăng Sao), nhan đề Hồn Là Ai, mở đầu bằng tiếng sáo Mèo rền ma quái để rồi sẽ đeo đẳng mãi suốt phân khúc. Hồn nghệ sĩ vừa thoát ra khỏi thân xác và được thân xác dẫn đi suốt một đêm, qua những biến điệu đầy kịch tính : Lúc thì cả hai cười như điên sặc sụa cả mùi trăng, lúc thì cùng ngả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình, lúc thì dìm nhau xuống một vũng trăng êm, lúc thì lặng yên trong thổn thức, lúc thì bay lên cho tới một hành tinh...

Thi sĩ tự hỏi :

Hồn là ai ? Hồn là ai ? Hồn là ai ? = 9 chữ

Tôi chẳng biết ? = 3 chữ
Hồn theo tôi, hồn theo tôi, hồn như muốn = 9 chữ

Cợt tôi chơi ! = 3 chữ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sự u uẩn của người nghệ sĩ đã lẩn khuất đâu đó từ đoạn cuối của đoạn A và tăng lên dần theo diễn tiến phát triển hình tượng âm nhạc trong đoạn B này (so với đoạn A với những câu 9 chữ và 3 chữ), bây giờ mỗi câu là 8 hay 9 chữ):

Tôi chết giả và no nê vô vạn = 8chữ
Cười như điên sặc sụa sụa cả mùi trăng = 9chữ
Tôi đã cấu đã cào nhai ngấu nghiến = 8chữ
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên = 8chữ
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm = 8chữ
Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực = 8chữ
Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức = 8chữ
Rồi bay lên cho tới một hành tinh... 8chữ

(mỗi câu đều là biến khúc của câu chính)


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hình tượng âm nhạc tràn trề sức quyến rũ: sự phân thân của người nghệ sĩ trong cơn say nghệ thuật. Tâm sự HMT trong tập THƠ ÐIÊN - ÐAU THƯƠNG dễ thường tới bây giờ mới được dẫn giải một cách cụ thể, sinh động. Thể hiện được kịch tính của các biến điệu âm nhạc trong hai phân khúc này là một thành công xuất sắc của Duy Cường và các giọng hát. Nỗi lòng u uẩn của người nghệ sĩ đã lẩn khuất đâu đó từ những câu cuối của phân khúc 1 rồi tăng lên dần theo diễn tiến phát triển hình tượng âm nhạc trong phân khúc này.

Có một bridge, gọi là đoạn C :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Cùng ngả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình = một giai điệu

Cùng ngả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình = biến thể của giai điệu


Tiếp theo là đoạn D, là sự gào thét ở cả BA nơi : Thiên Ðàng, Ðịa Ngục, Trần Gian… Sự đau khổ tới kiệt cùng của ĐAU KHỔ. Sự điên dại tới lăn lộn của ĐIÊN DẠI. Vẻ ma quái kinh hoàng của MA QUÁI…

Ðể gào thét một hơi cho rởn óc /
Cả Thiên Ðàng / Ðịa Ngục / Trần Gian…


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Trở về đoạn A (bây giờ là A’) trước khi hát đoạn cuối (để HẾT)

Hồn là ai, là ai, hồn là ai, tôi chẳng biết

Hồn là ai, là ai, hồn là ai, tôi chẳng biết
Hồn là ai, là ai, hồn là ai, tôi chẳng biết
Dẫn hồn đi, hồn đi ròng rã một đêm nay.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tiến tới Phân khúc 3, Trút linh hồn. Có thể xem như một thoái trào của đợt sóng hình tượng âm nhạc trong Phần II.

Ba biến điệu Trăng Sao Rớt Rụng, Hồn Là Ai, Trút Linh Hồn… nối tiếp nhau nặng nề như cảnh tha ma mộ địa lẫn khuất tiếng sáo Mèo nghẹn ngào như tiếng cú đêm khuya. Hình tượng âm nhạc trong Trút linh hồn cũng dàn trải như khoảng trống mênh mông của không gian tịch lặng. Nhạc đi êm nhẹ mà sao vương vấn nỗi thê lương. Lời thì thầm của nhà thơ là lời bộc bạch về tâm tình của ông dành cho cuộc đời thân mến. Ba trích đoạn thơ ghép lại thể hiện khá rõ tâm sự HMT trong giai đoạn sáng tác tập Thơ Điên - Đau Thương. Nghệ thuật phát triển hình tượng âm nhạc trong phần II này là dâng cảm xúc lên từng đợt như sóng tràn. Không gian nghệ thuật là đêm tối mênh mang. Giai điệu và hoà âm đều đẫm vẻ quái dị.

Trong đoạn đầu của Trút Linh Hồn, ta thấy ngay thi sĩ Hàn Mặc Tử biết rằng : Ngòi viết của ông…

sáng như gươmlạnh như ma,

Mực lùa khí vị vô hồn chữ,

Văn hút hào quang ở miệng ta.

Giấy trắng tinh khôi tuôn huyết mạch,

Lời vàng nguyên vẹn trổ tài hoa…


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nhưng thi sĩ nói ngay :
Thơ chưa ra khỏi bút, giọt mực đã rụng rời (2 lần, melody khác nhau)
Lòng tôi chưa kịp nói, giấy đã toát mồ hôi (2 lần, melody khác nhau)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thi sĩ chưa kịp nói, giấy đã toát mồ hôi… rồi qua đoạn C là lời thi sĩ than rằng máu và thơ cũng đã khô rồi, từ nay cuộc tình đã chết…

Máu đã khô rồi thơ cũng khô rồi
Tình ta cũng đã, đã chết từ lâu
Từ nay trong gió và mây gió
Lời thảm thương rền mọi nẻo mơ
(2 lần, melody khác nhau)


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Cuối cùng là đoạn D, thi sĩ trút linh hồn mà lòng còn trìu mến biết bao người…

Ta còn trìu mến biết bao người
Vẻ đẹp xa hoa của một thời
Ðầy lệ đầy thương đầy tuyệt vọng
Ôi giờ hấp hối sắp chia phôi.


Ta trút linh hồn giữa nơi đây
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả ?
Xin để tang anh đến vạn ngày

Đến vạn ngày…


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Và có tiếng sáo Mèo của Duy Cường vọng lên đễ tiễn đưa thi sĩ về cõi Chúa…

Sau phần I (những hoa mộng thời hồn nhiên lúc đầu đời) và phần II (những đau khổ điên loạn của thi sĩ)… phần III mang tên AVE MARIA phải là : khi giã từ cõi đời, thi sĩ tìm thấy tình yêu thanh khiết trong thế giới vĩnh hằng…

Phần này có ba bài :
Phân Khúc 7 : Lạy Bà Là Đấng Tinh Truyền Thánh Vẹn
Phân Khúc 8 : Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en,

Phân Khúc 9 : Phượng Trì Ôi Phượng Trì.

Phân Khúc 7 là một lời xưng tụng đấng tinh truyền (hay tinh tuyền???) thánh vẹn. Nhạc bắt đầu bằng đoạn hợp xướng nghiêm trang, thánh thiện. Toát ra từ toàn thể phân khúc là vẻ đẹp thuần khiết của hình tượng người nữ trong nghệ thuật muôn đời. Ai cũng phải rung động trước vẻ Ðẹp nguyên mẫu đó. Trong thế giới nguyên vẹn tinh tuyền chỉ còn sự yêu thương, sự yên nghỉ. Không còn những dằn xóc của những hệ lụy của cuộc đời dưới thế. Kĩ thuật đồng ca của nhạc cổ điển tây phương đã làm tăng tính cách thánh đường của phân khúc.

Ma ri a Ma ri a
Ma ri a linh hồn tôi ớn lạnh
Ma ri a Ma ri a
Run như run thần tử thấy long nhan
Ma ri a Ma ri a
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Ma ri a Ma ri a
Nhưng lòng nhuần ơn trìu mến
Ma ri a Ma ri a


Motif, giai điệu vẫn còn là nhạc ngũ cung (Fa sol sib do re) nhưng phong cách (style) là nhạc nhà thờ theo trường phái cổ điển Tây Phương. Duy Cường cho nghe những tiếng chuông giáo đường quen thuộc trước khi ban hợp ca cất tiếng xưng tụng Mẹ Maria của thi sĩ.



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Đoạn B là sự tiếp tục tán tụng Đức Mẹ bằng nhạc thất cung (với giai điêu fa fa# sol la sib do re)


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trong bài Trút Linh Hồn trước đây, thi sĩ thấy : thơ chưa ra khỏi bút, giọt mực đã rụng rời, lòng tôi chưa kịp nói, giấy đã toát mồ hôi… thỉ bây giờ, vì có Niềm Tin vào Đức Mẹ, ông lại thấy : trí tôi hút bao nhiêu là khí vị, bút tôi reo như châu ngọc đền vua. Bao nhiêu đau thương, khổ lụy đã tan… thi sĩ đã thảnh thơi đi vào Đạo !

Tiếp tục là periphrase của đoạn B… cảm động nhất là thi sĩ tự thấy mình là Thánh Thể kết tinh :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chuyển qua đoạn C là sự chuyển cung từ Bb qua D (hay Bm), rồi G… lại là những cadences đẹp :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Và ca khúc cũng như Phần II kết thúc với đoạn B’ :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Bài thơ AVE MARIA đã được viết ra như lời thì thầm cảm tạ ơn cứu thoát của Đức Mẹ. Bài thơ này đưa thi sĩ đi rất xa trong cõi trời mênh mông mơ ước, pha trộn mộng và thực với những hình ảnh quen thuộc của Đức Mẹ, của Sứ Thần Gabriel. Những kinh KÍNH MỪNG vang dội không dứt : AVE, AVE, AVE...

Nhạc Ðề sẽ phát triển nhất quán khi nhà thơ sẽ biểu tượng Maria bằng những tiếng gọi khác nhau: Ðức Bà tinh truyền thánh vẹn, Sứ thần thiên chúa Gabriel, Phượng Trì. Ngôn từ ở đây chỉ là những chiếc bè giả tạm để chuyên chở một cảm nhận về một thế giới vĩnh cửu của Mỹ thể.

Phiên Khúc 8, Hỡi sứ thần thiên chúa Gabriel xưng tụng một nguồn thơ bất diệt, ra đời một lần với Chúa Giê Su theo lời chào của Thiên Sứ Gabriel. Giọng hát cũng như nhạc điệu phải trong trẻo, trinh bạch như giọng hát của nữ đồng trinh và như nhạc của thiên thần.
Motif, giai điệunhạc ngũ cung nhưng phong cách là nhạc nhà thờ. Những âm thanh về người Mẹ trong phân khúc này vẫn quyến rũ, vẫn mới nguyên như vẻ đẹp gặp gỡ lần đầu, giai điệu láy lả lướt vẻ đẹp dân ca đã khép lại cảm xúc kì lạ về sự thanh thoát an nhiên trong vòng tay yêu thương của sứ thần thiên chúa Gabriel. Nghệ thuật diễn tả trong phân khúc hai là nghệ thuật độc thoại khá quen trong đối thoại nội tâm của kịch : nhân vật thì thầm những lời nói với chính mình. Hành âm của nhạc ở đoạn này cũng chìm khuất kín nhiệm như ý thơ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ca khúc tiếp tục với việc láy lại (repetition) đoạn B :

Lạy Bà là Ðấng ban đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn trong mạch máu
Lạy Bà là Ðấng ban đầy ơn phước
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương
Cho vỡ lở cả muôn nghìn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương…


Qua một bridge giản dị, thi sĩ cho biết nhờ ơn phước của Bà khiến cho chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ca khúc lại nhắc lai đoạn B :

Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga bri en
Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Người có nghe náo động cả muôn trời
Người có nghe xôn xao nghìn tinh tú
Ðể ca tụng bằng hoa hương sáng láng
Bằng tràng hạt bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm Xuân là rất đỗi anh linh
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga Bri en…

Để kết thúc, đoạn C thong thảróng lên, cho biết loài người sẽ ngất ngây vì sự thiêng liêng của Mẹ sầu bi :

Lòng vua chúa như lòng lê thứ
Sẽ ngất ngây bởi thơ đầy ứ


Nguồn thiêng liêng yêu Mẹ Sầu Bi
Nguồn thiêng liêng yêu Mẹ Sầu Bi...


(Chú ý hai câu cuối cùng tuy là một lời nhưng khác nhau về giai điệu)



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Với phiên khúc 9, ca khúc cuối của trường ca này, mang tên Phượng Trì ôi Phượng Trì… tôi xin được giải nghĩa hai chữ Phượng Trì. Nhờ được đọc cuốn sách HÀN MẶC TỬ, ANH TÔI của Nguyễn Bá Tín, tôi mới biết ý của Hàn Mặc Tử khi dùng hai chữ Phượng Trì. Nhân đi coi phim Tầu HOẢ THIÊU HỒNG LIÊN TỰ, thấy trong phim có đoạn nhân vật anh hùng Cam Phượng Trì phi thân lên ngọn núi rồi lấy đà dùng thuật phi hành bay lên mất dạng trên trời cao. Người tình là nữ hiệp Diệp Tiểu Thanh chạy đi tìm, cất tiếng gọi: '' Phượng Trì ! Phượng Trì ! Phượng Trì ! '' Tiếng gọi này cho Hàn Mặc Tử ý niệm '' bay về trời '' giống như hai chữ Au Ciel vốn là câu mở đầu của một bài hát nằm ở tập Cantiques De La Jeunesse.

Phiên khúc 9, Phượng Trì ôi Phượng Trìrepetition của đoạn A trong phiên khúc 7 :


Ma ri a linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng nhuần ơn trìu mến.


Tới đoạn hát đuổi (duetto)đoạn B là bản đồng ca cổ điển kết hợp với nghệ thuật diễn xướng dân ca : hát đuổi, hát đối. Hình tượng âm nhạc toát ra tính cách trữ tình, rất người mà vẫn trong suốt như vẻ đẹp thiên thần…

Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì

(Lạy Bà là Ðấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Ðấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Ðấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Ðấng tinh truyền)

. . . . . . .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nói tóm lại, phần AVE MARIA này là lời reo như châu ngọc, thơm tho như hoa hương, sáng láng như thất bảo, làm xôn xao tinh tú, làm náo động muôn trời và vạn vật. AVE MARIA là nguồn vô tận để...

(vẫn là hát đuổi)

...Thơ (của Hàn Mặc Tử) bay suốt một thời chưa thấu

Hồn (của thi sĩ) bay biết bao giờ mới đậu

Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang

Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#10 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9367 Bài viết:
  • 6535 thanks

Gửi vào 03/02/2013 - 07:24




Nghe Trường Ca Hàn Mặc Tử - tác giả Phạm Duy

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn








Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |