Jump to content

Advertisements




NIỆM A-MI HAY A-DI ĐÀ PHẬT ?


4 replies to this topic

#1 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 06/12/2012 - 11:55

Kính thưa quí Phật tử,

Như đã thông báo cũng như phổ biến mà chúng tôi cố gắng đã trả lời về việc mà nó đã gây một ảnh hưởng rất lớn đối với người tu hành theo tông Tịnh Độ, giữa câu Phật hiệu "Nam Mô A Di Đà Phật" và "Nam Mô A Mi Đà Phật".

Theo lịch sử của Phật giáo cũng như từ điển Hán-Việt của Phật Học chưa bao giờ có ghi là "A Mi Đà", chắc cũng có lẻ sẽ không lâu đâu, chúng ta sẽ tìm thấy rải rác đâu đó sẽ được nhóm người tự cho thánh hiệu của Đức Từ Phụ A Di Đà nên sửa đổi là A Mi Đà mới đúng, và chính tay họ sẽ tự đưa vào từ điển. Sự việc trước mắt như vậy rồi, mà có một số người lại vô tri hùa theo tư tưởng cải mới???

Như chúng tôi đã giải thích, Phật thì chẳng có tướng làm gì có danh, mà lại là A Di Đà Phật hay A Mi Đà Phật. Nếu chúng ta là người thực hành chơn chánh, thì với tâm thanh tịnh thì niệm câu Phật nào cũng là Phật thôi, chứ không hề sai khác. Ở thế gian thì trọng cái danh, nhưng trong Phật Pháp thì trọng cái tâm. Còn nữa, mong rằng những ai chủ trương nên cải mới câu Phật hiệu A Di Đà Phật thành A Mi Đà đừng bao giờ mượn chữ chơi chữ nữa nhé. Vì sao? Vì sẽ có người bảo rằng: "Nhất thiết do tâm tạo?". Nếu bảo như vậy, thì chính bản thân của người thực hành cũng đừng xưng niệm danh hiệu Phật, hành bái sám, tụng kinh... để làm gì cho phiền toái. Cứ làm những chuyện đảo điên và khi xong rồi thì "Nhất thiết do tâm tạo" thì được rồi.

Đứa bé khi chào đời cũng phải theo thứ trình mà phát triển, từ bò, tập đi, rồi mới chạy, hoàn toàn không có thể nào chạy trước khi đi. Người mới học Phật cũng phải theo từng lớp mà hấp thụ tuỳ theo căn cơ của từng mỗi cá nhân mà chọn những pháp thích ứng cho chính bản thân, rồi tinh tấn hành trì. Nếu như đi đúng phương Pháp mà Đức Thế Tôn đã dạy thì may ra tâm mờ mịt kia sẽ được tỏa sáng đôi chút, chớ đâu thể nào có chuyện "Nhất thiết do tâm tạo".

Người đồ tể sát sanh quá nhiều, khi nghe được người bảo hãy đọc "Nhất thiết do tâm tạo" là ông sẽ khỏi đọa vào đường ác. Quí vị có cho thật có đạo lý nầy? Người đồ tể kia nếu muốn được "Nhất thiết do tâm tạo" thì trước tiên người này phải hiểu thấu đáo câu "Nhất thiết do tâm tạo" mà quan trọng là ông ta phải biết cái tâm của mình đang ở đâu? Phải hiểu rõ ràng về cái tâm của ông ấy, thì may ra mới "Nhất thiết do tâm tạo". Còn chỉ biết đọc suông theo người ta thì chúng tôi tin chắc rằng chỉ có thể là: "Nhất thiết do nghiệp lực" mà thôi.

Chúng tôi sẽ không nói nhiều về ở đâu đâu, những đạo lý thâm sâu như nói: "Nhất thiết do tâm tạo". Vì chúng tôi chưa lên bờ vẫn còn lênh đênh trên biển sanh tử thì phải ôm thuyền chứ không thể nào bỏ thuyền được. Nhưng nếu là người đã lên bờ thì thuyền cũng chỉ là vật chướng ngại mà thôi. Tuy nhiên, những ai tự cho mình đã lên bờ thì tất nhiên không cần thuyền nữa, nhưng xin nhớ một điều rằng, những người đang trên thuyền không như người đã lên bờ. Đừng bao giờ dùng phương pháp bỏ thuyền để dạy họ. Vì sao? Vì nếu không có thuyền, những người này sẽ rơi vào biển nghiệp, thật tội nghiệp thay. Xin hãy thận trọng.

Vấn đề thật giữa câu Phật hiệu A Di Đà và A Mi Đà thật là đơn giản, nhưng không biết tại sao có quá nhiều người lại hoang mang và lo lắng (đối với người tu hành theo Tịnh Độ tông). Theo chúng tôi thì quí vị chưa có đủ lòng tin nơi Phật Pháp cũng như chưa có lòng tin đối với những bậc tiền bối đã đi trước. Lòng tin của quí vị chỉ là lòng tin tạm thời và lòng tin ấy phải theo một số đông thì quí vị mới cảm giác an toàn.

Thử hỏi chỉ có bao nhiêu đó, thì sao quí vị muốn vãng sanh về thế giới Cực Lạc kia, để vĩnh viễn thoát khỏi vòng luân hồi? Muốn vãng sanh về thế giới kia, quí vị phải có lòng tin chắc chắn, phải hội đủ ba việc: TÍN, HẠNH, NGUYỆN, tròn đầy thì mới mong ra khỏi luân hồi. Thử nghĩ xem, Phật giáo đâu phải mới xuất hiện ở nước ta trong đôi mươi năm, nói cách khác tông Tịnh Độ đâu chỉ mới lập thành tông trong vài mươi năm, mà quí vị lại hoang mang, mà Phật giáo và tông Tịnh Độ nói riêng đã là gốc rễ ăn sâu vào lòng của tín đồ Phật giáo, hay rộng ra là khắp mọi người.

Chữ Buddha là tiếng Phạn mà phải gọi cho đủ là Buddhabhardra - Phật đà bạt đà la nghĩa là giác Hiền, tóm lại là người giác ngộ. Có người bỏ rất nhiều công sức cũng như thời gian để khảo cứu để chứng minh rằng Phật là sai mà phải là Bụt. Tuy nhiên quí vị thử hỏi mọi người bình thường chẳng biết gì Phật lý chữ Bụt là gì. Tôi tin chắc rằng họ sẽ trả lời; Bụt là một vị thần tiên râu tóc bạc phơ. Vì sao vậy? Vì từ Bụt, trong văn hóa Việt Nam cũng như trong tâm thức của người Việt từ Bụt chỉ để chỉ một vị thần tiên mà thôi. Nhưng hỏi về từ Phật thì ai ai cũng biết ngay là Phật giáo. Như vậy, dù là đúng hay sai cũng không cần thay đổi.

Thầy Trí Tịnh bảo trong bài để biện minh cho ý tưởng mới của thầy, khi bảo: "Nhiều năm về trước, trong thời gian niệm Phật theo thông lệ Nam Mô A Di Ðà Phật, khi chuyên niệm nhiều (mỗi ngày từ hai vạn câu trở lên), tôi bị sự chướng là trệ tiếng trong lúc niệm ra tiếng và lờ mờ trong lúc niệm thầm. Giữa lúc đó tiếng “Di” là chủ của sự chướng".

Xin hỏi ngay rằng niệm Phật để làm gì? Để cho vần với âm niệm hay để thoát luân hồi. Nếu như câu trả lời là để vần âm điệu thì hoàn toàn không gì để nói. Còn nếu câu trả lời là vì thoát sanh tử mà trì danh thì cần phải nói. Còn nữa, nếu thuận lòng là nên dùng từ BỤT thì phải niệm là Nam Mô A Mi Đà Bụt mới chính xác, thế thì sao lại đổi một từ mà giữ lại một từ mà không thể giữ nguyên như cũ như bao bậc tiền bối đã làm. Nếu cho chữ "DI" là sai thì hoàn toàn câu Phật A Di Đà phải đổi cho đúng chính xác hết.

Câu Phật hiệu này được người Trung Hoa viết như vậy:南無阿彌陀佛 - Nam Mô A Di Đà Phật, mà ai ai nếu là tín đồ Phật giáo cũng đều biết đến.

Nhưng hãy xem cho kỷ từ Mô (無) từ này không phải là VÔ (Không) sao? nếu nói là sai thì phải niệm như thế này: Nam Vô A Mi Đà Bụt. Nếu như bảo là sai mà sửa lại được như vậy thì hoàn toàn không có gì để nói. Nhưng ở đây chỉ sửa từ DI thành MI mà thôi. Rõ ràng là khi niệm "Nam Mô A Di Đà Phật" thì từ DI này là chướng ngại cho âm điệu, vậy thì đây là sự chướng ngại từ nơi tâm, chớ hoàn toàn không phải chướng ngại do dùng sai danh từ.

Quí vị bảo niệm "Nam Mô A Mi Đà Phật" nhanh hơn là niệm "Nam Mô A Di Đà Phật". Kỳ thật niệm Phật mà còn tâm tham ở đây nữa, phải nên biết, không phải niệm nhiều là được vãng sanh, mà người niệm ít thì không được vãng sanh. Phải nhớ cho kỹ điều này. Nếu như quí vị dùng tâm để niệm, xả bỏ vạn duyên chướng ngại, thì chỉ cần niệm mười niệm cũng được vãng sanh.

Ở đây không phải do nhiều hay ít mà được vãng sanh. Mà chú trọng nơi tâm lực của người hành trì. Tuy biết rằng, trong Kinh dạy, niệm danh hiệu của Đức Phật nhiều thì sẽ được sanh vào hoa sen lớn phẩm cao. Nhưng phải rõ rằng, đó là nói việc trì theo tâm lực của người đó. Quí vị niệm nhiều nhưng chẳng hiểu nghĩa của câu Phật hiệu thì cũng bằng không. Tâm tham, tam sân, tâm si, không xả thì niệm nhiều để làm gì? Nguyện thứ mười tám có nói chỉ cần chúng sinh trong mười phương hết lòng tin tưởng, muốn sinh về cõi nước của Ngài thì chỉ trong mười niệm, đều được vãng sanh.

Lại nữa chữ Di Lặc - 彌 (trong thánh hiệu của Phật Di Lặc), đã nói chữ DI là sai thì phải đổi luôn chữ Di Lặc thành Mi Lặc mới đúng. Chớ sao lại đổi hiệu của đức Từ Phụ A Di Đà mà không đổi hiệu của Đương Lai hạ Sinh Di Lặc Phật?

Câu Phật Hiệu A Di Đà Phật, tiếng Phạn là: Namo Amitabha, mà người Trung hoa dịch âm là Namo A Mi Tuo Fo, nếu chúng ta dịch theo âm tiếng Phạn thì có thể dịch như vậy: Nam Mô A Mi Thà (Đà) Phật, còn nếu dịch theo âm Hán thì phải dịch Nam Vô A Di Đà Phật. Do đó, có lẻ cổ đức hòa dung cả hai nên thành Nam Mô A Di Đà Phật.

Ở trên chỉ để giải thích cho xác nghĩa của câu Phật hiệu. Chớ để tâm chú trọng vào việc đúng sai. Ở đây chúng tôi chỉ giải thích để quí vị có cái nhìn khái niệm. Quan trọng ở đây là những người niệm Nam Mô A Di Đà Phật thuở xưa cũng như ngày nay có được thanh tịnh hay không và có được vãng sanh hay không mà thôi. Nếu như lịch sử đã chứng minh, sách vở đã ghi chép đều có, thì cần chi họa thêm chữ MI vào? Thật là dư thừa và tội lỗi. Tại sao? Vì gây hoang mang cho không biết bao người, còn nữa những người chưa thấu suốt giáo lý, đem ra bàn cãi, tranh chấp... quí vị nghĩ có phải tội lỗi không?

Thầy Trí Tịnh lại mang sự Phật chứng để biện minh không thể thuyết phục được nếu dùng Giáo lý của Phật để đo thì không hợp lý. Phải nên biết giáo lý của Phật Đà là một giáo lý giác ngộ, chẳng phải thần quyền hay mê tín. Khi bảo rằng "Chiều hôm ấy, khi đứng dựa cửa sổ ngó mong về phía mặt trời sắp lặn, tôi bỗng thấy chữ A-Mi nổi bật giữa khung trời xanh sáng, gần như chữ điện ở trước cửa của những hiệu buôn chiếu sáng trong đêm. Tôi thử ngó qua hướng khác thời không thấy, khi ngó trở lại hướng Tây thời chữ A-Mi vẫn nổi y nơi chỗ cũ, khổ chữ lớn lối bốn tất Tây bề cao, và hiện mãi đến trên ba mươi phút mới ẩn.."

Chúng tôi không dám bảo là không có thật hay có thật, mà chúng tôi chỉ nói theo nền giáo lý của Phật Đà. Nếu bảo là Phật cũng ấn chứng với ý nghĩ của thầy là nên dùng chữ Mi để thay cho chữ Di thì đức Phật còn là Đức Phật nữa không? Vậy thì những người niệm từ thưở xưa đến nay niệm Phật hiệu gì? Cũng như theo lịch sử những người niệm Phật vãng sanh thì chẳng phải Phật rước hay sao?

Còn nếu nói không chấp vào danh tự, thì tại sao Đức Phật lại báo điềm lành cho nổi chữ A-Mi trên trời xanh cùng với ý tưởng mới là cổ đức đã sai nên nay phải thay đổi. Trong khi đó, Đức Phật là bậc đại giác, vạn Pháp đều không, mà không cũng đều có. Thì tại sao lại còn phân biệt là có, không, sai và đúng...trong khi đó Ngài tất phải biết danh hiệu của Ngài là A Di Đà, Vì ai ai cũng niệm danh hiệu này, cho dù có sai, nhưng tâm thức của họ chính là đức Phật của thế giới Cực Lạc về Phương Tây. Quí vị thử nghĩ có mâu thuẫn không?

Lại nữa, nếu cho rằng có sức mầu nhiệm gia hộ của thánh chúng, mà chữ A-Mi nổi lên trời xanh và chỉ nổi lên từ phương Tây, khi nhìn về phương khác khi không thấy chỉ thấy ở phương Tây. Nếu đã là điềm lành lẻ tất nhiên phải thấy bất luận ở phương nào, xin đừng bảo rằng vì Phương Tây là thế giới Cực Lạc. Vì Phật đâu còn mê như chúng sanh, và ích kỷ như vậy, nhìn về chỗ ở của mình thì thấy, khi nhìn về quốc độ khác thì không? trong Phật giáo đâu có đạo lý này.

Như chúng tôi đã nói, là không chú trọng vào đúng hay sai, mà là quan trọng ở nơi thật hành và quy cũ. Cổ đức từ xưa đã như vậy, bậy giờ cũng như vậy, vị lai cũng cố gắng như vậy, cần chi thay đổi để thêm rắc rối và gây ảnh hưởng đến nhiều người.

Tóm lại, nếu ai tha thiết muốn thoát vòng sanh tử luân hồi, thì cố gắng giữ tâm của mình và theo cổ đức mà hành, chứ nên đem đề tài này ra phiếm diện, mỗ xẻ đúng sai. Vì tất cả đều là vô ích, chẳng giúp ích gì cho việc tiến tu cũng như việc cầu vãng sanh của mọi người. Mà hãy thật hành y như pháp, hội đủ Tam Lương, TÍN- HẠNH- NGUYỆN, để vĩnh viễn thoát ra khỏi vòng ma lực giăng bủa khắp mọi nơi.

Như đã trả lời, nhưng còn có nhiều Phật tử còn thắc mắc, nên gởi mail về hỏi. Do đó, chúng tôi một lần nữa cố gắng trả lời như trên, hy vọng rằng sẽ giúp ích được một số người nào đó, đang cũng có tâm hoang mang và thắc mắc như vậy.

Sau cùng, chúng tôi tha thiết kêu gọi quí vị, những ai đang hành và sẽ theo tông chỉ của Tịnh Độ thì hãy cứ yên tâm hành trì theo cổ đức, cứ việc niệm Phật hiệu là "Nam Mô A Di Đà Phật" hết lòng thành kính, tha thiết cầu vãng sanh, nếu như có một ai làm đúng như lời dạy của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, hành thiện tránh ác, nhưng lại đọa lạc, không được vãng sanh vì niệm Phật hiệu sai, thì tôi nguyện gánh hết những tội lỗi mà hôm nay tôi cố gắng giải thích để duy trì Phật hiệu là "Nam Mô A Di Đà Phật" gây nghịch duyên cho người mới phát chánh tín cầu vãng sanh đối với Phật hiệu.

Chúng tôi tha thiết kêu gọi mọi người rằng; cũng đừng đem đề tài này để bàn cãi nữa, vì sẽ không giúp ích gì cho việc tiến tu của mình. Ai làm sao thì cứ tùy họ vậy, còn đối với bản thân thì cứ y Pháp mà hành. Nếu như còn có người tự thắc mắc cho rằng nếu điều ấy là sai, thì sao lại có người theo... Thì hãy tự hỏi với mình rằng: "Hút thuốc thật sự có hại cho sức khỏe hay không? Sao lại có nhiều người dẫu biết là có hại mà vẫn cam tâm tình nguyện vướng vào". Tất cả cũng chỉ đều do nghiệp lực của mỗi cá nhân khác nhau mà thôi.

Nam Mô A Di Đà Phật!

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Nam Mô Liên Trì Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát!!

Trân trọng,

Tịnh Quang


Sửa bởi hiendde: 05/01/2013 - 05:41


Thanked by 2 Members:

#2 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 17/12/2012 - 03:55

CHƯƠNG 7A

TRƯỜNG NĂNG LƯỢNG CON NGƯỜI HAY HÀO QUANG CON NGƯỜI

Trường năng lượng con người là biểu hiệu của năng lượng vũ trụ có liên quan mật thiết với đời sống con người. Nó có thể được mô tả như là một cơ thể sáng rực bao quanh và thâm nhập vào thân thể, phát ra các bức xạ đặc thù của riêng nó và thường được gọi là “hào quang”. Hào quang là cái phần của vũ trụ kết hợp với các đối tượng.

Hào quang con người hay trường năng lượng con người là cái phần của năng lượng vũ trụ kết hợp với thân thể.

Các nhà nghiên cứu, dựa vào những quan sát của mình, đã tạo ra những mô hình lý thuyết phân chia hào quang thành mấy vầng. Các vầng nầy đôi khi được gọi là cơ thể, chúng thâm nhập và bao quanh thành từng vầng liên tục.

Mỗi cơ thể kế tiếp gồm những chất tinh khiết và có “rung động” cao hơn của cơ thể mà nó bao quanh và thâm nhập.

Tập nhìn thấy hào quang con người.

Cách dễ nhất để bắt đầu cảm nhận trường năng lượng con người là tập như sau: Nếu bạn ở trong một nhóm người, hãy cầm tay nhau thành vòng tròn và nắm tay lại. Hãy để cho năng lượng trường hào quang của bạn chảy xung quanh vòng tròn. Hãy cảm nhận dòng chảy phập phồng đó một lát. Nó đang đi theo lối nào? Hãy nhìn xem người đang ở bên cạnh bạn cảm nhận đó bằng cách nào. Có tương quan nhau không?

Bây giờ, vẫn không thay đổi vật gì và không động tay, bạn hãy ngắt dòng chảy năng lượng lại. Giữ như thế một lát (mọi người cùng lúc), rồi để cho năng lượng chảy tiếp. Hãy làm thử lần nữa. Bạn có cảm thấy được chỗ khác nhau không ?

Bạn thích cái nào hơn? Lúc nầy hãy cùng với một người bạn nào đó cùng làm tương tự như trên.

Hai người hãy ngồi đối diện, hay lòng bàn tay áp vào nhau. Để cho năng lượng chảy tự nhiên. Nó đi theo đường nào? Hãy phát năng lượng ra khỏi lòng bàn tay trái; đoạn để nó đi vào tay phải. Rồi làm ngược lại. Xong ngắt dòng chảy. Bạn hãy thử cùng một lúc đẩy dòng chảy ra khỏi cả hai tay. Đoạn hút nó vào cả hai tay một lúc. Các động tác đẩy, kéo và ngừng là ba biện pháp cơ bản để thao tác năng lượng trong chữa trị. Hãy thực hành các động tác đó.

Bây giờ bạn hãy buông tay ra; giữ hai lòng bàn tay xa nhau khoảng 2-5 in; từ từ đưa tay ra ra vào vào, tăng giảm khoảng cách. Hãy tạo ra một cái gì đó giữa hai bàn tay. Bạn có cảm nhận được nó không? Nó giống cái gì? Hãy đưa hai tay ra xa nhau hơn, khoảng 8-10 in,rồi từ từ đưa lại gần nhau cho đến khi bạn cảm thấy có một sức ép đẩy hai tay bạn trở lại làm cho bạn phải ráng thêm một chút mới áp được hai tay vào nhau.

Lúc nầy, bạn đã áp các rìa cơ thể năng lượng của mình với nhau. Nếu tay bạn cách nhau 1-1 ¼ in là bạn đã áp rìa các cơ thể etheric của mình (vầng đầu tiên của hào quang). Nếu tay bạn cách nhau 3-4 in là bạn đã áp các rìa ngoài cơ thể cảm xúc của bạn (vầng thứ nhì của hào quang).

Lúc nầy bạn hãy hết sức thận trọng đưa hai tay vào gần nhau hơn nữa cho đến khi bạn có thể thực sự cảm thấy rìa nngoài cơ thể cảm xúc của bạn hay trường năng lượng bàn tay phải áp ào da bàn tay trái. Hãy đưa lòng bàn tay phải gần lòng bàn tay trái thêm khoảng một in. Hãy cảm nhận hiện tượng ngứa ran trên mu bàn tay trái khi mà rìa trường năng lượng của bạn áp vào đó. Trường năng lượng của bàn tay phải đã xuyên đúng qua bàn tay trái của bạn!

Giờ thì bạn lại đưa hai tay ra xa nhau hơn và giữ khoảng cách chừng 7 in. Hướng ngón trỏ phải vào lòng bàn tay trái, sao cho đầu ngón cách lòng bàn tay độ ½-1 in. Lúc nầy bạn hãy vẽ nhiều vòng tròn lên lòng bàn tay. Bạn cảm thấy gì? Nó có làm cho bạn nhột không? Cái gì vậy ?

Trong ánh sáng mờ mờ của căn phòng, bạn hãy giữ bàn tay bạn sao cho các đầu ngón tay hướng về từng người. Giữ hai tay trước mặt mình ở khoảng chừng 2 feet. Đảm bảo có một bức tường nhẫn màu trắng làm nền phía sau. Hãy để cho mắt thư giãn và dịu dàng nhìn chăm chú vào khoảng trống giữa các đầu ngón cách xa chừng 1-1 ½ in. Đừng nhìn vào ánh sáng chói chang. Hãy để cho mắt thư giãn. Bạn thấy gì không? Đưa các đầu ngón tay lại gần nhau rồi xa nhau hơn nữa. Điều gì xẩy ra ở khoảng cách giữa các ngón?

Bạn thấy gì xung quanh bàn tay? Hãy nhẹ nhàng đưa môt bàn tay lên phía trên, bàn tay kia xuống duới, sao cho các ngón ở tay nọ hướng về các ngón ở tay kia. Lúc nầy có xẩy ra điều gì không? 94% số người làm thử bài tập nầy nhìn thấy một cái gì đó. Tất cả mọi người cảm nhận một cái gì đó. Về những câu trả lời cho các câu hỏi trên, xin tham khảo phần cuối chương nầy.

Sau khi bạn thực hành các bài tập nầy và các bài tập ở chương 9 quan sát hào quang của người khác, bạn có thể bắt đầu nhìn thấy vài vầng đầu tiên như hình 7-1A. Muộn hơn, sau khi bạn đã quen nhìn thấy các vầng thấp, bạn có thể thực hành các bài tập nhận thức bằng tri giác cao cấp như mô tả trong các chương 17, 18, 19. Khi đuợc khai mở hơn con mắt thứ ba (luân xa 6), bạn sẽ bắt đầu nhìn thấy các vầng cao hơn của hào quang.

Đến đây, khi phần lớn chúng ta đã cảm nhận, nhìn thấy và trải nghiệm các vầng thấp của hào quang, xin hãy tiếp tục mô tả chúng. Có nhiều hệ thống mà người ta đã tạo ra từ những quan sát của họ để xác định trường hào quang.

Tất cả hệ thống nấy đều chia hào quang thành vầng và xác định vị trí, màu sắc, độ sáng, hình thù, mật độ, độ lỏng và chức năng. Mỗi hệ thống đều hướng về loại công việc mà cá thể đang “tiến hành” với hào quang.

Có hai hệ thống giống với hệ thống của tôi nhất: hệ thống do Jack Schwarz sử dụng, gồm hơn bảy vầng, và được mô tả trong cuốn cũa ông nhan đề. Các hệ thống năng lưọng con người; và hệ thống do Đức Rosalyn Bruyère thuộc Trung Tâm chữa trị bằng ánh sáng, Glendale, California, sử dụng. Hệ thống nầy gồm bảy vầng và đưọc mô tả trong cuốn sách của tác giả nhan đề Bánh xe ánh sáng, công trình nghiên cứu về luân xa .

Bảy vầng của trường hào quang

Tôi đã quan sát thấy bảy vầng của hào quang trong thời gian làm việc với cương vị cố vấn và cương vị thầy chữa.

Lúc đầu, tôi chỉ nhìn thấy được các vầng thấp, phần lớn đậm đặc và dễ thấy. Càng làm việc lâu, tôi càng thấy được thêm các vầng khác. Vầng càng cao thì tôi càng phải bành trường ý thức của mình thêm để cảm nhận nó. Nghĩa là nhằm mục đích nhìn thấy các vầng cao hơn, như vầng thứ năm, thứ sáu và thứ bảy, tôi phải đi vào trạng thái thiền định, thường là nhắm mắt. Sau nhiều năm thực hành, thậm chí tôi đã bắt đầu thấy vượt qua cả vầng thứ bảy, như sẽ được luận bàn ngắn gọn ở cuối chương nầy.

Các quan sát về hào quang cho tôi thấy một mô hình trường nhị nguyên thú vị. Các vầng khác của trường có cấu trúc cao, tựa như những làn sóng đứng của các mô hình ánh sáng, trong khi các vầng ở khoảng giữa hiện ra gồm các chất lỏng có màu chuyển động liên tục. Những chất lỏng nầy chảy qua một hình thái dựng nên bởi những làn sóng ánh sáng đứng lung linh. Hướng của dòng chảy phần nào được hình thái ánh sáng đứng điều khiển, vì chất lỏng chảy dọc theo các vệt ánh sáng đứng.

Bản thân những hình thái ánh sáng đứng cũng lóng lánh, y như thể chúng gồm có những sợi dây của nhiều ánh sáng nhỏ xíu, nhấp nháy dồn dập, mỗi cái nhấp nháy theo một tốc độ khác nhau. Những vệt ánh sáng đứng nầy hiện ra có những vật mang nhỏ xíu chuyển động dọc theo chúng.

Như vậy, các vầng thứ nhất, thứ ba, thứ năm và thứ bảy đều có cấu trúc rõ ràng, trong khi các vầng thứ hai, thứ tư và thứ sáu gồm những chất tựa lỏng không có cấu trúc đặc thù. Chúng đảm nhiệm hình thái là do chúng chảy qua cấu trúc của các vầng số lẻ và vì vậy phần nào đảm nhiệm hình thái của các vầng có cấu trúc.

Mỗi vầng kế tiếp thâm nhập hoàn toàn vào tất cả các vầng bên dưới nó, kể cả thân thể. Vì vậy cơ thể cảm xúc lan ra quá cơ thể etheric và bao gồm cả cơ thể etheric lẫn thân thể. Thực tế, mỗi cơ thể không hề là một “vầng", dù rằng đó là cái ta có thể nhìn thấy. Đúng hơn, nó là dạng bao quát hơn của bản thân chúng ta vốn mang sẵn bên trong mình những hình thái khác hạn chế hơn.

Từ quan điểm của nhà khoa học, có thể coi mỗi vầng như một mức của các rung động cao hơn, chiếm lĩnh cùng khoảng không như những mức rung động phía dưới nó và vượt ra xa hơn. Để nhìn thấy được từng mức tiếp liền nhau, người quan sát phải tiến lên với ý thức về mỗi mức tần số mới. Vậy là ta có bảy cơ thể, tất cả chiếm cùng một khoảng không vào cùng một thời điểm, cái nào cũng vượt ra quá cái kế bên, điều mà chúng ta không quen trong đời sống “bình thường" hằng ngày. Nhiều người nhầm lẫn coi hào quang như một củ hành có thể bóc ra thành từng lớp liên tiếp. Không phải như vậy.

Các vầng có cấu trúc chứa đựng mọi hình thái mà thân thể có, kể cả nội tạng, mạch máu … và những hình thái bổ sung mà trong thân thể không có. Có một dòng chảy năng lượng thẳng đứng rung động bên trên và bên dưới trường hào quang trong tủy sống. Nó vượt quá ra ngoài thân thể, phía trên đầu và phía dưới xương cụt. Tôi gọi nó là dòng năng lượng chủ yếu. Có những cuộn xoáy hình nón xoay tròn mệnh danh là các luân xa trong trường hào quang. Chóp của chúng hướng vào bên trong dòng năng lượng thẳng đứng chủ yếu và nền khai mở của chúng kéo dài tới rìa từng vầng của trường hào quang nơi chúng khu trú.

Bảy vầng và bảy luân xa của trường hào quang

Mỗi vầng hiện ra khác nhau và có chức năng đặc thù cho mỗi vầng. Mỗi vầng hào quang kết hợp với một luân xa. Nghĩa là vầng thứ nhất kết hợp với luân xa 1, vầng thứ hai với luân xa 2, và cứ thế.

Đây là những khái niệm chung sẽ phức tạp hơn khi ta nghiên cứu sâu thêm vào chủ đề này. Còn bây giờ chỉ liệt kê danh sách để cung cấp cho bạn một cái nhìn chung toàn cục.

Vầng thứ nhất của trường hào quang và luân xa 1 kết hợp với hoạt động thể chất và cảm xúc-cảm tính thể chất, sự đau đớn thể chất hay niềm vui. Vầng thứ nhất kết hợp với hoạt động tự động và tự quản của thân thể.

Vầng thứ hai và luân xa 2 thường kết hợp với dạng cảm xúc của con người. Chúng là những cỗ xe qua đó ta có đời sống cảm xúc và các cảm nghĩ.

Vầng thứ ba kết hợp với đời sống tâm thần, với tư duy tuyến tính.

Vầng thứ tư kết hợp với luân xa tim, là cỗ xe qua đó ta có yêu thương, không chỉ có vợ chồng mà có cả nhân loại nói chung . Luân xa bốn là luân xa chuyẻn hóa năng lượng yêu thương.

Vầng thứ năm là mức kết hợp với một ý chí cao cấp có quan hệ chặt chẽ hơn với ý chí siêu phàm. Luân xa năm kết hợp với sức mạnh của lời nói, sự phát biểu mọi điều vào trong tồn tại, lắng nghe và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Vầng thứ sáu và luân xa 6 kết hợp với yêu thương thượng giới. Nó là yêu thương vượt ra khỏi giới hạn yêu thương của con người và ôm lấy mọi cuộc đời. Nó tạo nên sự bày tỏ quan tâm và ủng hộ việc bảo vệ và dinh dưỡng mọi cuộc đời. Nó giữ cho mọi hình thái cuộc đời như là những biểu hiện quí giá nhất của Thượng đế.

Vầng thứ bảy và luân xa 7 kết hợp với trí tụê bậc cao, hiểu biết và sự hợp nhất bản chất tâm linh và thể chất.

Như vậy là có các vị trí đặc trưng bên trong hệ thống năng lượng con người về cảm giác, xúc cảm, ý nghĩ, ký ức và những trải nghiệm phi thể chất khác mà ta kể lại cho các thầy thuốc của mình. Việc hiểu được các triệu chứng thể chất liên quan như thế nào với những vị trí ấy sẽ giúp ta hiểu bản chất của các bịnh khác nhau cũng như bản chất sức khỏe và bịnh tật. Thế thì việc nghiên cứu hào quang có thể là nhịp cầu giữa y học truyền thống và những trăn trở tâm lý học của ta.

Như vậy là có các vị trí đặc trưng bên trong hệ thống năng lượng con người về cảm giác, xúc cảm, ý nghĩ, ký ức và những trải nghiệm phi thể chất khác mà ta kể lại cho các thầy thuốc của mình. Việc hiểu được các triệu chứng thể chất liên quan như thế nào với những vị trí ấy sẽ giúp ta hiểu bản chất của các bịnh khác nhau cũng như bản chất sức khỏe và bịnh tật. Thế thì việc nghiên cứu hào quang có thể là nhịp cầu giữa y học truyền thống và những trăn trở tâm lý học của ta.

Vị trí của bảy luân xa

Vị trí của bảy luân xa chính trong thân thể tương ứng với bảy đám rối thần kinh chính của người trong từng vùng thân thể. BS David Tanseley, chuyên viên về bức xạ học, trong cuốn sách của mình nhan đề Bức xạ học và các cơ thể tinh tế của con người, nói rỏ rằng bảy luân xa chính được hình thành tạI những điểm mà ở đó các vạch ánh sáng thẳng đứng giao nhau 21 lần.

21 luân xa phụ khu trú tại những điểm mà ở đó các thành phần năng lượng giao nhau 14 lần. Chúng khu trú lần lượt như sau: 2 trước tai, 2 trên ngực, 1 tại nơi hai xương đòn gặp nhau, 2 trong lòng bàn tay, 2 ở gót chân, 2 ở ngay phía sau mắt, 2 liên hệ với cơ quan sinh dục, 1 cạnh gan, 1 liên kết với dạ dầy (bao tử), 2 liên kết với lách, 2 ở khoe chân (sau đầu gối), 1 cạnh tuyến ức và 1 cạnh đám rối thái dương. Các luân xa này có đường kính khoảng 3 in tại nơi cách mặt da 1 in.

Hai luân xa phụ ở lòng bàn tay rất quan trọng trong chữa trị. Nơi mà các vạch năng lượng giao nhau 7 lần, còn có những cuộn xoáy nhỏ hơn được tạo ra.

Có nhiều trung tâm năng lượng tí xíu tại những nơi mà các vạch năng lượng giao nhau ít lần hơn. Tanseley nói rằng những cuộn xoáy tí xíu này có thể rất trùng khớp với các huyệt châm cứu trong y học Trung Hoa.

Mỗi luân xa chính ở phía trước cặp đôi với một luân xa tương ứng ở phía sau, đều được coi như tiền diện mạo và hậu diện mạo của luân xa. Tiền diện mạo liên quan với cảm nhận, hậu diện mạo liên quan với ý chí, và ba diện mạo trên đầu liên quan với các quá trình tâm thần của con người, như được trình bày ở Hình 7-3.

Như vậy, luân xa 2 có các thành phần 2A và 2B, luân xa 3 có 3A và 3B, cứ thế cho tới luân xa thứ 6. Có thể coi các luân xa 1 và 7 là cặp đôi với nhau nếu ai đó muốn thế, bởi vì chúng là những điểm tận cùng được khai mở của dòng năng lượng thẳng đứng chủ yếu chảy lên chảy xuống dọc theo cột sống mà toàn bộ luân xa hướng vào.

Mũi nhọn hay đỉnh của các luân xa, nơi chúng liên kết với dòng năng lượng chủ yếu, được gọi là rễ hoặc tâm của luân xa. Bên trong các tâm này là những dấu niêm kiểm soát sự trao đổi năng lượng giữa các vầng hào quang qua luân xa đó. Nghĩa là mỗi một trong số bảy luân xa đều có bảy vầng, mỗi vầng tương ứng với một vầng của trường hào quang.

Mỗi luân xa có vẻ khác biệt trên từng vầng đó, như sẽ được nói chi tiết trong miêu tả của mỗi vầng. Năng lượng nào muốn chảy từ vầng nọ sang vầng kia qua luân xa phải đi qua các dấu niêm trong rễ luân xa đó. Hình 7-4 cho thấy trường hào quang với toàn bộ bảy vầng thâm nhập và toàn bộ bảy vầng thâm nhập của các luân xa.

Có thể nhìn thấy năng lượng tuôn chảy vào trong toàn bộ những luân xa này từ trường năng lượng vũ trụ. Từng cuộn xoáy năng lượng hiện ra đang hút hoặc để cho năng lượng từ trường năng lượng vũ trụ đi vào.

Chúng hiện ra đang hoạt động giống như các cuộn xoáy chất lỏng mà chúng thường gặp trong nước hay trong không khí, như: xoáy nước, khí xoáy tụ, cột nước và bão. Chỗ tận cùng của một luân xa bình thường mở ra vầng hào quang thứ nhất có đường kính khoảng 6 in, cách mặt da khoảng 1 in.



#3 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 17/12/2012 - 04:10

CHƯƠNG 7C

Cơ thể tâm thần (Vầng thứ ba)

Cơ thể hào quang thứ ba là cơ thể tâm thần. Cơ thể này vượt qua cơ thể cảm xúc và gồm có những chất thường là mịn hơn kết hợp với tư duy và các hóa trình tâm thần. Cơ thể này thường hiện ra như một ánh sáng màu vàng chói lọi bức xạ quanh đầu, vai, và chạy vòng quanh toàn bộ thân thể. Nó lan rộng và trở nên rực rỡ hơn khi người đó tập trung vào các quá trình tâm thần. Nó vượt ra quá mặt da khoảng 3-8 in.

Cơ thể tâm thần cũng là một cơ thể có cấu trúc. Nó chứa đựng cấu trúc các ý niệm của ta. Cơ thể này màu vàng là chính. Có thể nhìn thấy các hình thái tư tưởng trong trường này hiện ra dưới dạng những đốm có độ sáng và hình thù thay đổi. Những hình thái tư tưởng này có các màu phụ xếp chồng lên thực sự bắt nguồn từ mức cảm xúc. Màu sắc đại diện cho cảm xúc của con người liên kết với hình thái tư tưởng.

Ý niệm càng trong sáng và hình thành tốt bao nhiêu thì hình thái tư tưởng kết hợp với ý niệm đó càng trong sáng và hình thành tốt bấy nhiêu. Ta nâng cao những hình thái tư tưởng này bằng cách tập trung vào những tư tưởng mà chúng đại diện. Những tư tưởng quen thuộc trở thành những lực “ kiến tạo tốt „ mạnh mẽ sẽ tác động đến cuộc đời của ta.

Cơ thể này từng là cơ thể khó quan sát nhất đối với tôi, một phần có thể do con người thực sự chỉ mới bắt đầu phát triển cơ thể tâm thần và chỉ mới bắt đầu sử dụng hiểu biết của mình vào những hướng đi trong sáng. Vì lý do đó, ta sẽ có ý thức cao về hoạt động tâm thần và tự coi mình là một xã hội mang tính phân tích.

Vượt qua thế giới thể chất

Trong hệ thống mà tôi sử dụng để chữa trị ( Hình 7-4 ), ba vầng hào quang bên dưới kết hợp với và chuyển hóa những năng lượng liên quan đến thế giới thể chất, và ba lớp bên trên chuyển hóa những năng lượng liên quan đến thế giới tâm linh. Vầng thứ tư hay mức tinh tú kết hợp với luân xa tim, là lò thử thách việc cải biến mà mọi năng lượng phải trải qua khi đi từ thế giới này sang thế giới khác.

Nghĩa là năng lượng tâm linh phải đi qua lửa của tim để được cải biến thành những năng lượng thể chất bậc thấp, và các năng lượng thể chất (của ba vầng hào quang bên dưới) phải đi qua ngọn lửa cải biến của tim để trở thành các năng lượng tâm linh. Và có bản chất của ta. Số đông chúng ta trải nghiệm các thực tại này trong giấc ngủ mà không nhớ lại được. Một số trong chúng ta có thể đi vào những trạng thái ấy của thực tại bằng cách bành trướng ý thức qua các kỹ thuật thiền định.

Những kỹ thuật thìền định này khai mở các dấu niệm giữa rễ của các vầng luân xa, và nhờ đó cung cấp ô cửa cho ý thức đi qua. Để luận bàn tiếp, tôi sẽ chỉ tập trung vào việc mô tả các vầng hào quang và các chức năng hạn chế của chúng. Cuối cuốn sách này sẽ có nhiều luận bàn hơn về các vầng cao hơn hay các « tần số của thực tại ».

Cơ thể tinh tú (Vầng thứ tư)

Cơ thể tinh tú không có hình dạng nhất định và gồm những đám mây màu đẹp hơn của cơ thể cảm xúc. Cơ thể tinh tú có khuynh hướng có một bộ màu tương tự, nhưng màu sắc thường pha trộn với ánh sáng màu hồng của yêu thương. Nó vượt ra quá mặt da khỏang 1/2 – 1 fut. Các luân xa là quãng tám tương tự các màu sắc như cầu vồng của cơ thể cảm xúc, nhưng mỗi cái lại pha trộn với màu hồng của yêu thương. Luân xa tim của người đang yêu tràn trề ánh sáng màu hồng ở mức tinh tú.

Khi người ta yêu nhau thì có thể thấy những vòng cung rực rỡ ánh sáng màu hồng nối liền tim họ, và thấy trong tuyến yên có thêm một màu hồng rất đẹp bên cạnh những rung động óng vàng thông thường mà tôi quan sát được. Khi người ta hình thành mối quan hệ với ai thì họ để cho những sợi dây nảy sinh từ các luân xa vươn dài ra liên kết lại.

Những sợi dây này tồn tại ở nhiều mức của trường hào quang, bổ sung thêm cho cơ thể tinh tú. Mối quan hệ càng lâu dài, càng sâu nặng thì càng có nhiều sợi dây và các sợi dây càng chắc. Khi chấm dứt quan hệ thì các sợi dây này bị xé, lắm khi gây nên nhiều nổi đau. Thời kỳ khắc phục mối liên hệ thường là thời kỳ tháo gỡ những sợi dây đó ở các mức thấp của trường hào quang và cho bắt rễ lại vào bản ngã.

Nhiều tương tác xảy ra ở mức tinh tú với một số người. Những đốm màu lớn hình thù khác nhau lướt nhanh qua căn phòng giữa nhiều người. Điều đó có phần vui, có phần không vui. Bạn có thể nhận ra được chỗ khác nhau. Có thể bạn thấy thiếu thoải mái về ai đó trong phòng mang dáng vẻ thờ ơ khi bạn hiện dìện ; vậy mà lại xảy ra nhiều chuyện ở một mức khác của trường hào quang.

Tôi đã thấy nhiều người đứng sát lại thành nhóm, giả bộ không chú ý đến nhau, trong khi ở mức năng lượng lại có giao lưu trọn vẹn bằng nhiều hình thái năng lượng chuyển động giữa bọn họ. Chắc chắn bạn đã từng tự trải nghiệm về điều này, đặc biệt giữa nam và nữ. Đúng nó không phải là ngôn ngữ con người; đó là một hiện tượng năng lượng thực sự mà ta có thể cảm nhận được.

Cơ thể etheric mẫu (Vầng thứ năm)

Tôi gọi lớp thứ năm của hào quang là cơ thể etheric mẫu vì nó chứa đựng tất cả các hình thái tồn tại trên bình diện thể chất trong sơ đồ hay hình thái mẫu. Nghĩa là trông nó giống âm bản ảnh nhiều hơn. Nó là hình thái mẫu cho vầng etheric vốn là hình thái mẫu cho thân thể như đã định. Vầng etheric của trường năng lượng có nguồn gốc cấu trúc từ vầng etheric mẫu.

Nó là sơ đồ hay hình thái hoàn hảo cho vầng etheric. Nó vượt ra quá mặt da khoảng 1/2 – 2 fut. Trong bệnh tật, khi vầng etheric trở nên méo mó thì hoạt động của vầng etheric mẫu là cần thiết để hỗ trợ cho vầng etheric trong hình thái mẫu nguyên thủy của nó. Nó là mức hào quang mà ở đó âm thanh tạo nên vật chất. Sử dụng âm thanh để chữa trị có hiệu quả nhất tại mức này.

Vấn đề sẽ được luận bàn thêm trong Chương 23 nói về chữa trị. Theo sức nhìn thấu thị của tôi, thấy những hình thái này hiện ra như những vạch trong hoặc trong suốt trên nền xanh cobalt, rất giống sơ đồ kiến trúc, chỉ có điều là sơ đồ này tồn tại trong một chiều khác. Như thể nó là một hình thái tạo nên bởi hiện tượng lấp đầy trọn vẹn trong không gian phía sau, và khoảng trống rớt lại đã tạo nên hình thái đó.

Có thể lấy ví dụ về cung cách tạo khối cầu torng hình ọc Euclide để so sánh với cung cách tạo trong khoảng không etheric. Trong hình ọc Euclide, muốn tạo khối cầu, trước hết người ta xác định một điểm. Bán kính kéo từ điểm đó hướng ra cả ba chiều sẽ tạo nên mặt phẳng của khối cầu. Nhưng trong khoảng không etheric, có thể gọi được là khoảng âm, khi tạo khối cầu lại xảy ra quá trình trái ngược.

Hằng hà sa số các bình diện từ bốn phương tám hướng đến và lấp đầy toàn bộ khoảng không, trừ một vùng hình cầu được để trống. Cái này xác định khối cầu. Nó là vùng không được lấp đầy bởi vì tất cả bình diện đã gặp nhau, vùng này sau đó xác định khoảng trống hình cầu.

Như vậy, mức etheric mẫu của hào quang tạo nên một khoảng trống hay một khoảng âm trong đó tồntại mức thứ nhất hay mức etheric của hào quang. Mức etheric mẫu là mẫu cho cơ thể etheric, cơ thể này về sau tạo ra cấu trúc kẻ ô trường năng lượng được cấu trúc). Trên đó thân thể nảy nở.

Do vậy mà mức etheric mẫu của trường năng lượng chứa đựng mọi hình thù và hình thái tồn tại trên bình diện thể chất, trừ ở trên mức mẫu. Những hình thái này tồn tại trong khoảng âm, tạo nên một khoảng trống trong đó cấu trúc kẻ ô etheric nảy nở, tà trên đó tồn tại mọi biểu hiện thể chất.

Bằng cách chỉ tập trung vào tần số rung dòng của mức thứ năm khi quan sát trường hào quan của người nào đó, ta có thể cô lập được vầng thứ năm của hào quang. Khi tôi làm như thế, tôi nhìn thấy hình thái trường hào quang của người đó vượt ra quá mặt da khoảng 2 ½ fut. Trông nó giống như hìn htrái xoan hơi thuôn.

Nó chứa đựng cấu trúc trọn vẹn của trường hào quang, bao gồm các luân xa, các cơ quan của thân thể và dạng thể chất (bạch mạch...) toàn bộ ở hình thái âm. Tất cả các cấu trúc này hiện ra như được tạo thành từ những vạch trong suốt trên một nền xanh thẩm là không gian chất rắn.

Khi hòa đồng vào mức này, tôi cũng nhìn thấy được tất cả hình thái khác nhau xung quanh tôi trong phối cảnh ấy. Điều đó dường như tự động xảy ra khi tôi chuyển cơ cấu tri giác của mình sang dãy tâầ số này. Nghĩa là trước tiên tôi chú ý tới mức thư năm chung chung; sau đó tôi tập trung người đặc biệt mà mình đang quan sát.

Cơ thể thượng giới (Vầng thứ sáu)

Mức thứ saú làm ức cảm xúc của bình diện tâm linh, được gọi là cơ thể thượng giới. Nó vượt ra quá mặt da – 2 = 2/3 fut. Nó là mức hào quang qua đó ta trải nghiểm hứng khởi tâm linh. Ta có thể đi tới nó qua thiền định và nhiều những hình thức khác của công trình cải biến mà tôi đề cập trong cuốn sách này.

Khi ta tới điểm của tồn tại, nơi ta biết được mối liên kết của mình với toàn vũ trụ, khi ta nhìn thấy ánh sáng và yêu thương trong mọi vật hiện hữu, khi ta chìm ngập trong ánh sáng, thì ta cảm thấy ta là của vũ trụ và vũ trụ là của ta, và cảm thấy rằng ta với Thượng đế là một, bấy giờ là lúc ta đã nâng ý thức của mình tới mức thứ sau của hào quang.

Yêu thương vô điều kiện luôn chảy khi có liên kết giữa luân xa tim khai mở và luân xa thượng giới khai mở. Trong liên kết đó, ta kết hợp lòng yêu thương nhân loại, lòng yêu thương cơ bản của con người đối với những đồng loại bằng xương bằng thịt của mình, với hứng khởi tâm linh tìm thấy trong yêu thương tâm linh vốn vượt ra ngoài thực tại thể chất để đi tới mọi lĩnh vực của cuộc sống. Việc kết hợp cả hai tạo nên trải nghiệm về yêu thương vô điều kiện.

Cơ thể thượng giới hiện ra với tôi trong ánh sáng lung linh rất đẹp, gồm chủ yếu các màu phấn. Ánh sáng này có một tia màu của vàng bạc và trắng sữa tựa như mặt xà cừ. Hình thái của nó ít được xác định hơn hình thái của mức etheric mẫu ở chỗ nó chỉ đơn giản hiện ra gồm có ánh sáng bức xạ từ thân thể, giống như lớp sáng xung quanh cây nến. Giữa lớp sáng này còn có thêm những tia sáng chói hơn, mạnh hơn.

Cơ thể Ketherric mẫu hay cơ thể nhân quả (Vầng thứ bảy)

Mức thứ bảy làm ức tâm thần của bình diện tâm linh, được gọi là cơ thể Ketheric mẫu. Nó vượt ra quá mặt da khoảng 2 ½ - 31/2 fut. Khi ta đưa ý thức của mình tới vầng thứ bảy của hào quang thì ta biết được rằng ta với tạo hóa là một. Hình thái ngoài cùng này là dạng quả trứng của cơ thể hào quang và chứa đựng tất cả các cơ thể hào quang kết hợp với sự hóa thân hiện tại mà cá thể đang trải qua.

Cơ thể này cũng có một mẫu cấu trúc cao cấp. Nó hiện ra trước mắt tôi như gồm những sợi tơ ánh sáng của vàng bạc tồn tại rất lâu giữ toàn bộ hình thái hào quang lại với nhau. Nó chứa đựng một cấu trúc kẻ ô của thân thể và tất cả luân xa.

Khi “hòa đồng” vào mức tần số của vầng thứ bảy, tôi thấy ánh sáng óng vàng lung linh rất đẹp rung động nhanh tới mức tôi phải dùng từ “lung linh” . Trông nó giống như ngàn sợi tơ óng vàng. Hình thái quả trứng óng vàng vượt ra quá mặt da khoảng 3 – 31/2 fut tùy người, với cực bé nhất ở dưới chân và cực lớn nhất ở khoảng 3 fut trên đầu.

Nó có thể lan rộng ra hơn nếu đó dồi dào nghị lực. Đối với tôi, rìa ngoài cùng quả thật giống cái vỏ trứng. nó hiện ra có bề dày khoảng ¼ - ½ in. Phần ngoài cùng này của vầng thứ bảy rất khoẻ và thun giãn, chống thâm nhập và bảo vệ trường hào quang đứng như võ trứng bảo vệ gà con. Tất cả các luân xa và các dạng thể chất hiện ra như được làm bằng ánh sáng óng vàng ở mức này. Đây là mức khoẻ nhất, thun giãn nhất của trường hào quang.

Có thể so sánh nó với một làn sóng ánh sáng đứng có hình thù và hình thái rối rắm rung động với tốc độ cực lớn. Hầu như người ta có thể nghe được âm thanh khi nhìn vào nó. Tôi chắc chắn rằng có thể nghe được âm thanh nếu con người thiền định trước một bức tranh như vậy. Mức mẫu óng vàng này cũng chứa đựng dòng chảy năng lượng chủ yếu lên xuống theo cột sống, nó mang năng lượng qua rễ của từng luân xa và liên kết các năng lượng đã được lấy vào qua từng luân xa.

Dòng năng lượng thẳng đứng chủ yếu này cảm ứng những dòng khác bên các góc phải của nó để tạo thành những đuôi nheo óng vàng trực tiếp vượt ra ngoài cơ thể. Chúng ta lần lượt cảm ứng dòng khác chảy chảy vòng tròn xung quanh trường hào quang, đến mức trường hao quang trọn vẹn và tất cả các mức bên dưới nó đều được bao quanh và giữ lại trong mạng lưới hình giỏ này. Mạng lưới đó cho thấy sức mạnh của ánh sáng óng vàng, trí tuệ siêu phàm nắm giữ toàn bộ trường hào quang trong sự toàn vẹn và nguyên trạng của nó.

Thêm vào đó, tại mức ketheric mẫu của hào quang cũng có những dải tiền kiếp bên trong vỏ trứng. chúng là những dải màu của ánh sáng bao quanh toàn bộ hào quang và có thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào trên bề mặt vỏ trứng này. Dải ở cạnh vùng đầu cổ thường là dải chứa đựng tiền kiếp mà bạn đang tiến hành thanh lọc trong hoàn cảnh cuộc sống hiện tại của bạn, Jack Schwarz nói về những dải đó và cách xác định ý nghĩa của chúng bằng màu sắc.

Sau này, trong phần chữa trị tiền kiếp tôi sẽ mô tả các thao tác với những dải này. Mức Katheric là mức hào quang cuối cùng trong bình diện tâm linh. Nó chứa đựng sơ đồ cuộc sống và là mức cuối cùng quan hệ trực tiếp đến lần hóa thân này. Vượt ra quá mức đó là bình diện vũ trụ, bình diện không thể trải nghiệm được từ quan điểm hạn hẹp của một lần hoá thân mà thôi.

Bình diện vũ trụ

Hai mức bên trên mức thứ bảy mà tôi có thể nhìn thấy ở thời điểm này là mức thứ tám và thứ chín. Mỗi vầng kết hợp với các luân xa thứ tám và thứ chín phía trên đầu. Mỗi vầng hiện ra trong suốt như pha lê và gồm những rung động cao rất tinh tế.

Các mức thứ tám và thứ chín có vẻ như theo khuôn mẫu chung và luân phiên giữa vật chất (mức thứ tán) và hình thái (mức thứ chín), trong đó vầng thứ tám hiện ra chủ yếu dưới dạng chất lỏng và vầng thứ chín hiện ra như một mẫu giống pha lê của mỗicái bên dưới nó. Trong các văn bản tham khảo, tôi không tìm thấy những tài liệu nói về các mức này mặc dầu chúng có thể hiện hữu.

Tôi biết rất ít về những mức này, ngoại trừ một số thực hành chữa trị rất có hiệu lực mà tôi được các hướng đạo dạy cho. Tôi sẽ luận bàn những phương pháp này trong Chương 22.

#4 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 17/12/2012 - 04:12

Cảm nhận trường hào quang

Điều quan trọng cần nhớ là khi bạn khai mở tầm nhìn thấu thị của mình chắc bạn sẽ chỉ thấy các vầng đầu tiên của hào quang. Chắc bạn cũng sẽ không phân biệt được giữa các vầng. Chắc bạn sẽ thấy cả các màu sắc lẫn các hình thái. Khi tiến lên nữa, bạn sẽ tăng nhạy cảm tới những tầng số ngày càng cao, đến mức bạn có thể thấy các cơ thể cao hơn.

Bạn cũng sẽ có khả năng phân biệt các vầng và có khả năng tập trung vào vầng nào mà mình chọn. Phần lớn những hình vẽ minh hoạ torng một số chương tới chỉ trình bày được ba hay bốn cơ thể hào quang bên dưới. Không phân biết được giữa các vầng. Dường như chúng hòa lẫn với nhau và tác động lên nhau trong phần lớn các tương tác được mô tả.

Phần lớn thời gian ta có các xúc cảm bậc thấp, các quá trình tư duy cơ bản và các cản nghĩ giữa cá nhân với nhau pha trộn và rối rắm. Ta không thành thạo torng việc phân biệt chúng bên torng ta. Một vài cái pha trộn đó thậm chí trông rõ trong hào quang. nhiều các cơ thể tâm thần và cảm xúc hiện ra tác động như một hình thái rối rắm.

Trong những hình vẽ minh hoạ về các quá trình chữa trị sau đây, không có phân biệt gì nhiều trong các cơ thể.

Tuy vậy, qua quá trình điều trị hay bất cứ quá trình sinh trưởng nào khác, các vầng hào quang con người trở nên rõ rệt hơn. Bệnh nhân ngày càng có thêm khả năng phân biệt giữa các xúc cảm nền,các quá trình tư duy và những xúc cảm bậc cao của yêu thương vô điều kiện kết hợp với các mức cao của hào quang.

Sư phân biệt này xảy ra qua quá trình nhận thức về quan hệ nhân quả mô tả trong Chương 15. Nghĩa là bệnh nhân bắt đầu hiểu bằng cách nào hệ thống niềm tin của họ tác động đến các ý niệm trong cơ thể tâm thần, bằng cách nào hệ thống này lần lượt tác động đến các xúc cảm, sau đó đến cơ thể etheric và cuối cùng đến thân thể. Với hiểu biết này, bấy giờ con người có thể phân biệt giữa các vầng của trường hào quang.

Các vầng của trường hào quang trở nên sáng sủa hơn và rõ rật hơn vì bệnh nhân trở nên trong sạch hơn với nhiều hiểu biết về bản thân giữa những cảm giác thể chất, những xúc cảm và những tư tưởng cùng hành động phù hợp. Về sau, trong các buổi chữa trị tiếp theo, điều rất quan trọng là phân biệt được giữa các vầng hào quang.

Trả lời câu hỏi trong các bài tập nhìn thấy hào quang con người.

Năng lượng phần lớn chuyển động luôn luôn từ trái sang phải xung quanh vòng tròn. Thật khó chịu phải ngắt lại và thường không thể ngắt được toàn bộ dòng chảy. Cảm giác tạo được cái gì đó giữa hai bàn tay là cảm giác ngứa ran cùng với áp lực, một cái gì đó tựa như tỉnh điện. Khi các rìa của cơ thể năng lượng chạm vào da thì xảy ra cảm giác ngứa ran cùng với áp lực trên mặt da. Khi bạn vẽ các vòng tròn lên lòng bàn tay, bạn có thể cảm thấy ngứa ran trên các đường vẻ đó.

Số đông thấy một đám mù xung quanh các ngón và bàn tay khi cố gắng cảm nhận hào quang. Nó có vẻ như cái gì đó giống như làn sóng nhiệt bên trên lò sưỡi. Đôi khi thấy được bằng màu sắc, chẳng hạn màu xanh. Thông thường số đông thấy nó không màu vào lúc bắt đầu.

Các cơ thể năng lượng thun giãn như kẹo mạch nha giữa các ngón trong khi đám mù từ mỗi đầu ngón liên kết với đám mù ở đầu ngón tương ứng bên tay kia. Khi bạn chuyển dịch các ngón sao cho một ngón khác đối diện với nó thì đám mù lúc đầu còn theo ngón cũ, về sau nhảy sang đầu ngón kế bên.

Điểm lại chương 7

1. Mối quan hệ giữa trường năng lượng vũ trụ và trường năng lượng con người là gì ?

2. Cơ thể etheric giống cái gì ? Nó khác cơ thể cảm xúc như thế nào?

3. Ba chức năng chủ yếu của các luân xa là gì ?

4. Tại sao luân xa lại có một màu nào đó.

5. Tâm của luân xa ở đâu ?

6. Các luân xa có liên quan đến những cấu trúc giải phẩu nào ?

7. Hãy mô tả bảy vầng thấp nhất của trường hào quang và chức năng của chúng.

8. Hãy mô tả mối quan hệ giữa các luân xa và các vầng hào quang.

9. Các luân xa 8 và 9 khu trú ở đâu ?

10. Hãy mô tả một luân xa ở vầng thứ bảy của trường hào quang.

11. Dòng chảy năng lượng thẳng đứng chủ yếu khu trú ở đâu ?

12. Vầng nào giữ trường năng lượng con người lại với nhau ?

13. Các xúc cản hiện ra ở vầng nào của trường năng lượng con người.

#5 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 22/12/2012 - 15:08

Chương 10

QUAN SÁT HÀO QUANG TRONG CÁC BUỔI CHỮA BỊNH

Hào quang thực sự là vật thiếu giữa một bên là y sinh học và thể chất, bên kia là tâm lý liệu pháp. Nó là vị trí khu trú của mọi xúc cảm, ý nghĩ, ký ức và mô hình ứng xử mà chúng ta không ngớt luận bàn. Chúng không hề bị treo lơ lửng một nơi nào đó trong trí tưởng tượng của ta, nhưng lại khu trú trong thời gian và không gian. Ý nghĩ và xúc cảm chuyển động giữa mọi người trong thời gian và không gian trường năng lượng con người, và việc học hỏi về điều đó là phương sách tạo cho mình điểm tựa trong hoạt động nầy.

Ta hãy nhìn số dòng chảy năng lượng lỏng của hào quang trong khi mọi người chuyển dịch qua đời sống thường ngày và sau đó trong các buổi chữa bệnh. Ta sẽ tập trung vào các hình thái chuyển động có màu sắc của bốn vầng bên dưới của hào quang và quay trở lại cuộc luận bàn về luân xa trong một chương sau.

Cảm nhận màu sắc trong trường hào quang:

Khi một người bất đầu nghiên cứu hào quang thì nghĩa của màu sắc có thể không được hiểu một cách trực tiếp. Về sau, với thực ý, nghĩa tổng quát của màu sắc sẽ trở nên rõ rệt. Khi người thầy thuốc thực hành có thêm nhạy cảm qua vận dụng năng khiếu của mình, người đó cũng sẽ nghiên cứu ý nghĩa của màu sắc mà mình thấy được. Một trong những"bùng nổ trường năng lượng con người sớm nhất mà tôi quan sát được vẫn là một trong những bùng nổ rực rỡ nhất.

Năm 1972, trong một cuộc hội thảo tập trung về năng lượng sinh học của tiếng gào thét chủ yếu, tôi quan sát Linda sáng ngời lên như cây thông Noel trong khi chị gào khóc trước cái chết vì ung thư của cha chị. Nhiều chùm ánh sáng chói chang màu đỏ, vàng, da cam và một ít màu xanh tuôn ra như suối từ đầu chị. Tôi chớp mắt, nhưng hiện tượng đó không mất. Tôi nheo mắt; tôi chuyển dịch xung quanh căn phòng; tôi tìm kiếm dư ảnh. Hiện tượng ấy vẫn còn. Tôi đã nhìn thấy cái gì đó. Tôi không thể tiếp tục phủ nhận nhiều trải nghiệm của mình quan sát thấy những màu sắc rõ rệt xung quanh đầu mọi ngườị. Tôi bắt đầu theo dõi hiện tượng này ráo riết hơn.

Khi đã dần dà thành thạo hơn trong quan sát hào quang, tôi bất đầu tìm cách liên hệ với những phát hiện của mình với trạng thái riêng của từng người, Tôi thấy người ta phát ra các tia sáng chói lọi khi họ tư duy hay hành động. Khi họ thanh thản thì trường hào quang trở lại trạng thái ổn định bình thường. Nhìn chung, tôi thấy hào quang bình thường hay yên lặng nó có một vầng rung động màu đỏ tía ngả xanh thẫm hoặc sáng ở cách mặt da khoảng ¼ in hoặc lớn hơn, khoảng 1/2 in. Nó rung động liên tục theo nhịp khoảng 15 lần/phút, thường tạo nên một chuyển động dạng sóng đi xuống bao quanh bởi một lớp mù xanh nhạt ngả xám, gần thể thì màu sáng hơn, xa thân thể thì màu nhạt dần.

Màu xanh thường chuyển sang màu vàng xung quanh đầu ở khoảng cách chừng 3-4 in. Thường có nhiều dải ánh sáng hình cờ đuôi nheo màu xanh nhạt đi ra từ các đầu ngón tay, ngón chân và đỉnh đầu. Tôi phát hiện rằng phần đông chúng ta, sau ít phút thực hành và được chỉ dẫn tốt, đều có khả năng nhìn thấy những dải hình cờ đuôi theo như vậy từ đầu ngón tay đi ra. Mặc dù phần lớn thời gian những dải này có màu xanh, cũng có khi màu sắc của chúng chuyển thành đỏ hay đỏ tía hoặc cứ màu gì.

Các bài tập quan sát hào quang người khác.

Bạn đã tiến hành các bài tập trong chương 7 quan sát hào quang ở đầu ngón tay mình. Bây giờ ta hãy nhìn vào hào quang người khác. Bạn lại dùng căn phòng đã được làm tối bớt ánh sáng cuối buổi chiều, không thẫm hẳn. Bạn vẫn có thể dễ dàng nhìn thấy mặt từng người. Hãy bảo bạn mình đứng trước một bức tường nhẵn màu trắng hoặc tấm bình phong. Đảm bảo không có nguồn sáng nào làm cho bạn nhìn vào đó. Bạn hãy để cho mắt thư giãn.

Để nhìn thấy hào quang, bạn sử dụng sức nhìn trong tối của mình khi đi bách bộ ban đêm, và bạn nhận ra rằng mình có thể thấy mọi vật rõ hơn nếu không nhìn thẳng vào chúng. Nên sử dụng các vật thể hình que hơn các vật thể hình nón trong mắt bạn. Cấu tạo hình que cảm nhận các mức ánh sáng thấp nhạy bén hơn cấu tạo hình nón được sử dụng lúc ban ngày và cho các màu sáng.

Hãy nhìn vào khoảng không gần chỏm đầu hoặc vào vùng cổ-vai của bạn mình. Đừng cho hai mắt tụ lại một điểm, để có thể nhìn vào cả một vủng chứ không phải vào một vạch nhỏ. Khi bạn khẽ đưa mắt vào khoảng không ở phía sau đầu 4-6 in thì hãy để cho ánh sáng đi vào mắt. Hãy tạo ra cảm giác đang cho phép cái gì đó đi vào mắt mình, hơn là để mắt mình cố với bên ngoài để nhìn bằng được cái gì đó, như đôi mắt vẫn làm khi ta cố nhìn cho ra một vật. Bạn hãy dành cho mình nhiều thời gian. Hãy nhìn nhiều người bằng cách đó, đặc biệt những người cũng nhìn thấy hào quang để bạn có thể đối ứng với những gì mình nhìn thấỵ.

Bạn có thể nghĩ là mình thấy cái gì đó. Nhưng bạn vừa nghĩ thế, nó đã biến mất trước khi bạn chỉ kịp kêu lên: "Nó đấy!". Nếu bạn rời mắt nhìn vào một đốm trống trên tường thì cầm chắc là bạn sẽ không thấy như vừa rồi. Đó là hiệu ứng dư ảnh, trong đó mắt bạn thường giữ một hình ảnh do tác động của màu bổ sung hoặc cường độ tương phản sáng.

Hiện tượng hào quang xảy ra rất nhanh và không lưu lại. Nó rung động. Bạn có thể nhìn thấy nó chảy xuống tay hay lóe ra một màu sắc lên trên và ra khỏi trường. Bạn có thể nhìn thấy một đám mù xung quanh thân thể không có vẻ gì lý thú cả. Đừng thất vọng: đây chỉ mới bắt đầu.

Bạn hãy nhặt lấy một cặp kính nhìn hào quang tại cửa hàng sách toàn đồ của địa phương và hãy theo những điều chỉ dẫn tìm thấy trong đó, giúp bạn phát triển khả năng nhìn và nâng cao dẫn độ tinh nhạy của mắt. Kính màu xành cobalt là tốt nhất nhưng khó kiếm. Phần lớn kính nhìn hào quang đều màu đỏ tía thẫm và sử dụng tốt.

Đừng tập nhìn quá lâu; một lúc sau bạn sẽ cảm thấy rất mệt. Tôi đã thấy một nhóm người rất hứng khởi khi nhìn thấy được cái gì đó; đến khi họ tiếp tục thì lại đâm ra ngờ vực và hệ thường năng lượng của người nào cũng mệt mỏi. Sớm muộn rồi bạn cũng sẽ gặp những căn phòng chật ních người trầm lặng, mệt mỏi. Do vậy, hàng ngày bạn tập ít thôị Và bạn hãy dựa vào những minh họa và mô tả kèm theo để kiểm tra lại cái mà bạn đã nhìn thấy.

Ở người có một cảm nghĩ mạnh mẽ thì hào quang yên lặng của anh ta đột nhiên tràn ngập một màu sắc khác và có hình thái khác tương quan với trạng thái cảm xúc lúc bấy giờ. Sau đó cảm nghĩ dịu đi, hào quang trở lại với diện mạo thường ngàỵ Thời gian hào quang ở trạng thái thay đổi dài hay ngắn khác nhau ở từng cá thể và tùy thuộc vào một số yếu tố.

Giận dữ và các xúc cảm tiêu cực khác

Màu đỏ luôn kết hợp với giận dữ. Tuy nhiên, một hôm cậu con trai 11 tuổi phơi phới, đầy nghị lực của tôi, dạt dào niềm vui đang chơi đùa; tôi nhìn thấy hào quang của cháu với những hình cờ đuôi nheo màu đỏ tươi và da cam tỏa ra từ đầu cháu. Đặc tính của màu đỏ là nó biểu thị sự giận dữ. Màu da cam ngả đỏ tươi không phải là tức giận, nó liên quan đến sinh lực đang rung động.

Phản ứng bùng nổ của một chị trong hội thảo về tiếng gào thét. Chị này có nhiều cảm xúc xảy ra cùng lúc, điều nầy giải thích sự hiện diện của nhiều màu đến thế. Chúng có cường độ cao, hiện ra chói lọi trong hào quang và có các tia sáng mạnh từ thân thể phát ra thành những vạch thẳng.

Một vài người tức giận có màu đỏ thẫm. Lúc cơn giận bộc lộ, nó vọt ra khỏi người thành những lóe sáng tựa như tia chớp hoặc những chấm sáng lóe hình tròn chuyển dịch ra xa người. Tôi đã nhìn thấy dạng hào quang nầy trong nhiều nhóm và tại nhiều buổi chữa. Ngược lại về một người không làm dịu được cơn giận và nỗi đau. Trong khi đốm đỏ hiện ra từ vùng họng, nó chuyển dịch dần ra phía ngoài.

Một lát sau, người hưóng dẫn nhóm chữa đưa ra lời chỉ trích chị ta, điều mà tôi cho là có hại. Vào lúc đó, đốm đỏ nhanh chóng chuyển dịch trở lại vào thân thể chị và đi vào vùng tim. Khi nó chạm vào tim chị, chị bắt đầu kêu khóc. Tiếng kêu khóc này không thuộc kiểu thanh thản cho nhẹ bớt. Nó là kiểu "khổ cái thân tôi" là nạn nhân nhiều hơn. Tôi giải thích sự kiện nầy là chị ta đã tự đâm vào tim bằng cơn giận của chính mình.

Mặt khác, lo sợ có biểu hiện màu xám hơi trắng có nhiều gai trong hào quang, nhìn vào rất khó chịu và có mùi tởm lợm. Ghen tỵ hiện ra có màu lục thẫm, xỉn và bầy nhầy, như trong câu tục ngữ tái xanh đi vì ghen tỵ. Buồn rầu có màu xám thẫm và nặng nề như trong các bức tranh biếm họa có vẽ những đám mây đen trên đầu.

Thất vọng và cáu kỉnh chắc sẽ có những tông màu đỏ thẫm (đõ mặt tía tai vì giận dữ) nhưng phần lớn hiện ra rõ nét do những rung động không đều của chúng ngược chiều với trường năng lượng của người khác, tạo nên những cảm giác rất khó chiụ. Thường bạn bè của người đó phản ứng lại đụng độ này bằng cách thử gợi ra một biểu lộ trực tiếp cảm giác tiêu cực làm cho họ dễ chịu hơn khi ứng xử. Chẳng hạn, một người sẽ nói: "Cậu có giận không?". Người kia sẽ thốt ra một cách giận dữ: Không!". Thế là một phần của cuộc đụng độ gây bực mình đó dịu bớt.

Tác động của thuốc men đối với hào quang

Các loại thuốc như LSD, marijuana cocaine và rượu có hại cho những màu sắc chói lọi, khỏe khoắn của hào quang và tạo ra các "chất nhầy etheric"; tác động của chúng cũng giống bệnh tật, hậu quả của việc hít cocaine đối với hào quang của một người. Mỗi lần anh ta hít cocaine vào tối thứ bảy thì trong buổi chữa vào chiều thứ ba anh ta thường có nhiều chất nhầy etheric nhớp nháp màu xám ở phía bên phải của mặt và đầu, trong khi phía bên trái vẫn tương đối sáng sủa.

Tôi hỏi anh có sử dụng lỗ mũi bên nọ nhiều hơn lỗ mũi bên kia không, thì anh ta bảo không. Tôi liên tiếp đố ứng - Tôi đã có thể nói đúng những lúc anh ta làm như thế - và bức minh họa sinh động «chứng thò lò mũi etheric của anh đã giúp anh bỏ được thói quen nói trên, hào quang của một người đàn ông đã sử dụng nhiều mẻ LSD và uống nhiều rượu. Hào quang có màu nâu hơi lục xỉn. Vết màu lục bẩn chuyển dịch chậm

xuống phía dưới và không dịu bớt, có tuơng quan với các cảm giác giận dữ, ghen tỵ và đau đớn lẫn lộn, không phân biệt, được che đậỵ Giá như anh ta tách được các cảm giác đó ra, hiểu được cơ sở của chúng, bộc lộ chúng ra và làm chúng dịu đi thì tôi chắc chắn rằng vết ấy đã có những tông của các màu tương ứng - đỏ, lục và xám, tách ra thành rõ hơn, sáng hơn, và sau đó nó chuyển dịch ra bên ngoài. Tuy nhiên, do nhiều chỗ nhiễm bẩn mâu tối của trưòng hào quang, anh ta phải tiến hành tẩy rửa mạnh mẽ loại bỏ chất nhầy etheric của mình trước khi có thể nâng mức năng lượng lên đủ cao để gạn lọc và kích thích cảm giác.

Trọng lượng biểu kiến trong hào quang

Một người đàn ông cũng ham mê các loại ma túy như LSD và Marajuana, với hậu quả là hào quang có màu lục xỉn. Vật thải của những cái đó hiện ra 1 trên bên phải của thân thể. Nó hiện ra với một sức nặng được biểu lộ bởi vì anh ta giữ cho đầu chếch theo một góc đường như để cân bằng cho hình dáng. Hình dáng này luôn giữ ở tư thế tương lự, tuần nọ sau tuần kia tôi chỉ cho, anh cũng thấy được. điều đó bằng cách dùng gương soi).

Nhằm loại bỏ hình thái này, ngoài những điều đã được phổ anh còn phải thôi dùng ma túy và làm sạch trường hào quang. Thêm vào thao tác tiến hành trên thân thể anh, tôi còn khuyên anh ăn kiêng. Về sau, anh đã có thể nâng cao sức mạnh trường năng lượng của mình và có thể chọc thủng vật thải tích tụ đó để xua tan nó, trường hợp thú vị về biểu lộ trọng lượng biểu kiến kết hợp với chất nhầy bám chắc.

Đây là một phụ nữ trước đây vẫn thuộc !oại rất ngoan, thế mà cuối cùng trở nên bất trị. Chị không còn tử tế hay nổi khùng trong các buổi chữa, đá đổ ghế trong phòng, thậm chí xéo lên ghế vải và xé ra từng mảnh. Cứ xong buổi chữa ra là chị thấy mình được giải phóng. Nhưng tuần sau thu mình sâu lắng và vào phòng làm việc của tôi với cơn nhức đầu kinh khủng. Chị thận trọng, hai tay ôm đầụ. Lúc đó tôi quan sát thấy một cục to chất nhầy nơi trên chỏm đầu của chị.

Rõ ràng chất nhầy này đã được giải phóng ra trong buổi chữa vừa qua và tích tụ ở đó. (Hiện tượng giải phóng chất độc do thao tác năng lượng sinh học đã được nhiều người biết đến. Dòng chảy năng lượng mạnh mẽ giải phóng các chất độc bị giữ lại trong thân thể. Nhiều người phát ốm sau thao tác sâu. Bệnh này được gọi là Cúm Flukey. Chị không còn bất trị như trước, nhưng lại có biểu hiện chứng thích hành hạ thân xác mình.

Tôi gợi ý bắt đâù một đợt chưa bằng động tác thể dục. Tôi yêu cầu chị cúi người về phía trước trong một kiểu chuyển động gập nửa thân trên. Khi chị làm như thế quả cầu chất nhầy bật mạnh về phía trước, vượt xa ra phía trước người chị khoảng 21/ fut. Chị bắt đầu đổ người về phía trước y như thể do một trọng lượng lớn. Chị thẳng người lên và cục nhầy tót trở lại phía đầu chị như bị kéo bầng dây thun.

Chị hầu như gập hẳn người xuống. Chi rất sợ phải tiếp tục động tác ấy, vì vậy chúng tôi phải làm nhiều thao tác trên người chị nhằm tập trung vào việc cảm nhận của chị đối với hai chi dưới, đứng vững trên hai chân và cảm thấy mình liên kết với đất vẫn truyền sức mạnh cho chị. Quá trình này gọi là tiếp đất. Vào cuối đợt chữa, cục nhầy đã được phân bố thành một lớp mỏng bên trên thân thể. Chị hết nhức đầu. Phải mất vài tuần lễ thao tác để giải thoát cho chị khỏi toàn bộ lớp nhầy.

Bài tập trải nghiệm trọng lượng biểu kiến của trường năng lượng

Một bài tập thường được tiến hành tại các lớp Aikido sẽ giúp bạn trải nghiệm về tác động của trọng lượng trong hào quang. Hãy cho hai người đứng ở hai bên bạn. Cả hai cố tóm lấy bạn bằng cách nắm cánh tay bạn ở phần trên và phần dưới. Khi họ tóm bạn bằng tất cả các động tác ấy, hãy bảo đảm rằng họ tiến hành việc đó theo lối nhấc bổng người bạn lên, thay vì trước hết hẳn đẩy bạn sang một bên đã, là tư thế có thể làm gãy chân bạn.

Đầu tiên, bạn hãy làm điều đó để thực hành xem bạn thấy nặng ra sao. Hãy cảm nhận là hai người tóm được bạn dễ,khó như thế nào. Rồi bạn dành một ít thời gian hướng trường năng lượng của mình lên phía trên. Hãy nghĩ đi lên; hãy tập trung vào trần nhà. Khi bạn đã tập trung tốt vào một vị trí mà bạn giữ vững được ở đó, hãy yêu cầu hai người thử tóm lấy bạn xem. Có dễ dàng hơn không?

Bây giờ, bạn lại dành thời gian tập trung cho việc tăng cưòng liên kết với đất. Hãy để cho rễ mọc từ đâù ngón tay, từ bàn chân đi xuống đất và ăn sâu vào lòng đất. Hãy tập trung vào mối liến kết năng lượng chặt chẻ và mạnh mẽ với đất mà bạn đã có. Khi bạn tập trung thật tốt rồi, hãy yêu cầu hai người tóm bạn lần nữa xem. Bạn nặng hơn và khó chăng? Có thể lắm.

Các hình thái tư tưởng phân ly trong hào quang.

Trong thời gian mấy năm tôi thực hành Năng lượng sinh học, tôi quan sát thấy một hiện tượng mà tôi quy cho là các không gian vận động của thực tại. Tôi cho rằng những Không Gian nầy tương tợ như những không gian đã mô tả trong nghiên cứu về địa hình mà ở đó có sẳn một bộ hay một lĩnh vực chứa đựng một tập hợp những đặc tính về sau sẽ xác định các tính toán học khả dĩ bên trong lĩnh vực đó. Theo thuật ngữ tâm lý động lực học. Tại đấy hiện hữu những không gian của thực tại hoặc các các hệ thống niềm tin. Chứa đựng các hình thái tư tưởng kết hợp với những quan niệm và những nhận thức sai về thực tại.

Mỗi hình thái tư tưởng chứa đựng những định nghĩa riêng của nó với thực tạị chẳng hạn như cho rằng ai cũng độc ác; yêu thương là mềm yếu; sống trong quyền hành thì an toàn và có sức mạnh. Theo nhận xét của lôị khi mới chuyển dịch qua trải nghiệm hằng ngày, cũng chuyển dịch qua những không gian khác nhau hoặc những mức thực tại được xác định bởi những nhóm hình thái tơ tưởng đó. Thế giới được trải nghiệm kháu nhau trong mỗi nhóm hay mỗii không gian của thực tại.

Những hình thái tư tưởng này là những thực tại đầy sinh lực, quan sát được bức xạ ra những màu sắc có cường độ khác nhaụ Cường độ của chúng và độ rõ của hình thái là kết quả năng lượng hay tầm quan trọng mà con mang lại cho chúng. Các hình thái tư tưởng được chính các chủ nhân của chúng tạo ra, xây dựng và gìn giữ qua những tư tưởng quen thuộc. Tư tưởng càng xác định và càng trong sáng bao nhiêu thì hình thái càng được định bấy nhiêu. Bản chất và sức mạnh của xúc cảm kết hợp với tư tưởng mang lại màu sắc, cường độ và công suất cho hình thái.

Có thể những tư tưởng này có ý thức hay không có ý thức. Chẳng hạn, một hình thái tư tưởng có thể được xây dựng từ một ý nghĩ lo sợ thường xuyên như "Anh ấy sắp bỏ rơi ta". Người tạo ra hình thái tư tưởng ấy sẽ hành động như thể điều đó sắp xảy ra: Trường năng lượng của hình thái tư tưởng sẽ ảnh hưởng đến trường năng lượng của người ấy theo một chiều hướng tiêu cực nào đó. Có thể nó sẽ tác động xô đẩy người ấy. Nó càng có thêm sức mạnh bằng cách cho năng lượng vào bên trong nó một cách hữu thức hay vô thức, thì nó sẽ càng có tác động hơn trong việc tạo ra kết quả đáng sợ.

Thường những hình thái tư tưởng này tự nhiên thành một thành phần của cá tính đến nỗi cá thể thậm chí không nhận biết được chúng. Chúng bắt đầu hình thành ở tuổi thơ và dựa trên lập luận của đứa trẻ, rồi hợp nhât với cá tính. Chúng tựa như hành lý phụ của con người mang nội tâm của chính mình mà không hay biết tác động lớn lao của nó. Những hình thái tư tưởng kết khối, hay những hệ thống niềm tin thu hút nhiều tác động trong thực tại bên ngoài của con người.

Do chỗ những hình thái nầy không đuợc vùi sâu vào tiềm thức mà lại nằm ở rìa của ý thức, ta có thể khôi phục được chúng bằng các phương pháp như: thao tác năng lượng nòng cốt trên ngườị các trò chơi kết hợp từ và thiền định. Khi các hình thái được mang tới trung tâm ý thức bằng cách hiểu lộ các cảm giác kết hợp với chúng và bằng cách giải thoát các cảm giác đó thì bấy giờ chúng có khả năng thay đổi. Quá trình này cho phép ta nhìn được rõ hơn những mặc nhận về thực tại đã cấu thành các hình thái. Khi những mặc nhận không có hiệu lực (nhớ rằng chúng dựa vào lô gích tuổi thơ) được khám phá, nhìn thấy và giải tỏa thì chúng có thế được thấy bắng một cách nhìn thực tại chín chắn hơn, rõ ràng hơn. sẽ lần lượt dẫn dến sáng tạo những trải nghiệm tích cực về cuộc đời .

Bên trong một vài nhân cách, các hình thái này liên kết với nhau, và ý thức con người hiếm khi nhìn hoàn toàn vào một không gian mà lại không nhận thấy số đông những ngườI khác, vì lẽ đó, con người giữ được trình độ cao về hợp nhất trong cuộc sống hằng ngày. Mặt khác, một kiểu nhân cách khác có thể chảy từ không gian nầy của thực tại sang một không gian khác một cách nhanh nhảu, nhưng lại không thể mối liên kết giữa chúng.

Anh ta không thể có khả năng hợp nhất hoặc thấu hiểu dòng chảy động lực học nầy, vì ta sống trong rối loạn, nhất là khi một dòng chảy đặc biệt có chu kỳ mãn tính diễn ra bên trong. Sau đó anh ta có thể bị cuốn vào trong một dòng chảy liên tục tự động từ một ý nghĩ sang một ý nghĩ tiếp sau, trong khi vẫn mắc kẹt một cách tuyệt vọng và không có khả năng giải phóng bản thân ra khỏi chu kỳ mãn tính này cho đến khi toàn bộ sự vật bộc lộ ra.

Bấy giờ anh ta có thể chuyển dich sang một tình trạng khác của thực tại chỉ vì tác động theo chu kỳ của hình thái tư tưởng đã làm cạn toàn bộ năng lượng có thể có. Anh ta sẽ không chuyển dich ra khỏi mô hình có chu kỳ như thế nào và vì vậy chắc sẽ không thể giải thoát bản thân ra khỏi chu kỳ vào thời gian tiếp theo khi nó bị tác động. Những trạng thái nầy của thực tại có thể sảng khoái, như ở trạng thái người đang nghĩ là mình sẽ hoàn tất các đại sự và trở thành trứ danh hoặc giàu có, nhưng anh ta lại không thấy khối lượng khủng khiếp công việc thực tẽ phía trước, trước khi có thể đạt tới một mục tiêu như thế. Hoặc có thể có một tác động ngược lại, trong đó con người thấy bản thân mình ở vào một trạng thái xấu hơn nhiều so với thực tế.

Trong cả hai trạng thái, anh ta không nắm được sự bản thân hay về hoàn cảnh sống của mình. Trong cả hai trạng thái, chắc là anh ta chỉ thấy một phần của bản thân và cường điệu nó lên. Có thể anh ta có tiềm lực sáng tạo mọi đại sự mà mình mường tượng ra cho bản thân trong trạng thái thứ nhất, nhưng cần phải làm việc và cần phải có thời gian.. Mặt khác, trong trạng thái thứ hai, tiêu cực, anh ta thấy những phần của bản thân cần phải thay đổị nhưng lại quên rằng có thể thay đổi được.

William Butler, trong cuốn sách của mình nhan đề Cách đọc hào quang, đã nhận xét rằng các hình thái tư tưởng đặc biệt vẫn lưu lại trong trường năng lượng cho đến khi bị tác động bởi luồng năng lượng bên trong hoặc năng lượng bên ngoài đi vào. Sau đó những hình thái nầy chuyển dịch qua hào quang dưới dạng chuỗi nối tiếp mãn tính nhưng không được giải tỏa. Chúng chỉ đơn giản tự bộc lộ ra và trở nên im lìm cho đến khi lấy được đủ năng lượng để chuyển dịch tiếp. Các hình thái tư tưởng lấy được năng lượng qua những ý nghĩ nửa tỉnh quen thuộc và những cảm giác có liên quan đến cá thể.

Chúng cũng lấy được năng lượng bằng cách hấp dẫn những tư tưởng và cảm giác tương tự của người khác. Nói cách khác, nếu bạn liên tục tự mình phán xét điều gì thì những hành động và cảm giác của bạn sẽ đi theo những phán xét đó, và chẳng mấy chốc, thông qua chúng, những người quen biết sẽ nhận được bức tranh này và đồng ý với bạn, bằng cách gởi cho bạn năng lượng dưới dạng hình thái tư tưởng và ý kiến đồng ý của họ.

Chẳng hạn, nếu bạn cứ tự bảo là bạn câm, đáng khinh, xấu xí hoặc béo ì, thì chẳng mấy chốc những người khác sẽ đồng ý với bạn như thế. Năng lượng này được bổ sung vào kho dữ trữ riêng cho tới khi hình thái tư tưởng của bạn có đử năng lượng (đạt khối lượng tới hạn) để tác động. Sau đó bạn sẽ rơi vào một tình trạng trong đó bạn đinh ninh lâ bạn câm, đáng khinh, xấu xí hoặc béo ì, cho tới khi năng lượng trong hình thái tư tưởng lúc ấy được xua tan.

Hoặc dĩ nhiên bạn có thể thu hút một sự kiện bên ngoài sẽ tác động lên nó bằng bung nổ năng lượng. Trong cả hai trường hợp, quá trình này giống nhau. Một tác nhân như vậy không nhất thiết phải tiêu cực, do chỗ nếu cá thể thoát ra khối chu kỳ mãn tính và thay đổi về căn bản hình thái chu kỳ đủ để sử dụng nó được tốt vào thời gian tiếp theo khi nó bị tác động.

Nếu thầy thuốc có khả năng cảm nhận những thực tại này và mô tả được chúng hoặc giúp bệnh nhận mô tả chúng thì bấy giờ có thể thầy thuốc có khả năng giúp bệnh nhân tự giảI phóng bản thân khi anh ta chuyển dịch từ thực tại này sang thực tại tiếp theo. Mô tả của thầy thuốc về từng trạng thái của thực tại, như bệnh nhân trải nghiệm, nó sẽ cung cấp cho anh ta một cái nhìn tổng quát về toàn bộ quá trình.

Cái nhìn tổng quát đó giúp hệnh nhân tạo ra cho bản thân một người quan sát nội tâm khách quan cũng có thể xác định được từng không gian trong khi anh ta ra vào không gian đó. Nhờ công việc này, bệnh nhân và thầy thuốc sau đó sẽ có khả năng xác định rõ ràng hơh chu kỳ mãn tính của bệnh nhân và cùng nhau tìm ra biện pháp ra khỏi chu kỳ nàỵ Cả hai bấy giờ có thể tìm ra được phương pháp bẻ gãy nó vào thời gian tiếp theo, khi nó khởi đầu.

Chẳng hạn, khi một bệnh nhân tâm thần phân lập cá biệt sa lầy vào một hình thái như thế, tôi chỉ đơn giản đi tới bảng và bắt đầu vẽ định hình các hình thái đó vào lúc anh ta biêủ lộ chúng. Khi anh ta nói to lập lại các ý nghĩ, tôi vẽ một mũi tên từ ý nghĩ trước sang ý nghĩ đang biểu lộ. Chẳng mấy chốc toàn bộ các ý nghĩ có chu kỳ được miêu tả trên bảng. Diện ngoài của những hình thái này thường hết sức hạn chế, nghĩa là bệnh nhân trải nghiệm một thực tại rất hẹp, trong đó những định nghĩa và hoặc những điều phân biệt bị coi như âm tính và đôi khi phẳng, chẳng hạn tất cả những người khác hiện ra xa vời hay thậm chí nguy hiểm.

Hoặc bệnh nhân có thể hoàn toàn tin tưởng rằng anh ta là nạn nhân trong đời. Thời điểm giải thoát sẽ tới, vào lúc bệnh nhân có khả năng giữ lại một trong số các ý nghĩ, cái có nội dung cảm xúc mạnh mẽ đặc biệt, đủ dộ dài để biểu hiện xúc cảm nàỵ Thông thường nếu bệnh nhân có khả năng chịu đựng cơn giận hay nỗi đau kết hợp với ý nghĩ, thì anh ta có thể vùng ra và liên kết với các mức sâu hơn bên trong hình thái tư tưởng.

Thông thường biểu lộ và phóng thích cảm nghĩ là chìa khóa để thoát khỏi mô hình tư tưởng có chu kỳ. Trong phần lớn thời gian các hình thái này trở thành phân ly, trước nhất là để cho con người không trải nghiệm các cảm giác chứa đựng bên trong chúng. Cá thể mất nhiều nổ lực trong đời sống hằng ngày để cố gắng tránh né việc để cho hình thái tư tưởng vận động, vì điều đó có thể gợi lên cảm giác mà không ai muốn có.

Cho dù anh ta tránh né các tình huống thường gợi lên những cảm giác như vậy, điều đó không hoàn toàn mang lại hiệu quả, vi anh ta liên tục nạp lại các hình thái tư tưởng. Khi một cá thể tiếp tục quá trình, lúc nào hình thái này cũng liên kết hơn lên với phần còn lại của nhân cách; các diện mạo tiêu cực biến đổi thành các chức năng tích cực và hợp nhất vào trong hào quang bình thường của người đó dưới dạng những màu sắc chói sáng không có hình dạng rõ rệt.

Làm sạch hào quang trong buổi chữa

Liệu pháp năng lượng nòng cốt nhầm mục đích giúp đỡ mọi người giải tỏa các tắc nghẽn trong trường hào quang bằng cách tập trung tư tưởng và ráng sức. Bằng cách ngả lưng lên một ghế đẩu. Có đệm để cho các bắp thịt ở nửa thân trên duỗi ra và bắt đầu thư giãn, dẫn đến giải phóng năng và bỏ lỏng chỗ tắc nghẽn. Bệnh nhân bị tắc nghẽn năng lượng rõ rệt ở các bắp thịt ngay trước cột sống gần mép cơ hoành. Trong khi anh thao tác trên ghế năng lượng sinh học, tắc nghẽn này bỗng được giải tỏa cùng với bùng nổ năng lượng.

Đám mây năng lượng nhanh chóng di chuyển dọc cột sống. Lúc nó lên tới đầu bệnh nhân và tràn vào ý thức anh, tôi quan sát thấy con đường anh đi vào một không gian khác của thực tại. Anh bắt đầu kêu khóc và biểu lộ nỗi đau hồi còn ấu thơ. Trong khi anh biểu lộ cảm giác thì đám mây năng lượng cứ được giải phóng thêm và cuối cũng chuyển dịch ra khỏi trường hào quang của anh.

Điểm lại Chương 10

1. Tắc nghẽn năng lượng là gì?

2. Tắc nghẽn năng lượng được nên trong trường năng lượng con người như thế nào ?

3. Bạn có thể nói thế nào khi một tắc nghẽn trong trường năng lượng con người được giải tỏa ?

4. Bạn có thể nói về cung cách giải thoát cảm nghĩ của ai đó như là trái ngược với việc cầm giữ chúng?

5. Cái gì xảy ra trước - hiện tượng hào quang hay hiện tượng thể chất?

6. Các xúc cảm sau đây hiện ra màu gì (hoặc những màu gì) trên hào quang: sợ hãi, giận dữ, yêu thương, vui mừng, bối rối, ghen tỵ, căm ghét?

7. Màu gì tốt nhất trên hào quang? Màu đỏ tươi rung động gần khung chậu hay màu lục phong phú hấp dẫn gần vùng ngực-đám rối thái dương?

8. Tác động của việc hít marijuana lên hào quang? Ngắn hạn? Lâu ngày ?

9. Thế nào là hình thái tư tưởng phân ly?

Để làm động não

10. Hãy tiến hành các bài tập (quan sát hào quang người khác) và mô tả những gì bạn nhìn thấỵ

11. Hãy vẽ ra từ đầu đến cuối chu kỳ của một trong các hình thái tư tưởng mà bạn bị mắc bẫy vào. Cái gì khởi xướng ra nó? Nguồn gốc của nó? Bạn có thể thoát ra được bằng cách nào? Nó che giấu những cảm nghĩ sâu sắc nào và bảo vệ bạn chống lại cảm nghĩ?

Sửa bởi hiendde: 22/12/2012 - 15:24







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |