ĐẠI HUỆ THIỀN SƯ
GIẢI ĐÁP VẤN ĐỀ
THIỀN MẶC CHIẾU
DỊCH GIẢ : HẠNH MAI
Trích từ
TỤC TRUYỀN ĐĂNG LỤC Trong ĐẠI TẠNG KINH
Khi Đại Huệ Thiền Sư đang xiển dương Thiền Tông thì cùng thời ấy có một ông tự xưng Tôn Sư, thuyết pháp lấy Mặc Chiếu im lặng để dạy người, khiến người như tro lạnh, như cây khô, nói rằng pháp môn đó làm cho người thân tâm được ngưng nghỉ. Sư cho kiến giải như thế là lọt vào “hang quỷ” dưới núi đen, mà chẳng biết nếu con khỉ (tâm phan duyên) chẳng chết thì làm sao ngưng nghỉ được, nếu ý thức phân biệt chẳng chết thì làm sao ngưng nghỉ được! Nên Sư thường bài xích rằng :”Tà sư Mặc Chiều Thiền, đoạn dứt Huệ Mạng Phật, dù ngàn Phật ra đời chẳng cho sám hối.”
Một hôm, có một vị tên Trịnh Thượng Minh cầm một nén hương, tỏ ý phẫn nộ nói với Sư:”Minh có một nén hương chưa đốt, muốn thương lượng với Hòa Thượng một việc cũng như mặc nhiên im lặng là chỗ được ngưng nghỉ hạng nhất trong pháp môn, mà Hòa Thượng lại hết sức phỉ báng; Minh nghi Hòa Thượng chẳng đến được điền địa này, cho nên không thể tin nổi, như Phật Thích Ca nhốt mình vào trong phòng im lặng ba tuần lể, há chẳng phải Phật mặc nhiên sao? Ba mươi hai vị Bồ Tát nói về pháp môn Bất Nhị, sau cùng Duy Ma Cật im lặng, Văn Thù tán thán, há chẳng phải Bồ Tát mặc nhiên sao? Tu Bồ Đề tĩnh tọa trong hang há chẳng phải Thanh Văn mặc nhiên sao? Đế Thích gặp thấy im lặng mà rải hoa cúng dường, há chẳng phài là phàm phu mặc nhiên sao? Đại Ma im lặng ngồi chín năm trong chùa Thiếu Lâm, há chẳng phải Tổ Sư mặc nhiên sao? Lỗ Tổ thấy Tăng liền quay mặt vào tường, há chẳng phải Tôn Sư mặc nhiên sao? Nguyên do gì mà Hòa Thượng lại hết sức bài xích cho Mặc Chiếu là tà phi (sai lầm)?
Sư hỏi: “Ông có đọc qua Trang Từ không?”
Đáp: “Có.”
Sư hỏi: “Trang tử nói: Ngôn ngữ mà đầy đủ thì suốt ngày mà nói thấu Đạo, ngôn ngữ chẳng đủ thì suốt ngày nói mà thấu Vật. Đạo và vật đến chỗ cùng tột thì ngôn ngữ hay im lặng đều chẳng thể đạt đến được, chẳng phải nghĩa của ngôn ngữ hay im lặng có giới hạn, tôi cũng chưa từng xem chú giải của Quách Tượngvà các nhà chú giải khác, chỉ căn cứ theo ý tôi nói trắng ra cho ông biết về cái MẶC NHIÊN này. Há chẳng thấy Khổng Tử một hôm trân trọng nói rằng:”Tăng Tử ơi, Đạo ta chỉ có một mà thấu suốt tất cả.” Tăng Tử đáp:”Dạ”. Đồ chúng mới nghe được chữ DẠ bén chấp chữ dạ này cùng Gốc với Trời Đất, nhất thể với vạn vật, làm cho đức của vua vượt trên Đế Nghiêu, Đế Thuấn; làm tướng quân thừa tướng, xây nước dựng nhà, cho đến đưa tay bước chân đều chẳng ra ngoài một chữ DẠ này, nhưng kì thật thì không dính dáng gì cả . Ông đâu có biết cái Đạo Lý này! Ấy là ngôn ngữ của Tăng Tử đầy đủ, ngôn ngữ của Khổng Tử đầy đủ. Đồ chúng chẳng lãnh hội được lại hỏi tại sao vậy. Tăng Tử thấy họ lãnh hội chẳng được, bén hướng vào nghĩa thứ nhì mà trả lời rằng:Đạo của Khổng Phu Tử chẳng thế chẳng nói, cho nên nói “ Đạo của Khổng Phu Tử chì là Trung và Thứ mà thôi (Trung là đối với cấp trên phải hết sức trung thành, Thứ là đối với cấp dưới phải khoan hồng, tha thứ).”
Nói tóm lại, đạo và vật đến chỗ cùng tột chẳng ở trên ngôn ngữ, chẳng ở chỗ im lặng,; ngôn ngữ cũng chẳng đạt đến, im lặng cũng chẳng đạt đến.
Lời của ông còn chưa khế hợp với ý của Trang Tử, huống là muốn khế hợp với ý của Tổ Đạt Ma và Phật Thích Ca ! Ông muốn lãnh hội cái nghĩa “chẳng phải ngôn ngữ im lặng có giới hạn” của Trang tử không? Ấy tức là Vân Môn Đại Sư cầm cây quạt lên nói:”Cây quạt nhảy lên cõi trời, đụng nhẵm lỗ mũi Đế Thích, đánh một gậy cho con lý ngủ trong biển thì mưa xuống tầm tã.” Ông nếu lãnh hội được lời nói của Vân Môn, tức là lãnh hội được lời nói của Trang Tử, lời nói của Trang Tử và lời nói của Khổng Tử vậy.”
Minh liền bít miệng, Sư nói:” ông tuy bít miệng nhưng tâm còn chưa phục, nhưng người xưa quyết định chẳng ngồi chỗ mặc nhiên là đã rõ ràng rồi. Ông vừa nói Phật Thích Ca tự nhốt mình trong phòng và Duy Ma Cật mặc nhiên vv… Ông hãy xem thuở xưa có vị tọa chủ gọi là Pháp Sư Tăng Triệu, lấy chỗ vô ngôn thuyết ấy nói ra cho người biết. Thích ca nhốt kín trong phòng, Duy Ma cật bít miệng, Tu Bồ Đề tĩnh tạo trong hang, Đế Thích tuyệt thính rãi hoa cùng dường ,ấy đều là lý và chân tánh dung hợp, nên miệng do đó mà im lặng, đâu phải chăng có biện tài, vì biện tài chẳng thể nói được, đây là lý và chân tánh thình lình đụng nhau, bất giác đạt đến chỗ chẳng thế nói được. Mặc dù im lặng mà tiếng nói như sấm sét, nên mới nói: đâu phải chẳng có biện tài, vì biện tài không thể nói được vậy. Ở đây, thông minh và biện tài của thế gian một chút cũng không dùng được, đến được chỗ này mới là chỗ buông thân xã mạng, cảnh giới này phải tự chứng tự ngộ mới được. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói:” Cung điện Như Lai chẳng phương sở, kẻ ngộ tự nhiên ở trong đó.” Đây là pháp môn Đại Giải Thoát của chư Thánh, vô lượng vô biên, vô đắc vô thất, vô mặc vô ngôn, vô khứ vô lai, trần trần như vậy, sát sát như vậy, niệm niệm như vậy, pháp pháp như vậy, chỉ vì chúng sanh căn tánh ngu độn, chẳng đạt đến cảnh giới của Thánh Hiền Tam Giáo, nên mới phân biệt cái này cái kia, mà chẳng giới này quảng đại như thế, lại hướng vào trong “núi đen hang quỷ” mặc nhiên tĩnh tọa, nên bị tiên thánh mắng rằng: Mặc chiếu là hố sâu của giải thoát, đó là nơi đáng sợ hãi. Nếu nhìn theo mắt đạo, tức là ngồi trong đạo sơn kiếm thụ, chảo dầu sôi lò lửa than.
Nhứng pháp sư giáo môn còn không bị mắc kẹt vào chỗ mặc nhiên, huống là hành giả tham Tổ Sư Thiền! Mà lại cho rằng hễ mở miệng là sai, kì thật không dính dáng gì cả.
Minh bất giác đánh lễ, Sư nói:” Ông tuy đánh lễ, nhưng còn có việc chưa xong” Đến buổi tối vào phòng, Sư nói:” Tuổi ông năm nay bao nhiêu?”
Đáp:”sáu mươi bốn.”
Sư lại hỏi:” Sáu mưới bốn năm trước, ông từ đâu đến?”
Minh lại bịt miệng, Sư cầm cây gậy đuổi ra. Hôm sau lại đến phòng nói:” Sáu mươi bốn năm trước chưa có Minh, tại sao Hòa Thượng hỏi Minh từ đâu đến?”
Sư nói:” Sáu mươi bốn năm trước chẳng lẽ đã ở nhà họ Trịnh? Nay trước mắt cái biết được nghe pháp thuyết sáng tỏ rõ ràng này lúc chưa sanh đáo để ở chổ nào?”
Minh đáp:” Không biết.”
Sư nói:” Ông đã biết tức là sanh đạt. Một đời chỉ được trăm năm, trăm năm sau ông muốn bay ra khỏi tam thiên đại thiên thế giới này, là phải đợi ông vào hòm rồi mới được, đến lúc ấy tứ đại ngũ uẩn nhất thời tan rã, có mắt không thấy vật, có tai không nghe thấy tiếng, cái tâm bằng khối thịt này chẳng thể phân biệt được, cái thân mà lửa đốt dao chém cũng chẳng biết đau, đến lúc ấy cái sáng tỏ rõ rằng này lại đi về đâu?”
Đáp:” Minh không biết.”
Sư nói:” Ông đã không biết là tử đại. Cho nên nói vô thường nhanh chóng, sanh tử sự đại là lý này vậy. Ở chỗ nào dù có thông minh cũng chẳng dùng được. Tôi lại hỏi ông: Ông bình thường hay làm đủ thứ văn chương, đến lúc lâm chung lấy câu nào để đối phó với sanh tử? Phải biết rõ ràng chỗ sanh từ đâu đến, Chết đi về đâu mới được, nếu không tức là kẻ ngu.”
Đến lúc ấy Minh mới khâm phục, mới biết chỗ mặc nhiên và vô ngôn thuyết ấy, tất cả đều sai lầm, bèn ra sức tham cứu, chẳng bao lâu mới được đốn ngộ.
(sưu tầm)
Sửa bởi PhapVan: 02/08/2013 - 23:30