SẤM TRẠNG TRÌNH - THÊM ĐÔI ĐIỀU BÀN LUẬN
hiendde
25/06/2012
Bản chất của tiên tri - hay sấm?
Sự thật logic: Chúng ta đang sống trong thời đại văn minh tiến hóa, Khoa Học Kỹ Thuật đã chứng minh lý giải được rất nhiều vấn đề thần bí của tự nhiên. Tuy vậy, sự lý giải đó mới chỉ là khiêm tốn so với trùng điệp các vấn đề còn đang tồn tại. Do không đánh giá đúng như vậy, nên khi nhắc đến những khái niệm “Sấm” hay “Tiên tri” lập tức chúng ta chụp mũ là duy tâm.
Thực ra nếu bóc đi vỏ ngôn ngữ của nó, thì tất cả chỉ mang nội hàm của một khái niệm, đó là sự dự báo vận động xã hội, tự nhiên bằng chủ quan của con người. Đương nhiên, sự dự báo đó được thực hiện từ những bộ óc vĩ đại, trên cơ sở những học thuật, tính toán rất cụ thể nhờ chức năng trí tuệ (IQ) và khả năng siêu cảm nhận (EQ) của con người, căn cứ vào sự vận động của xu thế xã hội, tự nhiên.
Về mặt này, tất cả các nhà triết học, chính trị gia đều có khả năng. Các Mác đã tiên đoán rất nhiều điều về sự biến đổi hình thái xã hội. Thậm chí ngay cả bây giờ, khi CNTB đang liên tục cải tổ để thích ứng, thì cái đích cuối cùng cũng là một xã hội công bằng dân chủ như Mác dự báo, chưa nói đến tiên đoán của Ông về CNCS. Đương nhiên, là sản phẩm chủ quan của con người nên luôn có những khiếm khuyết nhất định. Điều này lý giải vì sao mà có những câu sấm (thực sự của Tác giả) không linh nghiệm, nhưng sau này dân gian cố lái vào lý giải một sự kiện nào đấy.
Hầu hết những tác giả tiên tri đều là những nhà học thuật uyên thâm, phần lớn họ cũng tham gia vào hoạt động chính trị, hoặc các lĩnh vực khoa học nào đó. Bởi thế dự báo của họ gắn với công việc họ tham gia hết sức rõ ràng. Khổng Minh với “Mã tiền khóa”, Lưu Bá Ôn với “Dự ngôn”; Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Sấm trạng”... đều là những dự báo về thời vận chính trị xã hội. Ngược lại Anhxtanh, Niu tơn lại có những dự báo về tận thế, trên cơ sở tính toán khoa học thiên văn và chuyển dịch của trái đất...
Phân tích vậy để bình thường hóa vấn đề tiên tri, không nên vội vàng phê phán một chiều gay gắt về nó; bởi trước hết đó chỉ là những tính toán và dự cảm của con người, trước tự nhiên và xã hội mà thôi. Khả năng của con người đến bao nhiêu thì tầm tiên đoán tương ứng đến đó. Hằng ngày chúng ta nghe dự báo thời tiết (có khi cả tuần) và thời tiết diễn ra đúng như bản tin, thì không phải cơ quan Thủy văn phát đi lời của một “Ông trạng” duy tâm nào cả.
Tương tự khi bạn biết được thông tin giá xăng dầu thế giới tăng lên, bạn sẽ phán đoán vàng ở Việt Nam sẽ lên giá, và sáng mai sự thật đúng như vậy thì bạn cũng không phải là “Ông trạng” mới xuất thế. Khả năng đặc biệt của con người: Khoa học ngày nay thừa nhận chưa khám phá được hết những bí mật trong con người, Sự thật thì con người vẫn là một vũ trụ bí ẩn. Nếu căn cứ theo thuyết tiến hóa, thì con người hình thành từ động vật và là “Con vật” chúa tể.
Nhưng con giun chặt ra làm nhiều khúc vẫn sống, con cá biết có sóng thần nên di chuyển, con chó biết động đất mà chạy trước, con chim biết bay tránh núi lửa… trong khi “Chúa tể” lại ngồi chờ nghe dự báo nữa tin nữa ngờ và tự chuốc lấy thảm họa? Điều này chứng tỏ con người có tất cả những năng lực như muông thú, nhưng vì một lý do nào đó chức năng này bị ”Lặn” đi, nhưng với từng người cụ thể nó vẫn tồn tại.
Những năng lực của con người tiềm ẩn đến đâu? Khả năng của con người nếu phát huy hết là gì vẫn chưa được tìm được đáp số. Mặt khác câu chuyện về những thế giới khác có tồn tại hay không, vẫn chưa đủ cơ sở để khẳng định hoặc bác bỏ. Chưa nói đến câu chuyện Thiên đàng, địa ngục, mà gần đây các nhà khoa học đưa ra giả thuyết, có một thế giới khác đang tồn tại song hành với thế giới con người, theo hình thức cài răng lược, những “lỗ hổng thời gian” mà con người sa vào đó thì thời gian ngừng lại, không bị chết, nhưng mất hẳn liên lạc với thế giới con người.
Giả thiết rằng, các nhà tiên tri có khả năng “Giao tiếp” được với thế giới ấy, thì họ có thể nghe mách bảo được từ con người của thế giới siêu văn minh chăng?
Khi bạn học Triết học, bạn luôn được nghe chuyện Chị Ngô Thị Tuyển, anh hùng LLVTND trong một trận đánh đã vác được một hòm đạn pháo có trọng lượng gấp ba lần cơ thể của chị. Các báo khoa học đưa các thông tin về người mọc ra..dây điện, như mọc lông..
Nikki Pezaro trong 100 dự báo của mình về năm 2011, tại các dự đoán số 68 và 72 đều miêu tả động đất và sóng thần ở Nhật Bản, Van Ga nhà tiên tri mù nói về sự chìm đắm của tàu ngầm Nga và tòa Tháp đôi của Mỹ “Bị con chim sắt đốt cháy”...là sự thật hiển nhiên. Và câu chuyện tìm mộ của nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng dù đang trong quá trình nghiên cứu nhưng đã có nhiều chứng minh thuyết phục.
Theo đó, những nhà tiên tri có lẽ là những người còn lưu giữ được một thứ năng lực của con người mà những người bình thường như chúng ta bị mất. Và với những công cụ ấy trong tay, nhà tiên tri bình thường có thể dự báo về những sự kiện rời rạc, còn những nhà tiên tri thông thái có học thuật có thể xâu chuỗi tìm ra những quy luật phát triển của thế giới tự nhiên xã hội để viết ra thông điệp của mình.
Sự thật logic: Chúng ta đang sống trong thời đại văn minh tiến hóa, Khoa Học Kỹ Thuật đã chứng minh lý giải được rất nhiều vấn đề thần bí của tự nhiên. Tuy vậy, sự lý giải đó mới chỉ là khiêm tốn so với trùng điệp các vấn đề còn đang tồn tại. Do không đánh giá đúng như vậy, nên khi nhắc đến những khái niệm “Sấm” hay “Tiên tri” lập tức chúng ta chụp mũ là duy tâm.
Thực ra nếu bóc đi vỏ ngôn ngữ của nó, thì tất cả chỉ mang nội hàm của một khái niệm, đó là sự dự báo vận động xã hội, tự nhiên bằng chủ quan của con người. Đương nhiên, sự dự báo đó được thực hiện từ những bộ óc vĩ đại, trên cơ sở những học thuật, tính toán rất cụ thể nhờ chức năng trí tuệ (IQ) và khả năng siêu cảm nhận (EQ) của con người, căn cứ vào sự vận động của xu thế xã hội, tự nhiên.
Về mặt này, tất cả các nhà triết học, chính trị gia đều có khả năng. Các Mác đã tiên đoán rất nhiều điều về sự biến đổi hình thái xã hội. Thậm chí ngay cả bây giờ, khi CNTB đang liên tục cải tổ để thích ứng, thì cái đích cuối cùng cũng là một xã hội công bằng dân chủ như Mác dự báo, chưa nói đến tiên đoán của Ông về CNCS. Đương nhiên, là sản phẩm chủ quan của con người nên luôn có những khiếm khuyết nhất định. Điều này lý giải vì sao mà có những câu sấm (thực sự của Tác giả) không linh nghiệm, nhưng sau này dân gian cố lái vào lý giải một sự kiện nào đấy.
Hầu hết những tác giả tiên tri đều là những nhà học thuật uyên thâm, phần lớn họ cũng tham gia vào hoạt động chính trị, hoặc các lĩnh vực khoa học nào đó. Bởi thế dự báo của họ gắn với công việc họ tham gia hết sức rõ ràng. Khổng Minh với “Mã tiền khóa”, Lưu Bá Ôn với “Dự ngôn”; Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Sấm trạng”... đều là những dự báo về thời vận chính trị xã hội. Ngược lại Anhxtanh, Niu tơn lại có những dự báo về tận thế, trên cơ sở tính toán khoa học thiên văn và chuyển dịch của trái đất...
Phân tích vậy để bình thường hóa vấn đề tiên tri, không nên vội vàng phê phán một chiều gay gắt về nó; bởi trước hết đó chỉ là những tính toán và dự cảm của con người, trước tự nhiên và xã hội mà thôi. Khả năng của con người đến bao nhiêu thì tầm tiên đoán tương ứng đến đó. Hằng ngày chúng ta nghe dự báo thời tiết (có khi cả tuần) và thời tiết diễn ra đúng như bản tin, thì không phải cơ quan Thủy văn phát đi lời của một “Ông trạng” duy tâm nào cả.
Tương tự khi bạn biết được thông tin giá xăng dầu thế giới tăng lên, bạn sẽ phán đoán vàng ở Việt Nam sẽ lên giá, và sáng mai sự thật đúng như vậy thì bạn cũng không phải là “Ông trạng” mới xuất thế. Khả năng đặc biệt của con người: Khoa học ngày nay thừa nhận chưa khám phá được hết những bí mật trong con người, Sự thật thì con người vẫn là một vũ trụ bí ẩn. Nếu căn cứ theo thuyết tiến hóa, thì con người hình thành từ động vật và là “Con vật” chúa tể.
Nhưng con giun chặt ra làm nhiều khúc vẫn sống, con cá biết có sóng thần nên di chuyển, con chó biết động đất mà chạy trước, con chim biết bay tránh núi lửa… trong khi “Chúa tể” lại ngồi chờ nghe dự báo nữa tin nữa ngờ và tự chuốc lấy thảm họa? Điều này chứng tỏ con người có tất cả những năng lực như muông thú, nhưng vì một lý do nào đó chức năng này bị ”Lặn” đi, nhưng với từng người cụ thể nó vẫn tồn tại.
Những năng lực của con người tiềm ẩn đến đâu? Khả năng của con người nếu phát huy hết là gì vẫn chưa được tìm được đáp số. Mặt khác câu chuyện về những thế giới khác có tồn tại hay không, vẫn chưa đủ cơ sở để khẳng định hoặc bác bỏ. Chưa nói đến câu chuyện Thiên đàng, địa ngục, mà gần đây các nhà khoa học đưa ra giả thuyết, có một thế giới khác đang tồn tại song hành với thế giới con người, theo hình thức cài răng lược, những “lỗ hổng thời gian” mà con người sa vào đó thì thời gian ngừng lại, không bị chết, nhưng mất hẳn liên lạc với thế giới con người.
Giả thiết rằng, các nhà tiên tri có khả năng “Giao tiếp” được với thế giới ấy, thì họ có thể nghe mách bảo được từ con người của thế giới siêu văn minh chăng?
Khi bạn học Triết học, bạn luôn được nghe chuyện Chị Ngô Thị Tuyển, anh hùng LLVTND trong một trận đánh đã vác được một hòm đạn pháo có trọng lượng gấp ba lần cơ thể của chị. Các báo khoa học đưa các thông tin về người mọc ra..dây điện, như mọc lông..
Nikki Pezaro trong 100 dự báo của mình về năm 2011, tại các dự đoán số 68 và 72 đều miêu tả động đất và sóng thần ở Nhật Bản, Van Ga nhà tiên tri mù nói về sự chìm đắm của tàu ngầm Nga và tòa Tháp đôi của Mỹ “Bị con chim sắt đốt cháy”...là sự thật hiển nhiên. Và câu chuyện tìm mộ của nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng dù đang trong quá trình nghiên cứu nhưng đã có nhiều chứng minh thuyết phục.
Theo đó, những nhà tiên tri có lẽ là những người còn lưu giữ được một thứ năng lực của con người mà những người bình thường như chúng ta bị mất. Và với những công cụ ấy trong tay, nhà tiên tri bình thường có thể dự báo về những sự kiện rời rạc, còn những nhà tiên tri thông thái có học thuật có thể xâu chuỗi tìm ra những quy luật phát triển của thế giới tự nhiên xã hội để viết ra thông điệp của mình.
hiendde
25/06/2012
Sấm ký Trạng Trình hình thành từ nguồn nào?
Sấm ký được viết bởi chính tác giả. Tôi còn nhớ rất rõ, vào những năm giữa thập kỷ tám mươi của thế kỷ trước, khi được mời đi nghe một học giả Trung ương về nói chuyện Sấm Trạng trình, tôi đã rất hứng khởi. Nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng Trạng Trình không viết sấm ký. Ông cho rằng đó là dân gian tạo nên một hiện tượng Sấm Trạng Trình. Không may cho Ông 90% cử tọa gồm các trí thức, đều là con cháu cụ Trạng nghĩa là toàn người Vĩnh Bảo ngồi nghe, bởi vậy chỉ sau sáu mươi phút, hội trường chật cứng bốn năm trăm người lặng lẽ teo chỉ còn vài chục.
Có lẽ vì những lý do cực đoan nào đó mà diễn giả nói vậy chăng? Ngày nay trong một bầu không khí dân chủ tự do, chúng ta có thể bình tĩnh lại mà nhìn nhận khách quan về vấn đề này. Ở Việt Nam, câu chuyện về sấm ký Trạng Trình, không phải là câu chuyện bây giờ mới có. Trong tàng thư của thư viện quốc gia vẫn còn lưu giữ những văn bản về sấm trạng của Ông. Đương nhiên đó không phải là văn bản gốc từ thế kỷ XVI, nhưng cũng có thời gian vài trăm năm. Việc lưu tồn văn bản có ý thức ấy của các nhà khoa học Phong kiến, đã chứng tỏ giá trị đích thực của các pho sấm ký này.
Cũng không phải ngẫu nhiên, các sử gia Trung Quốc đánh giá “An Nam Lý học hữu Trình Tuyền”. Mặt khác căn cứ trên văn bản tế Nguyễn Bỉnh Khiêm của học trò Đinh Thời Trung, sự công nhận của Triều Mạc thì câu chuyện sấm ký chắc chắn là có thực, và nội dung của nó cũng chắc chắn phản ánh được những sự thật lịch sử.
Hơn nữa như phân tích ở phần trên, con người Nguyễn Bỉnh Khiêm với trí tuệ siêu việt đã được khẳng định.
Đó là một trí tuệ vĩ đại “Mắt tai sáng suốt”, “Lòng dạ thênh thang”, “Học tài chẳng kém, Âu Tô”, “Văn lực không nhường Lí Đỗ”, (Văn tế Tuyết Giang Phu Tử). Dù sao, không thể phủ nhận khả năng thần toán của Trạng. Rõ ràng nhất là bài văn tế của Tiến sĩ Đinh Thời Trung khóc thầy và xác định tài lý số của thầy:
Một kinh Thái Ất thuộc lòng
Đốt lửa soi gan Dương Tử
... Một mình lý học tinh thông
Hai nước anh hùng không đối thủ...
Đạo thống Thánh nhân tự tiên sinh mà truyền ra
Bờ cõi Thánh nhân duy tiên sinh là thấu đáo
...Đuốc ngọc chưa tàn ba ngọn
Văn viết đã xong...
Sấm ký được viết bởi chính tác giả. Tôi còn nhớ rất rõ, vào những năm giữa thập kỷ tám mươi của thế kỷ trước, khi được mời đi nghe một học giả Trung ương về nói chuyện Sấm Trạng trình, tôi đã rất hứng khởi. Nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng Trạng Trình không viết sấm ký. Ông cho rằng đó là dân gian tạo nên một hiện tượng Sấm Trạng Trình. Không may cho Ông 90% cử tọa gồm các trí thức, đều là con cháu cụ Trạng nghĩa là toàn người Vĩnh Bảo ngồi nghe, bởi vậy chỉ sau sáu mươi phút, hội trường chật cứng bốn năm trăm người lặng lẽ teo chỉ còn vài chục.
Có lẽ vì những lý do cực đoan nào đó mà diễn giả nói vậy chăng? Ngày nay trong một bầu không khí dân chủ tự do, chúng ta có thể bình tĩnh lại mà nhìn nhận khách quan về vấn đề này. Ở Việt Nam, câu chuyện về sấm ký Trạng Trình, không phải là câu chuyện bây giờ mới có. Trong tàng thư của thư viện quốc gia vẫn còn lưu giữ những văn bản về sấm trạng của Ông. Đương nhiên đó không phải là văn bản gốc từ thế kỷ XVI, nhưng cũng có thời gian vài trăm năm. Việc lưu tồn văn bản có ý thức ấy của các nhà khoa học Phong kiến, đã chứng tỏ giá trị đích thực của các pho sấm ký này.
Cũng không phải ngẫu nhiên, các sử gia Trung Quốc đánh giá “An Nam Lý học hữu Trình Tuyền”. Mặt khác căn cứ trên văn bản tế Nguyễn Bỉnh Khiêm của học trò Đinh Thời Trung, sự công nhận của Triều Mạc thì câu chuyện sấm ký chắc chắn là có thực, và nội dung của nó cũng chắc chắn phản ánh được những sự thật lịch sử.
Hơn nữa như phân tích ở phần trên, con người Nguyễn Bỉnh Khiêm với trí tuệ siêu việt đã được khẳng định.
Đó là một trí tuệ vĩ đại “Mắt tai sáng suốt”, “Lòng dạ thênh thang”, “Học tài chẳng kém, Âu Tô”, “Văn lực không nhường Lí Đỗ”, (Văn tế Tuyết Giang Phu Tử). Dù sao, không thể phủ nhận khả năng thần toán của Trạng. Rõ ràng nhất là bài văn tế của Tiến sĩ Đinh Thời Trung khóc thầy và xác định tài lý số của thầy:
Một kinh Thái Ất thuộc lòng
Đốt lửa soi gan Dương Tử
... Một mình lý học tinh thông
Hai nước anh hùng không đối thủ...
Đạo thống Thánh nhân tự tiên sinh mà truyền ra
Bờ cõi Thánh nhân duy tiên sinh là thấu đáo
...Đuốc ngọc chưa tàn ba ngọn
Văn viết đã xong...
hiendde
25/06/2012
Khả năng kỳ bí của Trạng Trình ở mức độ nào về những phạm trù nào chúng ta không được biết. Mặc dầu vậy, phần lớn những thông điệp mà Ông đưa ra là không cần bàn cãi về tính sở hữu. Gần đây một số nhà nghiên cứu đã đưa ra một câu chuyện, coi như một ví dụ về sự hình thành sấm từ Trạng Trình và khẳng định đó là “Bài Sấm đích thực là Sấm Trạng Trình”?
Một ngày thu năm Nhâm Dần (1542) đang tựa án đọc sách, chợt thấy mây ngũ sắc hiện ra, Trạng liền gieo quẻ bói xem thời vận nước nhà, lúc ấy đời vua thịnh trị nhất triều Mạc là Mạc Đăng Doanh mới mất, Trạng bốc được quẻ Càn, động hào Sơ cửu, liền đoán:
Liên Mậu, Kỷ, Canh, Tân
Can qua sinh sác biến.
Nghĩa là loạn liên tiếp vào năm Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi (1548-49-50-51 ), rồi cụ lại giảng tiếp cho học trò là Trương Thời Cử rằng :
Bốc đắc Càn thuần quái
Sơ cửu thoái tiềm long
Ngã bát thế chi hậu
Binh qua khởi trùng trùng
Ngưu tinh tụ Bảo giang
Đại nhân cư chính trung.
Dịch nghĩa:
Bói được quẻ thuần Càn
Hào sơ cửu rồng lui ẩn
Tám đời sau ta
Binh biến khởi trùng trùng
Sao Ngưu tụ Sông Quí
Đại nhân ở chính giữa.
(Có bản chép câu năm là: Tinh tụ Bảo giang thượng nghĩa là Sao tụ trên Sông Quí). Cũng theo tác giả phân tích, bài này chính là chìa khóa để mở mật ngữ và ẩn nghĩa trong toàn bộ Sấm Trạng Trình, một bài Sấm không ai phủ nhận được giá trị chân xác may mắn được truyền lại, trong khi tập Sấm đã bị tam sao thất bản, thêu dệt thêm bớt qua năm trăm năm.
Bói được quẻ Càn (Trời), thấy rồng lui ẩn, hồng vận chân chúa chưa xuất hiện, tám đời sau, khoảng 1735 khi Tiến sĩ Vũ Khâm Lân tới thăm hậu duệ đời thứ bảy và thứ tám của Trạng Trình tại chính nền nhà xưa, đúng là thời loạn liên tiếp giữa các phe Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn...Cho tới triều Nguyễn Gia Long cũng chỉ được hơn sáu mươi năm lại bị Thực dân xâm lăng, mà trong sáu mươi năm đó, loạn lạc vẫn liên miên tại miền Bắc bộ (riêng hai đời Minh Mệnh, Thiệu Trị 1820-1847 đã có tới hai trăm năm mươi vụ loạn).
Cho tới thập niên 1980 mới tạm gọi là yên ổn. Phải đợi tới khi sao Ngưu, chủ tinh của bậc đại nhân xuất hiện trên Bảo giang, thì đất nước mới lại phục hưng, đại hồng vận non sông mới rực rỡ. Bài Sấm trên cho thấy Trạng Trình đã dùng tới Dịch lý và phải cộng thêm với Chiêm tinh (Thái Ất, Thái Huyền?) mới tính ra được thời "sao tụ" trên Bảo giang và "tám đời sau binh qua", mà một quẻ Dịch thường không "động" cho một quãng thời gian dài cả năm trăm năm như vậy.
Một ngày thu năm Nhâm Dần (1542) đang tựa án đọc sách, chợt thấy mây ngũ sắc hiện ra, Trạng liền gieo quẻ bói xem thời vận nước nhà, lúc ấy đời vua thịnh trị nhất triều Mạc là Mạc Đăng Doanh mới mất, Trạng bốc được quẻ Càn, động hào Sơ cửu, liền đoán:
Liên Mậu, Kỷ, Canh, Tân
Can qua sinh sác biến.
Nghĩa là loạn liên tiếp vào năm Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi (1548-49-50-51 ), rồi cụ lại giảng tiếp cho học trò là Trương Thời Cử rằng :
Bốc đắc Càn thuần quái
Sơ cửu thoái tiềm long
Ngã bát thế chi hậu
Binh qua khởi trùng trùng
Ngưu tinh tụ Bảo giang
Đại nhân cư chính trung.
Dịch nghĩa:
Bói được quẻ thuần Càn
Hào sơ cửu rồng lui ẩn
Tám đời sau ta
Binh biến khởi trùng trùng
Sao Ngưu tụ Sông Quí
Đại nhân ở chính giữa.
(Có bản chép câu năm là: Tinh tụ Bảo giang thượng nghĩa là Sao tụ trên Sông Quí). Cũng theo tác giả phân tích, bài này chính là chìa khóa để mở mật ngữ và ẩn nghĩa trong toàn bộ Sấm Trạng Trình, một bài Sấm không ai phủ nhận được giá trị chân xác may mắn được truyền lại, trong khi tập Sấm đã bị tam sao thất bản, thêu dệt thêm bớt qua năm trăm năm.
Bói được quẻ Càn (Trời), thấy rồng lui ẩn, hồng vận chân chúa chưa xuất hiện, tám đời sau, khoảng 1735 khi Tiến sĩ Vũ Khâm Lân tới thăm hậu duệ đời thứ bảy và thứ tám của Trạng Trình tại chính nền nhà xưa, đúng là thời loạn liên tiếp giữa các phe Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn...Cho tới triều Nguyễn Gia Long cũng chỉ được hơn sáu mươi năm lại bị Thực dân xâm lăng, mà trong sáu mươi năm đó, loạn lạc vẫn liên miên tại miền Bắc bộ (riêng hai đời Minh Mệnh, Thiệu Trị 1820-1847 đã có tới hai trăm năm mươi vụ loạn).
Cho tới thập niên 1980 mới tạm gọi là yên ổn. Phải đợi tới khi sao Ngưu, chủ tinh của bậc đại nhân xuất hiện trên Bảo giang, thì đất nước mới lại phục hưng, đại hồng vận non sông mới rực rỡ. Bài Sấm trên cho thấy Trạng Trình đã dùng tới Dịch lý và phải cộng thêm với Chiêm tinh (Thái Ất, Thái Huyền?) mới tính ra được thời "sao tụ" trên Bảo giang và "tám đời sau binh qua", mà một quẻ Dịch thường không "động" cho một quãng thời gian dài cả năm trăm năm như vậy.
hiendde
25/06/2012
Về mặt văn bản, bộ Sấm ký trong tàng thư quốc gia (Có một số cuốn hiện đang trong phòng trưng bày tại Đền Trình Quốc công), mặc dù không phải là những bản gốc; Nhưng các nhà phê bình nghiên cứu có thể tìm thấy dấu ấn phong cách tư duy thống nhất của Trạng thông qua văn bản cụ thể, giống như đã chứng minh Nguyễn Bỉnh Khiêm là người dùng hai tiếng Việt Nam đầu tiên vậy.
Tuy nhiên, có một sự thật là Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại những câu sấm từ trước dân gian truyền tụng khi mà sự kiện chưa xảy ra:
Bao giờ Tiên Lãng chia đôi
Sông Hàn nối lại thì tôi lại về.
Tại quê hương, Bạch Vân am, đến trước thời điểm này cũng chỉ có...mây bay. Ngôi đền nằm trong hoang vắng, đường vào là một con đường cỏ nhỏ đi qua cánh đồng mênh mông. Duy nhất chỉ có ngôi đền chính của Cụ vẫn được trân trọng thờ tự hương khói, nhưng vẫn giản đơn và mang nặng dấu tích thời gian.
“Tôi lại về“ vào dịp thành phố Hải Phòng kết hợp với Bộ Văn hóa long trọng tổ chức kỷ niệm bốn trăm năm ngày mất của Trạng. Đến thời điểm năm 1991 (Tân mùi). Sự thật thì việc xẻ đôi một huyện là việc không phải không có, nhưng nó chỉ xảy ra khi thực hiện việc sát nhập chia tách hành chính. Mấy trăm năm trước chưa có một tư duy tràn thế nào tại Việt Nam dám xẻ đôi một vùng đất rộng lớn, vốn liền mạch thổ nhưỡng để làm một con sông lớn tưới tiêu và giao thông.
Đó chính là con sông đào hiện nay ở huyện này. Và sông Hàn rộng mênh mông, trước chỉ đi đò thời điểm ấy có một chiếc cầu phao lớn và hiện tại đang triển khai dự án xây cầu mới, nối liền con đường liên thông với quốc lộ mười chuản bị cho dự án xây dựng sân bay quốc tế tại Tiên Lãng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng một lư hương cho nhà thờ dòng tộc họ ngoại tại Huyện Tiên Lãng, giáp Huyện Vĩnh Bảo quê ông, trên đó có một bài thơ mang bút tích Người. Rất tiếc, lư hương này bị quân Pháp đập vỡ khi càn quét tại đây hồi kháng chiến. Song bài thơ này các học giả, bô lão biết Hán tự đều thuộc và lưu truyền lại:
Chú ngũ phục nguyên tiền
Hữu Xương hồ nhân thập
Xã hữu hồ song thân
Long xà an sở ngộ
Đĩnh xuất xử tôn hiền
Nội, ngoại phi nhị trí.
Dịch nghĩa:
Khoảng năm trăm năm sau thì trở lại như trước
Niềm vui từ người thập phương đến
Cha, mẹ mới lại được coi trọng
Cuối năm Thìn, đầu năm Tỵ gặp sự yên bình
Con cháu thảo hiền như chim đĩnh
Nội, ngoại cùng chí hướng, sống chung như một.
Tuy nhiên, có một sự thật là Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại những câu sấm từ trước dân gian truyền tụng khi mà sự kiện chưa xảy ra:
Bao giờ Tiên Lãng chia đôi
Sông Hàn nối lại thì tôi lại về.
Tại quê hương, Bạch Vân am, đến trước thời điểm này cũng chỉ có...mây bay. Ngôi đền nằm trong hoang vắng, đường vào là một con đường cỏ nhỏ đi qua cánh đồng mênh mông. Duy nhất chỉ có ngôi đền chính của Cụ vẫn được trân trọng thờ tự hương khói, nhưng vẫn giản đơn và mang nặng dấu tích thời gian.
“Tôi lại về“ vào dịp thành phố Hải Phòng kết hợp với Bộ Văn hóa long trọng tổ chức kỷ niệm bốn trăm năm ngày mất của Trạng. Đến thời điểm năm 1991 (Tân mùi). Sự thật thì việc xẻ đôi một huyện là việc không phải không có, nhưng nó chỉ xảy ra khi thực hiện việc sát nhập chia tách hành chính. Mấy trăm năm trước chưa có một tư duy tràn thế nào tại Việt Nam dám xẻ đôi một vùng đất rộng lớn, vốn liền mạch thổ nhưỡng để làm một con sông lớn tưới tiêu và giao thông.
Đó chính là con sông đào hiện nay ở huyện này. Và sông Hàn rộng mênh mông, trước chỉ đi đò thời điểm ấy có một chiếc cầu phao lớn và hiện tại đang triển khai dự án xây cầu mới, nối liền con đường liên thông với quốc lộ mười chuản bị cho dự án xây dựng sân bay quốc tế tại Tiên Lãng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng một lư hương cho nhà thờ dòng tộc họ ngoại tại Huyện Tiên Lãng, giáp Huyện Vĩnh Bảo quê ông, trên đó có một bài thơ mang bút tích Người. Rất tiếc, lư hương này bị quân Pháp đập vỡ khi càn quét tại đây hồi kháng chiến. Song bài thơ này các học giả, bô lão biết Hán tự đều thuộc và lưu truyền lại:
Chú ngũ phục nguyên tiền
Hữu Xương hồ nhân thập
Xã hữu hồ song thân
Long xà an sở ngộ
Đĩnh xuất xử tôn hiền
Nội, ngoại phi nhị trí.
Dịch nghĩa:
Khoảng năm trăm năm sau thì trở lại như trước
Niềm vui từ người thập phương đến
Cha, mẹ mới lại được coi trọng
Cuối năm Thìn, đầu năm Tỵ gặp sự yên bình
Con cháu thảo hiền như chim đĩnh
Nội, ngoại cùng chí hướng, sống chung như một.
hiendde
25/06/2012
Năm 2000, tức là 415 năm sau ngày mất của Người, đọc bài thơ này chúng ta sửng sốt về những dự báo được viết trong đó. Thực tế thì cây đại thụ bóng trùm thế kỷ XVI vẫn bị che khuất bởi nhiều nguyên nhân. Tên tuổi Ông chỉ còn lại trong bài “Thói đời” ghi trong sách giáo khoa với ít lời bình ngắn ngủi. Các giáo trình đại học viết về Ông không nhiều, đặc biệt phần viết về Sấm bị bỏ ngỏ hoặc chỉ sơ sài đôi dòng.
Thời điểm năm 2000 quả nhiên “Niềm vui từ người thập phương đến” Đền Trạng được tu bổ và phát triển nguy nga như ngày nay. Liên tiếp một thập kỷ 2000-2010, đất nước có sự chuyển mình mạnh mẽ biểu hiện sự phục hưng mãnh liệt. Thời kỳ này, Nhà nước có quyết định ngày giỗ tổ Hùng Vương, nhớ về nguồn cội và đưa Việt Nam thành nước duy nhất trên thế giới có ngày Quốc giỗ.
Hay những câu tiên tri về đất nước thanh bình:
Hồng Lam ngũ bách thiên niên hạ
Hưng tộ diên trường ức vạn xuân.
(Dịch là: Đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm, sẽ là một thời kỳ hưng thịnh van mùa xuân). Là những câu đã có từ rất lâu. Tại sao không nói ba trăm năm hay bốn trăm năm mà năm trăm năm? Có thể thấy rất rõ là ở thời điểm này đất nước ta vẫn chưa đạt đến sự hưng thịnh, nhưng tương lai có thể nhìn thấy sự hưng thịnh ở cái mốc năm trăm năm, đó hẳn nhiên không phải sự viển vông.
Một vài minh chứng trên cho thấy tính chất sát thực về việc Sấm ký, do Cụ Trạng viết và tính ứng nghiệm của nó là rất cao. Tuy nhiên hình thức sấm trạng của Cụ được thể hiện đưới nhiều hình thức. Điều này làm cho tính thống nhất của một phong cách có vẻ không được thuyết phục. Vậy Sấm Trạng còn được lưu hành và có những biến đổi bằng nhiều con đường khác.
Sự gìn giữ lưu hành có nhuận sắc của các học trò Quan Trạng
Sấm Trạng Trình đầu tiên chắc được giữ kín đáo trong một nhóm môn đệ thân cận như Phùng Khắc Khoan, Trương Thời Cử, Nguyễn Dữ...,với số môn đệ đào tạo trong hơn năm mươi năm, lên tới ba ngàn người, thơ văn sấm ký của ông thầy hẳn đã được sao chép hoặc ít ra cũng được truyền khẩu, chưa kể cả vua, quan và quần chúng đều đã biết rất nhiều về tài tiên tri của Trạng.
Tập Sấm đã đi vào mọi giới và mọi nơi, kể cả vào Thuận Quảng với nhóm di dân mang theo cẩm nang "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" và có thể có cả người của Trạng Trình gửi theo lớp viễn chinh ấy. Có thể đặt giả thuyết là Trạng Trình chỉ bốc quẻ, giảng truyền cho môn đệ chứ không viết xuống thành tập. Bài Sấm giảng cho Trương Thời Cử kể trên là một thí dụ điển hình. Sau đó các cao đồ mới sao chép lại thành tập, đặt ra thành lời thơ năm, sáu chữ... rồi lưu truyền.
Tập Sấm Văn và Chu Dịch Quốc Âm Ca Quyết của Phùng Khắc Khoan, cần phải được tìm kiếm và nghiên cứu (nếu còn lưu truyền), hai thầy trò rất tương đắc đến độ có thuyết cho là hai anh em cùng mẹ khác cha, mặc dầu Phùng Khắc Khoan kém Trạng Trình tới ba mươi bảy tuổi! Chuyện kể Phùng Khắc Khoan học hết chữ thầy về hỏi mẹ nên tiếp tục học ai. Mẹ bảo ”Ra Vĩnh Lại học hỏi anh con”. Khoan nghe lời ra gặp Trạng Trình, Trạng không nói gì, cầm một lọ đỗ ném xuống sân vỡ tan tành và nói “Ngồi bệt xuống mà nhặt, nếu nhặt hết ta sẽ dạy”. Khoan y lời, lê khắp sân nhặt hết. Sau này trước khi đi thi có hỏi thầy lại truyện này, Trạng Trình đáp “Con sẽ đỗ đầu và phò tá nhà Lê”.
Thời điểm năm 2000 quả nhiên “Niềm vui từ người thập phương đến” Đền Trạng được tu bổ và phát triển nguy nga như ngày nay. Liên tiếp một thập kỷ 2000-2010, đất nước có sự chuyển mình mạnh mẽ biểu hiện sự phục hưng mãnh liệt. Thời kỳ này, Nhà nước có quyết định ngày giỗ tổ Hùng Vương, nhớ về nguồn cội và đưa Việt Nam thành nước duy nhất trên thế giới có ngày Quốc giỗ.
Hay những câu tiên tri về đất nước thanh bình:
Hồng Lam ngũ bách thiên niên hạ
Hưng tộ diên trường ức vạn xuân.
(Dịch là: Đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm, sẽ là một thời kỳ hưng thịnh van mùa xuân). Là những câu đã có từ rất lâu. Tại sao không nói ba trăm năm hay bốn trăm năm mà năm trăm năm? Có thể thấy rất rõ là ở thời điểm này đất nước ta vẫn chưa đạt đến sự hưng thịnh, nhưng tương lai có thể nhìn thấy sự hưng thịnh ở cái mốc năm trăm năm, đó hẳn nhiên không phải sự viển vông.
Một vài minh chứng trên cho thấy tính chất sát thực về việc Sấm ký, do Cụ Trạng viết và tính ứng nghiệm của nó là rất cao. Tuy nhiên hình thức sấm trạng của Cụ được thể hiện đưới nhiều hình thức. Điều này làm cho tính thống nhất của một phong cách có vẻ không được thuyết phục. Vậy Sấm Trạng còn được lưu hành và có những biến đổi bằng nhiều con đường khác.
Sự gìn giữ lưu hành có nhuận sắc của các học trò Quan Trạng
Sấm Trạng Trình đầu tiên chắc được giữ kín đáo trong một nhóm môn đệ thân cận như Phùng Khắc Khoan, Trương Thời Cử, Nguyễn Dữ...,với số môn đệ đào tạo trong hơn năm mươi năm, lên tới ba ngàn người, thơ văn sấm ký của ông thầy hẳn đã được sao chép hoặc ít ra cũng được truyền khẩu, chưa kể cả vua, quan và quần chúng đều đã biết rất nhiều về tài tiên tri của Trạng.
Tập Sấm đã đi vào mọi giới và mọi nơi, kể cả vào Thuận Quảng với nhóm di dân mang theo cẩm nang "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" và có thể có cả người của Trạng Trình gửi theo lớp viễn chinh ấy. Có thể đặt giả thuyết là Trạng Trình chỉ bốc quẻ, giảng truyền cho môn đệ chứ không viết xuống thành tập. Bài Sấm giảng cho Trương Thời Cử kể trên là một thí dụ điển hình. Sau đó các cao đồ mới sao chép lại thành tập, đặt ra thành lời thơ năm, sáu chữ... rồi lưu truyền.
Tập Sấm Văn và Chu Dịch Quốc Âm Ca Quyết của Phùng Khắc Khoan, cần phải được tìm kiếm và nghiên cứu (nếu còn lưu truyền), hai thầy trò rất tương đắc đến độ có thuyết cho là hai anh em cùng mẹ khác cha, mặc dầu Phùng Khắc Khoan kém Trạng Trình tới ba mươi bảy tuổi! Chuyện kể Phùng Khắc Khoan học hết chữ thầy về hỏi mẹ nên tiếp tục học ai. Mẹ bảo ”Ra Vĩnh Lại học hỏi anh con”. Khoan nghe lời ra gặp Trạng Trình, Trạng không nói gì, cầm một lọ đỗ ném xuống sân vỡ tan tành và nói “Ngồi bệt xuống mà nhặt, nếu nhặt hết ta sẽ dạy”. Khoan y lời, lê khắp sân nhặt hết. Sau này trước khi đi thi có hỏi thầy lại truyện này, Trạng Trình đáp “Con sẽ đỗ đầu và phò tá nhà Lê”.
hiendde
25/06/2012
Tám đời sau, Vũ Khâm Lân viết tựa cho Gia phả họ Nguyễn Bỉnh, không thấy nhắc tới tập Sấm Ký. Lý do là Sấm ký, lý số, vốn bị các nhà Nho cho là "ngoại thư ", hơn nữa nhắc tới một ông Trạng quân sư của nhà Mạc, bị nhà Lê gạt tên ra khỏi văn miếu, không phải là dễ dàng ở thế kỷ XVIII dưới thời Lê-Trịnh, vì thế Vũ Khâm Lân mới phải nhắc khéo là Trạng Trình tuy sinh trên đất Mạc, nhưng cũng đã góp công đào tạo rất nhiều nhân tài, phục vụ cho nhà Lê như Trạng Bũng, Lương Hữu Khánh...
Nhưng không phải vì thế mà Sấm Trạng bị thất truyền, Với tư cách là vị sư tổ đáng kính mấy ngàn môn đệ thuộc nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn lịch sử, đã truyền lời thầy khắp nơi, nó được kính cẩn gìn giữ trên "bia miệng trơ trơ", trong tâm não của giới nho lâm, được phát triển và bàn bạc thêm theo đúng ý Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng, một ngôi sao Bắc đẩu mà lịch sử Việt Nam tới nay cũng chỉ có một. Cho nên lời Sấm còn truyền tới ngày nay, là lời Sấm truyền khẩu hoặc sao chép từ giới sĩ tử học trò Trạng Trình, tới thế kỷ mười tám, mười chín, có nhà nho viết xuống thành tập, thành bài không nhất định, rồi lại dùng thơ lục bát để diễn ý.
Hiện tượng thánh hóa từ dân gian với mục đích khác nhau
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “cây đại thụ, bóng trùm thế kỷ XVI” nên đương nhiên ông là biểu tượng tôn kính và mến yêu của nhân dân. Do đặc điểm của tính dị bản và sáng tác Fonclo, nên Sấm trạng có những nội dung bị biến dạng hoặc tự thêm vào vì lòng yêu mến của nhân dân. Người dân muốn mượn Trạng như một biểu tượng tinh thần để thỏa mãn những bế tắc trong đời sống của mình và cắt nghĩa những sự kiện chính trị. Phần lớn những câu sấm thuộc loại này rất dễ hiểu.
Ví như câu sấm hình thành năm 2000 khi xây dựng tôn tạo di tích Đền Trạng:
Bao giờ đồng trắng như vôi
Đường đen như mực thì tôi lại về.
Sự kiện xây dựng mở mang đền Trạng được tiến hành vào mùa khô, lúc ấy cánh đồng đang đổ ải và nhân dân rắc vôi bột để khử chua. Con đường đá được mở rộng gấp nhiều lần và đổ nhựa màu đen.
Nhưng không phải vì thế mà Sấm Trạng bị thất truyền, Với tư cách là vị sư tổ đáng kính mấy ngàn môn đệ thuộc nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn lịch sử, đã truyền lời thầy khắp nơi, nó được kính cẩn gìn giữ trên "bia miệng trơ trơ", trong tâm não của giới nho lâm, được phát triển và bàn bạc thêm theo đúng ý Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng, một ngôi sao Bắc đẩu mà lịch sử Việt Nam tới nay cũng chỉ có một. Cho nên lời Sấm còn truyền tới ngày nay, là lời Sấm truyền khẩu hoặc sao chép từ giới sĩ tử học trò Trạng Trình, tới thế kỷ mười tám, mười chín, có nhà nho viết xuống thành tập, thành bài không nhất định, rồi lại dùng thơ lục bát để diễn ý.
Hiện tượng thánh hóa từ dân gian với mục đích khác nhau
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “cây đại thụ, bóng trùm thế kỷ XVI” nên đương nhiên ông là biểu tượng tôn kính và mến yêu của nhân dân. Do đặc điểm của tính dị bản và sáng tác Fonclo, nên Sấm trạng có những nội dung bị biến dạng hoặc tự thêm vào vì lòng yêu mến của nhân dân. Người dân muốn mượn Trạng như một biểu tượng tinh thần để thỏa mãn những bế tắc trong đời sống của mình và cắt nghĩa những sự kiện chính trị. Phần lớn những câu sấm thuộc loại này rất dễ hiểu.
Ví như câu sấm hình thành năm 2000 khi xây dựng tôn tạo di tích Đền Trạng:
Bao giờ đồng trắng như vôi
Đường đen như mực thì tôi lại về.
Sự kiện xây dựng mở mang đền Trạng được tiến hành vào mùa khô, lúc ấy cánh đồng đang đổ ải và nhân dân rắc vôi bột để khử chua. Con đường đá được mở rộng gấp nhiều lần và đổ nhựa màu đen.
hiendde
25/06/2012
Có nhiều câu Sấm còn chưa xác định rõ nguồn gốc, nhưng được truyền bá rộng rãi. Nói về đại chiến thế giới thứ hai có bài:
Long vĩ, xà đầu khởi chiến chinh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề Dương cước anh hùng tận
Thân, Dậu niên lai kiến Thái Bình.
Hai câu đầu ứng với cuộc đại chiến mở rộng vào cuối năm Rồng (1940–Canh Thìn) và đầu năm Rắn (Tân Tỵ-1941) nhân dân đau khổ. Đuôi rồng, đầu rắn khởi chiến tranh. Khắp mọi nơi, dân khổ vì chiến tranh.
Hai câu cuối, đến tháng 1–1943 (chân ngựa-cuối năm ngọ) Liên Xô phản công ở Stalingrat rồi sang cuối năm 1943 (móng dê–năm mùi) phát xít Hít le bắt đầu núng thế. Móng dê, chân ngựa gian hùng tận.
Để rồi kết thúc bằng chiến thắng của quân Đồng minh đem lại hoà bình cho toàn thế giới vào cuối năm Giáp Thân (1944) đầu năm ất Dậu (1945).
Thân, Dậu rồi ra mới hoà bình. Hoặc:
Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ làm dân chẳng lành
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.
Năm Gà (Dậu 1945), năm Khỉ (Thân 1944), nhà Nguyễn (phụ nguyên) hết số.
Rồi đến năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, cũng thấy xuất hiện Sấm Trạng.
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
Đầu thu là tháng bảy âm lịch (tức tháng tám dương lịch) năm gà là ất Dậu (1945) thì Cụ ** về Hà Nội. “Mặt trăng xưa” theo tiếng hán là cổ nguyệt, theo triết tự thì chữ Cổ và chữ Nguyệt ghép lại thành chữ **. Cụ ** về Hà Nội vào ngày 26–8–1945 (tức ngày 19 tháng 7 năm ất Dậu).
Những câu “sấm” loại này, thường được ra đời sau khi sự kiện đã xảy ra. Sự ra đời của chúng là tấm lòng ngưỡng vọng của nhân dân với Trạng, tạo ra một miền văn hóa sấm trạng, nhưng cũng vô tình làm cho quá trình nghiên cứu phức tạp thêm và tính chất vĩ đại của Trạng Trình, với tư cách con người trần tục nhưng có tư duy trí tuệ của bậc thánh bị giảm đi, bởi lẻ dân gian thánh hóa Trạng, và Trạng trở thành thánh và với thánh thần việc dự báo được các sự kiện trời đất là chuyện bình thường?
Long vĩ, xà đầu khởi chiến chinh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề Dương cước anh hùng tận
Thân, Dậu niên lai kiến Thái Bình.
Hai câu đầu ứng với cuộc đại chiến mở rộng vào cuối năm Rồng (1940–Canh Thìn) và đầu năm Rắn (Tân Tỵ-1941) nhân dân đau khổ. Đuôi rồng, đầu rắn khởi chiến tranh. Khắp mọi nơi, dân khổ vì chiến tranh.
Hai câu cuối, đến tháng 1–1943 (chân ngựa-cuối năm ngọ) Liên Xô phản công ở Stalingrat rồi sang cuối năm 1943 (móng dê–năm mùi) phát xít Hít le bắt đầu núng thế. Móng dê, chân ngựa gian hùng tận.
Để rồi kết thúc bằng chiến thắng của quân Đồng minh đem lại hoà bình cho toàn thế giới vào cuối năm Giáp Thân (1944) đầu năm ất Dậu (1945).
Thân, Dậu rồi ra mới hoà bình. Hoặc:
Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ làm dân chẳng lành
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.
Năm Gà (Dậu 1945), năm Khỉ (Thân 1944), nhà Nguyễn (phụ nguyên) hết số.
Rồi đến năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, cũng thấy xuất hiện Sấm Trạng.
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
Đầu thu là tháng bảy âm lịch (tức tháng tám dương lịch) năm gà là ất Dậu (1945) thì Cụ ** về Hà Nội. “Mặt trăng xưa” theo tiếng hán là cổ nguyệt, theo triết tự thì chữ Cổ và chữ Nguyệt ghép lại thành chữ **. Cụ ** về Hà Nội vào ngày 26–8–1945 (tức ngày 19 tháng 7 năm ất Dậu).
Những câu “sấm” loại này, thường được ra đời sau khi sự kiện đã xảy ra. Sự ra đời của chúng là tấm lòng ngưỡng vọng của nhân dân với Trạng, tạo ra một miền văn hóa sấm trạng, nhưng cũng vô tình làm cho quá trình nghiên cứu phức tạp thêm và tính chất vĩ đại của Trạng Trình, với tư cách con người trần tục nhưng có tư duy trí tuệ của bậc thánh bị giảm đi, bởi lẻ dân gian thánh hóa Trạng, và Trạng trở thành thánh và với thánh thần việc dự báo được các sự kiện trời đất là chuyện bình thường?
hiendde
26/06/2012
Với đương thời, ông là một vĩ nhân đứng trên thế tục một tầm, có những chỉ dẫn sáng suốt, làm “quân sư” cho các thế lực Trịnh, Lê, Mạc, Nguyễn nên đều được họ kính nể. Bạn bè đồng niên của ông, học trò của ông bấy giờ cũng đã ca ngợi tài tiên tri của ông là:
Một mình lý học tinh thông
Hai nước anh hùng không đối thủ
(Văn tế Tuyết Giang phu tử).
Chính vì vậy mà tên tuổi của Cụ Trạng có thể bị lợi dụng cho các mưu đồ chính trị. Rất có thể nhiều lực lượng chống đối nhau mượn danh trạng để hù dọa đối phương. Điều này cắt nghĩa tại sao bên cạnh những câu sấm trúng với sự việc diễn ra, nhưng vẫn có những câu sấm không thể lý giải được dù gán cho nó bất cứ sự kiện nào.
Những loại “Sấm” này có thể ra trước sự kiện, nội dung mơ hồ bí ẩn nhưng lại hàm chứa một yếu tố nào đó rất rõ, có mục đích ám chỉ định hướng tư duy. Những yếu tố này có thể là một miền đất, tên một tổ chức, dòng họ…Các thế lực thù địch dùng “Sấm” như một đòn tâm lý chiến với đối phương. Ở thời kỳ phong kiến, khi niềm tin duy tâm còn chế ngự, thì sức mạnh của nó chắc chắn là rất lớn.
Một đám mây xanh lơ lửng giữa trời
Có hai thằng bé đánh nhau chơi
Thiên hạ mười phần còn có một
Bấy giờ bạch sỉ mới ra đời.
Một số nhà nghiên cứu đã nêu rõ dẫn chứng của sự việc này. Điều chắc chắn là Sấm Trạng Trình đã có ảnh hưởng sâu rộng trong giới tranh bá đồ vương ngay từ thời thế kỷ XVII. Năm 1671, có đảng Bạch Sỉ được thành lập để phò Lê diệt Trịnh, tên Bạch Sỉ lấy từ Sấm Trạng Trình, chỉ danh bậc đại nhân sẽ xuất hiện.
Đời Gia Long, đầu thế kỷ XIX, Lê Duy Hoán khởi nghĩa ở Thanh Hóa, làm lá cờ thêu chữ "Phá Điền", lấy từ câu "Phá điền Thiên tử giáng trần" của Sấm Trạng Trình, Lê Duy Hoán tuổi Thân, phá điền chiết tự có thể thành chữ Thân! Thời đầu thế kỷ XX, có nhóm thần Tản Viên ở miền Bắc. Vì vậy, bộ sấm trạng bên cạnh những câu "chính truyền", còn có các câu sấm "diễn nghĩa", và tất nhiên có những câu giả mạo với dụng ý tuyên truyền nhất là vào thế kỷ XX hiện tại.
Và bao phủ lên nó là cả một vùng sương khói ảo mờ và chỉ có cách lý giải “Thiên cơ bất khả lộ”, và khi sự kiện xảy ra không đúng, thì người ta có cách lý giải là người trần mắt thịt không đoán đúng thiên cơ và rằng nó sẽ xảy ra ở đâu đó trong một giai đoạn, thời điểm khác.
Hùm già lạc dấu khôn về
mèo non chi chí tìm về cố hương
Tý, Sửu, Dần, hội Thánh hội Thần...
Hội Tiên hội Phật hội ông lão già...
Gà đâu sớm gáy bên đường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không.
Một mình lý học tinh thông
Hai nước anh hùng không đối thủ
(Văn tế Tuyết Giang phu tử).
Chính vì vậy mà tên tuổi của Cụ Trạng có thể bị lợi dụng cho các mưu đồ chính trị. Rất có thể nhiều lực lượng chống đối nhau mượn danh trạng để hù dọa đối phương. Điều này cắt nghĩa tại sao bên cạnh những câu sấm trúng với sự việc diễn ra, nhưng vẫn có những câu sấm không thể lý giải được dù gán cho nó bất cứ sự kiện nào.
Những loại “Sấm” này có thể ra trước sự kiện, nội dung mơ hồ bí ẩn nhưng lại hàm chứa một yếu tố nào đó rất rõ, có mục đích ám chỉ định hướng tư duy. Những yếu tố này có thể là một miền đất, tên một tổ chức, dòng họ…Các thế lực thù địch dùng “Sấm” như một đòn tâm lý chiến với đối phương. Ở thời kỳ phong kiến, khi niềm tin duy tâm còn chế ngự, thì sức mạnh của nó chắc chắn là rất lớn.
Một đám mây xanh lơ lửng giữa trời
Có hai thằng bé đánh nhau chơi
Thiên hạ mười phần còn có một
Bấy giờ bạch sỉ mới ra đời.
Một số nhà nghiên cứu đã nêu rõ dẫn chứng của sự việc này. Điều chắc chắn là Sấm Trạng Trình đã có ảnh hưởng sâu rộng trong giới tranh bá đồ vương ngay từ thời thế kỷ XVII. Năm 1671, có đảng Bạch Sỉ được thành lập để phò Lê diệt Trịnh, tên Bạch Sỉ lấy từ Sấm Trạng Trình, chỉ danh bậc đại nhân sẽ xuất hiện.
Đời Gia Long, đầu thế kỷ XIX, Lê Duy Hoán khởi nghĩa ở Thanh Hóa, làm lá cờ thêu chữ "Phá Điền", lấy từ câu "Phá điền Thiên tử giáng trần" của Sấm Trạng Trình, Lê Duy Hoán tuổi Thân, phá điền chiết tự có thể thành chữ Thân! Thời đầu thế kỷ XX, có nhóm thần Tản Viên ở miền Bắc. Vì vậy, bộ sấm trạng bên cạnh những câu "chính truyền", còn có các câu sấm "diễn nghĩa", và tất nhiên có những câu giả mạo với dụng ý tuyên truyền nhất là vào thế kỷ XX hiện tại.
Và bao phủ lên nó là cả một vùng sương khói ảo mờ và chỉ có cách lý giải “Thiên cơ bất khả lộ”, và khi sự kiện xảy ra không đúng, thì người ta có cách lý giải là người trần mắt thịt không đoán đúng thiên cơ và rằng nó sẽ xảy ra ở đâu đó trong một giai đoạn, thời điểm khác.
Hùm già lạc dấu khôn về
mèo non chi chí tìm về cố hương
Tý, Sửu, Dần, hội Thánh hội Thần...
Hội Tiên hội Phật hội ông lão già...
Gà đâu sớm gáy bên đường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không.
hiendde
26/06/2012
Những phân tích trên cho thấy, có nhiều nguồn gốc hình thành Sấm Trạng Trình: Do bản thân Trạng tiên đoán, Do học trò ghi lại và thêm bớt đi, do lòng tôn kính mà dân gian thánh hóa và do các thế lực thù địch nhau lợi dụng giả truyền. Dù xuất xứ khác nhau như thế nào về thời gian, dù hình thức có thể được trình bày ở nhiều dạng: những mẩu truyện, bài thơ bộc lộ hàn lâm uyên bác, bài văn vần… và ký tự có thể là Hán, Nôm hay quốc ngữ; Tất cả dần được tập hợp lại, trở thành một hệ thống, với một nhân vật đóng vai dẫn truyện: Trạng Trình.
Đương nhiên chúng ta cần có những công trình nghiên cứu công phu để “lọc” lại cái đích thực của Sấm Trạng và nghiên cứu nó, đặng rút ra những giá trị chân xác hơn. Song hiện tại, điều ấy khẳng định, Trạng Trình là một con người vĩ đại trong thực tế lịch sử, đồng thời được huyền thoại hoá, có sức thu hút mạnh mẽ đối với đời sống tâm linh của xã hội Việt Nam.
Tác giả Lương Cao Rính (quê Cụ Trạng) giải thích hai mươi bốn câu sấm
Tại quê hương Cụ Trạng có một chi hội sử học trực thuộc Hội LHVHNT Hải Phòng, năm 2008, Nhà xuất bản Hải Phòng đã cho ra mắt cuốn “Sấm ký Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm”, do Ông Lương Cao Rính sưu tầm, nghiên cứu biên soạn trong nhiều năm. Tất cả bộ có một trăm lẻ năm câu sấm được xác định và có chú giải. Trong quá trình chờ đợi những công trình nghiên cứu quy mô, chúng tôi xin giới thiệu hai mươi bốn khổ thơ, đánh số từ một đến hai mươi bốn, trích trong thành ngữ, điển tích và cuốn “danh nhân từ điển” tập hai, tác giả Trịnh Văn Thanh.
Ông Lương Cao Rính đã chọn giới thiệu giải thích bộ hai mươi bốn câu thơ này. Đây là công trình có đóng góp của Hội sử học Huyện Vĩnh Bảo (Quê hương cụ Trạng). Những chú giải sau đã được sự góp ý của một số nhà sử học Trung ương sinh ra tại đất Trạng. Mặc dù vậy, nội dung lý giải này vẫn bộc lộ những cảm nhận thô sơ ban đầu. Một số lý giải vẫn mang tính áp đặt sự kiện. Điều này cũng chính nhóm tác giả cũng thừa nhận và mong mỏi được tham góp bổ sung đặng đầy đủ và chuẩn xác hơn.
Sửa bởi hiendde: 26/06/2012 - 05:40
Đương nhiên chúng ta cần có những công trình nghiên cứu công phu để “lọc” lại cái đích thực của Sấm Trạng và nghiên cứu nó, đặng rút ra những giá trị chân xác hơn. Song hiện tại, điều ấy khẳng định, Trạng Trình là một con người vĩ đại trong thực tế lịch sử, đồng thời được huyền thoại hoá, có sức thu hút mạnh mẽ đối với đời sống tâm linh của xã hội Việt Nam.
Tác giả Lương Cao Rính (quê Cụ Trạng) giải thích hai mươi bốn câu sấm
Tại quê hương Cụ Trạng có một chi hội sử học trực thuộc Hội LHVHNT Hải Phòng, năm 2008, Nhà xuất bản Hải Phòng đã cho ra mắt cuốn “Sấm ký Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm”, do Ông Lương Cao Rính sưu tầm, nghiên cứu biên soạn trong nhiều năm. Tất cả bộ có một trăm lẻ năm câu sấm được xác định và có chú giải. Trong quá trình chờ đợi những công trình nghiên cứu quy mô, chúng tôi xin giới thiệu hai mươi bốn khổ thơ, đánh số từ một đến hai mươi bốn, trích trong thành ngữ, điển tích và cuốn “danh nhân từ điển” tập hai, tác giả Trịnh Văn Thanh.
Ông Lương Cao Rính đã chọn giới thiệu giải thích bộ hai mươi bốn câu thơ này. Đây là công trình có đóng góp của Hội sử học Huyện Vĩnh Bảo (Quê hương cụ Trạng). Những chú giải sau đã được sự góp ý của một số nhà sử học Trung ương sinh ra tại đất Trạng. Mặc dù vậy, nội dung lý giải này vẫn bộc lộ những cảm nhận thô sơ ban đầu. Một số lý giải vẫn mang tính áp đặt sự kiện. Điều này cũng chính nhóm tác giả cũng thừa nhận và mong mỏi được tham góp bổ sung đặng đầy đủ và chuẩn xác hơn.
Sửa bởi hiendde: 26/06/2012 - 05:40
hiendde
26/06/2012
1. Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế giang sơn đổi vần
Tự Đinh, Lê, Lý Trần, thuở trước
Đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành.
2. Hoá dao một lạc
Thập bát tứ thành
Đông A nhật xuất
Di mộc tái sinh.
Giải thích của tác giả: (2) Theo chữ Hán, thì “ hoá”, “dao”, “mộc” ghép lại là chữ “Lê”, “lạc” là nơi, ý nói nhà Lê mất. “Bát”, “tứ” ghép lại là chữ Lý, ý nói nhà Lý sẽ tiếp theo. “Đông”, “A” ghép lại là chữ Trần. “Di mọc tái sinh”, ý nói là cây khác sống lại, chỉ nhà Hậu Lê.
3. Trấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh
Phụ nguyên trì thống
Đế phế vi dinh.
Giải thích của tác giả: (3) Chấn cung xuất nhật (dịch là mặt trời mọc ở phương Đông); Theo bát quái thì quẻ chấn thuộc phương Đông, theo kinh dịch thì cung “chấn” thuộc về người trên, chỉ Nguyễn Nhạc. “Đoài cung vẫn tinh”, chỉ ngôi sao sa ở phía tây, ý nói nhà Tây Sơn.
4. Thập niên dư chiến
Thiên hạ cứu binh
Lời thần trước đã ứng linh
Hậu lại phải đoán cho minh mới tường.
Giải thích của tác giả: (4) Hơn mười năm chinh chiến, thiên hạ mới được yên ổn.
5. Hoá dao mộc hồi dương sống lại
Bắc Nam thời thế đạo nhiễu nhương
Hà thời biện lại vị vương
Thử thời Bắc tận, Nam Trường xuất chinh.
Giải thích của tác giả: (5) ám chỉ về việc Nguyễn Nhạc, xuất thân từ chức biện lại ở Vân Đồn, cùng hai em là Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dấy binh dẹp tan các thế lực khác lên làm vua1775.
6. Lê tồn, Trịnh tại
Lê bại, Trinh vong
Hà thời thạch mã đô giang
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
Bao giờ ngựa đá sang sông
Thì dân vĩnh Lại quân công cả làng.
Giải thích của tác giả: (6) hai câu đầu nói về quan hệ giữa vua Lê và chúa Trịnh
Bốn câu sau gắn với việc Vũ văn Nhậm đem quân ra trị tội Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Hữu Chỉnh đem vua Lê chạy theo, giữa đường Chỉnh bị bắt, vua Lê chốn đến Vĩnh Lại được dân làng che chở. Do đó, đã cùng lúc phong tước đô đốc, quận công... cho những người cứu giúp mình.
7. Chim bằng cất cánh về đâu
Chết tại trên đầu hai chữ quận công
Bao giờ trúc mọc qua sông
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non tây.
Giải thích của các tác giả: (7) Về Nguyễn Hữu Chỉnh (bằng quận công) vì lộng quyền đã bị Tây Sơn trừng phạt.
8. Đoài cung một sớm đổi thay
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn
Đầu cha lộn xuống đầu con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Giải thích của tác giả: (8) ý nói Nguyễn Nhạc suy yếu, Nguyễn Huệ nổi lên (trong Kinh dịch Đoài cung là phương Tây chỉ em, còn Chấn cung là phương Đông chỉ người anh). Trong Hán tự thì chữ Quang (trong Quang Trung) có chữ tiểu ở trên, còn chữ Cảnh (trong Cảnh Thịnh) lại có chữ tiểu ở dưới. Cảnh Thịnh là niên hiệu của Nguyễn Quang Toản (con Quang Trung). Hai đời vừa được mười bốn năm 1789- 802.
9. Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
Tin dê lại mắc phải mồi đàn dê
Dục lòng chim chích u mê
Tập trên, tứ dưới, nhất đè chữ tâm.
Giải thích của tác giả: (9) Theo chữ Hán thì đầu chữ “phụ” ghép với chữ “nguyên” thì thành chữ Nguyễn. ở đây muốn nói đến Nhà Nguyễn đã dần dần mở cửa cho Pháp vào xâm lược nước ta (“dê” ở đây là Pháp – Tây dương). Cũng theo chữ Hán, thì chữ Đức gồm chữ “thập” ở trên, dưới là chữ “tứ”, dưới nữa là chữ “tâm”. Kết hợp với chữ Dục ở đầu câu này muốn ám chỉ Dục Đức bị phế bỏ.
10. Để loài bạch quỷ Nam xâm
làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi lần lần
Cho hay những gã công hầu
Giầu sang biết gửi nơi đâu chốn này.
Giải thích của tác giả: (10) Nhà Nguyễn đưa dân vào vòng nô lệ và ba vị vua yêu nước ( Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân) bị Pháp bắt đi đày, còn “một ở” là Khải Định.
Sửa bởi hiendde: 26/06/2012 - 06:02
Biển dâu cuộc thế giang sơn đổi vần
Tự Đinh, Lê, Lý Trần, thuở trước
Đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành.
2. Hoá dao một lạc
Thập bát tứ thành
Đông A nhật xuất
Di mộc tái sinh.
Giải thích của tác giả: (2) Theo chữ Hán, thì “ hoá”, “dao”, “mộc” ghép lại là chữ “Lê”, “lạc” là nơi, ý nói nhà Lê mất. “Bát”, “tứ” ghép lại là chữ Lý, ý nói nhà Lý sẽ tiếp theo. “Đông”, “A” ghép lại là chữ Trần. “Di mọc tái sinh”, ý nói là cây khác sống lại, chỉ nhà Hậu Lê.
3. Trấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh
Phụ nguyên trì thống
Đế phế vi dinh.
Giải thích của tác giả: (3) Chấn cung xuất nhật (dịch là mặt trời mọc ở phương Đông); Theo bát quái thì quẻ chấn thuộc phương Đông, theo kinh dịch thì cung “chấn” thuộc về người trên, chỉ Nguyễn Nhạc. “Đoài cung vẫn tinh”, chỉ ngôi sao sa ở phía tây, ý nói nhà Tây Sơn.
4. Thập niên dư chiến
Thiên hạ cứu binh
Lời thần trước đã ứng linh
Hậu lại phải đoán cho minh mới tường.
Giải thích của tác giả: (4) Hơn mười năm chinh chiến, thiên hạ mới được yên ổn.
5. Hoá dao mộc hồi dương sống lại
Bắc Nam thời thế đạo nhiễu nhương
Hà thời biện lại vị vương
Thử thời Bắc tận, Nam Trường xuất chinh.
Giải thích của tác giả: (5) ám chỉ về việc Nguyễn Nhạc, xuất thân từ chức biện lại ở Vân Đồn, cùng hai em là Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dấy binh dẹp tan các thế lực khác lên làm vua1775.
6. Lê tồn, Trịnh tại
Lê bại, Trinh vong
Hà thời thạch mã đô giang
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
Bao giờ ngựa đá sang sông
Thì dân vĩnh Lại quân công cả làng.
Giải thích của tác giả: (6) hai câu đầu nói về quan hệ giữa vua Lê và chúa Trịnh
Bốn câu sau gắn với việc Vũ văn Nhậm đem quân ra trị tội Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Hữu Chỉnh đem vua Lê chạy theo, giữa đường Chỉnh bị bắt, vua Lê chốn đến Vĩnh Lại được dân làng che chở. Do đó, đã cùng lúc phong tước đô đốc, quận công... cho những người cứu giúp mình.
7. Chim bằng cất cánh về đâu
Chết tại trên đầu hai chữ quận công
Bao giờ trúc mọc qua sông
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non tây.
Giải thích của các tác giả: (7) Về Nguyễn Hữu Chỉnh (bằng quận công) vì lộng quyền đã bị Tây Sơn trừng phạt.
8. Đoài cung một sớm đổi thay
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn
Đầu cha lộn xuống đầu con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Giải thích của tác giả: (8) ý nói Nguyễn Nhạc suy yếu, Nguyễn Huệ nổi lên (trong Kinh dịch Đoài cung là phương Tây chỉ em, còn Chấn cung là phương Đông chỉ người anh). Trong Hán tự thì chữ Quang (trong Quang Trung) có chữ tiểu ở trên, còn chữ Cảnh (trong Cảnh Thịnh) lại có chữ tiểu ở dưới. Cảnh Thịnh là niên hiệu của Nguyễn Quang Toản (con Quang Trung). Hai đời vừa được mười bốn năm 1789- 802.
9. Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
Tin dê lại mắc phải mồi đàn dê
Dục lòng chim chích u mê
Tập trên, tứ dưới, nhất đè chữ tâm.
Giải thích của tác giả: (9) Theo chữ Hán thì đầu chữ “phụ” ghép với chữ “nguyên” thì thành chữ Nguyễn. ở đây muốn nói đến Nhà Nguyễn đã dần dần mở cửa cho Pháp vào xâm lược nước ta (“dê” ở đây là Pháp – Tây dương). Cũng theo chữ Hán, thì chữ Đức gồm chữ “thập” ở trên, dưới là chữ “tứ”, dưới nữa là chữ “tâm”. Kết hợp với chữ Dục ở đầu câu này muốn ám chỉ Dục Đức bị phế bỏ.
10. Để loài bạch quỷ Nam xâm
làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi lần lần
Cho hay những gã công hầu
Giầu sang biết gửi nơi đâu chốn này.
Giải thích của tác giả: (10) Nhà Nguyễn đưa dân vào vòng nô lệ và ba vị vua yêu nước ( Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân) bị Pháp bắt đi đày, còn “một ở” là Khải Định.
Sửa bởi hiendde: 26/06/2012 - 06:02
hiendde
26/06/2012
11. Khi cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam, Đông tới Tây
Tan tác Kiến kiều An đất nước
Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây.
12. Sơn Lâm nổi sóng, mù Thao cát
Hưng địa tràn dâng, Hoá nước đầy
Một ngựa, một Yên ai sùng Bái
Cha con người Vĩnh, Bảo cho hay
Giải thích của tác giả: (11) và (12) Nói về khởi nghĩa Yên Bái của Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo:
Khi cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung nam, Đông tới Tây
Tan tác Kiến kiều An đất nước
Xác sơ Cổ thụ, sạch Am mây
Sơn Lâm nổi sóng, mù Thao cát
Hưng địa tràn dâng, Hoá nước đầy
Một ngựa, một Yên ai sùng Bái
Cha con người Vĩnh, Bảo cho hay.
Bài thơ trên, các từ ghép lại là những địa danh và sự kiện có liên quan đến khởi nghĩa Yên Bái.
- Yên Bái là nơi đêm 9-3-1930 Nguyễn Thị Giang tổ chức lực lượng tấn công vào thành Yên bái do thiếu tá Le Taron chỉ huy.
- Lam Thao, Hưng Hoá là nơi Nguyễn Khắc Nhu tổ chức tiến công.
- Vĩnh Bảo là nơi Trần Quang Diệu (người làng Cổ Am) tấn công vào huyện lỵ, bắt tri phủ Hoàng Gia Mô.
- Vì ông Trần Quang Diệu ở Cổ Am, nên sau đó Pháp đã huy động máy bay triệt hạ làng Cổ Am.
13. Tiền ma bạc quỷ trao tay
Đô, Môn, Nghệ, Thái dãy đầy can qua
Giữa năm hai bảy mười ba
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.
Giải thích của tác giả: (13) Hai câu đầu ứng với việc Pháp đã thu số bạc để phát hành ra tiền giấy, làm cho nhân dân điêu đứng. “Đô, Môn, Nghệ, Thái” là các cuộc khởi nghĩa ở Đô Lương, Hóc Môn, Nghệ An và Thái Nguyên. Hai câu tiếp, ứng với việc tên toàn quyền Pháp Pasquier, dịch sang chữ Hán là Bát Kê (tám gà) chết trong tai nạn máy bay năm 1938 khi chở tài liệu mật từ Đông Dương về Pháp.
14. Rồng nằm bể cạn dễ ai hay
Rắn mới hai đầu khó chịu thay
Ngựa đã gác yên không người cưỡi
Dê không ăn lộc ngoảnh về tây.
15. Khỉ nọ ôm con người khóc mếu
Gà kia vỗ cánh trập trùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.
Giải thích của tác giả: (14) và (15) chỉ những biến cố trong các năm: Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
16. Nói cho hay khảm cung ong đạy
Chí anh hào biết đấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài.
Giải thích của các tác giả: (16) ý nói, gặp người có đạo đức, nhân nghĩa, thì tự nhiên mọi người tin theo ngay không phải nói năng gì nhiều.
17. Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên
Đại tam tứ ngũ lai niên cũng gần.
Giải thích của tác giả: (17) Vào những năm 1930 đầu triều Bảo Đại, đất nước gặp khó khăn do thiên tai, Pháp chủ trương thay tiền Bảo Đại bằng đồng Khải định (ba con đổi lấy một cha) làm cho dân chúng càng cơ cực
18. Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.
Giải thích của các tác giả: (18) Năm 1945, Bảo Đại thoái vị, nguyện làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ, nhưng rồi cũng bỏ trốn ra nước ngoài.
19. Gà kêu cho khỉ chạy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
Giải thích của tác giả: (19) Nói đến việc kết thúc triều đại nhà Nguyễn vào năm 1945, cuối năm thân (khỉ) chuyển sang Dậu (gà). Theo chữ Hán thì chữ “phụ” và chữ “ nguyên” ghép lại thành chữ Nguyễn.
20. Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.
Giải thích của tác giả: (20) ý chỉ việc vào tiết thanh minh cuối năm Ngọ (1954) đầu năm Mùi (1955), tám vạn lính Cụ ** về Thủ Đô Tràng An, kết thúc tám mươi mốt năm “cửu cửu” (là chín lần chín bằng tám mươi mốt), tám mươi mốt năm nô lệ, tính từ năm 1873 đến năm 1954.
Sửa bởi hiendde: 26/06/2012 - 09:33
Rung Bắc sang Nam, Đông tới Tây
Tan tác Kiến kiều An đất nước
Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây.
12. Sơn Lâm nổi sóng, mù Thao cát
Hưng địa tràn dâng, Hoá nước đầy
Một ngựa, một Yên ai sùng Bái
Cha con người Vĩnh, Bảo cho hay
Giải thích của tác giả: (11) và (12) Nói về khởi nghĩa Yên Bái của Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo:
Khi cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung nam, Đông tới Tây
Tan tác Kiến kiều An đất nước
Xác sơ Cổ thụ, sạch Am mây
Sơn Lâm nổi sóng, mù Thao cát
Hưng địa tràn dâng, Hoá nước đầy
Một ngựa, một Yên ai sùng Bái
Cha con người Vĩnh, Bảo cho hay.
Bài thơ trên, các từ ghép lại là những địa danh và sự kiện có liên quan đến khởi nghĩa Yên Bái.
- Yên Bái là nơi đêm 9-3-1930 Nguyễn Thị Giang tổ chức lực lượng tấn công vào thành Yên bái do thiếu tá Le Taron chỉ huy.
- Lam Thao, Hưng Hoá là nơi Nguyễn Khắc Nhu tổ chức tiến công.
- Vĩnh Bảo là nơi Trần Quang Diệu (người làng Cổ Am) tấn công vào huyện lỵ, bắt tri phủ Hoàng Gia Mô.
- Vì ông Trần Quang Diệu ở Cổ Am, nên sau đó Pháp đã huy động máy bay triệt hạ làng Cổ Am.
13. Tiền ma bạc quỷ trao tay
Đô, Môn, Nghệ, Thái dãy đầy can qua
Giữa năm hai bảy mười ba
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.
Giải thích của tác giả: (13) Hai câu đầu ứng với việc Pháp đã thu số bạc để phát hành ra tiền giấy, làm cho nhân dân điêu đứng. “Đô, Môn, Nghệ, Thái” là các cuộc khởi nghĩa ở Đô Lương, Hóc Môn, Nghệ An và Thái Nguyên. Hai câu tiếp, ứng với việc tên toàn quyền Pháp Pasquier, dịch sang chữ Hán là Bát Kê (tám gà) chết trong tai nạn máy bay năm 1938 khi chở tài liệu mật từ Đông Dương về Pháp.
14. Rồng nằm bể cạn dễ ai hay
Rắn mới hai đầu khó chịu thay
Ngựa đã gác yên không người cưỡi
Dê không ăn lộc ngoảnh về tây.
15. Khỉ nọ ôm con người khóc mếu
Gà kia vỗ cánh trập trùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.
Giải thích của tác giả: (14) và (15) chỉ những biến cố trong các năm: Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
16. Nói cho hay khảm cung ong đạy
Chí anh hào biết đấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài.
Giải thích của các tác giả: (16) ý nói, gặp người có đạo đức, nhân nghĩa, thì tự nhiên mọi người tin theo ngay không phải nói năng gì nhiều.
17. Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên
Đại tam tứ ngũ lai niên cũng gần.
Giải thích của tác giả: (17) Vào những năm 1930 đầu triều Bảo Đại, đất nước gặp khó khăn do thiên tai, Pháp chủ trương thay tiền Bảo Đại bằng đồng Khải định (ba con đổi lấy một cha) làm cho dân chúng càng cơ cực
18. Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.
Giải thích của các tác giả: (18) Năm 1945, Bảo Đại thoái vị, nguyện làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ, nhưng rồi cũng bỏ trốn ra nước ngoài.
19. Gà kêu cho khỉ chạy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
Giải thích của tác giả: (19) Nói đến việc kết thúc triều đại nhà Nguyễn vào năm 1945, cuối năm thân (khỉ) chuyển sang Dậu (gà). Theo chữ Hán thì chữ “phụ” và chữ “ nguyên” ghép lại thành chữ Nguyễn.
20. Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.
Giải thích của tác giả: (20) ý chỉ việc vào tiết thanh minh cuối năm Ngọ (1954) đầu năm Mùi (1955), tám vạn lính Cụ ** về Thủ Đô Tràng An, kết thúc tám mươi mốt năm “cửu cửu” (là chín lần chín bằng tám mươi mốt), tám mươi mốt năm nô lệ, tính từ năm 1873 đến năm 1954.
Sửa bởi hiendde: 26/06/2012 - 09:33
hiendde
26/06/2012
21. Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân, Dâu niên lai kiến Thái Bình.
Giải thích của tác giả: (21) Hai câu đầu ứng với cuộc đại chiến II mở rộng vào cuối năm Rồng (Canh thìn-1940) đầu năm Rắn (Tân Tỵ–1941), nhân dân đau khổ vì chiến tranh.
Hai câu sau, đến tháng 1–1943 (cuối năm Ngọ) Liên Xô phản công ở Stalingrat và kết thúc chiến tranh vào năm 1945 (ất Dậu).
22. Chó kêu ầm ĩ mùa đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường đi trên trời.
Giải thích của tác giả: (22) Đây là năm 1946 (Bính Tuất), Bảo Đại sang Trùng Khánh rồi đi thẳng sang Pháp. Hai câu cuối chỉ cái chết của đại tướng Lơ Cléc trên đường đi bị tai nạn máy bay
23. Chuột sa chĩnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẻo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời.
24 Rồng bay văn vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời Sa tăng
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời.
Giải thích của tác giả: (23) và (24) Đều nói về sự thất bại của Pháp.
Ở câu (24) rồng qua Rắn, năm thìn (1952) qua năm Tỵ (1953), chuẩn bị hết thời hạn Sa Tăng (Pháp). Sang năm Ngọ (1954), thì trận Điện Biên Phủ thành mồ chôn thực dân Pháp.
Nguyễn Đình Minh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân, Dâu niên lai kiến Thái Bình.
Giải thích của tác giả: (21) Hai câu đầu ứng với cuộc đại chiến II mở rộng vào cuối năm Rồng (Canh thìn-1940) đầu năm Rắn (Tân Tỵ–1941), nhân dân đau khổ vì chiến tranh.
Hai câu sau, đến tháng 1–1943 (cuối năm Ngọ) Liên Xô phản công ở Stalingrat và kết thúc chiến tranh vào năm 1945 (ất Dậu).
22. Chó kêu ầm ĩ mùa đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường đi trên trời.
Giải thích của tác giả: (22) Đây là năm 1946 (Bính Tuất), Bảo Đại sang Trùng Khánh rồi đi thẳng sang Pháp. Hai câu cuối chỉ cái chết của đại tướng Lơ Cléc trên đường đi bị tai nạn máy bay
23. Chuột sa chĩnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẻo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời.
24 Rồng bay văn vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời Sa tăng
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời.
Giải thích của tác giả: (23) và (24) Đều nói về sự thất bại của Pháp.
Ở câu (24) rồng qua Rắn, năm thìn (1952) qua năm Tỵ (1953), chuẩn bị hết thời hạn Sa Tăng (Pháp). Sang năm Ngọ (1954), thì trận Điện Biên Phủ thành mồ chôn thực dân Pháp.
Nguyễn Đình Minh