←  Mai Hoa Dịch Số

Tử Vi Lý Số :: Diễn đàn học thuật của người Việt

»

Mai Hoa Dịch Số của Nguyễn văn Thuỳ



1 2 3 4 5

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011

Gia Chủ Họ Vương

Năm Dần là số thứ 3, tháng 12, ngày mồng 1, cộng tất cả là 16, gia họ Vương (chữ Vương có 4 nét) số 4, tất cả cộng lại được 20 - (2 lần 8 là 16) = 4, tức quẻ Chấn làm Thượng quái; sau gia thêm giờ Ngọ là giờ thứ 7; tổng cộng là 27 - (3 lần 8 là 24) = 3 tức là quẻ Ly làm Hạ quái. Tổng số 27 trừ (4 x 6) = 3, tức là hào 3 động thì được quẻ Lôi Hỏa Phong biến Chấn.

Cách Bố Quái

    Năm Dần 3 + tháng 12 + ngày 1 = 16 + chữ Vương 4 = 20.
    20 - (2 x 8) = 4 = Chấn.
    Giờ Ngọ 7: 20 + 7 = 27 - (3 x 8) = 3 = Ly.
<table id="table25" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%"> Chánh quái
(Lôi Hỏa Phong)

__ __
__ __ Thể
_____ Chấn: Mộc

_____ * Dụng
__ __
_____ Ly: Hỏa
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> Hổ quái


__ __
_____
_____ Đoài: Kim

_____
_____
__ __ Tốn: Mộc
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> Biến quái


__ __
__ __
_____ Chấn: Mộc

__ __
__ __
_____ Chấn: Mộc
</td></tr> </tbody></table>
    Giờ Ngọ 7: 20 + 7 = 27 - (3 x 8) = 3 = Ly.
    27 - (4 x 6) = 3 tức hào 3 động.
Lời Đoán: Nhà họ Vương này được quẻ Lôi Hỏa Phong biến Chấn, Hổ thấy Đoài, Tốn. Chấn Mộc là Thể quái, Ly là Dụng quái, Đoài là Thể quái hổ ra, lại khắc Thể cũng kỵ, tuy được Ly Hỏa chế Đoài Kim cũng không được tốt lắm. Dụng Hỏa làm Tiết Thể Khí là triệu hao tán tư tài, mỗi khi gặp năm, tháng, ngày Hỏa tất thấy triệu ấy, hoặc nhân phụ nhân gây ra tổn thất, trong gia đạo lại có nhiều nữ tử thị phi. Đến năm Hợi, Tý, Dần, Mẹo hoặc ngày tháng ấy chủ ắt có tiền tài lợi ích, vì Chấn Mộc là Thể, tuy không gặp Khảm Thủy nhưng chung cuộc lợi Thủy niên là sinh Thể khí, lại không gặp Chấn Tốn nhưng gặp năm Dần, Mẹo là năm hợp cuộc với Thể quái. Phàm có Chấn có Tốn ngôi nhà này đến năm Dần, Mẹo cùng Mộc khí, vân niên gặp thì ắt được đắc ý. Biến quái là Trùng Chấn tất có người trưởng tử có thế lực, sau 22 năm, ngôi nhà này bị cháy.



Gia Chủ Họ Điền

Cũng năm Dần, tháng 12, ngày mồng 1, giờ Ngọ cộng lại như trên được số 16, cộng thêm họ (chữ Điền có 6 nét chữ) là được 22 - (2 lần 8 là 16) còn lại 6 tức là quẻ Khảm làm Thượng quái, gia thêm giờ Ngọ số 7 + 22 được 29 - (3 lần 8 là 24) còn lại 5 tức là quẻ Tốn làm Hạ quái thì được Thủy Phong Tỉnh biến Địa Phong Thăng, hổ quái thấy Ly, Đoài. Tồng số 29 - (4 x 6) = 5, động hào 5.

Cách Bố Quái

    Năm Dần 3 + tháng 12 + ngày 1 + chữ Điền 6 = 22.
    22 - (2 x 8) = 6 = Khảm.
    Giờ Ngọ 7: 22 + 7 = 29 - (3 x 8) = 5 = Tốn.
<table id="table26" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">Chánh quái
(Thủy Phong Tỉnh)

__ __
_____ * Dụng
__ __ Khảm: Thủy

_____
_____ Thể
__ __ Tốn: Mộc
</td><td valign="top" width="25%" height="25%">Hổ quái


_____
__ __
_____ Ly: Hỏa

__ __
_____ Đoài: Kim
</td><td valign="top" width="25%" height="25%">Biến quái
(Địa Phong Thăng)

__ __
__ __
__ __ Khôn: Thổ

_____
_____
__ __ Tốn: Mộc
</td></tr> </tbody></table>
    29 - (4 x 6) = 5 tức hào 5 động.
Lời đoán: Nhà họ Điền, chiêm được quẻ Thủy Phong Tỉnh Biến quái Địa Phong Thăng, Hổ quái thấy Ly Đoài. Tốn là Thể quái thuộc Mộc, Dụng quái là Khảm thuộc Thủy là sinh, tuy Hổ quái Đoài là Kim khắc Mộc, Thể quái mà được Ly Hỏa, Hỏa tuy vô khí, kết cuộc cũng có thể chế được Kim Đoài. Tuy nhiên, năm, tháng, ngày Dậu (Đoài thuộc Dậu), ắt là có sự tổn thất. Hợi Tý (là Thủy), năm tháng, ngày Hợi, Tý ắt có tiến tài, hoặc được tài thuộc về giang biên (Thủy biên) vì Dụng Khảm sinh Thể quái Mộc (Tốn). Đến năm Dần, Mẹo thì được khoái ý lắm, vì gặp khí tỵ hoà. Nhưng trong gia đạo thường hay sinh khẩu thiệt, vì chưng quẻ Đoài.

Thể là Mộc, mà gần mùa Xuân, mừng được Khảm Thủy chỗ ở này tất nhiên là vượng phát. Sau 29 năm, ngôi nhà huỷ diệt vì 29 là số của toàn quái, nếu trong quái mà không có quẻ Đoài thì sau 29 năm ngôi nhà này cũng không có việc gì xãy đến cả.



Gia Chủ Họ Hàn

Cũng năm tháng ngày như trên là số 16 gia thêm họ Hàn 21 nét(chữ Hàn có 21 nét) tức là 16 + 21 = 37 trừ (4 lần 8 là 32) còn lại 5 là quẻ Tốn đặt làm Thượng quái. Số 37 gia thêm giờ Ngọ số 7 + 37 thành ra 44, trừ (5 lần 8 là 40) còn lại 4 là quẻ Chấn đặt làm Hạ quái. Số 44 trừ (7 lần 6 là 42) còn lại 2 là hào 2 động.

Cách Bố Quái

    16 + 21 = 37 - (4 x 8) = 5 = Tốn
    37 + 7 = 44 - (5 x 8) = 4 = Chấn.
<table id="table27" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">

Chánh quái
(Phong Lôi Ích)

_____
_____ Thể
__ __ Tốn: Mộc

__ __
__ __ * Dụng
_____ Chấn: Mộc

</td><td valign="top" width="25%" height="25%">

Hổ quái


_____
__ __
__ __ Cấn: Thổ

__ __
__ __
__ __ Khôn: Thổ

</td><td valign="top" width="25%" height="25%">

Biến quái
(Trung Phu)

_____
_____
__ __ Tốn: Mộc

__ __
_____
_____ Đoài: Kim

</td></tr> </tbody></table>
    44 - (7 x 6) = 2 tức hào 2 động.
Lời đoán: Quái biến Trung Phu (Phong Trạch Trung Phu) Thể quái là Tốn, Hổ quái thấy Cấn Khôn, Biến quái thấy Đoài khắc Thể, ngôi nhà này sau sẽ có quan tụng xảy ra năm tháng ngày Dậu sau Thân Dậu niên lai thấy bịnh hoạn. Mừng được Dụng quái là Chấn thuộc Mộc gặp Tốn là Thể cũng là Mộc, thế là tỵ hoà, đáng được năm Dần Mẹo thì tốt. Sau 31 năm gặp Thân Dậu thì ngôi nhà này bị huỷ, ví bằng không có Đoài hoặc cũng không có Khảm thì sau 31 năm, ngôi nhà này cũng không có việc gì xãy ra cả.

Như trên lấy họ của các gia chủ mà bố quẻ gọi là khỉ số, tùy theo quẻ của các gia chủ mà đoán.

Phàm các sự hôn nhân, tang sự đều cũng gia họ. Tuy vậy về tang sự thì chỉ gia một họ đủ rồi, còn việc hôn nhân là việc của hai nhà, nên phải gia hai họ.

Người ở vùng cực Bắc, không có họ thì gia tên, nếu không biết chữ để viết tên, thì lại kể từng tiếng đọc thanh âm, nếu không có tên thì tự mình ngụ ý lấy, mà biện lấy cho đúng lý.
Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011

Chiêm Khí Vật

Phàm chiêm Khí Vật không nên thấy quẻ Đoài, vì Đoài có nghĩa là tiêu diệt. Nhược bằng Khảm là Thể quái, mà có Đoài thì không sao. Nếu Càn là Thể quái, có Đoài cũng vô hại. Kỳ dư các quẻ khác mà có Đoài là không bền, tức là vật khí phá mộc. Hoặc Chấn Tốn là Thể quái, thấy Đoài là Dụng quái ắt chẳng chịu được lâu bền. Ngày phá khí là Thân Dậu cùng với năm, tháng, ngày chiếm quẻ.

Lại nữa, nếu nuôi súc vật, cũng không nên thấy Càn, Đoài khắc Thể. Gieo trồng cây cối, nếu Càn Đoài khắc thể là bất thành, nếu có thành rồi cũng bị hủy diệt bởi dao, búa, tai ách khác.

Gieo trồng nên tốt hơn là gặp Khảm. Lại nữa, muốn biết tháng, ngày hủy diệt của các khí vật, nếu Thể quái mà không bị khắc, thì lâu bền, nếu Thể quái mà bị khắc, thì chẳng được lâu bền.

Xét khí số của khí vật mà được lâu bền, thì lấy số toàn quái mà đoán niên số. Xét khí số của khí vật không được lâu bền thì dùng toàn số mà kể tháng, nếu mau hơn nữa thì dùng toàn quái số mà kể ngày

Tượng Đồ Phương Vị Bát Quái

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011

Thiệu Khang Tiết Tiên Sinh
Mai Hoa Quan Chiết Tự.

Phần III
__________________________

Bài Tựa

Diệu thay! Dịch há chẳng là lời Dịch sao? Vì rằng Dịch thư rất tinh vi, rất huyền diệu, vậy nên số cũng chẳng ở ngoài Dịch lý được. Tiên thiên, Hậu thiên có khác nhau, dùng hiệp âm (hợp cái tiếng) và thủ âm (chọn lựa cái tiếng) mà minh biện sự đắc thất, ưu lự, nắm lấy Hổ Biến chóng chầy làm Ứng. Số là do tiền định, họa phước khó lường, dùng Dịch lý làm sáng tỏ sự việc.

Ta cầu được các Thiên như: Tiên thiên, Huyền Hoàng, Linh Ứng, ngoài ra ta còncần chọn lấy Từ dịch. Quan Mai số bày tỏ lý của ngũ hành sinh khắc, suy vượng để phân định mà tránh điều dữ, đón điều lành. Hậu học lấy đó làm gương.

Lời Dịch dạy rằng: Thái cực sinh Lưỡng nghi; Lưỡng nghi sinh Tứ tượng; Tứ tượng sinh Bát quái; Bát quáii sinh vạn vật.

Thiệu Tử bảo rằng: Một phân làm hai, hai phân làm bốn, bốn phân làm tám.

Thuyết quái truyền rằng: Dịch trái với số.

Thiệu Tử nói: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Từ Càn đến Khôn, ấy là được quái vị sinh, nếu suy trở lại, thì nó cũng ngang nhau theo Tứ thời vậy. Hậu thiên có 64 quái.

Bát Quái Định Âm Dương Thứ Tự

<table id="table28" style="border-collapse: collapse" width="600" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%"> Càn là cha.
_____
_____
_____

Khảm là trung nam.
__ __
_____
__ __

Khôn là mẹ
__ __
__ __
__ __

Ly là trung nữ.
_____
__ __
_____
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> Chấn là trưởng nam
__ __
__ __
_____

Cấn là thiếu nam.
_____
__ __
__ __

Tốn là trưởng nữ.
_____
_____
__ __

Đoài là thiếu nữ.
__ __
_____
_____
</td></tr> </tbody></table>

__________________________

<table id="table29" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Trạch Hỏa Cách
biến
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
_____
_____

_____
__ __ Thể Kim
_____ * Hỏa Kim
</td><td valign="top" width="25%" height="25%">






</td><td valign="top" width="25%" height="25%">



_____
__ __
__ __ Cấn: Thổ
</td></tr> </tbody></table> <table id="table30" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Trạch Sơn Hàm
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
_____
_____

_____
__ __
__ __ Hổ Tốn Mộc
</td></tr> </tbody></table> Ly quái sơ hào dương động biến âm, biến Cấn quái. Đoài thuộc Kim là thiếu nữ. Ly Hỏa khắc. Tốn là cổ vế. Càm Kim lại cũng khắc cho nên bị thương ở cổ vế. Nhờ được Cấn Thổ sinh Càn Kim, đoán rằng không bị thiệt mạng.

Tương sinh rất tốt, thứ đến tỵ hòa.

Thể Dụng là do ở vị trí biến hào, rồi mới phân định ra Động và Tịnh. Đọng ấy là quẻ Dụng, Tịnh ấy là quẻ Thể.

Lại như Ly là tứ quái, Càn là cửu quái, Khảm là tam quái, Tốn là thất quái, Khảm là bát quái, Đoài là nhị quái, Chấn là ngũ quái, Cấn là nhị quái và Tốn là lục quái.

<table id="table31" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Địa Lôi Phục quái
biến
</td><td valign="top" width="25%" height="25%">
__ __
__ __
__ __

__ __
__ __ *
_____ Thể Thổ Dụng Mộc Kim
</td></tr> </tbody></table> <table id="table32" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Địa Trạch Lâm
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
__ __
__ __

__ __
_____
_____ Thổ Thổ
</td></tr> </tbody></table>
    Mộc là Dụng hào, đoán ra là vật mềm, là thể văn chương, giảng ra là kim chỉ nam (la kính).
<table id="table33" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Thiên Trạch Lý quái
biến
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____
_____
_____

__ __ *
_____
_____ Thể Dụng Kim Kim
</td></tr> </tbody></table> <table id="table34" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">

Càn quái
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____
_____
_____ Kim Mộc Hỏa.
</td></tr> </tbody></table>
    Quẻ này đoán ra là vật bằng sắt, tức là cái kéo cắt tóc.
<table id="table35" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Trạch Hỏa Cách
biến
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
_____
_____

_____
__ __ *
_____ Dụng Kim
(Có lẽ sai, quẻ này phải là: Hỏa Trạch Khuê)
</td></tr> </tbody></table> <table id="table36" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Phệ Hạp quái
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____
__ __
_____

__ __
__ __
_____ Hỏa Kim Hổ Mộc
</td></tr> </tbody></table>
    Quẻ này Dụng hào Mộc; Thể Hỏa, mùa Hja Hỏa thì vượng tính sinh Thổ, tất thị là vật bằng đất.
<table id="table37" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Quy Muội quái biến
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
__ __ *
_____

__ __
_____
_____ Dụng Mộc
</td></tr> </tbody></table> <table id="table38" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Hỏa Trạch Khuê quái
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____
__ __
_____

__ __
_____
_____ Thổ Thủy Hổ Hỏa
</td></tr> </tbody></table>
    Dụng hào thuộc Mộc, biến Hỏa, Thể quái thuộc kim, từ hào biến quái thành Cấn Thổ năng sinh Kim, đoán ra là sắt.
<table id="table39" style="border-collapse: collapse" width="526" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="41%" height="25%">





Trạch Thiên Quải quái biến
</td><td valign="top" width="46%" height="35%"> __ __
_____
_____

_____
_____
_____ * Thủy Thể Kim Thổ Kim Kim
</td></tr> </tbody></table> <table id="table40" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">

Đoài quái
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
_____
_____ Kim Hổ Kim.
</td></tr> </tbody></table>
    Quẻ này nếu chẳng phải loài Kim thì ắt là loài đá, ấy là cái dĩa bằng đồ sứ vậy.
<table id="table41" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Trạch Hỏa cách quái biến
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
_____
_____

_____
__ __
_____ * Thể Kim Hỏa
</td></tr> </tbody></table> <table id="table42" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">

Cấn quái
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____
_____
_____ Kim Hổ Thủy.
</td></tr> </tbody></table> Quẻ này là Trạch Hỏa Cách là thiếu nữ, vật gần là Khẩu (miệng), vật xa tượng trưng cho Dương (dê); Nội Ly là trung nữ, vật gần là Mục (con mắt), vật xa là Trĩ (chim trĩ). Sơ hào biến Cấn quái là Thổ; Thổ năng sinh Kim, thì giúp cho Đoài là em thứ; trừ bỏ sơ hào, dời lên tứ hào lại thành Tốn Mộc, vì vậy mới bị thương ở vế, nhờ được sơ hào biến cấn Thổ; Thổ sinh Đoài Kim, cho nên chỉ bị thương không đến nỗi thiệt mạng.

Gần thì ví vào chư thân ở Bát quái: Càn là đầu, Khôn là bụng, Chấn là chân, Tốn là bắp vế, Khảm là tai, Ly là mắt, Đoài là miệng, Cấn là tay. Ấy thuộc về thân người vậy.

Ở xa thì ví vào chư vật: Càn là mã (ngựa), Khôn là ngưu (trâu), Chấn là long 9rồng), Khảm là thỉ (con heo), Tốn là kê (con gà). Ly là trĩ (chim trĩ), cấn là cẩu (chó), Đoài là dương (dê). Ấy thuộc về súc đạo.

<table id="table43" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">





Thiên Thủy Tụng quái biến
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____
_____
_____

__ __
_____
__ __ Thể Kim Dụng Kim Kim
</td></tr> </tbody></table> <table id="table44" style="border-collapse: collapse" width="500" border="1" cellpadding="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%">

Đoài quái
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
_____
_____ Kim Mộc Hổ Hỏa.
</td></tr> </tbody></table> Thiên Thủy Tụng quái, biến Đoài vì muốn cầu tài, nhận thấy Thể quái sinh, cho nên khí bị lộ ra ngoài, thế là tài không có, lại nữa gặp quẻ Ly là Hỏa khắc Kim. Như vậy là ngày ấy, giờ Ngọ, có khách tới ăn, yêu sách rượu, rồi trở thành tiêu hao vậy.
Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011



Phép Bí Truyền Về Chiêm Bốc

Phàm chiếm quẻ thường sự (việc không quan trọng lắm) để biết tốt xấu, phải xem trong quẻ, có quẻ nào sinh Thể, thì cái sẽ ứng rất mau, rồi xem quẻ sinh Thể trong mục Bát quái thời tự để đoán thời kỳ, nếu quẻ sinh Thể là quẻ Dụng, thì sự việc thành tựu, nếu sinh Thể là Hổ quái, thì đoán dần dần mới thành, nếu sinh Thể là Biến quái, thì chậm hơn. Ví bằng có quẻ sinh Thể.

Lại có quẻ khắc Thể lẫn lộn thì sự việc sẽ gặp trở. Sự xấu tới cũng chưa đầy đủ rõ ràng, cần xem quái khí của các quẻ khắc Thể, trở bao nhiêu ngày, như Càn khắc Thể thì trở một ngày, Đoài khắc Thể thì trở hai ngày, cứ như vậy mà suy.

Như chiêm thường sự mà không có quẻ sinh Thể, lại có quẻ khắc Thể, tất sự việc không tốt, còn không có quẻ khắc Thể, thì sự tất thành đạt được.

Còn như chiêm quẻ thuộc sự việc quan trọng xem trong quẻ, nếu có quẻ sinh Thể thì sự việc có thể cứu vãn được, vô hại, nếu không có quẻ sinh Thể, thì sự việc không được tốt. Muốn luận về nhật kỳ xem trong quẻ có quẻ sinh Thể, ắt sự việc sẽ ứng vào ngày quái khí của quẻ sinh Thể, nếu có quẻ khắc Thể thì sự việc sẽ thất bại vào ngày quái khí của quẻ khắc Thể. Cần phải lanh trí mà xét đoán mới được.

Thể, Dụng, Hổ, Biến Pháp Thuật

Đại phàm xem quẻ lấy Thể làm chủ, Hổ, Dụng, Biến đều là Ứng quái. Quẻ dụng rất là khẩn thiết, Hổ quái là thứ khẩn, Biến quái là thứ khẩn hơn. Vì cớ ấy mà gọi Dụng quái là ứng tức thời, Hổ quái là trung gian ứng, còn Biến quái là kết cục của sự chiêm quẻ.

Song le: Hổ quái phải phân ra có: Thể quái hổ ra; có Dụng quái hổ ra. Nếu Thể quái ở trên (phía trên), thì Hổ ở trên tức là Thể hổ ra; Dụng quái ở dưới (phía dưới) thì Hổ ở dưới lại là của Dụng hổ ra.

Trái lại, nếu Thể quái ở dưới, thì hổ ra cũng nằm dưới, còn quẻ Dụng nằm trên, hổ ra cũng nằm trên. Quẻ Hổ của Thể hổ ra rất là khẩn, rồi mới tới quẻ Hổ của dụng khẩn.

Ví như quẻ Quan Mai là Hằng quái (Lôi Phong Hằng), Hổ thấy Đoài và Càn Đoài là thể quái, Hổ thấy nữ tử bẻ bông. Ví như càn là Thể, Hổ sẽ thấy lão nhân bẻ bông. Xét Đoài Càn đều khắc Thể hết, chỉ lấy Đoầi mà không lấy Càn. Như vậy là cách phân chia giữa Thể, Dụng và Hổ. Đại phàm, xem quẻ nếu Biến quái khắc mà Thể, thì sự việc hậu lai không được tốt; nếu Biến quái sinh Thể và tỵ hòa thì sự biệc cuối cùng có cát lợi. Như vậy là pháp thuật của Dụng, Hổ và Biến vậy.

Pháp Thuật Về Thể Dụng Sinh Khắc

Phàm chiếm quẻ, thì lấy quẻ mà phân ra Thể Dụng, Hổ Biến, tức là dựa vàolý của Ngũ Hành, để đoán cát hung, lẽ tức nhiên lý sinh khắc là do ở Nội, Ngoại, Thể, Dụng, Hổ, Biến mà xét đoán.

Ví bằng, Ngoại quái tất phải minh định cái lý cho tinh vi của sự chân sinh và chân khắc, của ngũ hành mới định khinh hay trọng, thì họa phước ứng ngay tức thì. Sao vậy? Thí dụ như Càn Đoài thuộc Kim là Thể quái gặp Hỏa thì khắc. Song le có chân Hỏa thật sự, và có Hình sắc Hỏa. Chân Hỏa mới thực sự là khắc Kim, còn Hình sắc Hỏa thì không tốt, mà Hình sắc Hỏa thì không khắc, mà chỉ không được thuận mà thôi.

Thí dụ: Thấy Hỏa ở trong lò nung, đốt, hoặc Hỏa ở bếp nấu, ấy thật là chân Hỏa chân khắc vậy; lại như Hỏa ở đèn, đuốc, lửa cháy có ngọn lửa, tức là chân Hỏa, nếu Càn Đoài là Thể mà gặp các thứ Hỏa đó là không tốt. Còn như Hình sắc Hỏa như ánh lửa, lửa ở cây cỏ mục, tức là Hình sắc Hỏa, không phải thật chân Hỏa thì ví dù Thể là Càn Đoài cũng chẳng ngại. Còn như Hỏa ở một cây đèn nhỏ, một cái đóm nhỏ, tuy là chân Hỏa nhưng nhỏ và ít, thì kể như khinh (nhẹ), chỉ bất lợi chút đỉnh thôi.

Bây giờ, như Chấn, Tốn thuộc Mộc là Thể, lẽ tự nhiên gặp Kim thì khắc. Song le, loại kim như vòng, xuyến, khuyên vàng, lại như loại kim ở cái miệng bát, cái lư, cái mâm làm bằng kim khí, như đồng, bạc, chì, kẽm, sắt vụn vặt tuy là loài chân Kim mà làm sao khắc được. Mộc chỉ sợ nhất là loài Kim như gươm sắc, dao bén, búa chặt, cưa đục: Chấn Tốn mà gặp phải thì rất xấu.

Lại như Ly là Hỏa là Thể gặp phải Thủy thì rất tối kỵ. Nhưng thí dụ như hình sắc đen, thể ẩm thấp như huyết cũng thuộc Khảm Thủy, vốn kỵ nhưng thật ra thì chẳng hại gì. Tất cả các quẻ trên là Thể quái, mà gặp Ngoại ứng khắc Thể, tất phải luận cái khinh và trọng mà đoán.

Xét về nhứng cách sinh Thể, cũng nên minh biện rõ ràng Thổ như gạch, ngói cũng đều là đất thuộc Khôn, nếu gặp được Kim thì Thổ sinh Kim, còn gạch ngói thì không thể sinh Kim được.

Cây cối, củi đốt đều thuộc Mộc cả, gặp Ly Hỏa thì khắc, nếu là cái đuốc thì chống khắc Hỏa; còn như cây lớn mà chưa đốn xuống thì sinh Hỏa đâu có chống được.

Thể là Mộc mà gặp Thủy thì điềm phước đức, nhưng như sữa, máu huyết đều là Thủy cả, gặp những loại như vậy ví dù là Khảm mà sinh Mộc, như thế đó đều gọi là loại khinh cả.

Ngoài ra ngũ hành sinh khắc, đều phải phân rõ ràng từng loại mà đoán.

Thể, Dụng Suy Vượng Pháp Thuật

Phàm Thể quái phải vượng, khắc Thể quái phải suy, khí quái của Thể như mùa Xuân thuộc Mộc, Hạ thuộc Hỏa, Thu thuộc kim, Đông thuộc Thủy, bốn tháng tứ quý thuộc Thổ, đều thuận với thời tiết cả, nên gọi là thừa vượng khí. Nếu có tha quái khắc thì cũng vô hại. Dụng quái, Hổ quái, Biến quái mà vượng thì tốt. Chẳng những chỉ không nên có khí vượng của quẻ khắc Thể, mà khí của Thể quái lại suy thì cũng không tốt được.

Chiêm quẻ nếu gặp phải như vậy thì ví như chiêm bịnh, ắt phải chết. Chiêm tụng sự ắt phải thất bại, nếu không phải là chiêm bịnh hay chiêm tụng sự mà là chiêm thường sự đi nữa, thì cũng phải đề phòng bịnh hoạn, quan tai.

Muốn biết nhật kỳ xảy ra, hay gặp phải thì cứ xét ngay khí quái của quẻ khắc Thể, tức ta lấy thời kỳ đó vậy. Trái lại, khí của quái Thể vượng, mà khí của quẻ sinh Thể lại vượng nữa, thì sự việc rất tốt, mau chóng thành đạt, muốn tìm cái sự xuất phát lúc nào, cứ xét ngày giờ của quẻ sinh Thể là biết. Nhược bằng Nội quái và Ngoại quái có nhiều cách sinh Thể, mà Thể quái tuy là suy thì cũng không hại lắm. Nếu nội, Ngoại đều không có quẻ sinh Thể, tuy là Thể quái có nhiều quẻ đồng hành với Thể (thuộc vào hành nào đó, giống như hành ở Thể quái) là suy quái vậy, rúy cục cũng không được tốt.

Vì lẽ ấy, cho nên Thể, Dụng cần phải xét thịnh suy cho tinh tường.

Thể, Dụng Động Tịnh Pháp Thuật

Phàm chiêm quẻ, quẻ đã bố (bày, dàn ra) rồi, và đã phân định Hổ, Biến, Thể, dụng rồi phải lấy cả Nội, Ngoại quái mà xem có động hay không động, chẳng động thì chẳng xem, mà cũng chẳng đoán cát hung, hối lận, do động mà sinh ra.

Va, Thể quái là tịnh, Hổ quái cũng tịnh, Dụng quái, Biến quái đều động hết, ấy là Nội quái động tịnh. Lấy ngoại quái mà nói, thì phương ứng, Thiên thời ứng, địa lý ứng cũng là tịnh hết, còn nhân sự ứng. Khí vật ứng lại thuộc về động. Khí vật vốn bản chất là tịnh, nếu người cầm khí vật mà tới, tức là động như: Càn là ngựa, Khôn là bò trâu đều là động. Nước ở giếng, ao, đá đất ở núi đều là tịnh, nếu có người múc, gánh nước đó và có người đem hay chở đất đá đó, thì tất nhiên nước, đá đất đó phải động cho nên phải nhờ ứng của ngoại quái. Xét cái động mà đoán cát hung, sự động đó là triệu tốt, là sự việc tốt thì quẻ rất chóng; sự động đó là triệu xấu, là sự việc xấu, thì quẻ ứng cũng rất mau, không thấy động mà ứng, thì sự việc chưa thấy được cát hung, ấy là Ngoại quái: Thể Dụng Động Tịnh vậy.

Chiếu theo quẻ động tịnh, như ta chiêm quẻ, tức là ta tịnh, mà xét đoán cái động của sự việc. Như trên toán Mai Hoa, thấy hai chim sẻ tranh nhau cành mà đậu, bị rớt xuống đất; con bò rống, con gà gáy, tiếng kêu, tiếng gáy tỏ ra bi thảm; như cây khô bị gãy đều là vật bị động hết, ta dùng cái Tịnh của ta mà xét đoán.

Lại như ta ngồi là ứng chậm, ta đi là ứng mau, ta đứng thì nửa mau nữa chậm, ấy là do cái lý của Động Tịnh vậy.

Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011



Chiêm Tọa Đoan Pháp Thuật

Tọa đoan nghĩa là lấy chỗ ta ngồi là chánh giữa, bát vị bày ra tám phương, xem quẻ quyết đoán , không nên cố chấp ý kiến của mình, mà phải theo cái ứng ngồi làm đích xác.

Xét bát quái bát phương ứng triệu, như vậy gọi là chiêm quẻ theo ứng của tọa đoan, tùy theo phương quái sinh khắc mà định cát hung của người:

- Cung Càn: có Thổ sinh, hoặc cung Càn có triệu tốt, thì người tôn trưởng, lão nhân có hỷ sự, nếu quẻ Càn có Hỏa khắc, hoặc triệu hung, ắt người tôn trưởng, lão nhân chắc có ưu sự.

- Cung Khôn: có Hỏa sinh, hoặc cung Khôn có triệu tốt, thì mẫu thân hoặc chủ âm nhân có sự vui mừng, Khảm cung thấy khắc hoặc có triệu hung, thì chủ lão mẫu, âm nhân có tai ách.

- Cung Chấn: có Thủy sinh và Đông phương Chấn cũng có triệu tốt, chỉ sự vui thuộc về trưởng tử, trương tôn, nếu thấy khắc hoặc thấy hung triệu, trưởng tử, trưởng tôn sẽ bất lợi.

- Cung Khảm: nếu thấy ngũ kim hoặc cát triệu, chỉ người trung nam có lợi, nếu thấy Thổ khắc hoặc thấy hung triệu, người trung nam có sự ưu phiền.

- Cung Ly: tốt nhất là gặp Mộc sinh, hoặc được cát triệu thì trung nữ có sự vui, nếu gặp khắc hoặc thấy hung triệu, người trung nữ bị tai ách.

- Cung Cấn: thuộc về thiếu nam, gặp được Hỏa sinh, hoặc thấy cát triệu thì tốt cho người thiếu nam, nếu gặp khắc lại gặp hung triệu, người thiếu nam bị tai ách, nếu xem về sinh sản chắc không nuôi được.

- Cung Đoài: thuộc thiếu nữ, nên gặp Thổ sinh, thấy ứng lành người thiếu nữ được an vui hỷ sự, nếu hỏi về bịnh, gặp quẻ Càn nếu bị khắc, bị bịnh ở đầu; Khôn cung thấy khắc, bịnh ở bụng; Chấn thì bị ở chân; Tốn ở vế; Ly ở mắt; Khảm ở tai và huyết; Cấn ở tay, ngón tay; Đoài ở miệng, răng. Nếu khắc tất phải thụ bịnh.

Vả lại trong tám đoạn (tám nguyên nhân) nói trên, đoán là do người có biệt tài chiêm bốc và ý đoán giỏi. Nay dẫn giải pháp thuật tọa đoan, để làm lệ án vậy.(Hình như thiếu cung Tốn)

Pháp Thuật Chiêm Bốc Khắc Ứng

Khắc Ứng có nghĩa là khắc kỳ ứng nghiệm. Trong pháp chiêm bốc nếu không có khắc ứng thì không thể biết được thời kỳ, lúc nào các sự việc cát hung, thành bại, vậy cho nên khắc ứng rất cần thiết cho quẻ. Song le, sự khắc rất khó biện, có lúc dùng số để biện khắc, có lúc dùng lý mà biện khắc, đều phải cần yếu mà bàn đến.

Dùng số mà khắc kỳ ắt phải minh tường cái lý. Như bói xem gia trạch, lúc mới xây cất, nam nữ lúc mới kết hôn. Phần mộ lúc mới chôn. Khí vật, vật dụng lúc mới sắm, đều lấy năm tháng ngày giờ khởi tạo, rồi gia số sự vật mà bố quẻ, đã thành quẻ rồi, xét xem thể Dụng, Hổ Biến toàn quái mà ước định thời kỳ, như xét về sự đoán mau, chậm mà định kỳ.

Như Ốc trạch, phần mộ là thuộc về trường cửu, về ốc trạch phải lấy số của toàn quái mà định thời kỳ chung cuộc của ốc trạch, vì ốc trạch cũng có thời kỳ hủ hoại.

Phần mộ, cũng có thời kỳ hủ hoại, tuy nhiên chiêm về phần mộ chỉ xem cho biết tốt xấu thôi chứ không có định thời kỳ hủ hoại.

Về hôn nhân lâu cũng chẳng qua niên số của quẻ, lấy toàn quái mà đoán, lâu cũng bằng bằng sự trường cửu của ốc trạch vậy. Tuy nhiên, xem hôn nhân chẳng chỉ muốn biết sự tốt xấu mà thôi, chứ không định thời kỳ. Ví bằng muốn biết kỳ tốt xấu thì lấy năm, tháng của quẻ sinh Thể hay tỵ hòa mà định thời kỳ tốt và lấy năm tháng của quẻ khắc Thể mà định thời kỳ không tốt.

Chiêm khí vật như đất đá là chất trường cửu, loài thảo mộc thuộc loại ít lâu bền; lâu thì lấy số toàn quái làm niên kỳ, còn ít lâu thì lấy số toàn quái làm nguyệt kỳ và ít lâu hơn nữa thì lấy số toàn quái làm nhật kỳ.

Như cái nghiên mài mực, thì lấy số toàn quái kể niên kỳ, chí như cái bút mực không lẽ cũng lấy số toàn quái mà kể năm sao? Phải kể là nhật kỳ mới được, như thế gọi là định kỳ, khắc ứng cho khí vật.

Tiên sinh quan Mai và Mẫu đơn, là loài hoa thuộc loại sớm nở chiều tàn, cho nên lấy lý mà suy, thì chẳng có thể nói sự lâu bền dài ngày được.

Lại như ở quẻ Hậu thiên, lão nhân, thiếu niên, gà gáy, bò rống, dùng phương quái hợp với vạn vật quái số mà đoán, các sự vật như lão nhân, thiếu niên, gà gáy, bò rống, đều cũng lấy nhật kỳ mà đoán thôi. Ví như chiêm sự vật gì về loại trường cửu, lấy ngày làm tháng, lấy tháng làm năm.

Như chiêm về sự tầm thường (không quan trọng lắm) mà muốn biết rõ cái sự, muốn định khắc kỳ thì lấy số toàn quái, xét cho kỹ càng, lấy quẻ sinh Thể để định kỳ cát ứng, lấy quẻ khắc Thể định kỳ hung ứng, xa thì lấy số toàn quái kể năm, gần thì lấy số tòan quái kể tháng, còn gần nữa thì lấy số toàn quái mà kể ngày.

Như chiêm cầu danh, nếu Càn là Thể quái, xem trong quẻ có Khôn Cấn, thì đóan tháng ngày Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, vì Càn Đoài thuộc Kim là Thể, là ứng sinh Thể. Ấy gọi là cát sự.

Lại ví như chiêm bịnh, nếu Càn là Thể quái, xem trong quẻ có Ly thuộc Hỏa, trong quẻ không có Khôn, Cấn, tức là quẻ sinh Thể, nếu còn phạm thêm hung triệu nữa, đoán con bịnh phải chết vào ngày Tý Ngọ hoặc Hỏa nhật, như vậy gọi là khắc Thể, ấy là kỳ hung của sự.

Còn như chiêm về hành nhân, lấy ngày của quẻ sinh Thể làm ngày quy kỳ; không có ngày của quẻ sinh Thể và không có ngày của quẻ tỵ hòa, thì về ắt chậm (nghĩa là không có quẻ sinh Thể hay không có quẻ tỵ hòa).

Nói theo luật lệ trên thì hoàn toàn khó tả cho hết. Học giả hãy khảo xét kỹ càng.

Vạn Vật Phú

Nhân sinh thọ bẩm âm dương, quái phân chia ra tiên và hậu.

Thông suốt sự việc đương thời, gần ví chư thân, xa ví chư vật, quan niệm ý thức của vật lý, Tịnh do ở đất, Động do ở trời. Xét vạn vật có số, Dịch số lại vô cùng, động tịnh mà biết được cũng chẳng ra ngoài Huyền thiên. Cát hung tất thấy rõ, chẳng thể tránh khỏi hiện ra trong hào tượng, trước chưa thành quái thì rấp tâm mơ ước cầu ứng nghiệm, sau đã thành quái rồi xem khắc ứng mà đoán cát hung của âm thanh, ngôn ngữ, sâm từ, hình ảnh, vãng lai, triệu chứng, đều do tâm ta chứng nhận được.

Trải qua sáu hào đã định, tam thiên thể hiện, trước tìm cái nguyên nhân của quái tượng, sau đó xét cái chân lý của khắc ứng, xem xét gặp cát triệu, kết cuộc là tốt, thấy hung triệu khó tránh khỏi điều hung.

Muốn biết sự việc của người, ắt hẳn phải dựa vào tai mắt của ta được nghe thấy. Chưa thành quẻ mà đã nghe thấy rồi, nghe thấy là cái cơ vị lai của sự việc.

Cảm nghe thấy sự huyên náo, tức chủ đấu tranh; nghe lời nói vui cười là triệu cát khánh, nghe phụ nhân than khóc thì âm chủ kiến tai; xe tới quan lai ắt thấy quan tư từ tụng; gặp xiềng khóa tức là xiềng xích tâm thân, thoảng gặp roi vọt, vì roi đòn ắt đến kiện thưa; gặp đồ tể khiêng thịt ắt cốt nhục tai ương; gặp huyết quang (gặp thứ gì có huyết, ra huyết), hại về mùa màng súc vật; gặp đồng bóng (thuộc về phù thủy), thầy thuốc, bánh bộ (đồ cho người ốm ăn), bịnh hoạn tâm môn, nghe lời nói bất chính (gian dối) ắt phạm phải gia tiên, gặp rượu thì sai lời nguyện thần linh.

Đàn bà tới, nữ tử thụ ách, đàn ông tới nam tử thọ tai, lại phải xem tượng trong Bát quái, chẳng khá chấp một lối mà bàn luận.

Quẻ tốt gặp hào tượng tốt, tất chẳng có hoạn nạn gì, quẻ xấu gặp triệu hung, không sao tránh khỏi tai nạn. Gặp người bận đồ tang, hoặc đồ âm công tất là điềm tang phục. Cầm trượng ra hiệu là triệu khấp mãn đường. Thấy người buồn tất xảy ra sự buồn; thấy người vui gặp hỷ sự. Xem xét sắc hình để quyết ý đoạn tâm, nghe cổ nhạc huyên thanh cùng thấy tửu bôi trản vật (chén rượu, đồ đựng rượu) chẳng phải nghinh hôn thì cũng tiệc yến.

Muốn biết ứng ngày nào, hãy xem hào tượng định số; Tốn5, Khôn 8, Ly 3, Khảm 6, lại xem xa gần khắc ứng để đích đoán tượng kỳ; ứng xa thì toàn quái tương đồng (theo số của toàn quái); ứng gần thì suy thời mà đoán.

Giả như quẻ Thiên Địa Bỉ, trên Thiên (Càn), dưới Địa (Khôn) là tám; lại gặp Trạch Hỏa Cách, trên Đoài là hai, Ly dưới là ba, cứ thế mà suy, muôn vàn không sai một.

Trên đây là ứng triệu nhân vật, xét suy cho rõ ràng.

Còn như điểu thú ứng triệu thì như: chim khách kêu tất thấy triệu vui mừng; chim quạ kêu là họa sẽ tới. Trâu chó, heo dê gặp ngày Kim thì lục súc sẽ bị tổn. Ngày Mộc thấy heo, nuôi heo tất vượng. Canh nhật thấy gà gáy. Đinh nhật thấy dê vượt qua, là triệu hung nhẫn chỉ sát (chém giết) Tỵ nhật gặp ngựa, Nhâm nhật gặp heo, đều là triệu hưởng lộc thực. Thấy triệu tốt trăm việc đều thông; thấy triệu xấu mọi việc đều trở trệ.

Nhược cầu tài, vấn lợi, dựa theo khắc ứng mà suy, thấy trấp thấy rương đều là dụng cụ chứa tài. Thấy dây thấy lạt, đều là vật xâu tiền (xưa ta hay dùng dây để xâu tiền thành từng chuỗi). Gặp châu báu lụa là, sự viếc đều nên. Gặp đao gặp kiếm thật là tổn hại. Suy xét toàn quái, chớ nên chấp nhất. Gặp tài thì có tài, không gặp tài thì vô ích.

Phàm gặp việc gì nguyên vẹn chỉ sự tất thành, gặp vật hư hao sứt mẻ chỉ việc ắt bại, cho đến việc hôn nhân cũng đều như vậy; gặp vật nguyên vẹn, hôn nhân thành tựu, gặp vật sứt mẻ, nửa đường đứt gánh phu thê.

Thấy củi than, chủ lo âu; thấy lúa chủ bi ai; thấy gạo mới thật kỳ (tốt); thấy đậu tất thương, thấy hài thấy dép chủ sự đều nên; thấy con cờ (kỳ), thấy thuốc (dược), cùng người ước hẹn (kỳ ước); thấy búa, rìu, cưa, đục ắt có việc tu tạo. Cơ trử lương thực là triệu đi xa. Nghe chim kêu mưu sự hư vô; nghe tiếng trống, giao dịch hoàn không. Lau mặt, dụi mày là triệu khóc rống. Cầm dao thấy huyết, đề phòng ngoài có mưu trùng độc.

Khắc ứng đã nói rõ ràng, bây giờ giải bày sự ẩm thực. Thấy nước tức là ăn uống có rượu, thịt nướng. Thấy gạo được ăn; thấy cầm cái nậm, tất được mời uống rượu. Thủy tức được ăn đồ cá tôm, hải vị. Thổ thì được ăn thịt trâu dê và rau, miến canh. Thấy dao, chày đá là được ăn thịt nướng, ấy là khắc ứng tam thiên, thông đạt được sự bí mật then chốt của vạn vật, được như vậy là huyền diệu biết bao.

Ẩm Thực Thiên

- Càn: là tượng của Thiên (trời) bền chắc mà vị thì cay. Là đầu của chim muông (con vật dùng để tế thần) - là ngựa - là heo - Mùa Thu gặp Càn, ăn uống no say; mùa Hạ gặp Càn ăn uống sơ sài; mùa Xuân thì hưởng vật thời tân(*), quả, rau các loại; mùa Đông thì ăn đồ lạnh cách đêm. Nếu cùng Khảm, thì ăn đồ giang, hồ, hải vị. Có Thủy thì ăn rau quả và trân tu (đồ ăn quý lạ).

- Cấn: là Thổ, vật nấu chín - Mùa Thu ăn cua; mùa Xuân ăn thịt ngựa, đồ thịt nhiều mà vị thì cay, dĩa bát dùng toàn đồ kiểu, đồ sứ, ly chén bằng vàng bằng ngà - Rau thì rau cần - Vật thuộc loại có lông - Khắc xuất thì ăn thịt sinh vật như ngỗng, vịt chẳng hạn - Khắc nhập thì ăn đồ rau ráng chốn thôn quê.

- Khôn: là tượng Địa (đất), có viễn khách, cố nhân đến, đồ dùng toàn đồ kiểu, đồ sứ - đồ ăn thì gạo, nếp, trái cây, món làm bằng tay thợ khéo - Tịnh là Lê, táo, ngó sen, măng tre - Động thì cá hộp, dê tươi - Không chả, không nem thì cũng thịt ướp, cũng là dạ dày, lạp xưởng, ruột - Đãi khách lại có đàn bà, khắc có khẩu thiệt - Khắc xuất thì ăn các sinh vật như chim muông. Khắc nhập thì đồ ăn nấu nhiều thứ khác nhau (lẫn lộn) - Thấy có Càn Đoài, ăn đồ thái mỏng, cắt nhỏ - Thấy có Chấn Tốn thì ăn đồ tân sinh, mà nấu theo lối cũ - Sắc đen, vàng, vị thì ngọt - Gặp Thủy Hỏa đồ ăn thì nấu chưng - Tứ thời đều là lúa gạo, lúa mì, ắt lại có mè gừng gia vị.

Phải nên xét kỹ càng, ắt đoán có hiệu nghiệm.

- Tốn: chủ văn thơ (nghĩa là có văn thơ hay danh thiếp mời nhau), thời gian vắt tắt, hòa xướng luận bàn - Có khách lạ, có thông gia, cố nhân cựu giao hoặc chủ có khách xa định kỳ phó hội - Sắc trắng xanh, chỉ tịnh ngay thẳng - vị chua hình tượng dài - Đào, lý, Mộc quả, dưa, đồ ăn chay lạt - Là cá, gà, đậu, miến, chẳng phải là đồ trợ cấp, biếu tặng, mà là đồ ăn tự tay cày bừa lấy mà dùng - Có Đoài, Càn, ăn đến sanh bịnh - Có Khôn đồ ăn tuy không khéo nấu thì cũng rán, rang, rau, dưa thô bạc - Ly thì trà sao, chè - Có Khảm thì có tửu thang, đồ ăn không có sinh vật, nửa chay nửa lạt - Có Cấn, hội lân lý, có quý nhân đồ ăn chẳng nhiều, chỉ vừa thích miệng. Dâu, quít, rau quả có đốt có lóng, đốn hái ở chốn sơn lâm, hổ báo, thỏ nai, chài lưới, bẫy, dò - Gạo, mè, miến, mì - Khắc nhập, đồ ăn nhiều mà khác nhau (lẫn lộn), bị khẩu thiệt, thị phi, âm tai (là đàn bà), kết cuộc chẳng được ăn - Khắc xuất có thịt dê - Vị ngọt, sắc huyền, hoàng (vàng).

- Khảm: tượng Thủy; thủy cận hải nội, hương vị, loài có vảy nhỏ hoặc thú bốn chân; phàm các loài vật ở nước đều là đồ ăn uống. Nơi chốn là chỗ có tiếng tiêu, tiếng sáo, tiếng trống hoặc ở chỗ lễ lạt (ý nói lúc ăn ở chỗ có âm nhạc, hoặc chỗ đám đình) - Sắc đen - Vị mặn - Khắc xuất thì có rượu, đồ ăn có sinh vật như cá, heo - là con mắt, lỗ tai, huyết - Canh nấu vị các vật, rượu, tương - Ngộ Ly, thì bàn luận văn thơ - Gặp Càn thì đồ ăn hải vị.

- Chấn: thuộc Mộc - Bạn rượu thì thô lỗ, quái gở lạ lùng - Quả của cây lớn - Rau ở vườn, rừng - Sắc xanh - Vị chua - Đồ ăn nhiều, khách hội thì ít - Đồ ăn hơi tanh, hôi giống dê, hoặc có đồ nhắm thơm lạ - Với Ly chỉ về muối, trà - Cùng Khảm thì muối và dấm.

- Ly: là giao dịch, văn thơ, hoặc thân thích, sư nho cùng dự tiệc có người lễ mão, trong tiệc có lắm kẻ anh tài - Đồ ăn nướng thui, thỉnh thoảng lại có trà, muối - Tiếp khách giữa ban ngày. Tuy nhiên có dùng nến soi sáng, cuối Xuân đầu Hạ - Phàm vật có hoa - Lão nhân chẳng nên ăn - Tâm sự chẳng yên, trẻ tuổi nên thích đáng - Nên giảng luận hửu ích - Là gà, chim trĩ, cua, rắn - Sắc đỏ, vị đắng - Tính nồng nhiệt khí thơm - Gặp Khảm uống rượu sinh cãi nhau - Gặp Tốn chỉ rau, dưa sao, xào nhi dĩ.

- Đoài: thuộc bạch kim - Vị cay - Sắc trắng- Có bạo khách (kẻ hung bạo) xa tới, hoặc giao tranh với kẻ ở gần kề - Phàm động vật là dao, chày đá - Vị toan đồ cay - Đồ ăn là những thức gói, đùm, ướp muối - Rau, rau phỉ, rau lăng, củ cải, củ ấu, hành - Thịt sống, cá tươi - Vượng thì dê, ngan, ngỗng - Cùng dự tiệc có người vượt quyền hạn của mình, hoặc nữ ca xướng - Đơn (ít) chẳng có khẩu thiệt, trùng (nhiều) được hoan hỷ - Sinh xuất được ăn nhiều - Khắc xuất có hảo sự.

(*) Thời tân: vật đầu mùa.

Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011



Bài Ca Đoán Các Vật Rất Huyền Diệu

Đoán vật tuy không cần thiết lắm cho đời; nhưng các học giả cũng nên lấy đó mà nghiệm, mới biết Thánh hiền làm Dịch rất linh ứng vậy.

Vật ở đời cũng có số, vì cớ ấy nên:

    Trời tròn, đất vuông, đó là hình của vật.
    Trời huyền, đất hoàng (vàng), ấy là sắc của vật.
    Trời động, đất tịnh, ấy là ngôi thứ của vật.
    Càn cương (cứng), Khôn nhu (mềm), ấy là thể của vật.
Vì lý do đó nên bảo:

- Càn: là tròn mà cứng, quý và bền là loài kim, loài ngọc, sắc đỏ, hòn lớn, cái đầu, quả, vật ở trên; thấy Đoài là hủy, chiết; gặp Khảm bị chìm đắm; gặp Ly là loài kim nung luyện; gặp Chấn là vật chuyển động; gặp Tốn là trái cây và tròn; gặp Khôn Cấn chỉ đá ở trong đất; gặp Hỏa thì thành khí vật, Đoài là mũi nhọn của đầu kiếm - Mùa thu mà gặp có giá trị cao, mùa Hạ mà gặp thì suy vậy.

- Khôn: hình thẳng mà vuông, sắc đen và vàng, là văn, vải, xe lớn, búa - Về vật có voi, ngưu (trâu); về tínhcó ác mà động; gặp Càn vừa tròn vừa vuông, khá sang, khá bền; gặp Chấn, Tốn là khí vật dài; gặp Ly là văn chương; gặp Đoài là vàng ở trong đất ra; gặp Cấn thuộc vê loài đá đất cứng rắn.

- Chấn: sắc huyền và vàng mà có nhiều sắc xanh, là cây, tiếng, tre, cỏ lau, cỏ rậm rạp, trên mềm dưới cứng, chấn động, sợ sệt - Gặp Càn vật có giá trị; gặp Đoài cây vô dụng; thấy Cấn đá ở sơn lâm, thấy Khảm loài có hơi (khí); gặp Tốn cành là; gặp Ly có hoa.

- Tốn: sắc trắng, khí thơm, thảo mộc, cứng mềm; thấy Ly thuộc về văn thơ; thấy Đoài Càn cây vô dụng, ắt gặp kim đao; thấy Khôn Cấn loài thảo mộc; thấy Khảm Đoài vật ăn được, dài, thẳng; gặp Chấn, mùa Xuân thì sinh, mùa Hạ thì lớn - Rau quả của loài thảo mộc.

- Khảm: sắc đen, vừa tròn vừa vuông, vật mềm và thối nát, ở trong vật cứng ở chỗ ẩm thấp; phần nhiều là vật ở trong nước - Gặp Càn cứng tròn; thấy Đoài hư nát, ở chỗ nước đục ẩm thấp; gặp Chấn Tốn vật ăn được; gặp Ly là quẻ thủy Hỏa Ký Tế là giả thủy mà xuất, giả hỏa mà thành, lại là vật ứ động không thông được; gặp Đoài có đái khẩu (vật có lỗ, có miệng); cùng Chấn Tốn có cành lá, có bông hoa.

- Ly: sắc vàng, xanh, thể thì khô và dòn, tính thì trên cứng dưới mềm như đá trên núi, loài đồ gốm, đồ sành, đá nhỏ trên núi; chỗ cửa ngõ, đường xá - Gặp Càn thì cứng, gặp Đoài thì hủy nát; gặp Khôn là đất khối; gặp Tốn vật thuộc loài thảo; gặp Chấn loài cây; gặp Khảm vật ở ven sông; gặp Ly đồ gốm; gặp Chấn Tốn vật ở bờ rào, vách, tường, bờ dậu.

- Đoài: sắc trắng, tính ít nhu, nhiều cương, là hủy hoại, gãy nát, mà thấp, loài kim có miệng có lỗ mà tròn - Thấy Càn thì trước tròn, sau khuyết; gặp Cấnlà loài kim, đá vất bỏ (phế khí); thấy Chấn Tốn là vật bóc, lột, vót, gọt; thấy Khảm là vật thuộc thủy; gặp Cấn thì vật cứng nhiều; thấy Khôn mềm nhiều, lớn lên ở trong ao đầm, loài ở trong nước mềm mà được thành khí vật.

    (Thiếu quẻ Cấn)

Bài Ca Hưởng Ứng Các Sự Vật

Buổi khai thiên lập địa, lộn xộn mờ mịt nên loài người, sự cát hung hưởng ứng (tiếng vang trở lại, dội lại) càng khó tránh. Tiên hiền xưa đã để sẵn âm luật, cái chuẩn tắc đặt ra Quan Mai, làm ra Chu Dịch, sự nhiệm mầu sâu kín mênh mông, bát ngát, không bờ bến, dặt ra các thuật, nhiều lời nói hay, mà người chẳng ghi chép được.

Đại để Thể cần phải dụng quái sinh, vượng cùng có kế hoạch, mới kết cuộc có ích, tỵ hòa là tốt, khắc là xấu. Thể sinh Dụng cũng là triệu xấu.

Hỏi trời mưa, trời tạnh ráo, nếu khôg có Khảm, Đoài là nắng hạn không mưa; có Khảm, Đoài nói cho cùng thì trời mưa liên tiếp.

Hỏi trời tạnh thì chỉ có Cấn, Ly, Bí quái (tức Sơn Hỏa Bí đáp ứng mà thôi. Càn minh (sáng suốt); Khôn hối (tối tăm); Tốn đa phong (gió to); Chấn chủ sấm sét, định chẳng lầm.

Phàm chiêm nhân sự, Thể khắc Dụng, chủ sự hanh thông, khá may được tỵ hòa là tốt, khắc là hung, lại xét xem trong quẻ có quẻ nào chứng minh trạng thái.

Càn chủ công môn ấy là lão nhân, Khôn gặp âm nhu gọi là Thế ứng. Chấn là phương Đông hoặc ở sơn lâm. Tốn cũng là hoa quả phẩm ở chốn sơn lâm. Khảm thuộc Bắc phương cũng chung hàng rượu, cùng thủy tinh (người có họ tên bộ thủy), cá muối, nên lấy tài năng mà định đoạt. Ly là văn thơ, chỗ lò nung đúc loài kim thì có lợi, cũng gọi là phương Nam, nhan sắc lẫn lộn khác nhau. Cấn thuộc Đông Bắc mà cũng là sơn lâm tài(*). Đoài là phương Tây, cũng là chốn vui mừng thỏa đáng; sinh Thể, khắc Thể ghi chép lại để làm ứng chủ sự.

Phàm chiêm gia trạch, Thể quái là chủ, vượng tướng nên hiểu biết đó là lợi điều tài. Sinh Dụng bị hao tài của tán. Tỵ hòa gia thế yên vui, khắc thể là hung.

Đoán về sinh sản, Thể quái là mẹ, lưỡng nghi (cả hai mẹ lẫm con), phải sinh vượng, chẳng nên suy. Xét sự kỳ ngộ để xem trai hay gái, quẻ Càn thì dương, Khôn là âm, lại xem người đương thời (nghĩa là xem số người chẵn hay lẻ, hoặc nhiều nam hay nhiều nữ), cũng tìm xem hào nội, nhiều âm thì gái, nhiều dương thì trai. Theo số ấy, cái lý rõ ràng của Dịch.

Chiêm hôn nhân, Thể sinh Dụng tất nan thành, tỵ hòa, khắc Dụng đại cát lợi.

Chiêm ẩm thực, Dụng sinh Thể, cỗ bàn thịnh soạn, sinh Dụng khắc Thể ẩm thực tất nan; khắc Dụng ắt không, tỵ hòa ắt có Khảm, Đoài là rượu, Chấn là ngư (cá), tùy suy, vượng Bát quái mà dò xét.

Chiêm cầu mưu được xứng ý là tỵ hòa; Thể khắc Dụng thì mưu sự chậm. Cầu danh có Thể khắc Dụng nên danh; Dụng sinh thể hay tỵ hòa cũng tốt. Cầu tài, Thể khắc Dụng có tài ngay; Dụng sinh Thể hoặc tỵ hòa, ắt xứng ý.

Giao dịch, Dụng sinh Thể hoặc tỵ hòa ắt có lợi, chắc chắn khỏi lo về sau.

Xuất hành, hể khắc Dụng, hoặc Dụng khắc Thể rất được vừa ý, chỗ nào mình muốn tới; Khảm nên đi bằng thuyền; Ly nên lên đường sớm; Càn Chấn thì nên động; Khôn Cấn thì nên ngừng.

Còn hành nhân, Thể khắc Dụng sẽ về chậm, sinh Thể với tỵ hòa ắt người về sớm. Hàm tốc (quẻ Trạch Sơn Hàm) thì về mau; Hằng từ (quẻ Lôi Phong Hằng) về chậm; Thăng (quẻ Địa phong Thăng) chẳng về; quẻ Cấn bị trở ngại; quẻ Khảm ắt có hiểm họa, người nên nhìn kỹ.

Yết kiến muốn được gặp người, cần nên Thể khắc Dụng hoặc tỵ hòa, hay Dụng sinh Thể, gặp ngay được việc. Đoài chủ ngoại kiến; Tụng (quẻ Thiên Thủy Tụng) bất thân (không thân thiết lắm); Càn thì lợi đại nhân, trưởng giả.

Xem thất vật, Thể khắc Dụng, nên mau chóng kiếm tìm, theo quái tương sinh,tỵ hòa, của mất sẽ tìm thấy; Đoài tìm ở chỗ đổ nát, bờ ven giếng; Ly nên ở chỗ lò bếp phía Nam; Khôn thì ở vật vuông, dựa vào đó mà tìm.

Bịnh tật rất nên Thể vượng tướng, Thể khắc Dụng bịnh uống thuốc lành ngay, tỵ hòa ắt có cứu tinh. Thể quái mà thụ khắc, ắt là hung triệu; Ly nên uống thuốc chsn; Khảm nên uống thuốc lạnh; Khôn Thổ quái, nên ôn thổ, liệu phanh (điều thuốc nấu).

Bàn về vương vấn quỷ thần, nên lấy quái tượng mà suy, Chấn chủ hình dạng yêu quái; Tốn thì tự ải gông cùm; Khảm Cấn thì bị kẻ trầm mình và huyết nhục.

Chiên tụng sự, Dụng quái nên bị khắc, thể quái vượng tướng, chung quy đắc lý, chẳng cần người giúp sức.

Nhược xem mồ huyệt (mồ mả) ở tại chốn nào; Khảm mai táng ở chỗ đồng bằng; Tốn chôn ở chốn rừng núi; Càn ở chỗ cao ráo; Cấn ở núi; Ly ở thôn quê; Đoài bị tàn phế; tỵ hòa và sinh Thể chỗ chôn rất tốt; khắc Dụng lại rất tốt lợi.

Nhược nghe chuyện trò, phô nói vui cười, gà gáy đều ứng tốt. Vật cũng ứng điềm lành, suy lược chỉ có một lời mà suốt muôn vật.

(*) Tài: Vật của trời sinh có thể dùng được như: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011

Chư Quái Đối Nghĩa Tính Tình

    Càn cương Khôn nhu nghĩa đối nhau,
    Tỷ quái hân hoan, Khổn lo âu.
    Lâm gặp việc hay Quan phải cầu,
    Mông quái khó thông Truân chẳng mất.
    Đại súc sanh phúc Vọng (Vô vọng) họa lai,
    Thăng đã đi không hề trở lại,
    Tụy thì xum họp chẳng lúc rời,
    Khiêm vốn tự tôn, Dữ đãi(1) nhân.
    Chấn hay dấy động Cấn ngăn ngừng,
    Đoài chủ ngoại ngộ, Tốn nội tàng.
    Tùy trước Khảm sau vô chí hướng,
    Bác thể tiêu tan, Phục hồi sinh.
    Cổ thì sẵn tính hay hối cãi,
    Minh Di nội lãng, lại phùng Thương.
    Tấn chủ ngoại minh tinh thông lý,
    Ích thịnh vượng Tổn suy vi.
    Hàm mau, Hằng chậm Hoán xa lánh,
    Đồng nhân nội thân Khuê ngoại sơ.
    Giải thung dung Kiển khó mở mang,
    Ly văn mỹ lệ, Cấn quang minh.
    Độn chỉ thối thân, Cấu tượng ngô,
    Đại hữu chúng đa, Phong lắm kẻ(2).
    Khảm rủi thay gặp nhiều cản trở,
    Cấn thì dấy động chẳng lúc ngừng.
    Nhu bất tiến Tụng chẳng được an,
    Ký tế nhất định vô hậu Lữ.
    Quy muội trước tiên là phụ nữ.
    Vị tế sau cùng lại phái nam,
    đi khỏi, chắc chẳng muốn về.
    Thái đã về thì chẳng muốn lại,
    Cách khử cựu, Đỉnh(3) lại tòng tân.
    Tiểu súc là quả (góa, ít) Hạp là ăn,
    Đại quá lại điên đảo khốn đốn.
    Quái mới thật rõ ràng khoái lạc,
    Nên đem từng chữ xét tinh tường,
    Đối nghĩa tính tình từng quẻ một.
Ghi chú:
(1) Đãi: đãi ngộ người.
(2) Lắm kẻ: nhiều người.
(3) Đỉnh: đổi ra mới.

Pháp Thuật Đoán Vật Loại

Phàm đoán vật loại phải suy ở quái, xét rõ hào từ.

    - Như gặp Càn gọi là "Tiền long vật dụng" nghĩa là vật không dùng được.
    Kiến long tại điền nghĩa là vật ở trong đồng ruộng.
    Dược tại uyên là vật ở trong nước.
    Cang long hữu hối nghĩa là vật hoang phế, (hư hỏng vất bỏ).

    - Như gặp Khôn chỉ trực phương là vật vuông và to lớn.
    Quái nang võ cựu là vật gói, đùm, phong kín.
    Hoàng thường nguyên cát là vật y phục sắc vàng.
    Sắc huyền hoàng khổn ư thạch là vật bằng đá.
    Phùng thạch nhi phá khôn vu châu lâm là vật thuộc loại Mộc.
Lại nữa, nếu Hào từ không nói tới vật loại, chẳng có thể đoán được, nên xem trong mục Bát quái sở thuộc chi tượng mà suy (trang 17, 39 và 40).

Lấy Thể Dụng Để Đoán Các Vật Loại

Chiếu theo sinh khắc, chế hóa của Thể Dụng mà đoán, cực kỳ hiệu nghiệm. Như sinh Thể là vật ăn được, khắc Thể là vật uế tạp. Thể sinh vật chưa thành khí; Thể khắc vật hao vỡ, bể nát; tỵ hòa vật hữu dụng. Sinh Thể vật quý; khắc Thể vật hèn tiện; tiết khí vật phế thải.

Lại nữa, phàm chiêm các số vật, đều lấy Thể làm chủ, xem loại cứng hay mềm, còn Dụng quái thì xem hữu dụng hay vô dụng. Thể sinh thì vuông, tròn, ngay ngắn, làm được dùng được, như Dụng sinh Thể thì vật ăn được, dùng Biến quái và Hổ quái mà xét các sắc cùng số mục, Hổ quái ấy quyết đoán số mục của vật, như Hổ quái thấy Càn Đoài quyết đoán số 1 và số 2; Hổ quái thấy Khôn Cấn tức số 7 và số 8. Nhưng Hổ quái mà thấy trùng Càn, trùng Cấn, trùng Khôn, trùng Khảm, trùng Ly, đều là vật đôi (2 cái); thừa vượng thì vật số lại nhiều, nếu suy thì vật số lại ít. Ly là vật ở trong lòng trống rỗng, hoặc tay không, không có vật gì hết. Còn đoán số của vật như Hổ là Cấn quái, Tiên thên là số 7, Hậu thiên là số 8 vậy.

Lấy Vật Số Làm Thể mà Đoán

Phàm đoán các số vật, chẳng những lấy Thể quái làm Thể, mà có thể lấy quái nào nhiều hơn thì quái đó làm Thể như Càn là Kim, mà trong quái nhiều Kim thì lấy Kim làm Thể, tức nhiều cương (cứng)

Như nhiều Khôn là Thổ, thì lấy Thổ làm Thể quái, tức nhiều nhu (mềm). Quẻ Càn là Thể quái, nếu Dụng quái cũng là Càn, Hổ quái lại cũng thấy Càn, vậy Kim làm Thể, là cương (cứng) ấy vật tròn rất cứng rắn lắm vậy.

Đoán vật mà có Thể quái, Hổ quái, Biến quái mà không sinh vượng khí, tức là vật không thuộc trong ngũ hành. Đoán vật xem hào, như trong Bát quái có nhiều hào dương, tức vật nhiều cương, có nhiều hào âm, tức vật có nhiều nhu.

Lại nữa, đoán vật thấy biến tại hào 5, hào 6, tức là động vật biết bay.

Đoán Vật Mà Lấy Biến Hào Làm Chủ

Phàm đoán vật lấy Biến hào làm chủ, ứng Dụng làm ứng nghiệm. Như được quẻ Càn, sơ hào biến làm Tốn quái, tức vật thuộc Kim, con dao chặt cây. Hào hai biến làm Ly quái, tức vật thuộc Kim, nung nướng rèn đúc trong lửa. Hào ba động biến làn Đoài quái, tức vật thuộc loại Kim bị sứt mẻ, tuy tròn nhưng đã bị hư hỏng đi nhiều.

Trình bày như sau:

<table id="table45" width="500" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____
_____
_____ * Càn
</td><td valign="top" width="25%" height="25%">
biến
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____
_____
__ __ Tốn
</td></tr> </tbody></table>

Sơ hào động

<table id="table46" width="500" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____
_____ *
_____ Càn
</td><td valign="top" width="25%" height="25%">
biến
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____
__ __
_____ Ly
</td></tr> </tbody></table>

Hào 2 động

<table id="table47" width="500" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____ *
_____
_____ Càn
</td><td valign="top" width="25%" height="25%">
biến
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
_____
_____ Đoài
</td></tr> </tbody></table>

Hào 3 động

Đoán Vật Theo Khắc Ứng

Phàm đoán vật thành bại ra sao, lại xem Thể quái khắc ứng ra sao, trong thời gian thành quái rồi, mà chưa quyết đoán. Nếu thấy vật tròn thì đoán là tròn (ngoại ứng), gặp vật Thổ thì đoán ở trong đất; thấy cương kiện thì đoán vật cương kiện (cứng rắn); thấy vật mềm đoán vật mềm mà mục nát, cũ kỹ.

Đoán Vật Xu Hướng Theo Thời Tiết

Phàm đoán vật mà xu hướng theo thời tiết, mà dùng lý thì không hiệu nghiệm, như:

    Mùa Xuân được Chấn, Ly là hoa.
    Mùa Hạ được quẻ Chấn là vật có tiếng (âm thanh).
    Mùa Thu được quẻ Đoài là vật mục nát mà thành khí (khí là đồ dùng).
    Mùa Đông được quẻ Khôn là vật bằng đất vô dụng.
Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011

Đoán Vật Dùng Pháp Thuật Của Dịch

Có người lấy cái bu bằng tre đựng đồ (cái lồng), toán được quẻ Địa Thiên Thái, hào sơ biến thành quẻ Địa Phong Thăng. Hổ thấy Chấn Đoài đoán là thuộc loài thảo mộc sinh trong Thổ, sắc xanh, rễ vàng dính liền nhau (rễ chùm); vì hào từ bảo: "bạt mao liên nhự dị kỳ vững", nghĩa là nhổ cỏ có rễ quấn liền nhau, tức loài thảo mộc có nhiều rễ khô khan, ở trong đất sinh ra.

Quái tượng như dới đây:

<table id="table48" width="500" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
__ __
__ __

_____
_____
_____ *

Quẻ Thái
Sơ hào động
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
__ __
_____ Chấn

__ __
_____
_____ Đoài

Hổ quái
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
__ __
__ __

_____
_____
__ __

Biến quái
Quẻ Thăng
</td></tr> </tbody></table>
    Hổ thấy Chấn tức sắc xanh; Đoài thấy rễ vàng.
Lại như lấy cái chén úp vật, rồi bảo đoán xem, thì được quẻ Hỏa Phong Đỉnh, biến Lôi Phong Hằng, bảo rằng vật có tiếng và khí lực có giá trị, hình tròn mà nay đã hư sứt mẻ, sắc trắng, nhưng còn dùng được.

Theo Dịch từ bảo rằng: "Đỉnh ngọc huyền đại cát", nghĩa là cái tai đính nạm ngọc, tốt lắm. Hổ quái nếu thấy Càn Đoài tuy tròn nhưng hư hỏng, mở ra xem quả thật cái vòng nạm bằng ngọc đã hư cũ lắm rồi.

Quái tượng như dưới đây:

<table id="table49" width="500" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="25%" height="25%"> _____ *
__ __
_____

_____
_____
__ __

Quẻ Đỉnh
Động hào 6
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
_____
_____ Đoài

_____
_____
_____ Càn

Hổ quái
</td><td valign="top" width="25%" height="25%"> __ __
__ __
_____

_____
_____
__ __

Biến quái
Quẻ Hằng
</td></tr> </tbody></table>

Đoán Nghiệm Xem các Loại Vật
(Chớ nên khinh thường)

Phàm phỏng đoán vật nắm trong tay, thì:

    Càn thuộc Kim, vật tròn, sắc trắng, tính cứng rắn, vật báu vô gá.
    Khảm sắc đen, tính mềm dịu, vật ở gần nước.
    Cấn là vật ở trong đất như gạch, ngói, đá, có khí chất mà thành đồ dùng, sắc vàng; gặp Đoài khắc thì mềm, không có khí chất là vật hư hỏng, thương tàn.
    Chấn, Tốn thuộc loài trúc mộc, có khí chất là vật hữu dụng, vật có thể ăn được; không có khí chất là thuộc về loại trúc mộc; gặp Đoài là vật ăn được như loại cây trái, sắc xanh, có khí chất mềm, không có khí chất thì cứng; gặp Khảm là vật ở trong chỗ ẩm thấp, hoặc có khí chất, như không có khí chất là loài mộc chín quá, hư thối, mục nát.
    Ly sắc đỏ, tính mềm dịu, có thủy có mộc, mà lửa đốt cháy được, tức loài than, có khí chất là vật có giá trị, quý.
    Khôn là vật ở trong đất, sắc vàng, tính thì ôn.
    Đoài là vật hư nát, có lỗ, có miệng.
Phàm đoán vật lấy mùa Xuân là Chấn Tốn - mùa Hạ thì Ly - mùa Thu thì Càn Đoài - mùa Đông thì Khảm, đều được kể là vật dùng được, vật đã thành đồ dùng.

Trái lại không theo thời tiết kể trên, là vật khôg dùng được,cònbị mục hư xung phá,hoặc không có vật gì hết, mà là tay không vậy.

Pháp Thuật Chiêm Bốc Thập Ứng

Phàm chiêm bốc lấy Thể quái làm chủ, Dụng quái làm sự ứng là lẽ cố nhiên.hẳng những Thể quái đã làm chủ, Dụng, Hổ, Biến quái tương ứng, cũng đều để xẽmét họa phước. Tuy nhiên ngày hôm nay, toán được một quẻ dùng Thể, Dụng, Hổ, Biến rồi đoán một việc như thế; ngày hôm sau, cũng đoán được một quẻ cũng như vậy, và Thể, Dụng, Hổ, Biến cũng như ngày hôm trước, há có thể cũng đoán được như ngày hôm trước chăng? Không! tất phải nhờ vào thuyết Thập Ứng mới quyết đoán được. Trong thuyết Thập Ứng chia ra:

    Chánh ứng, Hổ ứng, Biến ứng, Phương ứng, Nhật ứng, Khắc ứng, Ngoại ứng, Thiên thời ứng, Dịch lý ứng và nhân sự ứng.
    Chánh ứng là Chánh quái ứng ra.
    Hổ ứng là Hổ quái ứng ra.
    Biến ứng là Biến quái ứng ra.
Căn cứ vào hai quái (Thể và Dụng), mọi sự chiêm bốc đều lấy đó mà đoán việc cát hung; ngoài ra còn nhiều lý khác, mà người ta không biết đến, rồi căn cứ vào mấy nghi thức trên mà đoán, thì tất nhiên quẻ không được linh nghiệm.

Vậy cho nên phải hiểu thông suốt Thập Ứng mới đoán được linh nghiệm, nếu nắm được pháp thuật đó thì rất bí yếu.

1.- Chánh ứng tức là sự tốt xấu do hai quái Thể Dụng.

2.- Hổ ứng tức là sự tốt xấu của Hổ quái.

3.- Biến ứng tức sự tốt xấu của Biến quái.

4.- Phương ứng là lấy Thể làm chủ, xem người tới chiêm ở phương vị nào tới, tức họ ngồi đứng thuộc về phương vị nào, phải nên sinh Thể quái hoặc tỵ hòa với Thể quái thì tốt; nếu khắc Thể quái thì xấu, cón như sinh cũng xấu.

5.- Nhật ứng cũng lấy Thể quái làm chủ, rồi xem quẻ mình chiêm đó thuộc về quẻ gì và Thể quái có thuộc vào sinh vượng trong ngày mình chiêm quẻ như thế nào. Quẻ ấy phải sinh Thể hoặc tỵ hòa với Thể mới tốt, chẳng nên khắc Thể và cũng chẳng nên Thể quái sinh quẻ ấy mới được.

Ngày ấy sở thuộc quái khí như: Dần Mẹo thuộc Mộc, Tỵ Ngọ thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Tý Hợi thuộc Thủy, Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc Thổ.

6.- Khắc ứng tức là pháp thuật của Tam yếu, trong lúc chiêm quẻ, tùy theo sự nghe thấy triệu tốt xấu mà đoán cát hung.

7.- Ngoại ứng tức ứng của ngoại quái, nghĩa là trong lúc chiêm quẻ, tình cờ thấy ngoại vật tới, thì phải xem ngoại vật đó thuộc về loại gì, như thấy lửa là thuộc ly, thấy nước thuộc Thủy là Khảm, thấy lão nhân thuộc Càn và ngựa, vàng bạc, ngọc, vật tròn cũng thuộc Càn; như thấy lão bà, trâu, bò, đất, gạch ngói thuộc Khôn.

Vật thấy đó tức là quái Ngoại ứng và thuộc về quẻ gì, xem quẻ đó inh khắc, tỵ hòa với Thể quái, để đoán cát hung. Nếu quẻ của Ngoại quái đó khắc Thể hay là sinh Thể thì xấu.

8.- Thiên thời ứng tức trong lúc chiêm quẻ mà trời tạnh, sáng sủa là Ly, nưa tuyết là Khảm, gió là Tốn, sấm là Chấn.

Ví dụ: quẻ Ly là Thể quái, thì nên gặp trời tạnh ráo, sáng sủa. Như quẻ Khảm là Thể quái, thì nên gặp trời mưa; như quẻ Tốn là Thể quái, nêm gặp trời gió; Chấn là Thể quái, nêm gặp trời có sấm. Hỏa mà gặp sấm là tỵ hòa, phải nêm xét kỹ sinh khắc mà định cát hung.

9.- Địa lý ứng là đang lúc chiêm quẻ mình ở chốn trúc lâm, chỗ cây cối rừng núi là thuộc Chấn Tốn; nếu mình ở giang, hà, khe, suối, ao, hồ tức thuộc khảm; nếu ở chốn thuộc ngũ kim tức thuộc Càn Đoài; nếu mình ở chốn lò, bếp, gần lửa tức thuộc ly; nếu mình ở chốn có gạch ngói, đất cát tức thuộc Khôn rồi so với Thể quái mà định cát hung, theo sinh khắc, tỵ hòa với Thể quái.

10.- Nhân sự ứng tức là khắc ứng theo rtong Tam yếu nhân sự vậy. Trong lúc chiêm quẻ, tình cờ gặp nhân sự tốt thì tốt, nhân sự xấu thì xấu. Nghe tiếng cười, vui vẻ là chủ cát khánh, gặp khóc và buồn là chủ sự buồn bã, đau khổ, lại lấy nhân sự thuộc cái quái mà luận bàn, như lão nhân thuộc Càn, lão mẫu thuộc Khôn, Cấn thuộc thiếu nam, Đoài thuộc thiếu nữ, rồi gồm ứng quái nhân sự đó mà so với Thể quái, hiện sinh khắc, tỵ hòa để đoán cát hung.

Tất cả những lý của Thập Ứng nói trên, phàm lúc chiêm quẻ mà tai nghe, mắt thấy các ứng đó rồi so với Thể quái là chủ mà đoán. Phải hiểu tường tận lý sinh khắc, tỵ hòa.

Thí dụ: chiêm bịnh chứng, trong quẻ Hổ và Biến thấy nhiều quẻ khắc Thể, mà trong bản quái lại không có quả sinh Thể thì đoán không tốt; lại xem quẻ Thê suy vượng, nếu Thể vượng cũng còn hy vọng. Nếu thể suy tức là không có phục sinh, rồi phải xem chư ứng, nếu có ứng sinh Thể, thì sự nguy cơ có thể cứu vớt được; nếu chư ứng khắc Thể quái, thì không thể nào được yên ổn.

Tất cả các cách chiêm bốc, đều dựa theo như thế mà đoán cát hung.

Luận Các Sự Việc Thuộc Thập Đại Thiên

(10 sự dời đổi, thuyên chuyển. Lấy ngày giờ mà luận, Bản văn bí mật)

1.- Hành: là đi. Chiêm quan sự chẳng vượng. Thuộc Mộc, có văn thơ. thuộc Hỏa có quan tư, tai. kim Mộc, tài tới, có khách tới. Chiêm bịnh thì chứng sốt rét, đúng cử trưa phát lên: Kim Thủy là gạo, nước uống.

2.- Lập: là đứng. Chiêm quan sự chẳng phát. Mộc Thổ cùng Kim đại tiểu khẩu thiệt. Bịnh chẳng xấu. Tài Thủy Thổ. Có quý nhân tới. Văn thư phát động.

3.- Tọa: là ngồi. Chiêm quan tư có lợi, kiện tụng không thành. Chủ tài thuộc Hỏa. Chủ hòa khuyến (khuyên hòa). Kim bại tài. Mộc đắc tài. Bịnh cuối tháng lành, lại phạm lâm Mộc thần. Có họa chẳng hung.

4.- Ngọa: là nằm. Quan tư, nằm nghiêng mà muốn trở dậy, là do chủ âm nhân sự. Kim có tài. Hỏa thì sự phát phá tài. Thủy Thổ vô tài, khó thành tựu. Thổ Mộc có tài.

5.- Đam: là gánh vác. Quan tư mắc phải người tự làm rối loạn. Hỏa cùng người bàn luận sinh khẩu thiệt. Chiêm tin tức thì được tin. Thủy Thổ đắc tài, Kim mộc có khách tới. Bịnh tứ chi trầm trọng, không cử động được.

6.- Quyện: là mỏi mệt, chán nản. Quan tư chẳng thành. Hỏa có tài, Thủy Thổ có tài. Tâm không được yên. Có quý nhân. Chủ khẩu thiệt, chẳng xấu.

7.- Khòa đầu: khòa đầu là đầu để trần, không có nón, không có khăn. Quan tư sắp có khẩu thiệt. Hỏa thì đại quan tư (có danh vọng), Thủy Thổ tỵ hòa tài vô. Tiểu nhân phân rẽ bề trên (xâm lấn). Khẩu thiệt, Bịnh ẩu khí. Phòng ám nhân, tiêu khẩu tai.

8.- Tiển: là đi chân không (không có mang giày, dép). Quan tư thì phá tài, ngoại nhân khí ám hoang mang. Hỏa chủ phá tài. Thổ chẳng xấu. Bịnh có hiếu sự đến.

9.- Hỷ: là mừng. Quan tư tự mình không có căn bản. Có ngoại nhân mới. Quan tư có rượu thịt. Với người có nhiều việc lôn xộn. Cầu tài chẳng được, chẳng xấu.

10.- Nộ: là giận. Quan tư chủ ngoại nhân khinh dễ. Chẳng thấy quan. Chủ phá tài. Dựa người để thoát thân. Kinh sợ hỏa tai. Binh xấu.

Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011

Quái Ứng
(Cùng với tiền Bát Quái định loại đại đồng, nhưng có tiểu dị, xem thì lấy Hổ quái mà tham cứu)

CÀN:

Càn là trời - cha - vua - đầu - ngọc - kim - rét băng - dỏ thắm - ngựa - ngựa hiền - ngựa già - ngựa gầy - ngựa tải đồ - trái cây (Cửu gia dịch bảo là rồng, thẳng, áo, lời nói). Như quẻ Cấu, Độn, Di, quẻ Lý, quẻ Vô vọng, quẻ Tụng, quẻ Đồng nhân, tất cả 7 quái thì quẻ Càn ở trên, cứng ở ngoài. Còn những quẻ như quẻ Đại hữu, quẻ Thái, quẻ Đại tráng, quẻ Quải, quẻ Nhu, quẻ Đại súc và Tiểu súc gồm có 7 quẻ thì quẻ Càn ở dưới, cứng ở trong. Càn Khôn cương nhu (cứng mềm; tứ phát bát biến (bốn phơng tám hướng), nhưng tùy theo lục động, tùy thời có khác nhau. Chẳng nên câu nệ một quẻ Càn, tính ôn mà cương trực. Ở Dịch về hướng Tây Bắc, chẳng ở Tý Ngọ, mà ở Tuất Hợi. Dựa vào lệ pháp thì cương hiền, sáng sủa, chẳng dựa vào lệ pháp thì cương ác, hung bạo.

Thiên Văn: Tuyết - Khí dương thạnh.

Thiên khí: Rét.

Hung đạo: Quân - Tay ná (cũng như tay súng) - Giặc - cường hoành - Đình thi (cái thây không tan, nghĩa là người ngồi như xác chết để hưởng lợi).

Quan quý: Triều quỳ - Giám ty - Thái thú - Chủ tọa.

Thân thể: Đỉnh đầu - Má mặt - Xương mép.

Tính tình: Cương kiện chánh trực - Tôn trọng - Hảo cao - Tranh đua hơn thua.

Âm thanh: Chính thanh - Tiếng Thương (ngũ âm).

Tín âm: Thiều tín - Triệu lịnh - Tiến cử - Quan thăng - Kẻ nghĩa, thân.

Sự ý: Quẻ trên là người có vẻ hình dáng bề ngoài - Quẻ dưới là bọn cường hoành.

Bịnh tật: Tay, thái dương mạch đi Huyền và Khẩu - Uy trời trừng phạt - Trên thì bế tắt, mắt đau - Hàn nhiệt.

Phục dược: Thuốc hoàn, ăn đồ vật - Bánh bằng bột màu đỏ - Bánh bò chiên - Bánh sen gói - Canh não heo - Canh đầu xương heo - Bột gạo tốt - Bánh bao.

Các quả: Lúa tẻ - Cay dẻ - Dưa - Đậu - Long nhãn - Rau lệ - Cải.

Cầm thú: Chim sẻ - chin nhạn - chim chài chài - chim ưng - chim bằng.

Y phục: Xích, huyền sắc.

Khí dụng: Cái chén tròn - Khay trà - Thủy tinh - Vòng ngọc - Đồ dùng có quy định - Quả bóng cầu.

Tài: Của cải giao dịch có nhân nghĩa - Tiền thuộc loài ngựa.

Lộc: Nhâm Thân.

Tự: Hình vuông và tròn.

Sách: 216.

Quỷ: 768.

Khôn:

Khôn là đất - mẹ, vải - vàng - bụng - hẹp hòi bỏn sẻn - đều nhau - bò - bò con - bò mẹ - xe chở đồ - văn - chúng đông - cái khớp cái mộng - ở đất vậy. Đen là Khôn ở trên Thể; ở ngoài lục quái thì mềm ở dưới, mềm ở trong - Khôn là ngôi thứ tốt, ở lệch về hướng Tây Nam trên Thân (cung Thân) - Dựa vào lý pháp là thánh hiền, không dựa vào lý pháp là đảng.

Thiên Văn: Sương mù - Giọt móc - Mây mù mịt.

Địa lý: Quận nước - Cung cửa ải - Thành ấp - Vách tường.

Nhân vật: Mẹ - Vợ - Nhà nho - Nông phu - Tăng (sư).

Hung đạo: Nô tỳ, dấu ở chỗ hoang vắng.

Quan quý: Đại thần - Giáo quan - Khảo hiệu văn tự.

Sinh dục: Nữ - Phì hậu.

Tính tình: Thuận thảo hòa hảo - Lòng tin - Ương độn - Không có tự ái.

Âm thanh: Tiếng Cung (ngũ âm).

Tín âm: Thỏa lòng đã hứa, mau chóng ứng vào ngày tháng Thìn Tuất Sửu Mùi.

Sự ý: Trì trệ - Ngu hèn - Hà tiện bỏn sẻn - Thung dung.

Bịnh tật: Tay - Thái âm thời tiết - Đau bụng - Tỳ vị bế, mạch trầm phù.

Ẩm thực: Canh lê - Thiêu, rang khô, nước đá các vật - Ngỗng - Vịt - Phổi - Ăn uống, lệ tế Thái tào - Kẹo, đường.

Các quả: Lấy vật đựng trong sọt, giỏ.

Cầm thú: Bò trâu - Ngựa cái - Con cò bể - Chim sẻ - Con quạ đen - Chim chìa vôi.

Ngũ vị: Đắng - Cay lắm - Ngọt.

Khí dụng: Cái kiệu - Cái xe - Đồ gốm - Đồ làm ruộng - Đồ bằng cát.

Tài vật: Tiền lễ thầy học - Chép lại đề - Áo thầy tu - Vải quần xiêm.

Hôn nhân: Phú gia - Nhà làm ruộng - Thương gia - Xấu - Vụng về - Hạ tiện - Bụng lớn - Trai tráng - Trì độn - Mặt vàng.

Tự: Khuê, kim tứ ngưu bàng.

Sách: 144.

Quỷ: 672.

Lộc: Quý Dậu.

Chấn:

Chấn là sấm - rồng - huyền hoàng - đường đi - đường đi lớn - trưởng tử - chân - cương quyết nóng nảy - tre non - cỏ lau.

Còn như ngựa thì: tiếng kêu hiền - Chân sau phía trái của ngựa - Chân đang nằm im mà đứng trở dậy - Cái trán.

Còn trồng lúa thì: làm sống trở lại cỏ tươi tốt (Cửu gia Dịch nói rằng: vua - ngỗng trời cái trống). Xuân Hạ tính nghiêm, cương trực chúng đều khâm phục - Thu Đông cứng mà không có uy, chẳng thể chế được vật - Chẳng thích nhàn hạ - Tính lệch lạc mà ngẫu nhiên - Dựa vào lý thì oai nghiêm, nếu không thì táo bạo - Thể Dụng quẻ trên là bay được, quẻ dưới là chạy được.

Thiên Văn: Sấm - cái cầu vồng - cáiang - chớp.

Địa lý: Nhà ở - chợ - mồ mả - chỗ nhà cửa có cây cối sầm uất - phương sở - ở chính phương Đông.

Hung đạo: ở Đông tới - người trộm nam.

Nhân vật: Thương lữ - tướng soái - thợ.

Quan quý: Giám ty - chủ quận - Quan coi về văn thư Bộ Hình - tuần kiểm - pháp quan.

Sinh dục: Trưởng nam - chuyển động kinh sợ hãi hùng

Tính tình: Đậu thì cương quyết - có quyết đoán - lúc gấp rút rối loạn, nóng nảy, bộp chộp.

Hôn nhân: Nhà quan hoạn - nhà có nghế xảo công nữ dung - tâm thần ưa động tịnh, dễ lay chuyển.

Âm thanh: Tiếng giác thượng hạ (ngũ âm) - Thượng bình thanh (ngũ âm) - Tam âm thất thanh.

Tín âm: Có hứa mà không tới.

Sự ý: Việc cũ chồng chất có tiếng mà không có miếng.

Bịnh tật: Khí tích lạnh - thượng vị - chân tay mệt mỏi - ớn lạnh thường trực - thuốc - chân thuộc thái dương - mạch hồng phù.

Yến hội: Tửu hội - ngoạn thưởng - tụ họp có định kỳ.

Thực vật: Miến - bao tử - rượu - đồ ăn - vật trái đầu mùa - Khoai lang - tiêu, dâu - mộng giá.

Cầm thú: Con ong - con bướm - con cò trắng - con hạc.

Y phục: Quần, dây lưng - dây cột - dây thắt lưng bằng lụa - đố lụa có sắc xanh, huyền, vàng - xấp lụa.

Khí dụng: Cái bàn bằng cây - cái sọt vuông đan bằng tre - bàn toán - thuyền xe - xe nhà binh - kiệu càng - đồ chén bát, dĩa - cái bình - cái chén - cái bàn nhỏ nhạc khí - trống

Tài: Kẻ âm nhân tạo ra - Tiền thuộc về trúc mộc.

Lộc: Hai bên có người giúp đỡ.

Tự: Tẩu, trúc đứng một bên - một nửa chữ Lập.

Sắc: Thanh - huyền - hoàng.

Sách: 168

Quỷ: 704

Tốn:

Tốn là cây - gió - trưởng nữ - dây thẳng - thợ - cây cối - đàn - cao - tiến thối - chẳng quả quyết - cá - gà.

Người thì góa chồng- tóc - thuận - cải tán - nhiều lớp da mỏng ở nhản cầu - bắp vế - ở gần chỗ buôn bán có lợi - Ba lần cứu xét là quẻ rối loạn nóng nảy, bộp chộp (Cửu gia Dịch bảo rằng bốc lên - giơ lên - chim sếu) - Xuân Hạ có quyền, hiệu lịnh mưu chước - Thu Đông cương nhu bất nhất - Vật làm hại cùng người thì nhún nhường - Phàm sự chẳng bao giờ thối tránh. TYốnthuộc âm, tính tình lệch lạc - Dựa vào lệ pháp thì cơ mưu có quyền, nếu không thì gian tà.

Thiên Văn: Gió.

Địa lý: Lâm uyển (chỗ nuôi thú) - vườn nuôi thú để chơi.

Nhân vật: Mệnh phụ - Dược bà (nữ bác sĩ) - Đàn bà giỏi khéo về công thuật.

Hung đạo: Nô tỳ thương lượng với nhau mà lấy, nên thu gấp thì được.

Quan quý: Người chủ ngục - Khảo giáo - Cán quan - Hưu cứu (quan lại tạm nghỉ để tra xét).

Thân thể: Tai - mắt - mật - tóc - thân mình - khẩu - tứ chi.

Sinh dục: Trưởng nữ - thai thiếu tháng - tâm địa sáng suốt.

Tính tình: Quê mùa - Keo kiệt - gian khổ - hay than khóc gào thét.

Hôn nhân: Mệnh phụ - tôn thất nữ - tiến thối - ủy thác trông cho (uốn mình tuân theo).

Âm thanh: Tiếng giác (ngũ âm) Giác trắc thanh tam, thanh tứ, thanh thượng la.

Tín âm: Triệu mệnh tin báo - sai - trạng tiến cử.

Sự ý: Tiến cử - đi trình - cứu xét kẻ oan ức - hiệu lịnh - vậng lịnh.

Bịnh tật: Tay chân giá lạnh vì thời tiết - 30 ngày - mạch nhu nhược - ẩm thực thượng vi vì nghiện rượu - sốt rét lâu ngày - đau màng ngực - thuộc về mũi - ăn đồ hột không tiêu.

Dược: Dược thảo.

Yến hội: Tiệc trong gia đình - khách tới không đầy đủ.

Các quả: Mè - bột nghiền - trà.

Cầm thú: Gà - ngan - vịt - cá - loài trùng, loài cầm biết gáy - quái thượng là loài biết bay, quái hạ là loài biết chạy.

Y phục: Áo - dây lưng - tơ - xanh - lục - biếc - trắng - tía.

Khí dụng: Đồ bằng tre, cây, nứa - dây - dây đờn bằng tơ - nhạc khí.

Tài: Khu vực lợi để làm ăm - tiền thuế - tiền tài vật - tiền của lo liệu tính toán.

Lộc: Tân (can Tân).

Tự: Một bên có bộ thảo, bộ mộc, bộ trúc.

Sách: 192.

Quỷ: 736.

Khảm:

Khảm là nước - cái rãnh - cái ngòi - trung nam - tai - heo - ẩn phục - uốn cong ra thẳng - uốn thẳng ra cong - cái cung - bánh xe vòng tròn.

Như người: thêm ưu - tâm bịnh - đau tai - huyết xấu - đỏ.

Như ngựa: cái xương sống - lòng bứt rứt - cúi đầu xuống (luồn cúi) - móng chân mỏng manh - kéo dắt - kiệt lực.

Như xe là nhiều sắc xanh - thông suốt - sáng - mặt trăng - kẻ trộm.

Như nguồn gốc mọi việc thì bền chắc - đa tâm - Xuân Hạ tính hiểm họa - chẳng sợ vong nguy - việc nhiều táo bạo - Thu Đông thì yên tịnh - trước khó sau dễ - có mưu lược - có chí can đảm - Khảm thâm độc tuy lòng hướng về bên trong - chủ lập mưu kế hiểm hại - bản tính thường.

Thể ở Bắc Khảm là vật ẩn nấp - dựa vào lý pháp thì cương - ví không dựa vào lý pháp là hãm độc.

Thiên Văn: Mặt trăng - cái ráng - mây - sương.

Địa lý: Bể rộng - nước muối - cái rãnh - cái ngòi - cầu tiêu - phương sở - ở chính Bắc - chỗ mồ mả - trong hang của chồn, thỏ.

Nhân vật: Đạo hữu - tăng đồ.

Hung đạo: Thừa dịp mà tới - dấu đầu lộ đuôi - có hư hỏng mới nên việc.

Quan quý: Quan đi tuần - quan chuyên chở tiền lương.

Thân thể: Tóc - chỗ dưới quả tim - huyết.

Sinh sản: Khó sinh - trung nam - thanh tú.

Tính tình: Tâm độc ác, thâm trầm - trí tùy nỗi khó khăn, ngoắt ngoéo.

Hôn nhân: Phú gia - nhà buôn rượu - thân gia dụng cái bản tính của mình.

Âm thanh: Tiếng vũ (ngũ âm) thượng quái - tiếng vũ bình lục thanh hạ quái.

Tín âm: Phản phúc do dự - tiểu nhân nói dối - nịnh - xỏ lá - quỷ quyệt - đạo tặc - ngục tù.

Thực vật: Rượu - vật mặn - heo - cá - hải vị - quả cật.

Bịnh tật: Chân - khí thái âm - mạch hoạt.

Phục dược: Thuốc bổ thận - hoặc tửu thủy hạ.

Các quả: Lúa mạch - táo - mai - lý - đào - ngoài mềm trong cứng có hột.

Cầm thú: Hươu - nai - heo - voi - heo con - chồn - yến - con ốc.

Y phục: Sắc xanh, đen.

Khí dụng: Đồ đựng rượu - bánh xe - xe hư.

Tài: Tiền tranh tụng - của được không công bình.

Lộc: Tuất.

Sắc: Sắc đen, trắng.

Tự: Thuộc về loại chấm thủy, chữ nguyệt, chữ cung các loại.

Sách: 168

Quỷ: (mất chữ, không rõ).

Ly:

Ly là hỏa - mặt trời - điện - trung nữ - áo giáp - mũ sắt - chiến tranh.

Như người thì bụng lớn - mắt - quẻ Càn - chim trĩ - ba ba - cua - thú ít lông - trai - rùa.

Như loài cây thì gốc cây rỗng, khô héo (Cửu gia Dịch bảo rằng: trâu, bò cái, bọt nổi trên mặt nước). Xuân Hạ tinh sáng, có màu vẻ đẹp, có đứt gãy. Thu Đông tối chẳng sáng, trước sau chẳng quyết định - Ty là đẹp đẽ - Tự hay xét mình. Bổn tính thì trực - Ở chính Nam - Dựa theo lý pháp thì văn minh, trái lý pháp thì lầm lỗi.

Thiên Văn: Mặt trời - cái ráng - chớp - tạnh ráo.

Địa lý: Cung điện - trung đường - mái nhà - nhà bếp - phương sở - chánh Nam.

Nhân vật: Tướng soái - binh lính - quan vỏ.

Hung đạo: Kẻ trộm đàn bà từ phương Nam tới.

Quan quý: Nhà văn học - giáo quan - Thông phán - Bổ nhiệm nên đi hướng Nam.

Thân thể: Tam tiêu - tiểu trường - mắt - tim.

Sinh dục: Thứ nữ - tính táo bạo, hay khóc đêm, hay khóc.

Tính tình: Thông minh - thấy sư thì minh mẫn

Tín âm: Triều tín - Văn thơ - bảo thiệp - khế ước.

Sự ý: Ưu nghi - phóng đảng - Huyên náo ồn ào - Cấp tính - hư ưu.

Bịnh tật: Tay chân - nhị quân thái dương minh, tam tướng hỏa - bịnh mắt - khí táo nhiệt - bịnh phát cuồng -

Thực vật: Bánh bao - vỏ loại trùng - vật trống rỗng trong tâm - vật nướng - nấu, sắc, đặc - cóc, quả - hột - trái cây - lúa nếp - củ sen - vật ngoài cứng trong mềm - bông của cây cỏ gai - lá cành khô.

Cầm thú: Phượng có sắc rực rỡ - con ba ba, con ốc, con trai, con cua, con kềnh - hến - thú ít lông, con cú - cút - con hạc - chim bay - dê cái.

Y phục: Sắc đỏ - hồng tía.

Khí dụng: Đồ đèn dầu lửa - vật ngoài cứng trong mềm - cái bình phong - cái màn che - ức mành mành - cây cơ - binh khí - áp giáp - mũ sắt, cái mâm - cái siêu sành - cái bình, cái tên bắn - bức tường - vật trong lòng trống rỗng - cái lò - cái bếp - xưởng đúc, lò rèn - cái bóp, cái hũ, cái lồng đan bằng tre.

Tài: Ngoại ý chi tài.

Lộc: Kỷ

Sách:192.

Quỷ: 763

Cấn:

Cấn là núi - thiếu nam - tay - đường tắt - đá nhỏ - cửa cổng - trái cây - nấm - cái cổng lầu của chùa - ngón tay - chó - con báo con - con gấu - con bò - chuột - loại mỏ đen.

Như cây là bền có nhiều lóng, nhiều đốt. (Cửu gia Dịch bảo rằng: là sóng mũi, lớp da trong, lớp da ngoài - da thú cọp, chồn). Xuân Hạ tính chất ôn hòa, hảo thiện. Thu Đông chấp trệ chẳng thường, về việc thì trì hoãn. Cấn là thôi, đừng, có cương có nhu. Phú tính lệch thì ở cung lệch. Dựa theo pháp lý là cương trực, nếu không thì ngoan ngạnh.

Thiên Văn: Sao - khí trời.

Địa lý: Đường nhỏ trên núi - bức tường - đường nhỏ trong làng - Gò - vườn - tường cửa - chuồng trâu, dê - cái cửa, cái chùa, tôn miếu.

Phương sở: Phương Đông Bắc - bức tường về phía đông bắc - chùa.

Nhân vật: Người giữ cửa chùa - tôi tớ - quan liêu - người bảo lãnh.

Hung đạo: Dùng kẻ dưới thông báo dấu vết để noi theo.

Quan quý: Sơn quận không thuyên chuyển.

Thân thể: Bàn tay, ngón tay - mũi - xương sườn - tỳ vị.

Sinh sản: Tổn thai - thứ nam.

Tính tình: Nhu trệ - đa nghi - thung dung chơi bời - trong cứng ngoài nhuyễn.

Âm thanh: Thanh thượng bình - Nhất âm - Thập nhị âm - Tam âm.

Sự ý: Phản phúc, tiến thối - đa nghi - không tới.

Bịnh tật: Tay, thái dương - bịnh đã lâu - tỳ vị - mạch trầm phục.

Phục dược: Thấp, hổ thạch, dược.

Yến hội: Tiệc rượu thường - Tập hợp có dịnh kỳ.

Các quả: Đậu - lúa tẻ.

Thực vật: Vật ăn, trang điểm bất nhất - rượu - tương - nước đá - tạp vật - canh - nước sốt - vịt - ngan - đồ ngọt.

Cầm thú: Bò cái - bò con - ngỗng trời - chim cắt - quạ khoang - chim sẻ - vịt nước - cò bể - chuột, chim khách.

Y phục: Cái quần, cái xiêm màu vàng - áo cà sa - màu đen - đồ lụa có sắc sặc sỡ - cái đạy bằng vải.

Khí dụng: Cái kiệu - cái xe tải đồ - cái cày - đồ binh giáp - đồ gốm, đồ sành - cái nồi - cái chõ - cái bình - vò đựng rượu - cái bình đựng xôi cúng - cái tàn - cáiđạy đựng tiền - đá nam châm - cái bàn đạp yên ngựa - khảm óc - cái hộp - vật trong mềm ngoài cứng.

Tài: Tiền cũ đặt mua hàng, mua ruộng - tiền thừa tiện dịp mà có.

Lộc: Bính.

Tự: Bên chữ Thổ, chữ Ngưu, chữ Điền.

Sách: 168,

Quỷ: 701.

Đoài:

Đoài là cái đầm - thiếu nữ - đồng bóng (phù thủy) - khẩu thiệt - hủy chiết - phủ quyết.

Như đất thì cứng - đất - nước mặn - thiếp (vợ hầu) - dê - (Cửu Gia Dịch bảo rằng: nhà, xương mép, mái). Xuân Hạ tình tranh luận giỏi. Thu Đông thì dũng cảm. Đoài là nói phô - là ngôn - ngụy hạnh, không phải việc thì chẳng làm, tùy sóng mà xuôi theo dòng - Dựa vào lý pháp thì hòa thuận - trái lại là la kỹ (con hát) dâm lạm.

Thiên Văn: Mưa mù - xuân thì sương mù - mưa nhỏ - Hạ Thu thì sương mù nhiều - Đông thì đại tuyết - ở trên thì mưa, ở dưới thì sương móc (quẻ trên, quẻ dưới).

Địa lý: Giếng - suối - hồ nước - phương sở - phương Tây.

Nhân vật: Tiên sinh - khách - đồng bóng (phù thủy) - thợ - người mai mối - người đứng giới thiệu việc mua bán - thiếu nữ - thiếp (vợ hầu).

Hung đạo: Đồng bộc trong nhà lấu dấu ở chỗ hoang, hẹp hòi.

Quan quý: Học quan - tướng soái - huyện lịnh - khảo hiệu - nhạc hữu - phó nhậm: phương Tây thì tốt.

Thân thể: Miệng - lá phổi - bong bóng - đại trường - xương mép, má - lưỡi - thái dương.

Sinh dục: Thiếu nữ, thai thiếu một tháng - nhiều vẻ kỳ dị.

Tính tình: Khéo nói - lưỡi nói nhiều điều hay.

Âm thanh: Tiếng thương thượng - tiếng hạ thương từ thanh.

Hôn nhân: Nhà bình thường - Thiếu nữ có nhan sắc và ăn nói đáng thương.

Tín âm: Có sự mừng đến vào ngày, giờ Dậu, Sửu.

Sự ý: Môi mép cãi lộn, dèm pha, khi báng - Gây lộn với đàn bà - Ám muội.

Bịnh tật: Đau miệng - đau môi, răng - Yếy hầu - nguy khốn.

Phục dược: Thuốc tễ.

Yến hội: Giảng thơ - hợp bạn - thỉnh tiên sinh - Ngâm thưởng.

Thực vật: Bao tử - Vật có miệng lưỡi - đường bánh - bánh nướng - gan phổi - Quả trái cây - cây dẻ - lúa thử (lúa mùa) - táo - lý - hồ đào - thạch du.

Cầm thú: Con dê con - Nai- vượn - cọp - báo - chó sói - vịt nước - cá.

Y phục: Hàng tơ ngũ sắc.

Khí dụng: Chiếc chiếu - sắt - đồng - tiền - đồ bát dĩa - chén uống rượu - bình - cái bồn, cái chén - đồ sứt mẻ hoặc có lỗ, có miệng - hoặc đồ tổn khuyết.

Tài: Tiền lễ thầy học.

Lộc: Đinh

Tự: Gia kim - Câu hay chữ Khẩu một bên.

Sắc: Lụa trắng.

Sách: 192.

Quỷ: 36.

Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011

Phần Thứ IV
Lời Của Dịch Giả

______________

Thưa quý vị, quyển Mai Hoa Dịch Số này, toàn bộ gồm có 5 phần. Theo như tựa đề, quý vị đã biết, có thêm môn Chiết tự bàng Hán văn, bao gồm trong phần 4 và phần 5, tôi xin ngừng dịch vì hai phần sau hoàn toàn nói về khoa Chiết tư; tôi thiết nghĩ, môn Chiết tự bằng Hán văn, hiện giờ không hạp thơi nữa, vì:

    1.- Tựa hồ như môn Hán văn đã lu mờ vìa ít truyền bá (tôi không dám nói là đã dứt hẳn).

    2.- Phần nhiều khoa Chiết tự, nhận xét từng nét chấm, nét đá, nét câu, nét móc, chấm thủy, quai xước, khu tréo, nhân đứng, nhân đi, nét đậm, nét lợt v.v... rồi phải phân định ra ngũ hành sinh khắc mà đoán, xét tướng tự.

    3.- Thứ nữa, lại suy đoán bằng lý, riêng mỗi bộ phận của một chữ, như vậy cần phải hiểu thêm nghĩa của chữ đó mới được và phải tự tay mình viết ra, mới hiệu nghiệm, nên Dịch bảo rằng: "Tướng nhân bất như tướng tự, tự tâm hoạch dã, tâm hình như bút, bút hoạch nhất thành".
Thành thử, tôi thấy có dịch ra thì cũng không giúp ích chi cho chư vị đọc giả mà lại thêm phần hoang mang trong lúc đọc.

Để bổ túc cho 3 phần trước, theo ý vị của quyển Mai Hoa Dịch Số, 3 phần đầu, là chỉ có lời truyền dạy, luận bàn bằng văn tự thôi, hầu như để cho những người đã thông thạo, hoặc đã đọc qua Kinh Dịch, chứ không có Họa đồ thành quái tượng của các quẻ, nên tôi đã ra công sưu tầm thêm tượng đồ của từng quẻ, để giúp quý vị khỏi mất công suy cầu. Sau đây tôi xin phụ thêm tượng đồ của 64 quẻ Chu Dịch và Dịch từ từng quẻ một.

Sau hết, tôi sưu tầm lại thời giờ của 12 chi, theo giờ khắc Tây phương, để định giờ cho đúng theo giờ mặt trời hiện tại ở Việt Nam chúng ta. Để đáp ứng nhu cầu quý vị thích nghiên cứu về Dịch lý, thể theo phòng nghiên cứu vũ trụ Dịch, mà ông Hà Huyền Chi đã ra công trắc nghiệm, theo bóng mặt trời, bằng cách dùng một miếng thiếc hình tròn, ở giữa có hàn một cây sắt nhỏ, để dò sự chuyển hướng của bóng mặt trời vào năm Ất Tỵ và Bính Ngọ (1965-1966) theo lời ghi nhận của ông Hà Huyền Chi.

Tôi nhận thức rằng, sự nghiên cứu nói trên đúng với quy tắc. Nên tôi xin thành thật quảng bá, để chư vị đọc giả đồng lãm, để định giờ trong lúc dùng đến Dịch số.

Dịch Giả Cẩn Khải

Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011

Diễn Giải
64 Quẻ Phục Hy

<table id="table52" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="30%" height="30%">

Bát Thuần Càn
_____
_____
_____

_____
_____
_____

</td><td valign="top" width="100%" height="100%"> Tượng về Trời cương kiện. Ba nét trên là Càn thượng tức Ngọai Càn; ba nét dưới là Càn Hạ tức Nội Càn, Càn là thuần dương, cực kiện, có 4 đức là:
- Nguyên: là đầu tiên, lớn,
- Hanh: là thông thái, thuận tiện.
- Lợi: thỏa thích, tiện lợi, nên, phải.
- Trinh là chính, bền chặt cho đến cùng.
Càn là hoàn toàn dương cương lại trung chính, có thể to lớn, thông thái, lợi tiện, kiên cố có tài đức, ứng vào việc gì cũng vậy.


</td></tr> </tbody></table> <table id="table53" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="30%" height="30%">

Bát Thuần Khôn
__ __
__ __
__ __

__ __
__ __
__ __

</td><td valign="top" width="100%" height="100%">Tượng về Đất, hoàn toàn chất nhu thuận. Ba nét trên là Khôn thượng tức Ngoại Khôn. Ba nét dưới là Khôn hạ tức Nội Khôn.
Khôn nghĩa là thuận. Khôn cũng có 4 đức như Càn là: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh,và cực thịnh thuần âm.


</td></tr> </tbody></table> <table id="table54" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="30%" height="30%">

Thủy Lôi Truân
__ __
_____
__ __

__ __
__ __
_____

</td><td valign="top" width="100%" height="100%">Dinh dã là đầy, lúc vạn vật mới sinh ra. Vì lúc vạn vật mới sinh nên chưa hanh thái được. Lại có nghĩa là khốn nạn.
Truân là hạng người có gan mạo hiểm, có chí tiến thủ, có tài, hữu vi, nhưng vì thời thế đương buổi truân nạn, nên phải cẩn thận kỹ càng, chẳng nên vội vàng.
Truân là thời bắt đầu lâm nạn. Cho nên cần phải có nhiều bạn hiền giúp đỡ.


</td></tr> </tbody></table> <table id="table55" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="30%" height="30%">

Sơn Thủy Mông
_____
__ __
__ __

__ __
_____
__ __

</td><td valign="top" width="100%" height="100%">Mông dã, vật chi trĩ dã là non yếu, mù mờ, mù tối, chẳng tiến được.
Cấn là cao sơn, Khảm là thủy thâm tức là chốn hiểm.


</td></tr> </tbody></table> <table id="table56" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="30%" height="30%">

Thủy Thiên Nhu
__ __
_____
__ __

_____
_____
_____

</td><td valign="top" width="100%" height="100%">Ẩm thực chi đạo dã, nuôi nấng cho ăn uống, chữ Nhu có ba nghĩa:
1.- Do dự, rù rơ.
2.- Cần thiết mà cần thiết cho người không gì bằng ăn uống.
3.- Chờ đợi. Phải đợi thời cơ, chẳng có thể nôn nao được mà bị sai lầm.


</td></tr> </tbody></table> <table id="table57" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="30%" height="30%">

Thiên Thủy Tụng
_____
_____
_____

__ __
_____
__ __

</td><td valign="top" width="100%" height="100%">Tranh tụng dã, tranh nhau, tranh biện, kiện cáo. Thế dương cường áp chế người dưới, kẻ dưới lấy lòng hiểm đối đãi người trên, tất xảy ra kiện. Quẻ Tụng ở sau quẻ Nhu là vì ẩm thực mà sinh ra tranh nhau.

</td></tr> </tbody></table> <table id="table58" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="30%" height="30%">

Địa Thủy Sư
__ __
__ __
__ __

__ __
_____
__ __

</td><td valign="top" width="100%" height="100%">Chúng dã, có phe, có chúng là tượng quần chúng nhóm họp, tượng đem quân đi đánh, tượng một tướng thông suốt toàn quân.
Quẻ này Ngoại Khôn là thuận, Nội Khảm là hiểm, thuận thì an, hiểm thì bất trắc.
Quẻ này lục tam nhu nhược lại bất trung mà đảm lấy chức Sư, chẳng những đã không nên việc mà thất bại, thua quân nên chở thây ma về, nên gọi là dư thi: xe chở thây.
Quẻ thượng lục cho thấy tiểu nhân, vật dụng, là nói lúc khai quốc thừa gia, không nên dùng tiểu nhân vì nó làm loạn.


</td></tr> </tbody></table> <table id="table59" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="30%" height="30%">

Thủy Địa Tỷ
__ __
_____
__ __

__ __
__ __
__ __

</td><td valign="top" width="100%" height="100%">Tỷ dã nghĩa là thân phụ, có ý liên lạc dây dính với nhau.
Tỷ chính là người cầm đầu trong một đám, một đoàn thể, vậy nên phải nhóm bạn tìm thầy làm việc thân tỷ với người.


</td></tr> </tbody></table>
Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011

<table id="table60" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Phong Thiên Tiểu Súc
_____
_____
__ __

_____
_____
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Súc dã. Súc có hai nghĩa: nuôi nhau và ngăn đón, tức súc chỉ.
Tiểu nhân nuôi quân tử, thần nuôi quân, dân nuôi quan. Còn nghĩa ngăn đón, dù có thời thế trong một lúc mà dương thì âm súc chỉ, chẳng qua tạm thời ngăn cản, chứ không thể gây ra biến lớn.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table61" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Thiên Trạch Lý
_____
_____
_____

__ __
_____
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">1.- Giày đạp bằng chân.
2.- Cái giày đi đỡ dưới chân.
Cả hai nghĩa kết lại bằng Lý là Lễ. Nói rộng ra đụng phải hoạn nạn, nhưng chẳng thương hại đến mình.
Lý là lễ tất phải có trật tự.
Trong pho Dịch, bắt đầu quẻ Càn, quẻ Khôn là biết rằng có trời đất; đến quẻ Truân thời có vạn vật và loài người bắt đầu phát sinh. Vì mong mỏi mà cần phải có dạy, nên có quẻ Mông; vì có ăn uống cần phải nuôi nên có quẻ Nhu; vì ăn uống sanh ra tranh nhau nên có quẻ Tụng; vì đấu tranh, cần có quần chúng nên có quẻ Sư; vì phải có liên lạc nên có quẻ Tỷ; vì đông nhóm, cần có chốn nuôi chứa, nên có quẻ Tiểu súc; vì đã súc (nuôi được đông người), tất phải có trật tự nên có quẻ Lý.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table62" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Địa Thiên Thái
__ __
__ __
__ __

_____
_____
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Thông dã. Thỏa thích, thông thuận là tượng âm dương hòa hiệp, thiên địa tương giao.

</td> </tr> </tbody></table> <table id="table63" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Thiên Địa Bỉ
_____
_____
_____

__ __
__ __
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Tắc dã, nghĩa là lắp, cùng.
Quân tử thất thế, tiểu nhân đạo trưởng, nội nhu, ngoại cương, quân tử đạo tiêu, thiên địa bất giao, quân tử kiêm đức tỵ nạn.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table64" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Thiên Hỏa Đồng Nhân
_____
_____
_____

_____
__ __
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Thân dã. Tượng quẻ: thượng hạ tương đồng, thượng hạ đồng âm thời chẳng hiểm trở nào, chẳng gian nguy nào mà không lọt được, là cảnh tượng đại đồng vui vẻ.

</td> </tr> </tbody></table> <table id="table65" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Hỏa Thiên Đại Hữu
_____
__ __
_____

_____
_____
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Khoan dã, đại dã. Tượng quẻ là mặt trời với lửa ở tận trên trời, tia sáng đã tột bực cao, chói lọi tột xa. Việc gì cũng tốt, thông thuận đến trời, soi đến muôn vật.
Chẳng quẻ nào tốt bằng quẻ Đại hữu, sáu hào đều tốt, hạnh phúc cực điểm.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table66" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Địa Sơn Khiêm
__ __
__ __
__ __

_____
__ __
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Khiêm dã, chịu lún, chịu nhường cho người khác mà mình an ở vị khuất lún.

</td> </tr> </tbody></table> <table id="table67" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Lôi Địa Dự
__ __
__ __
_____

__ __
__ __
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Duyệt dã, vui vẻ, sung sướng, hòa thuận, có nghĩa Sấm ra mặt đất, khí dương phát động.
Còn sơ lục dự mà hung.
Lục tam dự mà hối.
Cửu tứ dự mà nghi.
Ngũ lục thì mắc lấy trình, tật.
Cho nên cảnh sung sướng vui vẻ là cái cửa vào nguy hiểm.
Cho nên dự cũng có nghĩa là dự bị nữa, thời khỏi mắc họa.


</td> </tr> </tbody></table>
Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011



<table id="table68" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Trạch Lôi Tùy
__ __
_____
_____

__ __
__ __
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Tùy tòng dã, là theo, nhiều người vui theo như thiếu nữ ưa thiếu nam mà theo nhau.
Nhưng đạo tùy có hai phương diện: mình tùy người hay người tùy mình.
Chọn minh sư mà tùy là tùy hay; mắc lấy tiểu nhân gian ác mà tùy là tùy dở.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table69" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Sơn Phong Cổ
_____
__ __
__ __

_____
_____
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Sự dã là việc.
Tượng quẻ: gió ở dưới núi, gió đụng lấy núi mà quay trở lại, gái dưới trai, gái vì say trai mà mê hoặc là tượng Cổ loạn, đã cổ loạn thì không ngồi yên, tất phải có việc. Phàm sửa trị một việc đều xong phải nguy hiểm, trải gian nan mới trị được Cổ (Cổ là việc).


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table70" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Địa Trạch Lâm
__ __
__ __
__ __

__ __
_____
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Đại dã là lớn, thịnh lớn, lân cận với.
quẻ Lâm là quẻ tháng 12, dương cương trưởng, âm càng tiêu, đã gần lúc thông thái, quân thần đông đúc, xóa đổi cuộc đời. Bảo dân vô cương. Tuy nhiên, có đâu thịnh mãi mà chẳng loạn, hễ người xử vào thời Lâm chớ nên kiêu xa, phòng tứ, chẳng như thế thời e họa loạn tới ngay trong tám tháng nữa, mà cũng có nghĩa là tháng 8 ắt có hung họa (tháng 8 tức là quẻ Quan vậy).


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table71" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Phong Địa Quan
_____
_____
__ __

__ __
__ __
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Quan dã dòm xem, xem xét.
Tượng quái hai dương trên, bốn âm dưới, âm trông vào dương, dương hiển thị cho âm, nên gọi là quan.
Trái lại nguyên quẻ có bốn âm đuổi hai dương là tượng tiểu nhân hại quân tử, đó cũng là ý phù dương, ức âm, phù quân tử, ức tiểu nhân, được biến hóa của Dịch.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table72" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Hỏa Lôi Phệ Hạp
_____
__ __
_____

__ __
__ __
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%"> Hợp dã, khiết dã là hợp, cắn. Nghĩa là cắn để hợp lại.
Trong thiên hạ, gia đình có cha con, vợ chồng, anh em. Nước có vua tôi, quân dân. Xã hội có thầy trò, bạn hữu, tất cẩ hợp được mới thông, nhưng sở dĩ không hợp được là vì có trung gian làm gián cách, nên phải dùng thủ đoạn cắn để trừ khử trung gian mà hợp lại. Xem thể quái, thì hào sơ cửu và thượng cửu ví như hai hàm dưới và trên của miệng người ta, trung gian ba hào vạch đứt đôi là miệng trống lại bị một hào dương ở giữa cản ngang miệng, làm thành một gián cách, cho nên phải cắn mà trừ khử nét cản đó đi; cho đến việc quốc gia cũng vậy hễ trừ khử được bọn gián cách, gian tà, sàm nịnh thì được hòa bình vô sự.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table73" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Sơn Hỏa Bí
_____
__ __
__ __

_____
__ __
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Sức dã là văn sức, trang sức.
Tượng quẻ Hỏa ở dưới Sơn, là ở trong núi có lửa rọi lên hiện ra quang thái, là hỏa bí sức cho sơn.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table74" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Sơn Địa Bác
_____
__ __
__ __

__ __
__ __
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Bác dã, là mòn hết.
Quẻ Bác là quẻ âm trưởng cực, dương tiêu cực, âm là kẻ tiểu nhân, dương là người quân tử, nên tiểu nhân đắc chí, hoành hành, quân tử không chốn hành động, chỉ ẩn núp chờ thời. Nguyên nhất âm sinh ở quẻ Cấn là tháng 5, bắt đầu nhất dương biến nhất âm.
Nhị dương biến thành quẻ Độn là quẻ tháng 6, tam dương biến thành quẻ Bỉ là quẻ tháng 7.
Tứ dương biến thành quẻ Quán là quẻ tháng 8. Ngũ dương biến thành quẻ Bác là quẻ tháng 9. Chốc nữa biến thêm một nét nữa thành quẻ Bát thuần Khôn, là quẻ vô dương.
Cho nên Bác có nghĩa là tiêu hết, rụng hết, dương tiêu rụng, âm nhu quá mạnh.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table75" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Địa Lôi Phục
__ __
__ __
__ __

__ __
__ __
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Phục dã, trở lại, hoàn phản.
Quẻ Phục cũng là đạo tiểu nhân thịnh cực, thịnh cực thời phải tiêu, đạo quân tử tiêu cực, tiêu cực thời lại trưởng, cho nên gọi là phục (trở lại), thời quân tử bây giờ có hành động ắt thuận lợi.


</td> </tr> </tbody></table>
Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011

<table id="table76" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Thiên Lôi Vô Vọng
_____
_____
_____

__ __
__ __
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Vọng dã là làm càn.
Tượng quẻ: Càn trên, Chân dưới, hoạt động hành vi thuận theo lẽ trời, ấy là vô vọng, nếu làm vì nhân dục tức là vọng.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table77" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Sơn Thiên Đại Súc
_____
__ __
__ __

_____
_____
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Tụ dã. Chữ Súc có ba nghĩa:
1.- Nhóm chứa.
2.- Nuôi nấng.
3.- Ngăn đón.
Tượng quẻ: Cấn trên, Càn dưới là tượng trời lọt vào ở trong núi, đó là sức núi súc chỉ được trời, mà cũng là súc tụ (nhóm) vào trong núi.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table78" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Sơn Lôi Di
_____
__ __
__ __

__ __
__ __
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Dưỡng dã, nuôi. Chữ Di có hai nghĩa:
1.- Nuôi dưỡng.
2.- Toàn bộ cằm và miệng.
Tượng quẻ: trên Cấn, dưới Chấn, hình như bộ miệng mép của người, thủ tượng bằng miệng cũng thuộc về ăn uống để nuôi sống. Quẻ Di: 3 hào trên là mình cách trách nhiệm nuôi người; 3 hào dưới là nhờ người nuôi mình.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table79" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Trạch Phong Đại Quá
__ __
_____
_____

_____
_____
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Là lớn quá. Có hai nghĩa:
Theo quẻ dương bốn hào mà âm chỉ có hai, là dương đại thời nhiều hơn âm, thế là Đại quá.
Còn có nghĩa là quá lớn như nói về đạo đức, công nghiệp lớn hơn người.
Toàn quẻ bốn dương ở giữa, hai âm ở hai đầu, dương quá cương, âm quá nhược, tượng như cái cây làm cột giữa quá lớn, cội ngọn quá bé, làm sao đứng được, tất phải cong queo. Cũng như âm nhược, dương cương, thì tiểu nhân tiêu hao, quân tử thịnh.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table80" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Bát Thuần Khảm
__ __
_____
__ __

__ __
_____
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Hãm dã, là sụp, hiểm; vì dương hạm ở giữa hai âm, cho nên hãm; lại có nghĩa Khảm là nước, hiểm sâu không gì bằng. Người mà xử vào thời đại trùng hãm, thì hoàn cảnh rất nguy.

</td> </tr> </tbody></table> <table id="table81" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Bát Thuần Ly
_____
__ __
_____

_____
__ __
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%"> Lê dã. Chữ Ly có hai nghĩa:
Ly là lệ, theo thẻ quẻ một âm ở giữa, nương dựa vào hai dương trên và dưới, nên gọi là lệ. Còn một nghĩa Ly là minh, vì giữa nét đứt đôi, cho nên trống, tượng là trung hư, hư thời sáng, lại là tượng mặt trời, là lửa thảy đều soi sáng, tức là minh.
Nguyên lai chữ Ly có nghĩa: chính và phản. Nghĩa chính Ly là dính dựa vào và Ly nghĩa là phản là lìa. Nhưng đây dùng theo nghĩa chính là dính dựa. Ví như: chim dựa vào rừng, cá dựa vào nước, đến loài người cũng thế, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn cũng đều dựa vào nhau mà tạo nên dân tộc, gọi là hữu sở lệ. Còn nói dính dựa thì có hai cách là dựa vào lối chính hay dựa vào lối tà đó thôi.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table82" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Trạch Sơn Hàm
__ __
_____
_____

_____
__ __
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Cảm dã, cảm tình thân mật, cảm ứng.
Quẻ thượng Đoài, hạ Cấn tức nữ trên nam dưới có nghĩa gây tình cảm xúc cũng như Cấn sơn, Đoài trạch là tượng trên núi có cái chằm nước, vì sơn có vũng trủng xuống mà đựng được trạch.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table83" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Lôi Phong Hằng
__ __
__ __
_____

_____
_____
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Cửu dã là lâu dài. Chữ Hằng có hai nghĩa:
1.- Không thay đổi tức là bất định.
2.- Không thôi nghĩ tức là bất dị.
Quẻ Chấn thượng, Tốn hạ nghĩa là nam trên, nữ dưới, cũng như Chấn vi lôi, Tốn vi phong, tượng sấm, gió giúp thế lực cho nhau.


</td> </tr> </tbody></table>
Trích dẫn

maphuong's Photo maphuong 17/05/2011



<table id="table84" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Thiên Sơn Độn
_____
_____
_____

_____
__ __
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Thối dã là tránh lui.
Tượng quẻ: Càn thượng, Cấn hạ. Càn là khí trời thường tiến lên hoài, Sơn thì (Cấn) đứng yên một chỗ.
Quẻ này thuộc về tháng 6, nhị âm ở dưới, toàn lùa đuổi tứ dương ở trên, tiểu nhân đạo trưởng, quân tử đạo tiêu, nên lúc đó quân tử phải lánh xa, đó là tượng quẻ.
Tuy nhiên người quân tử còn có bốn dương nên khéo lựa thời cơ thì cũng còn hữu vị.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table85" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Lôi Thiên Đại Tráng
__ __
__ __
_____

_____
_____
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Thịnh dã là đại thịnh.
Tượng quẻ: dương bốn, âm hai tức là quân tử tráng thịnh lắm rồi. Tuy nhiên đại thịnh nhưng cần phải để ý tới chỗ thất ý.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table86" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Hỏa Địa Tấn
_____
__ __
_____

__ __
__ __
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Tiến dã là tiến lên.
Tượng quẻ: Ly trên, Khôn dưới là mặt trời mọc lên trên đất, càng lên cao, càng sáng nhiều, như thế là tiến mạnh lắm. Quân thần tương đắc, trên minh dưới thuận, thế là đại tấn, đại thịnh.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table87" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Địa Hỏa Minh Di
__ __
__ __
__ __

_____
__ __
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Thương dã là đau thương.
Tựng quẻ: Khôn trên, Ly dưới ý nói mặt trời lặn xuống đất, ý nói bi thương. Quẻ này thật khó xử cho người quân tử, thật là thời rất tối tăm.
Xem qua hình như tối mờ, mà kỳ thực thời minh rất mực, vì nội Ly có tượng văn minh, ngoại Khôn là tượng nhu thuận, cho nên minh ở trong mà nhu che đậy ở ngoài, dùng đạo ấy mà chóng chọi với hoạn nạn lớn.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table88" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Phong Hỏa Gia Nhân
_____
_____
__ __

_____
__ __
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%"> Là người trong một nhà, có cha con, vợ chồng, anh em, có tôn ty, hòa thuận, chân chính. Nam nữ chính, thiên địa chi đại nghĩa dã.

</td> </tr> </tbody></table> <table id="table89" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Hỏa Trạch Khuê
_____
__ __
_____

__ __
_____
_____

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Quái dã là trái, chống nhau, tâm chí không đồng nhau.
Tượng quẻ: Đoài ha, Ly thượng tính trạch thời trầm xuống, tính hỏa thời bùng lên, trên chẳng tiếp dưới, dưới chẳng tiếp trên, thế là chống trái nhau.
Trong quẻ Dịch, quẻ Khuê xấu nhất trong kinh Dịch.
Khuê quái ly tán dù thành nhân cũng khó làm nên cách mạng. Quẻ Khuê chỉ tốt cho những tiểu sự về cá nhân thôi.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table90" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Thủy Sơn Kiển
__ __
_____
__ __

_____
__ __
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Nạn dã là gay go, hiểm trở.
Tượng quẻ: Khảm trên, Cấn dưới, mặt bị sóng dồn, lưng bị núi ngăn, đi đứng thật khốn nạn.
Người đã lâm nguy rồi thì chỉ tìm phương thản dị mà đi, vậy nên lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc, cũng có nghĩa là đi đường bình dị, tránh đường hiểm trở.


</td> </tr> </tbody></table> <table id="table91" width="700" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody><tr> <td valign="top" width="30%" height="30%">

Lôi Thủy Giải
__ __
__ __
_____

__ __
_____
__ __

</td> <td valign="top" width="100%" height="100%">Hoãn dã, tan hết, giảitán hết.
Tượng quẻ: Chân lôi, Khảm vũ là âm dương giao cảm, hòa xướng mà đồng mưa sấm, làm tan hết uất khí, quái từ bảo lợi Tây Nam, là con đường duy nhất đưa đến chốn lâu dài.


</td> </tr> </tbody></table>
Trích dẫn


1 2 3 4 5