Jump to content

Advertisements




TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO - Quyển 2


64 replies to this topic

#1 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/06/2012 - 06:37

QUYỂN THỨ HAI

Mục Lục

Phần Một

1. Một người nghèo lạ
2. Hại người trở lại hại mình
3. Bố thí bất nghịch ý
4. Họa tùng khẩu xuất
5. Người mẹ

Phần Hai

6. Ðời người trong một câu
7. Vua cò trắng
8. Nàng Ưu Ðà Di
9. Tại sao phải niệm Phật
10. Tình ái là gốc của sự sanh tử

Phần Ba

11. Nắm hạt trai
12. Xâu ngọc...nước
13. Tiếng đàn ai oán
14. Kẻ bỏn sẻn bị phạt
15. Vàng hay Rắn

Phần Bốn

16. Phước báo hiện tiền
17. Con dao trong tâm
18. Người học trò bị thầy gạt được Phật độ
19. Công chúa Thuần Nhẫn
20. Tỉnh giấc mơ hoa

Phần Năm

21. Cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán
22. Ðâu nguồn hạnh phúc
23. Cặp mắt Thái tử Câu Na La
24. Một câu đáng giá nghìn vàng
25. Gương bố thí

Phần Sáu

26. Tình thương và thù hận
27. Lòng ngưỡng mộ Phật Pháp của vua A Dục
28. Tịnh xá Kỳ Hoàn
29. Hoàng tử hiếu thảo
30. Công đức sám hối

Phần Bảy

31. Những người mù rờ voi
32. Hoàng hậu Vi Ðề với pháp môn Tịnh Ðộ
33. Nhân nào quả nấy
34. Ðâu là sự thật
35. Tình thương

Phần Tám

36. Cây đèn kỳ lạ
37. Quỉ La Sát
38. Mụt ghẻ nói tiếng người
39. Phước báo của sự bảo vệ sanh linh
40. Nan Ðà Tôn giả

Phần Chín

41. Nhận lầm con
42. Máu sanh linh không rửa sạch tội lỗi của con người
43. Công đức trì giới
44. Trọng Pháp
45. Lòng hiếu thảo của con chim Oanh Vũ

Phần Mười

46. Một lòng vì đạo
47. Nai hiền
48. Năm giọt mật
49. Ðức Phật với con voi dữ
50. Công chúa Nhật Quang

Phần Mười Một

51. Truyện con chó đói
52. Vua A Dục trở về với Phật giáo
53. Hoa sen trong người
54. Vui trong Ðau khổ

Sửa bởi hiendde: 18/06/2012 - 06:41


Thanked by 2 Members:

#2 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/06/2012 - 13:04

PHẦN MỘT

1. Một người nghèo lạ

Chàng nghèo thật hết chỗ nói, cả sự nghiệp của chàng chỉ có một bà mẹ già mà thôi. Lâu lắm người ta mới biếu cho chàng một cái búa để đền ơn cứu sống một em bé chết đuối.

Ðược búa, chàng đưa mẹ vào núi, tìm một hang đá, chàng lót rơm êm và có gió mát để mẹ ăn ở; như thế chàng an tâm lắm. Ngày ngày đi kiếm củi rồi về chợ đổi gạo, mặc dù ít tiền, chàng vẫn mua được thịt để mẹ xơi. Tu Lại tên chàng chẳng những lan rộng với chữ hiếu, mà người ta còn gọi chàng là tráng sĩ, vì chàng thường giúp đỡ nhân dân trong vùng ấy, bất luận gặp một tai nạn gì chàng thường giúp đỡ họ tận lực.

Vì chàng ở núi, nên người ta đặt chàng những món tiền lớn để bắt các thú rừng hiền lành như: nai, khỉ, chồn, thỏ... Tu Lại từ chối vì chàng là một Phật tử chơn chánh, không bao giờ giết một sinh vật nào dù nhỏ. Chẳng những chàng không bắt chúng mà còn yêu mến chúng nữa, nên lâu ngày chúng quen và thường gần đến chỗ hai mẹ con chàng ở. Cái hang ấy bao giờ thành vui, hoa lạ nở hai bên, những tổ chim làm gần gũi đó. Có những đêm trăng sáng mẹ chàng mẹ Phật, chàng ngồi bên kết mấy thứ cỏ khô thành áo để mặc mùa đông.

Nhưng đã sáu ngày nay, trời mưa luôn không ngớt, gạo trong hang đã hầu cạn, chàng lo ngại, nếu mưa cứ kéo dài. Hôm nay trời bừng sáng, Tu Lại sung sướng quá, chàng chào mẹ rồi vác búa ra đi, đến chỗ thường đốn củi, thì xa xa có bóng ba thiếu nữ. Thấy có người, ba bóng kia bỏ đi nơi khác. Chàng để bầu nước xuống và sửa soạn vào việc, thì ồ thật, một chiếc kim thoa óng ánh nằm ngã nghiêng bên tảng đá, không còn nghi gì nữa, chàng vội nhặt lấy, rồi chạy theo ba thiếu nữ kia trả lại cho họ, người ta nhìn chàng với cặp mắt cảm trọng. Nhưng người tráng sĩ không trả ân bằng tiền gạo được, vì người ta biết tiếng chàng nhiều lắm. Nhưng, từ độ ấy về sau, nơi hang mẹ chàng thỉnh thoảng có người đem biếu gạo trắng thịt ngon, trong lúc chàng đi làm củi vắng, cứ thế, rồi một ngày kia...

Một sáng mai khi chàng còn mơ màng chưa tỉnh hẳn thì có một nàng tiên đến ngồi bên chàng, nàng tiên ấy trên trời sa xuống lâu hay mau không biết, hồi nào không hay, nhưng nàng là tiên thật, vì nàng đẹp quá. Một tấm voan màu nước biển phủ nhẹ toàn thân, trên mái tóc xanh là một tràng hoa tươi. Chàng phải gượng với bộ áo sơ sài của mình. Tu Lại lại ngồi phắt dậy:

- Nàng là ai? Sao lại đến đây?

- Thiếp là sương phụ đánh rơi chiếc kim thoa hôm nọ, được tráng sĩ cho lại, về nhà thiếp suy nghĩ: Ở đời giàu sang không phải chơn hạnh phúc, được gần bậc hiền nhân mới chắc chắn sống một lối sống của con người biết sống! Tiếng nay giàu có của cải dư dật, cha mẹ không, chồng chết chỉ có hai con thơ, nay thiếp đến đây nguyện theo chàng mong chàng đừng phụ, thiếp xin thay chàng hầu hạ mẹ già và giúp chàng học hành để thành danh đức, hầu sau làm lợi ích cho đời, nếu chàng cố chấp không nghe, thiếp rất tiếc tài ba đức độ của chàng vùi sâu trong hang thẳm.

Tiếng trong như tiếng suối chảy, êm như tiếng chim kêu, nàng nói với một vẻ thiết tha thành thật. Câu chuyện mới cắc cớ làm sao, mỗi lời nói của nàng như rót vào tai tráng sĩ. Tu Lại mơ màng như người trong mộng. Chàng suy nghĩ: “Không biết ta chiêm bao hay thật, mà nàng là người thật hay ma”. Bỗng chàng nghiêm nét mặt và bảo:

- Tôi xem nàng là người đoan chính lại giàu sang, là do phước báu của đời trước đã gây tốt nhiều, còn tôi chỉ là một kẻ nghèo khổ, làm sao xứng đáng với nàng và theo tôi, một người sương phụ cần phải thờ chồng, nuôi con, dạy vẽ cho con nên người, xứng với ý nghiã con người mới phải. Thiết thật hơn, tôi nay còn mẹ già, nếu tôi lập gia đình, tình yêu mẹ sẽ san sớt, nàng còn có con thơ, nếu nàng lập gia đình tình yêu con sẽ không còn nguyên vẹn, mẹ tôi cần có tôi mới vui, con nàng cần có nàng mới sống. Vì vậy tôi khuyên nàng trở về nuôi con và dứt bỏ câu chuyện này. Còn nàng sợ đức độ tài ba của tôi sẽ mai một, nếu tôi quả có đức độ như nàng tặng, thì trong rừng sâu các loài cầm thú cũng cần có đức độ để che chở cho chúng, như thế có đức độ thì ở đâu mà lại không dùng được?

Nàng tiên ấy bay đi, trời đương sáng bổng tối hẳn, người tráng sĩ cũng thấy nao nao trong lòng, nhưng rồi chàng lại vui lên nhiều, vì chàng đã chiến thắng. Song không hiểu vì sao, những chuyện kỳ lạ lại hay đến với người nghèo lạ ấy.

Một hôm, có một người lạ mặt hốt hoảng chạy đến lôi ra một thoi vàng thắm, rồi thưa với Tu Lại:

- Thưa tráng sĩ, tôi xin biếu chút quà mọn nầy, nhờ tráng sĩ giúp cho tôi một lời nói. Ngày mai đây, nếu có ai hỏi: Có một đoàn người đi qua đây không? Thì tráng sĩ nói cho một tiếng "có", ở đây chỉ có tráng sĩ và tôi, ngoài ra không còn ai hay chuyện này cả, vả lại tráng sĩ chỉ nói cho một tiếng cũng không sao.

Nói xong người bỏ vàng lại đó rồi chạy mất, Tu Lại chưa kịp suy nghĩ gì cả, nhưng chàng vội lượm vàng rồi chạy theo thật nhanh mới kịp. Tu Lại kéo tay người kia:

- Không, không, vàng ông hãy cầm lấy, tôi không thể theo lời ông được, tôi là một người Phật tử không bao giờ làm việc ám muội, một lời nói của người quân tử trọng hơn nghìn vàng, nhưng một lời nói còn trọng hơn cả thân mạng, nếu ông đem nghìn vàng hay dùng uy thế để hại mạng tôi, bảo tôi nói dối, thà chết chứ không bao giờ phạm giới cấm của Phật.

Nói xong Tu Lại bỏ vàng rồi chạy thẳng. Tiếng tốt của người tráng sĩ bay xa như ngọn gió mát vô tình thổi từ rừng sâu vào đến thâm cung. A Dục Vương là người hiếu kỳ, muốn thử chàng, nên những chuyện bỏ rơi và người cơn gái đến tận hang chàng chính là cung nhơn của vua A Dục Vương. Sau mấy lần thử thách, nhà vua biết Tu Lại là bậc hiền nhân nên đem lòng đố kỵ sai người đến hại chàng.

- Tôi vâng lệnh nhà vua đến giết tráng sĩ, người đao phủ cầm gươm sáng bảo thế.

- Ồ, thế thì tốt quá, tôi rất cám ơn Ngài đã vì tôi mà hủy giùm cái thân ô uế đầy tội lỗi này. Song tôi còn chút mẹ già nhờ ngài chiếu cố cho.

Tên đao phủ ngạc nhiên trước thái độ thản nhiên của Tu Lại.

- Ông là vô tội, nhà vua vì lòng đố kỵ sai tôi đến hại ông, vậy ông không giận nhà vua sao?

- Không, tôi không giận mà còn thương hại nhà vua đã gây nhiều nghiệp ác, trước khi chết tôi xin cầu Ðức Phật cho nhà vua phát Bồ Ðề tâm hồi hướng thiện niệm.

Tên đao phủ mím môi, đỏ mặt đưa gươm lên cao giáng xuống đầu chàng… nhưng lưỡi gươm kia xuống từ từ rồi chui thẳng vào vỏ kiếm. Sáng hôm sau vua A Dục lên tận hang chàng ở, đến nơi, chàng đi làm củi sớm, vua chờ trọn ngày mới gặp. Vua A Dục từ tốn bảo:

- Trẩm làm vua, trong nước có hiền tài mà Trẩm biết chậm thật là đáng tiếc! Ngày nay nước nhà loạn lạc Trẫm mong tráng sĩ về triều cùng Trẫm chăm lo việc nước, được vậy thật là hạnh cho nhân dân.

Chàng từ chối năm bảy dạo, vua nài nỉ đôi ba phen, cuối cùng chàng hẹn trong bảy ngày sẽ trả lời. Trong bảy ngày, ba lần vua đến thăm ba lần vua cho người lên thăm hỏi. Tu Lại hỏi ý kiến mẹ, mẹ chàng bảo:

- Hiện nay mẹ trong nước, nhà vua thì lãng mạn, hoang hung, hà khắc dân tình, nhân dân oán thán đến nổi họ đặt tên nhà vua là Chiên Ðà La A Dục (ông vua hung tợn như người hàng thịt). Triều đình nịnh thần ô lại; ngoài thì vua hung tàn, con ngỗ nghịch, vợ bất chánh, chồng bất lương… đạo đức hầu như mất hẳn tất cả tâm niệm xấu xa độc ác kết hợp lại, do đó giặc cướp nổi lung tung. Con nay chấp kinh cũng phải tùng quyền, vậy nhân cơ hội này con có dịp đem giáo lý của Ðức Phật để cảm hóa quần sanh, hầu mong cứu vãn nhân tâm, đưa lại sự an ninh cho nhân loại.

Vâng lời mẹ Tu Lại về triều, vua A Dục lấy hai chữ Quốc Bửu (vật quí của nước) tặng chàng làm tên. Trước hết Quốc Bửu đem ba pháp quy y, năm điều cấm giới cảm hóa vua. Vua A Dục từ khi biết quy đầu về Phật không bao lâu trở thành một vị minh quân. Ông đổi hẳn chính sách, lấy đức độ trị dân, không dùng oai thế tàn bạo như trước nữa. Vì thế mà nhân dân trong nước trở lại cảm phục vua, từ đó đặt tên vua là Thích Ca A Dục (ông vua hay làm đìều nhân từ).

Trong nước nhà vua trọng những người hiền hiếu, trừng trị kẻ hoang dâm, cấm hẳn sự xa hoa cờ bạc, săn bắn, triệt để không rựợu chè đàng điếm, người già cả bệnh hoạn được săn sóc chu đáo, nhà nhà đều thờ Phật, trọng Tăng tu Pháp “Thập thiện”. Nếu ai phạm một trong năm đìều răn phải bị trục xuất ra khỏi nước. Nhờ vậy, không bao lâu trong nước trở lại thái bình an lạc.

Thể Quán

­­­­­Thập thiện: Mười điều lành. Thân không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm. Miệng không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói độc ác. Ý không tham lam, không giận dữ và không si mê.

“Thắng lợi chân chánh là ở Phật giáo chứ không phải vũ khí”.

A Dục

Thanked by 3 Members:

#3 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/06/2012 - 13:21

2. Hại người trở lại hại mình

Thuở xưa, trong hàng Bà La Môn có một người phụ nữ đương lúc tuổi còn xuân xanh, sắc duyên đằm thắm, mà trong lòng đã mang một khối tình rất lai láng. Mặc dầu nàng đã có chồng, nhưng thường có tính lẳng lơ, vì thế hằng ngày mơ tưởng việc ngoại tình. Tuy cái ý tưởng của nàng muốn như vậy, nhưng ngặt trong nhà còn mẹ chồng, nên nàng còn kiêng nể và phải đè nén lòng của mình.

Một hôm nàng bèn nghĩ ra một mưu kế rất hiểm độc, bề ngoài thì nàng thường giả mượn điều hiếu thảo mà đối với mẹ chồng, nên hằng ngày thường lo sắm những thức ăn ngon vật lạ cho bà ăn uống, nhưng trong lòng chờ cơ hội để hại bà. Người chồng của nàng thấy vậy, thì có ý mừng thầm mà nghĩ rằng: “Ngày nay mẹ ta đã tuổi cao sức yếu, mà lại may mắn gặp được một người vợ hiền, biết lo hết bổn phận làm dâu, mà chăm sóc mẹ ta được ăn no ngủ khỏe trong khi đầu bạc da nhăn như vậy, thật là một điều hết sức vui mừng.”

Người phụ nữ biết chồng đã lầm kế của mình rồi, bèn thừa cơ nói với chồng rằng:

- Thưa chàng! Tuy thiếp đã hết lòng nuôi dưỡng mẹ như thế, nhưng sự ấy chẳng qua là điều ở thế gian mà thôi, nên sự hiếu dưỡng cũng chưa lấy gì đáng gọi là mỹ mãn cho lắm! Vậy chàng cũng nên tìm một phương pháp chi khác, đặng hóa sanh độ tử cho mẹ được siêu thoát linh hồn và được vãng sanh về cõi Trời mà hưởng những hạnh phúc thần tiên, thì chúng ta mới trọn đạo làm con, chớ những vật chất ở đời này cũng chỉ là giả dối trong lúc còn sống mà thôi.

Người chồng nghe vợ nói những lời tha thiết như thế, liền đáp rằng:

- Nếu chúng ta muốn cho mẹ được mau siêu thăng lên cõi Trời, thì chỉ một pháp của đạo Bà La Môn, là phải dùng hầm chất củi mà đốt mẹ. Nhưng ta không nở làm như vậy.

Người phụ nữ nghe chồng đáp thì biết đã trúng kế của mình nên nói thêm rằng:

- Phải lắm! Trong đạo hạnh của mình đã có pháp giải thoát siêu thăng như vậy thì chúng ta cũng nên thi hành liền, đặng cho mẹ được lên chốn thiên đường hưởng lộc Trời, mà chúng ta cũng đền đáp được ân sanh thành nữa.

Nghe qua mấy lời của vợ, người chồng liền tin, chớ chẳng ngờ vợ xúi đốc làm như thế là có ý quyết hại mẹ mình, nên chàng ra ngoài đồng ruộng đào một cái hầm rất lớn mà lại thật sâu, và chở củi đem chất dưới hầm, rồi đốt lửa hừng lên đỏ rực. Ðoạn chàng lại lập một tiệc ở gần cái hầm, rồi trở về nhà dẫn mẹ ra đó đứng làm chủ tiệc và mời cả thảy những bà con tân khách cùng các chúng Bà La Môn đến dự và uống rượu nghe đờn.

Sau khi yến tiệc vừa xong, các tân khách đều lui về nhà, hai vợ chồng người phụ nữ bèn dẫn mẹ ra mé hầm xem, rồi thình lình xô mẹ xuống hầm. Người vợ tưởng chắc rằng xác thịt của mẹ chồng đã tiêu ra tro rồi, còn người chồng lại tin rằng mẹ mình đã tiêu diêu tự tại nơi cõi Trời, nên dắt nhau trở về nhà. Ngờ đâu trong hầm ấy lại có một khoảng trống không có lửa, khiến bà sa vào đó mà chẳng có điều gì hại đến tánh mạng, nên bà có thể tìm đường chui ra được.

Khi bà ra khỏi chốn hiểm nguy rồi, thì trời đã về khuya, bốn bề tĩnh mịch, bà lần mò theo đường cũ trở về nhà. Nhưng vì đường xa và trời lại tối đen như mực nên bà mới gắng leo lên một nhành cây to và rậm để ẩn thân. Trong khi bà ngồi trên cây, bổng đâu có một lũ ăn trộm vừa đến nghĩ tại dưới gốc. Bà liền tằng hắng một tiếng lớn, bọn trộm hoảng kinh lật đật bỏ chạy tứ tán, để lại những đồ của chúng nó đã lấy của người.

Ðến khi trời vừa tảng sáng, bà liền leo xuống, thì thấy những đồ châu báu và bạc tiền đầy dưới gốc nên bà lựa nhũng món quý giá như: vàng, bạc, ngọc, ngà, xuyến, bông tai...ồi lần lượt đem về nhà. Người phụ nữ thấy mẹ chồng trở về, liền kinh hãi và tưởng rằng bà đã hiện hồn về nhà, nên nhắm mắt và lánh mặt cúi đầu, chẳng dám chào hỏi. Còn chồng của nàng thì lại tưởng mẹ của mình đã được siêu sanh nơi cõi Trời, nay về thăm mình, nên lật đật chắp tay lại mẹ mà nói rằng:

- Con nhờ vợ của con khuyên bảo dùng phương pháp “Hóa sanh độ tử, thoát kiếp siêu hồn”. Nên nay mẹ được lên cõi Trời mà về thăm con, thì con rất vui mừng.

Bà mẹ nghe con nói như vậy mới biết dâu mình đã muốn hại mình, nên bà nhân kế tựu kế, nghĩa là bà dùng cái kế của người dâu đã hại bà đó mà trở lại hại nó. Bà bèn nói lại rằng:

- Mẹ nhờ hai vợ chồng con làm phép siêu thăng cho mẹ, nên nay mẹ được giải thoát mà sanh về cõi Trời, hưởng được nhiều điều phước báo. Hai vợ chồng con ăn ở như vậy mới được trọn phần hiếu thảo.

Bà lại day qua mặt người dâu và đưa mấy món báu cầm nơi tay mà nói rằng:

- Những món ngọc, bông tay, vòng, vàng, xuyến nầy là vật của ông bà con cậy mẹ đem về cho con. Nhưng vì mẹ chân yếu gối đùn, thân gầy sức mỏng, nên xách đem về chẳng đặng nhiều. Vả lại mấy người ấy nhắn với mẹ bảo con cũng làm phép siêu thăng như con đã làm mẹ vậy, đặng con lên Thiên đường mà lãnh lấy những đồ châu báu ấy còn rất nhiều.

Người phụ nữ nghe mẹ chồng mình nói như vậy, tưởng là sự thật, nên vui mừng mà nói với chồng rằng:

- Ngày nay mẹ có duyên sa xuống hầm lửa mà được lên cõi Trời hưởng những vật lạ của báu; nhưng tiếc vì thân mẹ già yếu, nên chẳng đem hết của cải về được. Vậy nếu chàng bằng lòng cho phép thiếp làm phép siêu thăng như mẹ vậy, thì chắc thiếp đem tất cả những đồ châu báu ấy về hết, khi ấy chúng ta sẽ trở thành đại phú gia, mặc sức cùng nhau hưởng sự sung sướng!

Người chồng nghe vợ tỏ ý như thế, thì cũng vui vẻ bằng lòng, liền đào một cái hầm làm y theo cách đã thiêu mẹ mình ngày trước. Nhưng than ôi! Khi hầm lửa vừa sắp đặt xong, người đàn bà độc ác kia liền gieo mình xuống, của cải châu báu đâu chẳng thấy trái lại phải bị ngọn lửa thiêu đốt nóng không thể tưởng tượng và kết quả tội lỗi tiêu tan thành tro bụi. Thật là một quả báo rùng rợn đáng làm gương cho những nàng dâu bất hiếu với mẹ chồng.

Hại người sẽ bị người hại
Oán người sẽ bị người oán
Mắng người sẽ bị người mắng
Ðánh người sẽ bị người đánh.





Thanked by 3 Members:

#4 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/06/2012 - 13:53

3. Bố thí bất nghịch ý

Thuở xưa, có một nước hiệu là Diệp Ba, vua tên là Thi Tí, lấy phép chơn chánh trị vì, chẳng hề làm tổn lê dân. Vua có 4.000 quan thượng thơ, 500 thớt voi bạch, cai quản 60 tiểu bang và 800 thôn xã. Vua tuy có hai muôn vương phi mỹ nữ, song không có bà nào có con. Ngài khẩn cầu chư Thánh chúng, Thần núi, Thần nước.

May thay! Một bà bỗng có thai. Thiên tử bổn thân săn sóc chánh cung rất chu đáo. Ngài lại ra lệnh lo nào nệm thúy gối loan cho bà an nghỉ, nào món ăn cho mỹ vị, thức uống cho tinh khiết đặng bà dùng. Sau chín tháng đến ngày mãn nguyệt khai hoa, bà sanh đặng một hoàng nam đặt tên là Tu Ðại Noa. Hay tin này, cả thảy quý phi trong cung điện đều hớn hở vui mừng.

Thời gian qua, Thái tử Tu Ðại Noa đã được 16 tuổi. Ngoài văn võ kiêm toàn, lại thêm lễ nhạc cung đàn cũng là tột chúng. Ngài phụng kính Hoàng phụ và Mẫu hậu chẳng khác chi như thánh. Vua cha lại dựng riêng cho Hoàng tử một đài các nguy nga rực rỡ. Tuy trẻ tuổi, song Ðông cung lại quý sự phước thiện, bố thí cho nhân loại, thượng cầm hạ thú. Ý Ngài chỉ muốn cho tất cả chúng sanh được an vui tự tại.

Khi đến tuổi trưởng thành, vua cha đính hôn cho Ngài với nàng Mạn Trà, con một vị Thiên tử. Công chúa sắc đẹp tuyệt trần và đức hạnh không ai sánh kịp. Ngày tháng qua, vợ Ðông cung sinh được một trai, gái. Thuở ấy Hoàng tử nhớ pháp bố thí Ba La Mật. Ngài xin phép vua cha dạo chơi và xem cảnh vật, Ngài thấy những người nghèo, đui, điếc, câm, đi dọc đường, trong lòng ưu ái, không hân hoan chút nào. Vua cha hỏi, Ðông cung nói:

- Tâu Hoàng phụ, con ra thành thấy người nghèo, điếc, đui, câm; con động mối từ tâm, xót lòng trắc ẩn. Con muốn tâu Hoàng phụ biết ý muốn của con, song con còn ngần ngại e Hoàng phụ không nhận lời.

Hoàng thượng nói:

Con muốn điều gì, cha cũng hoan hỷ ban cho như ý.

Ðông cung nói:

- Con muốn lấy tất cả trong kho tàng của Hoàng phụ, đem bố thí cho mọi người, bất luận ai xin vật chi thì con cho vật ấy.

Hoàng phụ đáp:

- Hay thay con cứ thi hành theo bổn nguyện, cha không cấm cản.

Ðông cung xin các quan hầu cận đem đồ châu báu ra bày biện nơi bốn cửa thành và ngoài chợ đặng bố thí cho tất cả nhân loại. Tám phương trời đất đều hay việc lành của Hoàng tử. Bốn hướng xa xôi ngàn dặm, đua nhau lặn suối trèo non, đến chịu thọ thí. Người đói rách, Hoàng tử cho ăn mặc, kẻ xin bạc vàng châu báu, Hoàng tử lại cấp cho, ai ai cũng được lòng hả dạ.

Thời ấy có một ông vua nghịch sanh lòng nham hiểm, hay tin Hoàng tử bố thí bất luận là ai cùng vật gì, mới hội các đình thần và các vị Bà La Môn trong nước bàn bạc rằng:

- Ta nghe vua nước Diệp Ba có một thớt tượng bạch, tên là Tu Ðàn Diên chạy bay được trên liên hoa. Voi ấy đã dõng mãnh lại mạo hiểm trong việc chiến tranh, trăm trận trăm thắng, chả biết chư khanh có ai chịu đi xin voi ấy chăng?

Các quan văn võ lắc đầu trương mắt nhìn nhau; song trong hàng Bà La Môn có tám ông tâu rằng:

- Chúng tôi nguyện làm như ý, cúi xin Hoàng thượng ban cho chúng tôi ít đồ hành lý.

Vua dạy cấp đồ đi đường và nói rằng:

- Ta rất tin cậy các ngươi, nếu các ngươi xin được voi ấy, ta sẽ trọng thưởng.

Tám ông Bà La Môn tay cầm tích trượng lên đường, khi lên thác khi xuống ghềnh, lần hồi đã tới nước Diệp Ba. Chúng hỏi thăm đến trước cửa đền Hoàng tử, thảy đều chống gậy kim cương, chân đứng chân treo, day mặt vô cửa. Người giữ cửa vào báo cho Ðông cung, Ngài liền ra thi lễ một cách tôn trọng, chẳng khác chi nghĩa cha con. Ðoạn thái tử hỏi:

- Bạch quý Ngài, quý Ngài ở đâu đến đây? Ði đường sá xa xôi có cực khổ chăng? Cảm phiền quý Ngài cho tôi biết có việc chi quan hệ mà phải chịu nhọc nhằn treo chân như thế này?

Tám vị Bà La Môn đáp:

- Thưa Hoàng tử Ðông cung, chúng tôi mạn nghe Ðông cung mở đường phước thiện, bố thí bất luận là ai cùng bất cứ của cải gì, nên danh thơm của Ngài truyền khắp tám phương, công đức của Ngài quả thật vô lượng vô biên, xa gần đều chúc tụng, không còn một ai không biết. Chúng bần đạo lấy đó tin chắc chắn như lời. Thưa Hoàng tử Ðông cung, thật Ngài là con cõi thượng thiên, thế thì lời nói Ngài còn hơn kim thạch. Vậy nếu Ngài thành tâm bố thí, chúng bần đạo xin Ngài hoan hỷ cho chúng tôi bạch tượng bay trên liên hoa.

Ðông cung liền đến chuồng ngựa dắt ra một con voi bạch, song các vị Bà La Môn lại nói:

- Thưa Hoàng tử Ðông cung, không phải thớt voi này, chúng tôi xin đây là xin bạch tượng chạy được trên hoa sen, tên nó là Tu Ðà Diên.

Hoàng tử đáp:

- Cha tôi thương mến voi ấy lắm, chẳng khác chi tôi, tôi không thể tự quyền cho các Ngài. Nếu tôi cho thì cha tôi hết thương tưởng tôi, lại còn đuổi tôi ra khỏi nước nữa.

Nhưng Ðông cung lại nghĩ rằng: “Trước kia ta đã lập trọng nguyện Bố Thí Bất Nghịch Ý, nếu ta từ chối thì ta tự bác đại nguyện của ta, ta nên cho voi ấy mới có thể đạt được pháp Ba La Mật.

Ðông cung không còn ngần ngại nói:

- Bạch quý Ngài, tôi không dám làm quý Ngài bận lòng vì một sự nhỏ nhen đó.

Hoàng tử dạy tùy tùng thắng bành vàng và dắt tượng ra tức tốc. tay trái Ngài bưng nước rửa tay cho các vị Bà La Môn, tay mặt dắt voi trao cho quý khách. Vừa được voi bạch, tám ông Bà La Môn liền ca tụng “Bồ đề tâm” và cảm tạ Ðông cung, lộ vẻ hân hoan và vội vã lên đường. Ðông cung lại còn nói vói:

- Xin quý Ngài hãy đi cho chóng, kẻo Hoàng phụ tôi biết lại cho người theo bắt voi.

Trong nháy mắt, tám ông Bà La Môn biệt dạng. Vừa nghe Hoàng tử cho kẻ nghịch tượng báu, các quan văn võ đều sững sốt, lo sợ rằng:

- Nước ta nhờ có voi ấy mà dẹp nạn can qua.

Quần thần liền vào tâu với vua:

- Muôn tâu bệ hạ, Ðông cung đã đem voi báu mà cho kẻ thù nhà, Bệ hạ dựng nên bờ cõi cũng nhờ có voi ấy oai phong lẫm liệt, một mình có thể chống cự 60 thớt voi khác như chơi; nay Ðông cung lại cho kẻ nghịch, chúng hạ thần cho đó là điềm mất nước. Chúng tôi tâm hồn rối loạn, cúi xin Hoàng thượng định đoạt. Bố thí bất nghịch ý của Ðông cung theo thiên kiến của chúng tôi thì chẳng kíp thì chầy, Hoàng tử chẳng những vét sạch cả của cải trong kho tàng mà thôi, lại chúng tôi sợ e Ngài còn cho cả nước và vợ con Ngài nữa.

Vua nghe tâu không bằng lòng, liền cho đòi một vị Ðại thượng thơ đến hỏi:

- Khanh cho Trẫm biết có phải Thái tử bắt bạch tượng cho kẻ nghịch chăng?

- Muôn tâu Bệ hạ quả thật như lời.

Vua hội nghị tất cả đình thần để thẩm án Ðông cung. Một quan thượng thơ tâu:

- Kẻ nào vào chuồng tượng thì chặt chân, kẻ nào dắt tượng thì cắt tay, kẻ nào thấy dắt tượng thì móc mắt.

Một quan thượng thơ khác lại tâu:

- Xin Hoàng thượng cho công án tử hình cho cả thảy thủ phạm và đồng lõa.

Thấy quần thần phân vân và ý kiến không đồng, Vua lại thêm tha thiết và phán với triều đình:

- Con Trẫm chẳng những ham tu tuệ mà thôi, lại còn mộ đường phước thiện. Ðối với mấy điều ấy Trẫm không thể ngăn cản, huống chi nay Trẫm nỡ đành bắt buộc hành hình cùng hạ ngục.

Một vị Ðại Thượng thơ bác bẻ ý kiến cả thảy triều đình, rồi quỳ xuống tâu:

- Theo thiển kiến của tôi, Ngài nên đuổi Thái tử ra khỏi nước và đày người ở chốn lâm sơn 12 năm hòng người ăn năn hối ngộ.

Vua theo ý kiến ấy, dạy đòi Ðông cung vào hỏi:

- Có phải ngươi bắt bạch tượng cho kẻ nghịch chăng?

- Muôn tâu Hoàng phụ, quả thật vậy.

Vua lại hỏi:

- Sao ngươi lại dám bắt bạch tượng cho kẻ nghịch mà không trình cho ta hay trước?

- Thưa Hoàng phụ, trước kia Hoàng phụ cho phép con bố thí như ý mà không ngăn cấm một việc chi. Bởi thế nên con không tâu lại với Hoàng phụ việc con làm phước.

Thánh Hoàng nói:

- Lệnh ta ban thuộc về ngọc ngà châu báu, chớ không can hệ với tượng bạch.

Thái tử đáp:

- Muôn tâu Hoàng phụ, các vật ấy đều là của cải của Hoàng phụ tất cả, con không ngờ phải ngoại trừ tượng bạch.

Hoàng thượng phán:

- Ngươi phải tức tốc ra khỏi nước này, ta đày ngươi tại núi Ðàn Ðặc 12 năm.

Thái tử tâu:

- Con không cải lệnh Hoàng phụ, song con xin Hoàng phụ cho phép con ở lại thêm bảy ngày đặng bố thí thêm cho mãn nguyện.

Thiên tử phán:

- Ta dạy ngươi cũng vì sự bố thí của ngươi thái quá, chẳng những làm tiêu tan kho báu của ta, lại làm cho nước mất một linh vật. Ngươi không được ở lại đây thêm bảy ngày, hãy ra khỏi nước bây giờ, ta không cho phép đâu.

Thái tử tâu:

- Con không dám trái lệnh Hoàng phụ, nhưng vì con còn chút ít của cải riêng, muốn đem bố thí cho trọn vẹn chớ con không dám đá động đến kho tàng của nước nữa...

Hai muôn cung phi đồng xin vua để cho Hoàng tử ở lại bảy ngày rồi sẽ đày đi cũng chẳng muộn. Vua nhận lời. Thái tử dạy cho gia dịch truyền cho thập phương hay: ai muốn của cải, thì đến Ngài cung cấp cho. Nhân dân ở bốn phương trời nghe đồn đều tới cửa đền; Hoàng tử rất ân cần thiết đãi thức ăn uống, chăm nom phân phát của cải, mọi người đều được vui vẻ. Trong bảy ngày, bố thí hết của cải. Người hàn vi trở nên phú quí; cả muôn người đều nhờ đó được no ấm hân hoan.

Ðông cung vào từ tạ Công chúa Mạn Trà và nói rằng:

- Vì tôi bố thí thái quá, đã vét sạch kho tàng lại còn cho kẻ nghịch tượng bạch kỳ tài, nên Hoàng phụ và triều đình đày tôi 12 năm lên núi Ðàn Ðặc.

Bà Mạn Trà nói:

- Muốn nước thạnh nhà an, tôi xin cầu chúc Ðức Thánh hoàng, các thượng quan cùng quân nhân lớn nhỏ trong nước, thảy đều được giàu sang, an vui vĩnh viễn. Còn tôi thì nguyện theo cùng Thái tử vào chốn thâm sơn mà tu hành pháp Bát nhã.

Ðông cung nói:

- Người nam tử ở núi non hiểm địa còn khó giữ được bình tĩnh với cọp hùm cùng các loài thú dữ khác; Vương phi đã quen thanh nhàn, làm sao chịu nổi với cảnh khó khăn và đời vô vị. Công chúa ở thì đài các nguy nga, mặc ròng tơ lụa, nghỉ toàn nệm gối, ăn uống tinh đồ mỹ vị; còn trên sơn lâm, nghỉ toàn màn trời chiếu đất, nệm gối bằng cỏ rơm, thức ăn toàn là hoa quả. Lại thêm mưa, gió, sấm sét, sương, tuyết làm cho vỡ mật kinh tâm. Khi lạnh thì lạnh thấu xương, khi nóng thì nóng phỏng trán. Nơi cây cối không bề nương dựa, dưới đất thì cỏ gai, đá sỏi cùng loài sâu bọ độc địa, làm sao Vương phi lại chịu nổi cảnh Khổ ấy?

Bà Mạn Trà đáp:

- Nếu thiếp xa cách Hoàng tử thì cần gì nệm thúy gối loan, sơn hào hải vị. Hôm nay đứng trước hoàn cảnh này thì lẽ đương nhiên chàng đâu thiếp đó cho trọn đạo vợ chồng. Nước lấy cờ làm biểu hiệu, khói thì có lửa, vợ thì có chồng. Thiếp chỉ biết gởi thân cho lang quân, mặc dầu mưa tối nắng chiều. Thiếp tưởng: lang quân chẳng khác chi thần thức của thiếp, nếu thần thức xa lìa thì thân kia tan rã. Vả lại lúc lang quân lập đàn bố thí, thiếp cũng dự vào, khi lang quân lìa quê hương nếu có người đến xin thọ thí, Thiếp biết nói làm sao với họ? Lúc thiếp nghe ai khẩn cầu với thí chủ, thiếp quá cảm động có thể chết đặng vậy.

Ðông cung nói:

- Tôi mở đường bố thí, không từ chối một ai, nếu có người đến xin hai con, tôi rất hoan hỷ nhận lời. Khi ấy Công chúa không vui lòng hưởng ứng, có phải làm rối loạn tâm từ thiện của tôi không? Tốt hơn là Công chúa đừng theo tôi làm chi.

Mạn Trà đáp:

- Hoàng tử chớ có lo xa, tôi xin tán thành mọi việc phước thiện. Trong trời đất không còn ai nhân đức hơn lang quân.

Ðông cung nói:

- Nếu quả Vương Phi đồng tình thì không gì quý hóa bằng!

Ðông cung dắt vợ con vào viếng mẹ và từ giả lên đường. Thái tử thưa:

- Cúi xin Mẫu hậu hãy năng nhắc nhở Thánh hoàng; lấy luật chân chánh trị nước chăn dân, chớ để tà đạo sang nhập nước nhà.

Nghe lời Ðông cung, Hoàng hậu bồi hồi cảm động âu sầu. Bà nói giữa cung phi:

- Ta đem thân cứng cỏi như sắc đá, lấy lòng bền bỉ hơn gang thép mà phò Hoàng thượng không chút chi lỗi lầm. Nay ta có một mụn con vỏn vẹn, nó lại bỏ ta mà đi, tưởng tới chừng nào thì tâm bào ta đứt từng đoạn! Nhớ khi con còn trong bụng mẹ, chẳng khác chi lá trên nhành, càng ngày càng lớn, ta nuôi con đến tuổi trưởng thành, nó lại đi xa, bỏ ta hiu quạnh! Các Vương phi khác sẽ được thú vui chơi, còn ta thì Hoàng thượng sẽ hết yêu vì ta nữa. Ta xin thành tâm chú nguyện cùng cao xanh cho con ta mau được trở về xứ sở.

Ðông cung cùng vợ con đồng lạy mẹ rồi lui ra. Hai muôn quý phi mỗi bà đều đem ngọc trân châu đặng hiến cho Ðông cung; bốn ngàn Thượng thơ đem tràng hoa và báu dâng cho Hoàng tử. Hoàng tử ra cửa thành hướng Bắc, Ngài lấy cả thảy bảy vật báu, ngọc và bông hoa bố thí cho mọi người. Cả thảy quan dân lớn nhỏ vô số đến đưa đón chật đường, chen nhau dâng lễ vật cùng chúc từ cho Hoàng tử. Họ bàn luận cùng nhau và nói:

- Ðông cung thái tử là người trọn lành, là bậc vĩ nhân trong nước. Vì sao Hoàng thượng lại xua đuổi một vị Hoàng tử quý nhất và hiếm có trong đời này?

Cả thảy mọi người đều hoài tâm thương tiếc. Ra khỏi thành, Hoàng tử xin thần dân trở gót đặng Ngài lên đường. Lúc quay lưng, quan dân lớn nhỏ đều bi cảm và khóc nức nở. Thái tử lên xe với vợ con, tự cầm cương giục ngựa. Ði một khoảng đường xa xa. Thái tử dừng xe dưới bóng cây nghĩ mát. Bỗng có một người Bà La Môn đến xin Ngài con ngựa. Thái tử mở ngựa ra cho, rồi để hai con lên xe, mang gọng xe vào kéo thế cho ngựa, Công chúa thì ở sau xe đẩy tới. Ði thêm được một khúc đường, lại gặp một người Bà La Môn, đón xin cái xe. Ðông cung liền nhận lời. Ði một khúc xa hơn nữa, lại gặp người Bà La Môn xin bố thí. Thái tử nói:

- Tôi không muốn từ chối, song của cải tôi đã hết.

Người Bà La Môn đáp:

- Nếu Ngài không còn của cải gì khác, nhờ Ngài cho tôi y phục của Ngài đang mặc trong mình.

Ðông cung lấy quần áo tốt của mình cho, rồi mặc đồ cũ. Ði một đổi xa nữa, lại gặp một người Bà La Môn đến thọ thí, Ngài cho quần áo của hai con. Ðông cung đã bố thí cả xe, ngựa, của cải và áo quần mà không buồn không tiếc một chút nào. Bấy giờ Ðông cung thì cõng con trai, Công chúa thì bồng con gái, đi bộ lên đường. Cả thảy vợ chồng con cái đều hân hoan, nhắm non thẳng dặm.

Núi Ðàn Ðặc xa lắm, cách châu thành hơn 6.000 dặm. Muốn đi đến nơi, phải trải qua không biết bao nhiêu hầm hố bùn lầy, phải nhịn đói chịu khát nữa. Cứ ngày đi đêm nghỉ, xuân qua thu lại, hè mãn đông sang, tội nhân đã đến núi Ðàn Ðặc. Hoàng tử ngắm xem phong cảnh thấy núi cao chơm chởm oai nghi, cây cỏ sầm uất thạnh mậu. Các thứ chim ca hót với giọng véo von, hồ trong hoa nở nước ngon trái ngọt với vô số ngỗng, hạc, vịt, chài cùng các loài chim ăn dưới nước.

Hoàng tử nói với vợ:

- Ở đây cây mọc thẳng bằng, cao sừng sựng tận trời xanh mà không lay động. Chúng ta sẽ được uống nước ăn trái ngọt, ở trong hang đá; chúng ta sẽ tu hành pháp Bát nhã (Phương pháp dùng trí tuệ để quan sát chiêm nghiệm, tìm tòi sự thật của sự vật).

Ðông cung vô núi, cả thảy thượng cầm hạ thú đều vui mừng đến nghinh tiếp Ngài. Trên chóp núi có một vị tu hành tên là A Châu Ðà. Ngài được 500 tuổi và đức hạnh dung thông. Ðông cung đến thi lễ rồi lui ra đứng dậy và nói:

- Bạch Ngài hiện giờ chúng tôi chưa biết phải ở nơi nào có thức ăn uống?

Ông A Châu Ðà đáp:

- Toàn núi này là cảnh thiên thai, Ngài ở đâu lại không được? Núi này chỗ nào cũng tinh sạch và thanh tịnh, Ngài muốn hành pháp Bát nhã lại còn đem vợ con theo làm chi.

Hoàng tử chưa kịp trả lời, bà Mạn Trà chận hỏi:

- Ngài tu được bao lâu?

- Tôi ở núi này được đâu 400 hay là 500 năm.

- Một người như tôi ước tu bao nhiêu năm mới đắc huệ? Giả tỷ tôi ở núi này lâu hơn cổ thọ cũng khó tính cho ra đến chừng nào đạt được đạo Bồ đề.

Ông tiên đáp:

- Kỳ thật mấy câu chuyện ấy, tôi cũng không biết được.

Ðông cung hỏi:

- Ngài có nghe nói đến tên Thái tử Tu Ðại Noa, con của vua nước Diệp Ba chăng?

Vị tu sĩ đáp:

- Tôi thường nghe nói đến tên, song không biết mặt.

Thái tử nói:

- Ðông cung ấy là tôi đây.

Vị tu sĩ hỏi:

- Ngài muốn tu pháp môn nào?

Thái tử đáp:

- Tôi muốn tu theo Ðại thừa.

Vị tu sĩ nói:

- Ðối với công đức của Ngài, tôi tưởng chẳng bao lâu Ngài đạt được mục đích viên mãn: Chừng Ngài đắc đạo vô thượng, hoàn toàn sáng suốt, tôi sẽ là đệ tử thứ nhất của Ngài có phép siêu phàm nhập thánh.

Rồi ông chỉ cho Thái tử một chổ ở. Thái tử bắt chước ông tròng cương vào đầu và vấn tóc, lượm nhánh và lá cây cất bốn lều tranh cho mình, vợ và con. Con trai tên là Ða Ly 7 tuổi, mặc quần áo bằng cỏ rơm theo cha, con gái tên là Kê Na Diên mặc quần áo bằng da nai theo mẹ. Trên núi chim chóc và cầm thú vui cười tỏ lòng tín ngưỡng và sùng bái Hoàng tử.

Khi Thái tử đi tới đâu thì ở đó hang hóc nội mạch nước, cây khô lại đơm bông trổ lá, loài sâu bọ và ác thú thảy đều trốn mất, loài thú ăn thịt trở lại ăn cỏ, cây sai trái, chim đồng tình kêu hót. Bà Mạn Trà lo hái trái cho Hoàng tử và con ăn. Còn hai trẻ khi thì đi chơi với cầm thú nơi mé rạch, khi lại ở đó suốt đêm. Lần kia đuổi thú chơi, con trai Ða Ly cởi sư tử, sư tử nhảy, Ða Ly té xuống đất trầy mặt chảy máu. Một con khỉ thấy, leo lấy lá cây chùi máu, rồi dắt lại bờ ao rửa. Hoàng tử thấy tấn tuồng ấy, thầm nói: “Loài cầm thú cũng có lòng thương nhân loại như vậy”.

Thanked by 2 Members:

#5 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/06/2012 - 23:17

Trong thời kỳ ấy, tại xứ Câu Lưu có một người Bà La Môn nghèo khổ, bốn mươi tuổi, có vợ, không con. Vợ chàng thì yểu điệu, đẹp đẽ, phương phi; còn chàng thì xấu xa, mình mẫy đen điu, diện mạo quá dị tướng, chẳng khác chi yêu ma quỷ mị. Vợ chàng gớm ghét mong sao chàng chết phứt cho rồi. Ngày kia cô ta đi múc nước gặp một đám trai tráng nhạo báng chồng nàng và nói:

- Bà thì ví tợ thiên kim, cớ sao lại làm vợ một người như thế?

Cô ta trả lời:

- Cái đầu già nua ấy bạc trắng như sương, sớm tối tôi hằng trù rủa cho nó chết, chẳng biết sao nó không nhúc nhích.

Ðáp rồi tự than thân trách phận, về nhà khóc lóc với chồng:

- Thiếp đi múc nước gặp một lũ trai tơ xúm nhau diễu cợt. Vậy chàng phải kiếm cho thiếp một con đòi, chừng nào có đứa ở thiếp khỏi đi xách nước, bọn ấy mới hết chọc ghẹo thiếp.

Người chồng trả lời:

- Tôi nghèo xác da xác chiếu, nàng lại muốn tôi mọi ở đâu?

Vợ đáp:

- Nếu không có, tôi tình nguyện bỏ nhà ra đi.

Nàng lại tiếp lời:

- Tôi có nghe Hoàng tử Tu Ðại Noa, vì bố thí thái quá nên bị vua cha đày tại núi Bàn Ðặc. Ngài có một trai, một gái, chàng nên thân hành đến đó xin hai trẻ.

Chồng bác lời rằng:

- Núi Bàn Ðặc xa hơn 6.000 dặm, khó đi đến nơi huống nữa là xin Thái tử một việc mà Ngài không thể cho!

Vợ lên tiếng:

- Nếu chàng còn dụ dự, tôi sẽ mượn con dao tự tử ngay.

Chồng xuống giọng:

- Thôi đừng vội giận, nàng coi sắp cho tôi ít đồ hành lý gì?

Vợ nói:

- Ði thì đi đi, nhà ta thiếu trước hụt sau, còn đòi đồ hành lý gì?

Người Bà La Môn cụ chuẩn bị ít món ăn rồi lên đường, Ðến xứ Diệp Ba đi ngay lại cửa thành, chàng ta mới hỏi người giữ cửa:

- Xin ông thi ân cho tôi biết Hoàng tử Ðông cung Tu Ðại Noa ở đâu hiện giờ?

Người giữ cửa không dám trả lời vào báo Hoàng thượng hay. Vua nghe tức giận và phán rằng:

- Cũng vì lũ này mà ta đày Thái tử, sao chúng nó còn đến đây làm chi?

Người Bà La Môn được đòi vào quỳ tâu:

- Muôn tâu Thánh hoàng tôi ở xứ xa lại, vì cái thanh danh của Hoàng tử Ðông cung đâu đâu đều biết, trên thấu cửu thiên, dưới tận cửu tuyền, Ðông cung có lòng bác ái không hề để một ai thất vọng. Bởi vậy nên ở xa, tôi cũng lặn lội đến đây chú ý thành tâm yêu cầu một việc cùng Hoàng tử.

Vua nói:

- Ðông cung ở chốn quạnh hiu, trong thâm sơn và quá nghèo khổ, người còn có vật chi nữa mà bố thí.

Người Bà La Môn tâu:

- Muôn tâu Hoàng thượng, tuy biết Ðông cung khiếm khuyết mọi vật, song tôi cũng chỉ nguyện đến tận nơi ra mắt Ngài.

Vua dạy người chỉ đường. Người Bà La Môn nhắm núi Bàn Ðặc thẳng dặm băng ngàn. Chàng vào núi gặp người thợ săn liền đón hỏi:

- Xin ông thi ân cho tôi biết Hoàng tử Tu Ðại Noa có ở trên núi này không?

Thợ săn tuy biết Ðông cung bị đày ở đây cũng vì bố thí cho dòng Bà La Môn, song không chỉ chỗ, lại còn bắt chàng trói vào gốc cây đánh một trận nhừ tử, mắng nhiếc quá lời và nói:

- Ta muốn cho ngươi vài mũi tên và ăn thịt ngươi, ngươi còn thiếu vật chi mà đến đây hỏi thăm Thái tử.

Người Bà La Môn nghĩ:

- Ta sẽ bị tay người này giết, vậy ta phải thiết kế đánh lừa người mới mong toàn tánh mạng.

Nghĩ rồi liền nói:

- Theo lẽ phải Ngài phải hỏi tôi nguyên nhân trước khi hành phạt tôi cho đáng.

Thợ săn đáp:

- Ngươi muốn nói việc chi?

Người Bà La Môn nói:

- Thưa Ngài đức Thánh hoàng hồi tâm thương nhớ Thái tử Ðông cung, dạy tôi đi tìm Hoàng tử đặng thỉnh về nước.

Nghe vậy, thợ săn hối hận liền mở trói thả ra, nhận lỗi và nói:

- Tôi thật vô lễ, xin ông miễn chấp, cũng bởi không hay không biết có chỉ Thánh hoàng nên mới lỗi lầm như hôm nay.

Nói rồi chỉ chỗ ở của Ðông cung. Người Bà La Môn đi thẳng đến lều tranh của Ðông cung, Hoàng tử thấy đặng vui mừng, ra tiếp rước, thi lễ và hỏi thăm:

- Ông ở đâu lại? Có lẽ ông đi đường mệt nhọc thì phải? Ông đến tôi có việc chi chăng?

Người Bà La Môn thưa:

- Tôi ở xa lắm, thân tôi khốn đốn không cùng, đương giờ tôi đói khát nữa.

Hoàng tử lật đật thỉnh vào cốc mời ngồi, đem trà nước và trái cây dâng người Bà La Môn nói:

- Thưa Ðông cung Thái tử, tôi gốc ở nước Câu Lưu, đã lâu tôi nghe lòng từ thiện của Ngài, thập phương thế giới đều mến danh thơm và đức hạnh của Ngài. Tôi quá nghèo khổ nhưng Ngài thương tưởng tôi, cho tôi một vài vật.

Thái tử đáp:

- Kính ông chẳng có việc gì tôi từ chối nhưng rủi cho ông, hiện giờ tôi không còn món gì.

Người Bà La Môn nói:

- Thưa Ðông cung, nếu Ngài không có gì, xin Ngài cho tôi hai trẻ con của Ngài để phụng dưỡng tôi lúc tuổi về già.

Hoàng tử đáp:

- Ông ở xa lại chú tâm xin hai con tôi, tôi không lẽ từ chối.

Lúc đó hai trẻ đi chơi, Thái tử kêu lại và nói:

- Có một người Bà La Môn ở xa đến xin hai con, cha đã hứa lời ưng chịu, hai con hãy đi với người.

Hai trẻ chạy đến một bên cha khóc rằng:

- Chúng con đã từng biết nhiều người Bà La Môn, song chúng con không hề thấy người nào dị tướng như thế. Chắc người này không phải trong họ của Bà La Môn đâu, người ấy là quỷ yêu! Nay mẹ con đi hái trái chưa về, cha lại bắt con cho yêu tinh ăn thịt chúng con phải chết mất. Ðến chừng mẹ con về kêu con chẳng thấy, thì chẳng khác gì bò mẹ kiếm con, người sẽ bi lụy, than van, đau khổ.

Thái tử nói:

- Hai con chớ quá bịn rịn, cha đã hứa lời không thể thất tín. Người Bà La Môn này không phải là tà ma quỷ mị chi, không ăn thịt con đâu mà ngại gì, hai con hãy đi đi.

Hoàng tử lấy nước rửa tay cho người Bà La Môn, rồi kéo tay hai con cho người Bà La Môn dắt đi. Hai trẻ không chịu đi, chứng trở lại trước mặt cha quỳ xuống và nói:

- Thưa cha chẳng hay chúng con phạm tội gì trong kiếp trước mà ngày nay chúng con phải chịu lắm điều thống khổ. Chúng con là dòng vua, nay phải làm tôi tớ cho kẻ phàm phu. Trước mặt cha, chúng con xin sám hối các tội lỗi, có lẽ nhờ đó sự phiền não và nghiệp chướng của chúng con sẽ được tiêu trừ và hạnh phúc lại đặng phát khởi, mong sao đời này sang đời khác chúng con không còn gặp phải bước gian truân như thế nữa.

Ðông cung nói với hai con:

- Cả thảy ái tình đều là ảo mộng, một ngày kia phải hủy hoại vạn vật đều vô thường, mấy ai giữ trọn vẹn một vật chi nơi trần thế. Hai con hãy đi, chẳng nên dùng dằng, chừng nào cha đắc đạo Bồ Ðề, cha sẽ độ hai con.

Hai trẻ, đôi mắt đỏ ngầu nói với cha:

- Xin cha trao lời vĩnh biệt của hai con lại cho mẹ con, chúng con quá đau lòng vì nghĩa mẹ con xa cách đời đời, lại không giáp mặt tỏ phân một lời trong khi mẹ bắc con nam. Chẳng còn nghi vì nữa, cũng bởi tiền căn nghiệp báo của chúng con, nên nay chúng con phải chịu như vậy. Chúng con nghĩ đến khi mẹ chúng con về thấy mất hai con, người sẽ khổ tâm, đau đớn sầu não chẳng cùng, lo cho thân chúng con phải chịu đói rách phiêu lưu nơi đất khách.

Người Bà La Môn nói:

- Tôi già yếu, hai trẻ chạy bỏ tôi theo mẹ chúng nó, tôi lụm cụm theo bắt chúng nó sao được. Xin Ðông cung trói nó giùm tôi.

Thái tử liền trói hai con giao cho người Bà La Môn dắt đi, nhưng hai đứa nhỏ cưỡng lại chẳng chịu, người Bà La Môn mới đánh chảy máu. Ðau đớn thay cho Ðông cung, thấy tình cảnh như vậy động lòng sa nước mắt. Cả trái đất đều rung động, Hoàng tử và cầm thú theo sau đưa đón hai trẻ, tới chừng biệt dạng mới trở về. Các loài lục súc trở lại chỗ cũ hai trẻ thường chơi thấy cảnh chẳng thấy người, xúc động rên than thảm thiết, lăn lộn dưới đất.

Người Bà La Môn dẫn hai đứa nhỏ đi được xa xa, dọc đường đứa trai vấn dây trói vào cây không chịu đi, chú ý chờ mẹ chúng nó đến cứu. Người Bà La Môn nổi giận, lấy cây đánh nhừ tử, đến chừng chúng nó xin thôi đánh, chịu đi, mới nới tay. Hai đứa nhỏ ngước mắt lên trời vái rằng:

- Thần linh ôi! Hởi thần linh ôi
Hoan hỷ mách giùm mẹ chúng tôi
Xét dạ con đi sầu chất chứa
Ðau lòng mẹ ở lụy quên thôi
Chạnh tình nuôi dưỡng chưa thù đáp
Ðoái nghĩa cưu mang chẳng đắp bồi
Ở biết bao giờ cho rảnh nghiệp
Cuộc đời thiết tưởng bạc hơn vôi.

Cũng ngay lúc đó, Công chúa ở trên núi, nháy mắt khó chịu, bà lấy làm lạ và nghĩ:

- Thuở giờ tôi chẳng hề có cảm động thái quá như hôm nay, chắc hai trẻ mắc phải tai nạn rồi.

Bà liền bỏ giỏ trái lại đó, hối hả ra về. Khi Công chúa về thấy Ðông cung ngồi một mình không có hai con, bà vô lều tranh kiếm không có, bà lại trở ra mé rạch chỗ chúng nó hay chơi giỡn cũng không thấy. Bà chỉ thấy mang, sư tử, khỉ, mấy thứ thường chơi với nó mà thôi. Bà Mạn Trà trở lại chỗ Thái tử ngồi và hỏi hai con ở đâu? Thái tử không nói.

Bà lại hỏi nữa:

- Khi hai con ở xa thấy tôi đem trái về chúng nó chạy nhào lăn dưới đất, rồi lồm cồm ngồi dậy nhảy nhót: Mẹ về; khi chúng nó thấy tôi ngồi ở đâu thì đến ngồi kế một bên, thấy bụi bặm dính mình tôi liền phủi. Bây giờ tôi không thấy con tôi và chúng nó không lại gần tôi, nó ở đâu? Ai bắt nó? Không thấy con tôi, lòng tôi đứt từng đoạn! Chỉ cho tôi biết con tôi đi đâu và đừng làm cho tôi phải cuồng tâm.

Bà nói đi nói lại ba lần, Hoàng tử vẫn điềm nhiên không thốt một lời. Bà lại càng đau đớn hơn nữa. Bà nói chua cay như vầy:

- Mất con tôi còn chịu được, song sự lặng thinh của lang quân làm cho tôi thêm rối loạn.

Ðông cung nói:

- Có người Bà La Môn ở xứ Câu Lưu đến xin hai con và tôi đã cho rồi.

Công chúa thoạt nghe quá cảm động, vụt té xuống đất, bà đau đớn không cùng. Ðông cung nói:

- Công chúa hãy nguôi lòng. Phu nhân hãy nhớ lại việc xưa, hồi thuở Phật Ðề Hòa Kiệt La ra đời. Lúc đó tôi là một người Bà La Môn, tên là Ba Sô Vệ, còn Công tước phu nhân là con gái Bà La Môn tên là Tu La Ðà, Công chúa cầm bảy liên hoa, còn tôi thì nắm trong tay 100 bạc. Tôi mua năm bông sen của Công chúa đặng cúng dường Phật, còn Vương phi thì đem thêm hai bông khác cho tôi dâng cúng Phật. Phu nhân lại lập nguyện như vậy:

- Tôi nguyện cầu sao trong những kiếp vị lai tôi cứ được làm vợ chàng, dầu lịch sự, dầu xấu xa tôi không hề xa chàng.

- Tôi có nói với Công chúa rằng: Nếu nàng muốn làm vợ tôi thì phải tuân theo chánh ý tôi, tôi sẽ đem hết tâm lực hành pháp bố thí, không hề thối chuyển cùng trái ý một ai. Trừ cha mẹ tôi, ai xin vật chi tôi đều hoan hỷ. Công chúa ưng chịu bằng lòng. Nay tôi cho hai con, Vương phi lại làm rối loạn đến mối từ tâm của tôi.

Nghe Ðông cung nói, bà liền tỉnh ngộ; bà nhớ lại trong kiếp quá khứ kia, bà có hứa hẹn và nhận các việc bố thí của Thái tử. Ðế Thích thấy Thái tử hành pháp bố thí Ba La Mật Ða, cố ý thử lòng Thái tử. Ngài hóa thân làm người Bà La Môn xấu xa và cũng dị tướng như người trước, đến trước mặt Thái tử và thốt rằng.

- Ðông cung ơi! Tôi hằng nghe Ðông cung rất hoan hỷ làm các việc phước thiện và không hề từ chối việc chi. Vậy tôi đến đây xin bà Vương nữ, vợ của Ðông cung.

Hoàng tử đáp:

- Công chúa là người của Ngài.

Công chúa nói:

- Nếu Thái tử cho tôi rồi, lấy ai mà giúp đỡ Thái tử.

Ðông cung nói:

- Nếu tôi không cho Công chúa thì tôi không đạt được đạo vô thượng Ba La Mật.

Thái tử múc nước rửa tay cho người Bà La Môn và dắt vợ cho người. Ðế Thích đã nhận được lòng Thái tử không còn tiếc việc chi. Các thiên thần lại ca tụng lòng từ bi bác ái của Ðông cung, tức thì trời đất tối tăm, thế giới đều rung động. Người Bà La Môn dắt Công chúa ra đi, được bảy bước, trở lại trả Công chúa cho Thái tử. Thái tử hỏi:

- Sao Ngài không giữ Công chúa cho Ngài? Công chúa nết na tánh hạnh xấu chăng? Trong cả Hoàng nữ, Công chúa là cực phẩm phu nhân, nàng là Công chúa của một nhà vua kim thời. Cũng vì tôi mà nàng phải nhảy vào vạc dầu sôi, trong đống lửa đỏ, phải chịu ăn uống kham khổ không hề than thở vì đau khổ phong trần; trong mỗi sự hành động, nàng rất ân cần chú ý và gương mặt vẫn thư thái tươi cười. Ngài nên đem nàng đi, tôi mới được an vui.

Người Bà La Môn nói với Ðông cung:

- Ta không phải là Bà La Môn, ta là Thiên Ðế Thích. Ta đến thử lòng Ngài. Nhưng bổn nguyện của Ngài là chi?

Nói xong Ðế Thích hoàn nguyên hình diện mạo oai nghi dung nhan tuyệt mỹ. Công chúa đảnh lễ Ðế Thích và cầu xin ba điều:

- Trước nhất xin Ngài làm sao cho người Bà La Môn đem lại hai con tôi về bán tại bổn xứ, cho chúng tôi được về nước cho chóng.

Ðế Thích đáp:

- Bà sẽ như nguyện.

Ðông cung nói:

- Kính ngài, tôi nguyện sao cho cả thảy chúng sanh đều được giải thoát và hết khổ về sự sanh, già, bệnh, chết.

Ðế Thích:

- Lời nguyện của Ngài thật vĩ đại cao thượng không chi hơn. Nếu muốn sanh cõi trời, làm vua Thượng thiên, làm đại Hoàng đế tại cõi trần, trường thọ như bá, như tùng, thì tôi có thể làm được như ý; chớ cái oai linh tối yếu trong ba giới ta ngoài bản năng tôi.

Ðông cung tiếp:

- Tôi tạm xin cho được giàu có muôn xe đặng bố thí hơn xưa. Tôi mong sao cho Hoàng phụ cùng các quan đại thần hoài tâm sum hiệp cùng tôi.

Ðế Thích đáp:

- Bản nguyện của Ngài sẽ được thành tựu.

Dứt lời Ðế Thích biến mất. Ðồng thời khi ấy người Bà La Môn dẫn mấy đứa nhỏ về tới nhà. Vợ chàng ra đón và nhiếc rằng:

- Thật chàng quả lớn mật to gan mới đem mấy trẻ này về đây. Nó là dòng dõi vua chúa, sao chàng lại tàn nhẫn đánh đập đến nỗi vết tích máu mủ đầy mình. Hãy tức khắc đem bán đi và kiếm đứa khác cho tôi.

Chồng nghe lời vợ đem bán trẻ con. Ðế Thích thể theo lời nguyền của Công chúa liền đổi ý cho người Bà La Môn đưa qua nước Diệp Ba. Ðến xứ ấy, các quan và dân nhìn biết con của Ðông cung cháu nội của đức Kim Thượng, lớn nhỏ đều động lòng thương xót liền vào tâu vua. Vua nghe nói lấy làm ngạc nhiên, cho đòi vào. Xa xa vừa chợt thấy Hoàng tôn, Thiên tử, Hoàng hậu, quần thần và cung phi đều khóc nức nở. Vua hỏi người Ba La Môn làm sao mà có mấy đứa trẻ này? Nó tâu:

- Tôi xin Ðông cung Thái tử.

Vua kêu cháu đến và muốn ôm, nhưng nó khóc không chịu lại gần. Vua hỏi giá cả. Người Bà La Môn chưa kịp trả lời, Hoàng tôn mạn tâu:

- Trai định giá một ngàn bạc với một trăm bò cái, gái định giá hai ngàn bạc với hai trăm bò cái.

Vua nói rằng:

- Lẽ thường thì người ta yêu chuộng con trai hơn con gái, sao trai lại rẻ giá hơn gái?

Hoàng tôn nói:

- Tâu Bệ hạ những cung phi mỹ nữ của Bệ hạ không phải là quyến thuộc của Ngài, người thì hèn hạ kẻ lại hoa đời; nhưng ai được Hoàng thượng yêu vì thì được tăng phẩm tước, trang điểm mỹ lệ, ăn uống sung sướng! Ngài chỉ có một mụn con trai mà Ngài đày chốn non rừng rậm, còn Ngài thì sớm tối sung sướng với cung phi, chẳng chút đoái hoài tới nghĩa cha con. Ðó rõ ràng biểu thị trai ít có giá trị hơn gái.

Thoạt nghe, vua liền tỉnh ngộ, khóc than rằng:

- Ta tội cùng cháu, lẽ nào cháu chẳng chịu lại gần ta? Ghét ta hay sợ người Bà La Môn?

Hoàng tôn vội tâu:

- Chúng con đâu dám tự phép ghét Hoàng thượng và chúng con cũng chẳng sợ gì người Bà La Môn này. Xưa chúng con là con vua, cháu chúa, nay lại tôi tớ kẻ phàm phu. Làm sao đứa nô bộc lại dám lòn dưới tay Hoàng thượng? Bởi vậy nên chúng con không thể tự tiện làm việc ấy.

Hoàng tôn dứt lời, vua thêm sầu muộn. Liền đó Thánh hoàng trả theo giá định của người Bà La Môn, rồi kêu hai cháu hai trẻ chạy vào lòng Ngài. Vua ôm cháu vuốt ve và hỏi:

- Cha con ăn mặc những gì trên núi?

Hai cháu nói:

- Cha con ăn toàn lê hoắc (tên trái cây) mễ cốc, mặc áo vải quần nâu, có trăm thứ chim làm cho cha con được giải khuây và không chút chi phiền.

Vua cho người Bà La Môn về. Hoàng tôn tâu:

- Người Bà La Môn đói khát, xin Thánh hoàng cho một bửa cơm.

Vua nói:

- Vậy chớ cháu không giận nó sao, lại còn cho nó ăn uống nữa?

Hoàng tôn tâu:

- Cha con ham tu phước huệ, đến nỗi không còn vật chi bố thí nên đem hai con cho người, người là chủ của hai con, chúng con rất tiếc chưa làm nô lệ cho người, hòng khỏi phụ lòng bác ái của cha con. Chúng con sao đành để người đói khát. Cha chúng con còn cho chúng con được thay, huống chi bố thí một bửa cơm có lẽ nào Hoàng thượng từ chối?

Vua lại sai sứ giả đi triệu Ðông cung về. Ðược lệnh, sứ thần đi tìm Hoàng tử; tới núi Ðàn Ðặc liền tuyên đọc Thánh chỉ và xin Ðông cung lập tức về cung. Ðông cung đáp:

- Hoàng thượng đã đày ta ở núi này 12 năm và còn một năm nữa mới mãn hạn, chừng nào khâm kỳ viên mãn ta sẽ về chẳng muộn.

Sứ giả về tâu lại cho vua nghe, rồi Thánh hoàng tự tay hạ bút đề thơ cho Thái tử như vầy:

- Con thật đáng vị hiền nhân, nên lấy dạ khoan hồng quên chuyện đã qua. Con giận dữ có ích lợi gì, không trở về Tổ quốc. Cha đợi con về đặng đoàn viên cộng hưởng sự an vui.

Khâm sứ mang bức thơ đem đưa cho Ðông cung. Tiếp chiếu, Hoàng tử liền quỳ lại trước mật chiếu, đoạn lui lại, đi vòng mật chiếu bảy vòng rồi mới khai thơ ra đọc. Hay tin Hoàng tử sắp hồi trào, các loài cầm thú nhảy nhót cảm động, kêu gào tha thiết, suối khe bỗng cạn, thú cái dứt sữa, chim chóc hót tiếng như than như sầu. Hy hữu thay loài cầm thú cũng biết đau thương trong khi vĩnh biệt! Ðông cung và Công chúa đổi y phục lên đường.

Nghe tin Ðông cung về nước, vua địch dạy thám tử bắt bành vàng cho bạch tượng, lại đem theo một ô vàng đựng bạc, một ô bạc đựng vàng đón đường Thái tử xin trả lại và tỏ dấu ăn năn hối ngộ cùng Hoàng tử như vầy:

- Trước kia bởi mê muội tôi cố ý xin Ngài voi báu, vì tôi nên Ngài phải bị đày ở thâm sơn rừng rậm. Nay nghe tin về nước, tôi rất vui mừng cho khâm sứ đưa bạch tượng trả lại cho Ngài cùng dâng chút lễ bạc vàng, rất trông mong được Ngài hạ cố thứ lỗi cho tôi.

Ðông cung nói:

- Giá như một người kia sắm sửa các thức ăn đủ mùi vị và dâng cho ai dùng, người ấy ăn vô rồi nhả ra, thức ăn đó còn hương vị thanh khiết chăng? Các việc bố thí của tôi chẳng khác chi đồ ăn kia, thế thì tôi không thể bắt voi lại. Các quan hãy lên tượng mà về và nói tôi có lời cảm tạ nhà vua.

Thám tử lên voi về tâu lại nhà vua. Cũng nhờ câu chuyện con voi mà vua địch được tỉnh ngộ, trở nên người hiền, thành bậc trượng phu. Vua quan và dân lại tín ngưỡng đạo Bồ đề và bắt đầu hành pháp vô thượng Ba La Mật Ða. Hoàng thượng, cha Ðông cung ngồi đón con. Hoàng tử chợt thấy, vội trổi bước đảnh lễ sát đất rồi theo sau vua cha. Cả thảy văn quan, võ tướng và lê dân rất hoan hỷ đồng rải bông, đốt hương trầm treo cờ lọng, rưới nước thơm dưới đất, làm lễ tiếp rước Ðông cung một cách long trọng linh đình.

Ðông cung đã về tới thành, liền vào lạy và vấn an Hoàng hậu. Hoàng thượng giao cho Ðông cung hết thảy kho tàng trong nước. Thái tử đem ra bố thí cho thập phương và còn nhân đức hơn xưa. Sự bố thí của Ngài viên mãn nên sau này Ngài sẽ chứng quả Niết bàn (Cảnh giới hoàn toàn an vui, sung sướng, không còn phiền não, đau khổ.)

Ðức Phật nói với ông A Nan:

- Ðó là cách ta hành pháp bố thí trong một tiền kiếp của ta. Ðông cung Tu Ðại Noa tức là ta đó vậy.

Minh Châu

Thanked by 3 Members:

#6 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/06/2012 - 08:40

4. Họa tùng khẩu xuất

Thuở xưa ở trong một cái hồ kia có một con rùa và hai con cò trắng thường lui tới làm bạn với nhau. Năm ấy trời đại hạn, suốt một năm trời ròng rã như không có cơn mưa nào cả. Nước ở trong hồ cứ cạn dần vì thiêu đốt gay gắt của mặt trời. Cỏ lát trong hồ cũng vàng úa tàn tạ. Có thể nước nóng như một chảo nước sôi, vì thế loài thủy tộc chết lần chết hồi…

Ở trong tình trạng đó, chàng rùa ta ngồi đứng không yên và trong đầu óc luôn luôn suy nghĩ một phương kế thoát thân khỏi cái địa ngục nóng này. Thì may thay! Trong lúc ấy có hai vợ chồng cò đến chơi. Thấy bộ dáng thiểu não của chàng rùa, hai vợ chồng cò ân cần hỏi thăm:

- Chắc có chuyện gì buồn chăng? Mà trông bác có dáng lo nghĩ thế?

Rùa rầu rầu đáp:

- Hai bác ôi, tôi đang gặp phải đại hạn, phen này chắc chết mà không còn trông gặp mặt hai bác nữa.

Chàng cò chận lời:

- Chúng ta là bạn bè thân thiết với nhau, sung sướng cùng chia thì hoạn nạn cùng chịu. Vậy bác hãy cho chúng tôi biết nguyên nhân nào làm cho bác phiền muộn, họa may chúng tôi có thể tìm phương giải quyết và giúp đỡ bác chăng! Chớ chưa chi mà bác đã than van thất vọng như thế.

Rùa trả lời với một giọng lâm ly thống thiết:

- Không biết hai bác này làm ăn thế nào, chứ tôi hai hôm nay chưa có lót dạ nữa con tép chứ đừng nói tôm cá, vì chúng đã hết trọi! Mà nước thì cạn dần thế này, thì trước sau thế nào cũng không thoát khỏi bàn tay độc ác của lũ chăn trâu. Cách đây 5 năm tôi đã bị chúng bắt một lần, may nhờ một bà già mua và đem đến chùa phóng sanh nên mới sống sót đến ngày hôm nay. Vì thế mỗi lần nghĩ đến tai nạn chết chóc, tôi bắt rùng mình…

Trong lúc chàng cò đang ra dáng suy nghĩ thì chị cò thương hại hỏi:

- Sao bác không đi ở nơi khác một phen xem thế nào?

- Bác thử nghĩ, xưa nay tôi có từng đi đâu, đường sá thì xa xôi nguy hiểm mà sự đi lại của tôi quá chậm chạp, nên tôi nghĩ thà chết nơi chôn nhau cắt rún còn hơn.

Bỗng chàng cò ngóng cổ nói lớn lên với một niềm hy vọng:

- Thôi bác khỏi lo! Cách đây mười dặm, có một hồ sen không khi nào cạn, mặc dù là lúc trời hạn hán. Chúng tôi sẽ đem bác đến đấy, trước là giải quyết sinh kế mà sau nữa được gần gũi nhau trong lúc tối lửa tắt đèn…

Nhưng chàng rùa vẫn lo ngại nói vẻ thất vọng:

- Trời ơi! Mười dặm. Một dặm mà tôi đã đi đến chưa, huống nữa là mười dặm, thôi tôi đành chịu chết vậy!

- Ðiều ấy bác cũng không nên lo, chàng cò tin tưởng nói. Chúng tôi đã có phương pháp; nhưng có điều hơi khó là bác cần phải bình tĩnh và can đảm.

- Bác nói thử xem, chàng rùa vội vàng hỏi, khó thế nào tôi cũng cố gắng.

Chàng cò giải thích với một điều bộ quan trọng:

- Phương pháp như thế này: Hai vợ chồng tôi tha một cái cây mỗi người một đầu. Còn bác thì ngậm ngay chặng giữa, chúng tôi sẽ tha bác đến cái hồ kia. Nhưng có một điều tối quan trọng và nguy hiểm bác nên nhớ. Trong lúc chúng tôi bay bác phải ngậm chặt vào cây và không được nói năng hỏi han gì cả mặc dù gặp phải trường hợp thế nào đi nữa. Chỉ trong vòng nữa giờ là chúng ta đến nơi. Bác nhớ nhé! Tôi dặn lại: Dầu gặp trường hợp nào bác cũng phải ngậm miệng không được nói năng.

Chàng rùa ra dáng hiểu biết:

- Thôi tôi nhớ rồi, hai bác xem tôi chẳng bằng con nít, dặn đi dặn lại mãi.

Sau khi sửa soạn xong, chàng cò lại thiết tha căn dặn lần cuối cùng:

- Ðó, bác bây giờ bác muốn ho hen hay nói gì thì nói đi. Chớ chốc nữa mà mở miệng thì nguy hiểm lắm đấy!

Xong câu đấy, cả ba làm theo ý định bốn cánh vỗ mạnh, hai cặp chân cò duỗi thẳng, chàng rùa hỏng mặt đất rồi từ lên cao, chẳng khác nào chiếc máy bay hai động cơ. Bay được một lát mặc dù lần đầu tiên thấy những cảnh kỳ lạ hiện ra trước mắt, đây cánh đồng xanh rì gợn sóng như tấm nhung xanh, kia con sông trắng phau nằm quằn quèo như con bạch xà lượn khúc, và cây cối, nhà cửa... bao nhiêu là cảnh đẹp mắt. Ðã bao lần chàng rùa định mở miệng để hỏi cho thỏa tính tò mò, nhưng may thay! Mỗi lần định hỏi, chàng lại sực nhớ đến lời dặn quan trọng của anh chàng cò trắng.

Nếu sự đời yên ổn thì nói làm chi, rủi thay, trên đường hành trình của chàng rùa không qua khỏi cặp mắt tinh quái của lũ trẻ. Một đứa la lớn:

- Anh em ơi! Ra đây coi nè! Hai con cò tha một con rùa! A ha! Vui quá!

Bọn trẻ đồng la ầm lên. Một thằng lớn nhất trong bọn hét lớn:

- A ha! Thật giống hai thằng mổng dắt một anh thầy bói. A ha! Thầy bói! Thầy bói!

Không dằn được tức giận, chàng rùa định bụng trả lời: “Mặc kệ chúng tao, mắc mớ gì chúng mày. Ðồ nhải con!”. Nhưng tội nghiệp thay, vừa mới mở miệng, rùa ta đã rơi xuống và tan thân vì đụng nhằm một tảng đá.

Ðức Phật dạy:

- Ở đời đã biết bao nhiêu người vì không giữ cái miệng, nói không đúng thời mà phải mang họa như trường hợp con rùa trên đây. Này các đệ tử! Họa từ miệng phát sanh, vậy các con hãy giữ gìn cái miệng.

Hoàng Minh


Thanked by 2 Members:

#7 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/06/2012 - 08:52

5. Người mẹ

Nắng hồng bắt đầu tươi thắm trên muôn ngàn cây cỏ. Những tiếng chim ríu rít hòa lên khúc nhạc tưng bừng. Ðàng xa, một dáng điệu oai nghiêm bệ vệ trong chiếc y vàng, hào quang chói lọi, khoan thai lần bước với chiếc gậy trúc tẩm màu sương nắng.

Ðây chính Ðức Phật.

Như thường lệ mọi lần nắng lên Ngài đi khất thực. Ngài chỉ sống bằng những hạt cơm cúng dường của những tâm hồn mộ đạo; nhân đó để giáo hóa mọi người, quay về đường thiện.

Ðức Phật đến nhà ông Ðế Ðô, một nhà có tiếng giàu sang nhất, nhưng cũng không kém phần ích kỷ. Chủ đi vắng, con chó nằm trước cửa đôi mắt đỏ ngầu cau lại như phóng ra những tia lửa hung ác. Nanh nhe khỏi mồm như sẵn sàng một thứ khí giới trắng nhọn vô cùng ghê tởm. Nó gừ một hơi rồi nhảy chồm đến Ngài theo một tiếng "gầu" dữ dội. Không chút sợ hãi hay hoảng hốt, Ngài thản nhiên ôn tồn nói:

- Ngươi hãy im.

Chó ta chỉ đưa mình lui để lấy thế, rồi nhanh như chớp chồm lên cao, lanh tay nhưng rất dịu dàng Ngài đỡ lấy hai chân trước, âu yếm thốt ra những lời đầy thương hại:

- Ngươi hãy bớt nóng, Ta hiểu… Ngươi chính là mẹ của chủ nhà này, kiếp trước ngươi rất hung ác tham lam. Lâu đài nguy nga đây, tất cả châu báu đây, chính ngươi đã xây dựng trên bao nhiêu mồ hôi nước mắt của mọi người. Ngươi đã không chút thương tâm thẳng tay đục khoét tận tủy tận xương từ những người giàu cho đến kẻ bần cùng. Mãi đến giờ phút, trước khi tắt thở ngươi vẫn còn tâm niệm độc ác và tiếc nuối những của cải, nên…ngươi bị đọa, đầu thai vào kiếp chó và trở lại đây bo bo giữ lấy tài sản ấy. Thế mà ngươi không lo tu tỉnh còn mãi tham lam tàn ác!

Oai đức của Phật đã nhiếp phục được tâm hồn đen tối, chó im lặng, buồn bã gục đầu xuống đất. Ðức Phật nhẹ nhàng lui bước. Ðôi mắt chó tắt hẳn những tia lửa hung tàn, đọng lại trên đôi mi những ngấn lệ đau thương, chán nản nhìn theo Ngài cho đến khi khuất dạng sau màn cây. Từ đó chó bỏ ăn uống và không còn muốn nhếch bước đi đâu. Cử chỉ ấy làm cho Ðế Ðô phải ngạc nhiên và lo sợ. Trước kia chó rất mạnh mẽ, giữ nhà cẩn thận; mỗi lần người lạ mặt vào không khỏi hết hồn với nó. Thế mà nay nó chỉ nằm trong xó không một hơi sủa.

Ðế Ðô tìm cách tra hỏi đứa ở của ông, nó kể lại chuyện Ðức Phật đến khất thực:

- Không hiểu Ngài làm gì chó ta mà từ đấy nó buồn đau đớn.

Ông đỏ bừng mặt lên, vô cùng căm tức, la hét vang nhà như một kẻ điên dại, rồi chạy tìm ngay Ðức Phật để nhiếc mắng và đòi thường. Trước cử chỉ hung hăng tàn bạo của ông ta, Ðức Phật vẫn vui vẻ điềm đạm bảo:

- Ta sẽ nói cho ngươi hay, nhưng ngươi phải dịu lòng đi đã. Nhờ công năng tu tập ta đã chứng được Túc mạng minh, thấy rõ kiếp trước của mọi người, nên ta biết chó kia chính là mẹ ngươi kiếp trước, vì quá tham lam tàn bạo nên nay phải hóa thân vào kiếp chó để trở lại giữ của cải cho nhà ngươi.

Ðế Ðô cướp lời:

- Những lời nói của ông đều là huyễn hoặc vu khống tôi không thể tin được.

- Sự thật chính là thế. Vì thương mẹ con ngươi nên ta mới nói cho ngươi rõ. Ngươi không tin về đào lên phía dưới giường nơi chó thường nằm, sẽ thấy một lọ vàng.

Lòng tham lam của Ðế Ðô đã dằn được cơn giận, vội vàng hỏi:

- Thật không ông? Sao ông biết?

- Lọ vàng ấy trước kia mẹ ngươi chôn, nhưng vì khi lâm chung không kịp trối lại, nay mẹ kia, chính chó ấy thường nằm trên đó để giữ cho ngươi. Ngươi làm theo lời ta sẽ hiểu ta nói đúng hay sai.

Từ nét mặt sung sướng, ông ta trở thành đau đớn vì đã có một nguồn tin bé nhỏ len qua con người sân hận tham lam, thấm vào trái tim hồng. Quả nhiên, bới lên, một lọ lớn đầy cả vàng với vàng, nhưng vàng không còn gợi được lòng tham của Ðế Ðô. Nguồn tin đã hòa mạnh trong tim hồng làm tiêu tan tất cả những tham luyến hung tàn. Ông ôm lấy chó khóc nức nở vô cùng ăn năn. Ðoạn đến quỳ bên Ðức Phật đôi mắt đầm đìa dịch cảm, run lên những lời cầu khẩn thiết tha, xin sám hối tội lỗi và nhờ Phật chỉ phương cứu mẹ thoát khỏi những cảnh giới khổ đau.

Ðức Phật liền bảo:

- Nay ngươi đã biết ăn năn, thế là ngươi đã có thể trở lại con đường lành. Ngươi là một người con có hiếu. Nhưng nghiệp chướng của mẹ ngươi quá nặng. Ngươi hãy phát tâm quy y Tam bảo, thọ trì ngũ giới và đem hết lòng thành kính sám hối cho mẹ ngươi; đem tiền của bố thí cho mọi người, và cúng dường Tăng chúng. Nhờ công đức ấy, mới mong cứu khổ cho mẹ ngươi được. Khổ hay sướng là do mình tự gây lấy, ta chỉ là người giác ngộ, chỉ lại cho chúng sanh con đường giải thoát.

Ðế Ðô vâng lời Phật dạy, ngoài sự chí thành cầu nguyện, còn đem gia sản bố thí cúng dường… Không lâu, một hôm, chó duỗi mình khoe khoắn tấm thảm rồi buông ra một hơi thở dài. Không còn là hơi thở đầy luyến tiếc tham lam muốn bám víu lấy sự sống mà lại là một hơi thở đầy sung sướng và thỏa mãn. Chó đã chết. Nhưng, chó ấy, mẹ của Ðế Ðô, sẽ về đâu. Kiếp sau như thế nào?

Tối hôm sau, trong giấc mộng, Ðế Ðô thấy trên nền trời xanh cuộn lên những vòm mây trắng, uốn vòng đến trước mặt người. Từ trong đó hiện ra một dáng người đàn bà hiền dịu, ân cần vỗ nhẹ lên vai Ðế Ðô và nói:

- Từ lâu vì lầm lỗi, mẹ đã tham lam độc ác quá nhiều nên bị đọa vào những cảnh giới khổ sở, đau đớn vô cùng. Chó ta hôm trước chính là mẹ đây con. Con ơi, con nghĩ đến đời sống con chó, con sẽ hình dung được nỗi khổ của mẹ hồi ấy. Nay nhờ Ðức Phật cứu độ và lòng hiếu thảo của con, mẹ đã thoát khỏi kiếp đau thương, được vãng sanh vào thế giới đầy sung sướng an vui. Thật cái luật nhân quả không ai tránh khỏi. Gieo nhân gì gặt quả ấy. Tham lam tàn ác bị lầm than; tu nhân tích đức sẽ được an vui tự tại. Từ đây con hãy vâng lời Phật dạy, gắng công tu học. Thôi mẹ từ biệt con...

Ðức Thương



Thanked by 2 Members:

#8 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/06/2012 - 09:00

PHẦN HAI

6. Ðời người trong một câu

Nhà vua ấy, ngay từ lúc lên ngôi báu đã giao cho một viên đại thần cái trọng trách sưu tầm dưới các bầu trời xa lạ, những tinh hoa rải rác trong vũ trụ và những triết lý của cuộc đời. Ý cửu trùng muốn thu nhập những cái hay ở đời để dựng một nguyên tắc trị dân.

Ba mươi năm trời đã qua, vị thanh niên anh tuấn nấy, chờ đợi tóc đã điểm bạc. Lễ khánh thọ ngũ tuần đã cử hành long trọng trong Hoàng cung. Lúc ấy quan đại thần cũng về với đoàn lạc đà, bốn vó trắng bụi đàng xa, và trên lưng chất hơn nghìn sách quý mà vị đại thần đã có công kết tập.

- Trẫm đã nhiều tuổi rồi, tinh hoa của trời đất nhiều đến thế. Trẫm làm sao xem hết. Khanh mang về rút ngắn lại cho trẫm đủ thời giờ xem.

Ðoàn lạc đà lại chở những pho sách đi và mười năm sau nữa, bộ sách rút ngắn lại còn năm trăm quyển được dâng lên ngự lãm. Nhà vua vuốt chòm râu bạc phau ngần ngại phán:

- Hãy còn nhiều quá. Tuổi trẫm đã lớn, đọc sao cho kịp. Khanh chịu khó về gạn lọc một lần nữa những tư tưởng huyền diệu trong ấy.

Viên đại thần tận trung không hề nghĩ đến số năm tháng đã tàn tạ trên đầu, lui về một nơi u tịch kết tinh kho tư tưởng. Sau năm năm triền miên, với bao nhiêu tinh hoa và tư tưởng cổ kim đông tây, viên quan già nua mừng rỡ khi thấy kết quả: năm trăm cuốn dồn lại chỉ còn một pho sách dầy. Một pho sách đầy chứa tất cả triết lý của muôn cuộc đời!

Cuốc sách dầy ấy, một buổi sớm được mang vào ngự lãm. Nhưng nhà vua đã nằm yên trên giường bệnh, chung quanh ngự y chầu chực. Vừa mở mắt nhìn vị đại thần tận tâm và cuốn sách quý giá. Một nụ cười nhàn nhạt nở trên môi vua như ánh hoàng hôn. Vua thở ra một giọng yếu nhỏ, viên đại thần quỳ xuống lắng tai đón lấy:

- Trẫm yếu lắm, một trang sách còn chưa thể xem được huống là cả cuốn… Song trước khi nhắm mắt, trẫm háo hức muốn biết qua những tư tưởng gì, những triết lý gì, đã chi phối cả đời người, đã điều khiển cả một vân mệnh… Khanh khá rút ngay quyển sách này thành một câu hay vài chữ cho trẫm xem kịp và đủ sức hiểu…

Nét mặt viên đại thần trở nên trầm ngâm và hai mắt già nheo lại. Tử thần đã chờn vờn đâu đó. Các ngự y cúi đầu trước số mệnh. Nhà vua nằm yên khắc khoải chờ. Thời gian như ngừng hẳn lại. Không khí trở nên nặng nề và nghiêm trọng. Vàng son nội điện tự nhiên cũng hóa rầu rĩ. Mọi người chăm chú và kính cẩn nhìn viên đại thần đang lặng lẽ đem cuộc đời thu vào một câu. Sau một hồi suy nghĩ, viên đại thần từ từ bước đến bên án. Cả bộ Văn phòng tứ bảo hình như run khi bàn tay già đưa ra.

Bàn tay kính cẩn nâng cây bút, và nhẹ nhàng vạch trên mảnh hoa tiên những nét buồn lung linh. Mọi người đều ngó theo. Thần chết lúc ấy đã chập chờn đầu long sàng. Ðã mấy lần nhắm mở. Vua mới cất được mấy tiếng cuối cùng: “SANH LÃO BỆNH TỬ”.

Tâm Phước

Một đời người luống qua vô ích

Chỉ kết liễu trong ân hận.



Thanked by 2 Members:

#9 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/06/2012 - 09:30

7. Vua cò trắng

Ðời xưa, có một ông vua tên là Mỹ Tuấn, còn trẻ, cai trị một nước phồn thịnh gọi là xứ My Lăng. Nhà vua xem dân như con, tính tình thật là dễ chịu. Vua có một cận thần rất trung thành tên là Bằng Tô. Bằng Tô có một bộ râu dài gần sát đất. Bằng Tô thường hầu cận bên vua không khi nào rời. Vua mến ông ta lắm. Một hôm, sau buổi cơm trưa, vua Mỹ Tuấn nhận thấy Bằng Tô không vui, vì một lát hắn ta lại thở dài một cái. Nhà vua hỏi:

- Khanh có chuyện gì buồn thế?

- Tâu bệ hạ! Bệ hạ thật là tài tình! Bệ hạ biết được cả trong lòng hạ thần! Tâu bệ hạ, tuy lâu nay bệ hạ đối đãi với thần rất đại lượng, nhưng hôm nay hạ thần chẳng dám nhờ hồng ân nữa, cho nên hạ thần buồn. Số là hồi sáng có một chú Chệt vào trong thành, đem theo nhiều bảo vật mà hạ thần chả có đủ tiền để mua.

- Chỉ có thế thôi mà khanh cũng buồn! Nhà vua mỉm cười. Khanh bảo thằng Chệt ấy đến đây. Khanh muốn gì ta mua đấy và bao nhiêu tiền ta trả cho cả.

Bằng Tô thích chí quá, cảm ơn rối rít. Một võ quan đi tìm khắp thành phố dẫn chú Chệt vào. Nhà vua bảo:

- Có cái gì trong tráp thì mở cả ra xem.

Vừa hỏi vua vừa để ý nhận xét chú Chệt: thân mình hắn cũng nhỏ bé, dễ thương, song đôi mắt rất tinh lanh; hắn ăn mặc rách rưới, tiều tụy. Chú Chệt lạy xong, mở tráp ra. Nhà vua kêu lên:

- Trời ơi! đẹp quá!

- Thật vậy, trong tráp có rất nhiều đồ trang sức ngọc ngà, chạm trổ tuyệt đẹp, nhẫn ngọc kim cương lóng la lóng lánh.

Bằng Tô tâu vua:

- Tâu bệ hạ! Như thế có đẹp không?

Nhà vua gật đầu:

- Ðẹp lắm!

Chú Chệt nghe vua khen, mỉm cười và rút trong đáy ra một cái hộp nhỏ màu đen, dâng lên đức vua:

- Tâu bệ hạ!

Hắn vừa nói vừa cúi đầu thấp xuống để cho nhà vua khỏi thấy hắn đang tái mặt.

– Đây mới thật là của quý. Hạ thần mua được tận bên Mếch Di Cô kia ạ. Nó quí cho đến nỗi hạ thần dám chắc rằng tất cả các kho tàng trên thế giới họp lại mà cũng không đáng giá bằng. Hạ thần đã mua nó bằng một giá đắt lắm và theo lời người bán, hạ thần chưa hề mở ra lần nào. Hạ thần chắc rằng trong này có một bảo vật quý giá có một không hai trên trái đất.

Nhà vua và Bằng Tô nghe nói cúi đầu vào xem. Trong hộp mở ra, chỉ có một ít hột đen đen rất mịn, trên mặt có một mảnh giấy rất mỏng gấp tư, trên mảnh giấy có những hàng chữ rất là kỳ quái.

- Lạ thật! Lạ thật! Nhà vua lẩm bẩm. Cái gì thế này?

Chú Chệt run run:

- Hạ thần cũng không được rõ, chỉ biết là quý lắm mà thôi.

- Trẫm không biết đọc mấy chữ này, Bằng Tô, người có đọc được thì đọc cho trẫm nghe.

- Tâu bệ hạ, hạ thần cũng chịu, chả hiểu được chữ gì. Ðể hạ thần cho mời quan Thế Lâm vào, chắc ông ta đọc được.

Một lát, quan Thế Lâm vào. Nhà vua bảo:

- Này Thế Lâm, cầm lấy miếng giấy này, đọc đi. Ðọc được, trẫm sẽ ban thưởng cho. Nếu đọc không được thì giữ hồn, trẫm cho hai chục hèo đấy.

Quan Thế Lâm run sợ, nhưng khi nhìn đến tờ giấy thì liền vui mừng.

- Tâu bệ hạ, đây là chữ La Tinh đấy! Hạ thần xin đọc để bệ hạ nghe:

- Ai gặp bảo vật này là người sung sướng nhất đời. Phải cám ơn Trời Phật ban phúc lành cho mới được. Chỉ cần một dúm hột nho nhỏ này thôi mà cũng đủ sung sướng bằng ngàn kẻ sung sương! Chỉ cần hít một chút xíu bột này vào trong mũi và đọc lên rằng: "MUY TA BO” là có thể tự mình biến ra một loài vật theo như mình ước muốn và có thể nói, nghe được tiếng nói của loài vật ấy. Khi cần hiện lại nguyên hình mình, thì chỉ phải quay mặt về phương Tây nghiêng mình đọc ba lần: “MUY TA BO” thì tức khắc trở lại thân người. Nhưng hãy cẩn thận; nếu trong khi biến thành loài vật mà cười lên một tiếng, thì sẽ quên mất ba chữ thần bí ấy và không bao giờ hiện trở lại nguyên hình được, cứ thế mà sống mãi suốt đời.

Nhà vua nghe đọc xong, sung sướng quá:

- Này Thế Lâm, trẫm cấm ngươi không được cho ai biết một tí gì về việc này. Nếu ngươi nói lộ chuyện này ra, ta sẽ chém đầu ngươi. Ði tìm quan giữ kho vào đây cho ta. Bảo nó nhét cho ngươi hai bọc vàng đầy.

Và quay lại Bằng Tô, nhà vua mỉm cười.

- Ta phải thí nghiệm mới được khanh ạ.

Bằng Tô hấp tấp trả lời:

- Tâu bệ hạ, phải đấy. Chúng ta phải thí nghiệm ngay, Bệ hạ chỉ hóa thành loài vật một lát thôi, ai mà biết được!

- Ai mà hiểu được! Nhà vua nhún vai, Trẫm chả cần ngươi khuyên. Theo ta mau. Chúng ta ra vườn thượng uyển chơi. Ở đây chắc có một vài loài vật.

Một giờ sau, nhà vua và Bằng Tô đã đi vào vườn không có tên lính nào hầu cả. Ðức vua nhìn quanh nhìn quất bảo Bằng Tô:

- Chả có thấy một con chim nào. Chúng ta phải đi đến chuồng ngựa hay sao?

Nhưng không. Nhà vua không cần ra chuồng ngựa. Bên kia, là hồ sen, sen nở đầy hồ ngát hương. Ba con cò trắng đang chăm chú tìm mồi. Một con thứ tư ưỡn ngực bước một cách mạnh dạn trên hai cẳng dài lêu khêu, đi tìm ếch nhái.

- Ấy đấy! Tâu bệ hạ! Xem cách đi của tụi cò ấy và cái nhìn của chúng, chắc câu chuyện của chúng nó hẳn là vui lắm!

Nhà vua vui vẻ:

- Hay lắm! Này Bằng Tô! Hay lắm! Ngươi thật là một kẻ hầu cận trung thành vậy. Biến thành hai con cò! Trời ơi! Vui biết bao nhiêu! Nhưng hãy nhớ Bằng Tô nhé, nhớ học thuộc cái phương pháp hiện lại nguyên hình chứ, nếu mà quên thì khốn đấy nhé.

- Cứ việc ngoảnh về phía Tây nghiêng mình đọc ba lần “MUY TA BO” là hiện nguyên hình được, tâu bệ hạ.

- Ngươi nói đúng lắm! Có khó gì mà không nhớ được! Ðồ trẻ con đấy mà!

Nhà vua Mỹ Tuấn rút trong túi ra cái hộp đầy bột, lấy một chút đưa cho Bằng Tô và lấy một chút cho mình, khi hít bột vào mũi, hai người đọc lên ba chữ mầu nhiệm. Bỗng chốc, một sự thay đổi mau chóng và bất ngờ. Hai chân dài và hai cánh rộng. Có lông hẳn hòi đấy nhé, thay cho hai chân hai tay và mặt của hai người cứ dài dần ra cho đến khi trở thành hai cái mỏ thật dài. Nhà vua và Bằng Tô đã hoàn toàn biến thành cò trắng!

Ðức vua vui sướng khôn xiết.

- Này Bằng Tô, ngươi nhìn xem ta có đẹp không? Chà! Cái mỏ của ngươi dài quá, dài như bộ râu của ngươi hồi trước vậy.

Bằng Tô nghiêng mình, lấy mỏ rỉa lông.

- Thật bệ hạ có phước tướng! Làm vua cũng thế mà làm cò cũng vậy, bao giờ dáng dấp của bệ hạ cũng uy nghiêm vô cùng. Hạ thần chắc rằng bây giờ mấy con cò kia chả thèm sợ chúng ta nữa, vì chúng ta đã là đồng loại của chúng rồi kia mà!

Ðức vua nóng nảy:

- Mau, chúng ta hãy đến gần chúng, vì trẫm đang khao khát không biết rằng có thể nghe được tiếng nói của loài cò chăng.

Ðức vua Cò và đại thần Cò chỉ cần bước vài bước trên cặp chân cao lêu khêu là tới gần được hồ sen. Lạ chưa! Tiếng nhắp nơi mỏ của lũ cò bỗng trở thành một tiếng nói mà hai vua tôi đều nghe rõ được, nhờ có lỗ tai cò.

Một con cò bảo:

- Này! Chị Dài cẳng ạ! nước hồ hôm nay mới trong làm sao! Tụi cóc nhái cũng nhiều lạ! Này! Chị hãy nếm một chút này, ngon lắm.

Chị Dài Cẳng là một chị còn trẻ măng, lông trắng như tuyết, nàng ta quẹt mỏ hai bên cánh và đáp:

- Em chả cần ăn uống gì cả chị ạ. Em chỉ đến đây để tắm mát mà thôi. Má em bảo ngày mai có giỗ tổ, em phải sửa soạn sạch sẽ để mai khiêu vũ mừng quan khách đến chơi, chị ạ! Này chị! Em biết một điệu múa hay lắm, gọi là Vũ khúc hoa sen. Này nhé! Em múa thử chị xem.

Nàng ta nhỏng nhẽo nhảy múa. Lúc thì hụp xuống, lúc thì trồi lên, hai cánh vỗ có nhịp và uốn éo cái cổ dài một cách dễ cười, đến nỗi cả hai thầy trò nhà vua nhịn cười không được, phá lên cười như vỡ. Tiếng cười bất ngờ quá làm cho các chị cò ta hoảng hốt, thốt nhiên vỗ cánh bay mất.

- A! A! A! Nhà vua nhảy cỡn lên vì sung sướng. Này Bằng Tô! Trẫm chưa hề thấy gì vui hơn thế! Tiếc quá, nếu chúng ta đừng cười lớn thì có lẽ bây giờ lại được nghe chúng nói chuyện thêm, vui biết bao nhiêu!

Nhưng chàng cò Bằng Tô bỗng hốt hoảng:

- Chết! Chết rồi! Tâu bệ hạ, Ngài có nhớ ba chữ nhiệm mầu ấy không? Ba chữ mà hễ khi nào muốn hiện lại nguyên hình phải đọc ba lần ấy mà! Hạ thần ngẫm nghĩ mãi mà chẳng nhớ ra. Chết mất! Theo trong lời dặn thì trong khi biến hình, chả được cười lên một tiếng, nếu không sẽ quên mất ba chữ ấy! Tâu bệ hạ! Mà hạ thần đã… quên mất!

Ðức vua run rẩy:

- Chết rồi! Trẫm cũng đã quên mất ba chữ ấy! Này, khanh hãy nhớ lại xem. Muốn… muốn hiện lại nguyên hình thì phải xoay về… về hướng Tây nghiêng mình và đọc…

- Và đọc… đọc ba lần chứ… muy… ma… mơ, chữ mi… mô… mơ…

Bằng Tô tìm kiếm một cách thất vọng.

- Muy.. ma… mô… mi… mô.

- Mơ… mi… mô… chết thật rồi bệ hạ!

Hai người cố lục lọi hơn một giờ đồng hồ trong trí óc ba chữ cứu tinh kia, nhưng không tài nào nhớ được. Cứ giờ này đến giờ khác, hai chú cò cứ ngoảnh mặt về phía mặt trời lặn, ngừng cổ tìm tòi một cách thất vọng, cho đến khi kiệt sức, hai chàng mỏi quá, nằm phịch xuống đất.

- Chúng ta chết mất!

Bằng Tô lắc đầu, rên rỉ và khóc. Nhà vua bỗng trở nên mạnh dạn và làm chủ được mình:

- Im đi, Bằng Tô! Than van, khóc lóc là yếu hèn! Hãy chịu đựng sự hình phạt một cách can đảm. Chúng ta bị khổ thế này chắn hẳn chúng ta đã gây nhân xấu từ lâu. Than khóc vô ích. Bây giờ chỉ có nước an vui với số phận. Ta là cò thế cũng còn sung sướng chán. Cò, với hai cánh rộng, ta có thể bay tự do trên trời xanh, trong khi bay, ta cũng có cảm tưởng như ta trị vì vậy! Chúng ta hãy đi tìm chỗ nghỉ, vì trời đã sắp tối. Ngày mai, chúng ta bay liệng trên thành phố để xem tình trạng của dân chúng ra sao khi họ nghe tin ta mất tích.

Bằng Tô bước từng bước một, lặng lẽ theo sau đức Vua cò, thở dài não ruột. Ðêm xuống lặng lẽ và buồn bã, buồn lặng với hai con cò. Ngày mai, hai thầy trò bay liệng trên thành phố My Lăng và kêu lên những tiếng ai oán đau thương. Người qua đường nghe kêu, chỉ nhau và bảo:

- Ðấy, điềm dữ đấy, điềm không lành cho xứ sở đấy.

Chiều đến, Vua cò và Bằng Tô biết được rằng tin vua mất tích đã tràn xa khắp nước. Ðã nhiều phen, hai vua tôi bay đến đậu trên nóc hoàng cung, cố ý làm cho các quan và dân chúng biết rằng “đây ta là vua các người”. Song, ai mà có thể tin được lời chim? Chỉ có một cách duy nhất, làm thế nào nhớ ba chữ thần diệu để hiện lại nguyên hình. Hai vua tôi nhà cò đói quá, mới tìm trái cây để ăn và dụi mỏ xuống hồ nước để uống. Tối về ngủ trên cành cây. Họ chả dám ăn thằn lằn, ăn ếch nhái, ăn sao được như lũ cò khác...lũ này ăn ếch nhái một cách ngon lành.

Hơn một tuần lễ, hai con cò sống một cách sầu thảm như thế, thì một hôm, quang cảnh thành My Lăng bỗng nhộn nhịp khác thường. Ðường sá đều được cắm cờ, các nghinh môn được dựng lên khắp nơi… Một đám rước vĩ đại diễn qua trong thành phố, quân lính gươm giáo đi hàng tư và trống kèn inh ỏi. Giữa đám rước, một người trai trẻ ngồi trên lưng ngựa, chung quanh các võ quan hộ giá uy nghiêm nhiệt liệt. Nhà vua Mỹ Tuấn uất người thét lên:

- Ðấy là con của kẻ thù ta! Ðấy chính là thằng Cách Nô đấy, con của thằng Mai Gia trước đây đem binh qua xâm lăng nước ta, bị ta đánh cho bại trận. Chính nó đã thề sẽ trả thù ta. Nó đã lập mưu đánh lừa ta để qua chiếm đoạt ngôi ta! Quân tiểu nhân!

Nhà vua nức lên, uất ức. Bằng Tô gật gù:

- Chính nó! Thằng Chệt, chính là một đứa của tụi nó trá hình đến lừa ta! Quân gớm thật.

Nhà vua buồn bã:

- Thôi ta đi! Hỡi Bằng Tô! Xứ My Lăng không còn là xứ của ta nữa, tụi nó đã chiếm mất rồi! Ta đi! Ta đi đến xứ Mếch Di Cô. Ta đi đến đó, họa may được đỡ khổ đôi phần. Có lẽ ta gặp được các ông phù thủy giải ách được cho ta.

Thế là hai thầy trò từ giã thành My Lăng, vỗ cánh bay về Mếch Di Cô. Họ bay chưa quen nên mới vài đồng hồ mà hai cánh đã mỏi rã rời.

- Bệ hạ cho hạ thần nghĩ cánh chút đã. Bệ hạ bay mau quá! Chiều cũng đã xuống. Vậy thì vua tôi ta hãy nghỉ lại đây đêm nay. Ta đi tìm một chỗ trú ẩn.

- Phải. Trên đồi kia có một cái tháp cổ đã tiêu tàn. Ta lên đậu trên đó ngủ cho qua đêm.

Hai vua tôi, bay lên tháp. Trong tháp, có một gian phòng ẩm thấp, tối tăm. Bỗng nhiên, Bằng Tô cản nhà vua lại:

- Bệ hạ có nghe gì chăng?

Bằng Tô nói nhỏ:

- Hình như có tiếng ai khóc nức nở.

Nhà vua chổng tai lên nghe:

- Có tiếng ai khóc! Lạ thật! Ta vào xem.

- Bệ hạ đừng liều lĩnh, tâu bệ hạ! Chỗ này chắc không yên, ta đi tìm chỗ khác trú ẩn vậy.

Nhưng nhà vua không nghe, tiến tới. Bằng Tô vội vã lấy mõ kéo cánh nhà vua lại, nhưng nhà vua đã đi tới, vài cái lông dính nơi miệng Bằng Tô.

- Ái chà đau! Ngươi đừng nhổ lông ta chứ!

Bên trong tối mịt. Tiếng khóc than càng rõ rệt giống như tiếng người! Nhìn cho kỹ, vua chỉ thấy một con cú thật lớn ở bên trong mà thôi. Bạo dạn vua hỏi:

- Ai khóc ở trong ấy?

Con cú bỗng nhiên giật mình đánh thót một cái và khi trông thấy hai con cò, thì kêu lên:

- Hai con cò! Hai con cò! Trời ơi! Tôi được cứu thoát!

Vua cò ngạc nhiên vô cùng, bởi vì con cú nói giọng người, mà lại nói một cách rõ ràng. Mỹ Tuấn hỏi:

- Sao? Tại sao nhà ngươi khóc, mà nhà ngươi lại nói được tiếng người, hỡi con cú? Ta tin rằng ngươi cũng đồng một số phận với chúng ta,. Có phải ngươi đã dại dột đến nỗi thành hình cú chăng, nói mau cho ta rõ.

Con cú chùi nước mắt bằng hai cách màu sậm, úi đầu chào và trả lời:

- Em chả biết ông là ai, ông cò ạ, song nghe giọng nói của ông, em biết ông là một trong những kẻ đau khổ. Và người ta đã nói với em rằng một ngày kia nếu có hạnh phúc trở thành người lại thì hạnh phúc ấy cũng do nơi một ông cò đem đến. Bởi thế thấy hai ông, em thốt nhiên được vui mừng ngay.

- Trời hỡi, ta chả giúp gì được cho ngươi đâu! Và khi ngươi nghe ta kể chuyện chúng ta, ngươi sẽ thấy rằng nỗi đau của chúng ta là một nỗi đau khổ vô biên, đến nổi chúng ta không còn gì tặng cho ngươi hơn là một lòng thương hại.

Nhà vua bèn kể chuyện mình và Bằng Tô cho cú nghe. Nghe xong con cú thở dài:

- Em thấy giữa số phận chúng ta có cái tương quan giống nhau. Nếu như bệ hạ là vua, thì em đây là công chúa Phương Châu, con gái độc nhất của vua Ấn Ðộ. Thằng Cách Nô mà nó ám hại bệ hạ ấy, vốn nó đã đến hỏi em làm vợ. Nhưng phụ hoàng em cho nó là đồ tồi tệ, bèn đuổi nó ra khỏi cửa. Bị nhục, nó tìm cách giả trang để vào làm tôi tớ trong cung và tìm cách đưa cái hộp ma quỷ ấy để lừa em. Thế là em bị mắc lừa, biến thành con cú và trong khi thị nữ đi tìm em khắp chốn, nó xách cổ em lên cái tháp này, tống em vào đây rồi bảo:

- Mi phải ở đây cho đến khi một kẻ nào đến đây và bằng lòng hỏi mi làm vợ. Chỉ có cách đó là mi có thể hiện lại nguyên hình. Nhưng tao thì tao giấu chả cho ai biết có mi ở đây. Mi cứ ở đây cho đến trọn đời, già đi và chết đi như những con cú khác. Thế cho bỏ ghét thằng cha mi.

Nói xong, hắn bỏ đi. Em ở đây chẳng đi đâu được, vì bị cột lỏng chân. Ðã hơn ba tháng nay, em phải âm thầm sống ở đây, không có nhìn thấy trời đất. Ăn thì ăn dơi chuột, rêu đá. Và bệ hạ ơi, số kiếp của em còn khổ sở hơn số kiếp của bệ hạ nhiều. Bệ hạ còn có bạn, còn bay đi khắp chốn được, chứ em thì phải trọn đời ở nơi đây.

- Lạ thật, nhà vua lẩm bẩm. Số phận của chúng ta đồng nhau. Hẳn có liên quan gì đây.

- Chắc thế, tâu bệ hạ. Em bị quả báo thế này, bởi vì trước kia em có hỗn với mẫu hoàng em một lần. Em chắc thế. Còn bệ hạ có lỗi gì đâu? Thế bây giờ bệ hạ đi đâu?

- Chúng tôi đi Mếch Di Cô để cầu cứu.

Cón cú lắc đầu, rồi bỗng nhiên hai mắt sáng rỡ phi thường:

- Em tưởng rằng bệ hạ và quan lớn chả phải đến Mếch Di Cô làm gì nữa. Em đã có cách để cứu được bệ hạ và quan lớn và luôn dịp cứu được cả em nữa.

Nhà vua hấp tấp:

- Làm thế nào? Làm thế nào?

Bằng Tô cũng hấp tấp:

- Làm thế nào? Làm thế nào?

Mỗi tháng bọn bộ hạ của Cách Nô đều nhóm họp gần ở đây, ở lâu đài bên kia đồi. Chúng nó tiệc tùng và kể chuyện vui chơi mà chúng đã làm trong một tháng. Có lẽ trong khi kể, chúng sẽ nhắc đến ba chữ thần bí kia mà bệ hạ đã quên. Mà nếu em còn nhớ, thì tối nay là tối chúng nhóm họp.

Vua Mỹ Tuấn vui mừng nhảy lên:

- Công chúa! Công chúa! Hay biết bao nhiêu! Nàng là kẻ cứu mạng chúng ta! Mau mau, nàng hãy chỉ cho ta đường lối sang lâu đài. Bằng Tô, hãy mổ đứt sợi dây cột chân nàng cho ta. Công chúa, nàng hãy vui lòng chỉ đường cho ta với.

Hai chàng cò khẩn khoản. Nhưng công chúa nghiêm nét mặt:

- Em cứu hai chàng, nhưng em phải ra một điều kiện. Nếu hai chàng tuân theo thì em mới đi.

Vua hấp tấp:

- Ðiều kiện gì ta cũng chịu cả. Nàng cần gì?

- Em muốn rằng bệ hạ sẽ giúp em trở lại nguyên hình. Em thưa rằng chỉ khi nào có kẻ muốn nhận em làm vợ, em mới thoát khỏi cái lớp áo cú xấu xa này. Vậy thì, tâu bệ hạ, nếu bệ hạ hoặc là quan lớn hứa làm chồng em.

Nhà vua kéo Bằng Tô ra xa nói nhỏ:

- Này Bằng Tô, bây giờ chính là lúc ngươi tỏ lòng trung thành với ta. Ngươi sẽ cưới công chúa làm vợ.

Bằng Tô giẫy nẩy và run lập cập:

- Tâu bệ hạ! Bệ hạ muốn cho khi thần về vợ hạ thần sẽ móc cặp mắt của hạ thần đi hay sao. Nó dữ lắm. Nếu nó thấy hạ thần đem công chúa về thì chết với nó. Bệ hạ nên nhớ rằng thần đã có vợ con. Hơn nữa thần đã già. Bệ hạ còn trẻ, chưa có vợ và đáng cưới công chúa hơn hạ thần. Công chúa thì trẻ đẹp… mà hạ thần thì già nua, râu dài chấm đất…

- Ai bảo ngươi công chúa còn trẻ và đẹp đấy! Chưa chắc!

Nhà vua buồn rầu vuốt lông cánh, nghĩ ngợi mơ màng. Chả có gì chắc rằng nàng trẻ và đẹp! chắc phen này thì mua mèo trong bị đấy!

- Tâu bệ hạ, Bằng Tô đáp một cách lễ độ nhưng cương quyết, hạ thần chỉ có thể nói rằng, thà rằng chịu kiếp cò suốt đời còn hơn là rước vợ lẽ về để vợ hạ thần nó hành hạ thần khổ lắm, nếu bệ hạ biết được tính nết của con vợ hạ thần…

Hai thầy trò còn cãi vã một hồi nữa và cuối cùng nhà vua phải đành lòng nhận chị cú làm vợ. Nghe nói nhà vua thuận nhận, công chúa Phương Châu rất vui mừng:

- Chúng ta sẽ được hiện nguyên hình không lâu. Chính hôm nay Cách Nô đãi tiệc. Giờ này chắc chúng đã bắt đầu nhập tiệc. Chúng ta hãy đi mau mau.

Nói xong nàng cú đi trước, bay nặng nề nhưng nhanh chóng. Hai chàng cò hấp tấp theo sau. Ðến lâu đài, công chúa lấy mỏ trỏ một cánh cửa con để hai chàng cò có thể bay lên đậu và nhìn vào tận bên trong phòng tiệc. Mỹ Tuấn và Bằng Tô nhẹ nhàng bay đậu lên cửa, chống tai chống mắt mà nhìn mà nghe. Trong gian phòng, một quanh cảnh tươi đẹp. Ðèn nến sáng trưng, bàn ăn khói lên nghi ngút. Chung quanh bàn, bọn chúng nó đến hơn sáu chục đứa. Trong bọn, nhà vua cò thấy có cả tên Chệt hôm xưa. Tên Chệt này đang kể chuyện Bằng Tô và Mỹ Tuấn.

- Chúng ta đến thật là vừa lúc, vua Mỹ Tuấn vừa nghĩ vừa rùng mình. Nếu chậm một chút thì còn gì là đời! Lạy Phật! Xin nhớ ơn Ngài! Và hai thầy trò lắng hết cả bốn tai.

Tiếng cười trong phòng dội ra khi nghe tiếng kể chuyện của thằng Chệt bắt đầu lên giọng khôi hài. Một đứa trong bọn hỏi:

- Hay quá! Hay quá! Thế anh làm thế nào vào cung được và mấy chữ ấy là chữ gì mà thần bí đến thế?

(Ngoài này nhà vua và Bằng Tô lắng yên không dám động một máy lông).

- Chữ gì ư? Một chữ la tinh khó nhớ lắm mà tụi chúng một khi quên đi thì không thể nhớ lại được. Ấy là chữ “MUY TA BO” ấy mà!

Nghe đến đây, hai chàng cò chả thèm nghe nữa, vội vã đáp xuống thật mau, đến nỗi con cú phải bay gấp lắm mới theo kịp.

- Công chúa ạ, nhà vua mừng rỡ nói, may mắn quá. Vậy trước khi hiện lại nguyên hình, ta xin nhắc lại lời hứa, ta sẽ nhận công chúa làm vợ để trả cái ơn muôn kiếp không quên này!

Nói xong nhà vua quay mặt về hướng Tây, nghiêng mình đọc ba lần “MUY TA MO”. Bằng Tô cũng bắt chước vua. Phút chốc hai người hiện lại nguyên hình. Mỹ Tuấn, một nhà vua đẹp trai và Bằng Tô một cận thần râu dài chí đất. Hai người nhìn nhau mừng rỡ và cảm động quá, thầy trò ôm chầm lấy nhau khóc. Khóc xong, nhà vua chợt nhớ đến chị cú. Nhưng, sung sướng biết bao! Khi quay lại nhìn, nhà vua chả thấy cú đâu mà chỉ thấy một nàng công chúa đẹp như tiên, một nàng công chúa đẹp nhất trên đời mà người ta không có thể tưởng tượng. Nàng mặc xiêm y lộng lẫy và nụ cười trên môi nàng đối với nhà vua còn tươi hơn cả những đồ trang sức đẹp nhất của nàng.

Công chúa Phương Châu quỳ xuống:

- Tâu bệ hạ! Bệ hạ có còn sợ mua mèo trong bị nữa chăng?

Nhà vua xấu hổ vì hồi nãy đã nói hơi to để cho công chúa nghe được. Nhưng chàng sung sướng, đỡ công chúa dậy:

- Nếu sau này nhắc đến một cảnh ngộ vui mừng nhất của đời trẫm, trẫm sẽ nói rằng đó là cảnh ngộ mà trẫm bị biến thành kiếp cò trắng!

Không còn chậm trễ, vua và công chúa Phương Châu cùng Bằng Tô lên đường. Bán bớt một cái áo choàng, nhà vua mua ba con ngựa, sắm một đoàn tuỳ tùng cho đáng vẻ vương giả và cả ba lên ngựa về thành My Lăng. Nhà vua được đón tiếp với tất cả những bồng bột nồng nhiệt của dân chúng. Cách Nô tiếm vị đã tuyên truyền nhà vua chết, nay thấy nhà vua về, toàn dân đều vui mừng thiếu một đường điên dại lên. Cách Nô bị bắt, kẻ tiếm vị bị xử án: một là tự tử, hai là phải chịu kiếp cò. Thế là Cách Nô phải hít một chút bột ma quỷ vào mũi và quay sang phía Tây: “MUY TA BO!”.

Hắn biến thành cò, sống trọn đời trong vườn thượng uyển giữ kiếp cò trắng. Nghiệp quả của hắn đã gây, bây giờ hắn ráng chịu không ai phàn nàn. Nhà vua lại lên ngôi, nhân dân lại được thái bình. Quần chúng mở tiệc ăn mừng luôn trong bảy ngày. Vua truyền lệnh tha cho các tội nhân và làm lễ thành hôn với công chúa Phương Châu. Một hôm nhà vua nhớ lại chuyện cũ, cười bảo Bằng Tô:

- Khanh có nhớ không, nhớ đến kiếp cò của chúng ta không? Trẫm không nhịn được cười khi thấy khanh nghểnh cổ về phía tây lắp bắp: “Muy ma… no… mô…”. Trông dáng điệu của khanh lúc bấy giờ thật là thiểu não lắm!

Bằng Tô cười nhẹ, ghé tai nhà vua nói nhỏ:

- Bệ hạ đừng nhạo hạ thần quá, nếu không, hạ thần sẽ nói toạc câu chuyện tranh luận giữa hạ thần và bệ hạ ở trên tòa tháp hôm nọ… Hoàng hậu mà biết bệ hạ ấy Hoàng hậu về phía hạ thần vừa xấu, vừa già, vừa dài râu, thì Hoàng hậu sẽ buồn bệ hạ lắm đấy.

Nhà vua vội vã:

- Ấy, ấy đừng nói nhé, khanh nhé. Ta nói chuyện khác chơi vậy…





Thanked by 2 Members:

#10 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/06/2012 - 22:53

7. Nàng ưu đà di

Ðược tin Hoàng tử cùng vợ đi săn, dân thành Ca Tỳ La Vệ lo sửa soạn những cây cảnh trước nhà, họ xây những chậu hoa nào có màu tươi đẹp nhất quay mặt ra phía ngoài đường để đón chào vị Thái tử. Người ta chờ đợi nhìn khuôn mặt hiền từ với đôi lông mày dài và mềm lượn trên đôi mắt xanh như dòng nước biếc của sông Hằng, dáng điệu dõng dạc và thân hình nở nang của vị thiếu niên lúc nào cũng dẫn đầu một bọn lính kỵ vai đeo binh khí sáng chói, hùng hổ trên những con ngựa mập mạp. Ngày nào Thái tử dạo chơi thì đêm đó những tiếng đàn của các thiếu nữ trong thành vang lên, vừa quấn quit, vừa não nùng, khiến cho những hoa xung quanh vườn hình như say nhạc mà quên mất hương của mình bay tận đâu đâu và những kẻ láng giềng cũng ngẩn ngơ bỏ dở việc làm ngồi thừ như pho tượng.

Người ta uổng công chờ đợi chiều hôm ấy. Các hoa đẹp chỉ khoe sắc với khách qua đường. Ở phía cửa thành Thái tử đã bỏ dỡ cuộc đi săn. Thái tử Thích Ca thấy cảnh trái ngược giữa thân thể mạnh khỏe của mình như một cái cây đang lớn, với một hình vóc xấu xí của ông già kia như que củi khô: râu tóc bạc phơ bờm ra như lông lá của một con vật, thân ông cong quắp, tay với sát đất như chực bò.

- Có như vậy được chăng? Một người tráng kiện như ta bây giờ một ngày kia cũng thế?

Thái tử tự bảo rồi quay ngựa trở về.

Tối hôm ấy ánh trăng vằng vặc trên lâu đài nhà vua. Hoa cỏ lạ trong hoa viên sáng lên như ngọc. Vua Tịnh Phạn đã được thị vệ cho hay, Thái tử bỏ dở cuộc dạo chơi vì gặp một cụ già. Vua bèn mở ngay cuộc khiêu vũ dưới muôn ngọn đèn hoa để làm khuây Thái tử. Nhưng Thái tử Thích Ca vẫn không quên được ông già và màu râu tóc bạc hình như lại hiện về trên các khuôn cây ở hoa viên dưới ánh trăng bàng bạc.

Vua lo sợ săn sóc đến Thái tử như vậy, vì chỉ có một mình Thái tử là người kế vị. Thái tử là một thiếu niên anh tuấn mới 19 tuổi người đã thông thuộc cả các nghề. Nào thiên văn, địa lý, nghị luận, thi phú, văn chương, âm nhạc, hội hoạ, bói toán, phù chú, võ nghệ, trong nghề nào Thái tử cũng là người xuất chúng. Không những vì thế mà vua yêu quí, vua yêu quí Thái tử vì Thái tử là kết quả của cuộc nhân duyên đằm thắm giữa vua và hoàng hậu Ma Ha Ma Da. Thái tử là một mối tình thiên liêng của Hoàng hậu để lại cho vua ở thế giới này.

Mười chín năm về trước, một đêm nằm mộng, Hoàng hậu thấy mình lạc vào khu rừng hoang vu. Một con voi trắng sáu ngà đến ve vuốt bà mãi. Một hôm biết mình thụ thai, Hoàng hậu mới đem chuyện ấy nói cho vua nghe. Vua đoán là một điềm mộng tốt và rất vui mừng vì vua đã 50 tuổi rồi và Hoàng hậu cũng xấp xỉ tuổi vua, nếu may ra, Hoàng hậu sanh được Hoàng nam, vua sẽ có người kế vị.

Theo tục Ấn Ðộ phải về nhà cha mẹ mà đẻ. Một ngày ở vườn Lâm Tỳ Ni nước Câu Ly quê hương của Hoàng hậu Ma Ha Ha Da, chim kêu không ngớt tiếng, mặt trời lên cao chói sáng hơn cả mọi ngày. Ðêm ấy các khóm hoa đều tỏa hương thơm ngào ngạt. Hoàng hậu Ma Da ra dạo ở vườn hoa của vua Thiện Giác (anh bà), thơ thẩn nhìn trăng bà nguyện cầu:

- Hởi những đấng thiêng liêng hãy phù hộ con con tôi sau này trong sáng như mặt trăng kia, trí tuệ của nó sẽ rộng rãi bao trùm cả thế giới như ánh sáng mặt trăng.

Sao dần dần thưa, trên bầu trời đen thẳm. Rạng đông bừng sáng một phía vườn. Hoàng hậu bỗng thấy đau bụng, bà tựa vào một cây Vô Ưu. Mặt trời vừa lên tỏa ánh sáng vàng ửng khắp vườn Lâm Tỳ Ni, một trẻ lọt lòng xinh đẹp và toàn vẹn hơn cả những châu ngọc ở cõi trần. Trẻ ấy là Thái tử Thích Ca.

Từ hôm Thái tử bỏ dở cuộc đi chơi về, nét trầm ngâm vẫn thoáng trên gương mặt sáng lạng tinh anh… Muốn giải sầu cho Thái tử, ngày nào vua cũng đặt ra những cuộc chơi trong cung điện. Các bọn ca nhi vũ nữ cùng các đào hát thầy đàn tha hồ được dịp trổ tài. Vua lại còn ra “Chỉ” xem ai có vật lạ nghề hay đem vào cung để làm vui Thái tử đều được hưởng.

Người ta đem đến những thứ hoa quỳnh to bằng cái đĩa lớn, những hoa lài cánh to bằng cái hồng, những hoa sen vàng nở lá bốn mùa, những cây chuối trăm buồng, những giống quái vật ở núi ở biển, những san hô, ngọc cùng các thứ chạm trổ khéo léo. Trong các thứ ấy có con ngựa làm cho Thái Tử chú ý đến. Con ngựa vừa đẹp vừa khôn ngoan. Mình mẩy đều đặn, bốn chân thon thon, nó đứng bên cạnh những con ngựa to lớn nhất trong cung, thì những con này cũng thành thấp bé, những hình hài của nó làm sao sánh nổi với màu sắc của nó, tròng đen trong mắt nó có một sắc đen lánh như hột huyền, móng chân của nó đi vào trong tối thì sáng lên như sừng tê giác, lông nó mướt và trắng như tuyết trên núi Hy Mã Lạp Sơn, bờm của nó óng ánh như tơ vàng mềm mại và ở quanh cổ nó có nhung vân màu ngũ sắc dợn lên như một cầu vồng.

Chưa hết đâu, người ta lại khéo đeo hai chân trước nó hai cái lục lạc âm dương, lúc ngựa chạy tiếng nhạc hoà lên một điệu xao xuyến và huyền bí như tiếng suối chảy trong đêm khuya, giọng chim riú rít trong rừng xa. Có lẽ từ hôm được con ngựa ấy, Thái tử cũng khuây được nỗi buồn. Nhưng đêm đến, vua còn sợ không có gì để giải trí cho Thái tử, nên bày ra không ngớt những cuộc vui. Ðêm hôm ấy cũng như mọi hôm, trong cung đều có múa hát trà tiệc, dưới ánh những cây nến có ngọn lửa to như bó đuốc, các vàng bạc ngà ngọc khảm trên các cây cột, trên trần nhà, trên các áo mão của người trong tiệc đều phản chiếu lên muôn ngàn màu sắc lạ.

Hương trầm ở bốn phía tỏa ra ngào ngạt và rượu trong những cốc thủy tinh đủ màu như muôn hoa ở một vườn xuân, các vũ nữ đều thi tài múa hát, thân hình uyển chuyển theo âm nhạc như những gợn sóng, mặt mày tươi như những hoa sen một buổi sớm mùa hạ. Ðiệu múa rất tự nhiên. Chân tay họ như làm bằng một thứ sáp, thứ bột gì rất dẻo tha hồ để cho một bàn tay vô hình uốn nắn. Một người chưa thấy cảnh ấy, nếu lạc vào đây e tưởng mình đã lên tiên. Nhưng những cảnh đẹp ấy đối với cặp mắt Thái tử quen lắm rồi. Ðêm ấy người ta mời một người con gái vừa tài vừa sắc đến giúp cuộc vui.

Các vũ nữ vừa kéo vào, một tiểu thơ quần áo trắng bước đến, nét mặt của nàng một cách ngây thơ và hồn nhiên. Trên tay nàng cầm một cây đàn chín dây, nàng cúi chào rồi quỳ xuống giữa chiếc thảm xanh như một đóa hoa mọc giữa một vùng lá biếc. Người ta không rõ nàng đàn bản gì. Toàn xứ Ca Tỳ La Vệ chưa ai được nghe. Người nghe bản đàn ấy dầu có một mối sầu khó giải trong lòng cũng có thể nguôi được, dầu có tánh giận dữ đến đâu cũng thấy trở lại ôn hòa. Một bản đàn khiến cho người ta thấy sống ở cõi trần này là một cõi êm ái.

Cứ mỗi lần nàng nghỉ tay, người nghe lại không biết từ đâu có tiếng chim rất trong nổi lên để tiếp theo. Nàng đã khéo luyện tập được một con chim khôn ngoan và bắt nó đậu trên cây đàn. Người ta tưởng con chim ấy hòa một bộ phận của một cây đàn, không ai ngờ những tiếng chim bay ra lại là của con vật xinh xinh kia. Ðàn xong, nàng cất tiếng hát. Chao ôi! tiếng hát lại trong bằng mấy tiếng đàn, khi lên khi xuống như hẹn hò trước với điều ao ước riêng của từng người. Trước khuôn mặt ngây thơ của người hát và giọng ngân trong trẻo, lòng ghen tuông của các cung tần không có thể có nữa.

Nàng dứt tiếng hát, Thái tử thấy khoan khoái, các người trong tiệc như ngây như dại, từ nãy đến giờ nín hơn để nghe, bây giờ mới dám thở ra. Thái tử quay lại mỉm cười, một người thị vệ đã nhanh nhẩu tâu:

- Tâu Thái tử! Nàng Ưu Ðà Di, dòng dõi Bà La Môn.

Như có mặt trời trên mình ngựa, Thái tử vui vẻ hầu như xóa được nỗi buồn xưa. Thị vệ được vui lây nên có người dám vui đùa như những lúc Thái tử không có gì phiền não. Thái tử đối với người hầu tử tế như anh em. Một người thị vệ thưa Thái tử.

- Thái tử có nhớ cái nhà trồng rất nhiều hoa ở phía nam hoàng thành?

- Nhà ấy có gì lạ, ngươi sẽ bảo ta nghe!

- Bẩm Thái tử! Ở đó có những tiếng nhạc, mà không có ai xứ này được nghe, họa may có một mình tôi.

Thái tử mỉm cười nhớ lại cái đêm nghe đàn trong cung.

- Hay hơn tiếng nhạc của Ưu Ðà Di chăng? Thế thì ngươi hãy dẫn ta đi đến đó.

- Bẩm Thái tử chính là Ưu Ðà Di.

- Sao ngươi bảo chưa ai được nghe?

- Bẩm Thái tử một đêm rất khuya, một đêm mà kinh thành Ca Tỳ La Vệ đều say trong giấc ngủ, hôm ấy tôi được nghỉ, phóng ngựa về thăm nhà. Lúc qua đấy tình cờ nghe được tiếng đàn thanh thót ở ngôi nhà kia đưa ra. Tôi dừng ngựa ngơ ngẩn quên mất việc về thăm nhà. Bẩm Thái tử, tôi đã nghe một khúc hát kỳ lạ hơn khúc hát ở trong cung hôm trước.

- Thế thì ta rẻ lối này.

Thái tử Thích Ca vừa nói vừa rẽ ngựa sang tay trái, các thị vệ đều mỉm cười sung sướng bước theo người. Vó ngựa rầm rộ trên đường sỏi, gió thổi cái bờm óng ánh tơ vàng của con ngựa đi qua lớp áo nhung trắng cài khuy đỏ của Thái tử. Cái khăn trắng lớn trùm ngang trán để lộ ngọc bào, một nốt thịt nổi cao giữa hai hàng lông mày và phủ ngoài mớ tóc đen như mun, sợi tóc nào cũng uốn tròn về phía hữu.

Dưới màu trời xanh thẳm, ở trước mặt Thái tử xa xa một thành phố hiện lên trong quang đãng. Thái tử, trong một phút, đã nghĩ đến những nóc nhà kia là của thần dân dưới quyền vua cha. Mà trong đám nhà ấy, lại có ngôi nhà của người con gái tài hoa. Thái tử lại hình dung người đánh đàn hôm trước. Vừa lúc ấy có những tiếng rên khừ khừ bên đường lọt vào tai Thái tử. Thái tử quay lại hỏi thị vệ:

- Hình như có người rên, các ngươi hãy lắng tai nghe có phải chăng?

Các thị vệ lắng tai nghe rồi đồng thanh trả lời:

- Bẩm Thái tử quả có.

Tiếng rên rõ lắm ở trong một bụi cây bên đường. Bên bụi cây, một người đen đủi gầy đét, đầu đã rụng tóc, da đầu lòi ra như sọ dừa, khắp thân mình đều lỡ lói ghê sợ, cả thân hình bệnh nhân xông lên một mùi rất hôi hám khiến cho người xem không dám đến gần. Tên ấy là một tên hủi thuộc về phái Bà Li A, là một phái hạ cấp ở Ấn Ðộ bị khách qua đường đá vùi xuống đấy như một con vật, vì không ai muốn gần một người bệnh ở một giai cấp mà người ta cho là hèn mạt. Nghe tiếng có người đến gần, nó gần đưa hai tay cụt bàn như hai cái càng lên trời và đôi mắt nó gần như mất hết tròng đen cũng cố mở để nhìn lên cao. Như tuồng nó không còn tin rằng những người đồng loại của nó còn thương xót nó. Trước cảnh ấy Thái tử buột miệng than:

- Còn cách gì chữa được nữa chăng?

Một người theo hầu tiếp trả lời:

- Bẩm như đến bệnh hủi ghê gớm kia thì không còn phương thuốc gì chữa được.


Thanked by 2 Members:

#11 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/06/2012 - 23:09

Thái tử Thích Ca cởi áo mình, cái áo nhung trắng có cúc đỏ và chỉ vàng thêu ở trước ngực đắp cho kẻ kia rồi cùng thị vệ quay về.

Trên đường về, đôi mắt Thái tử Thích Ca trở nên buồn bã, lúc nào trên gương mặt cũng tỏ dáng đăm chiêu suy nghĩ. Vua tìm hết cách để làm cho Thái tử vui mà cũng không có hiệu quả gì. Tình cờ một hôm vua sực nhớ đến người con gái đánh đàn. Vua ngẫm nghĩ, có lẽ Thái tử buồn bực vì cảnh cung cấm có vẻ tiều tụy, cung tần mỹ nữ không biết trang điểm, không có tài ăn nói để giải buồn Thái tử, họa may còn có con bé này; hôm trước ta nghe những khúc hát của nó cũng phải mê mẩn tâm thần, thấy mình quên hết những phiền muộn ở đời. Ừ mà phải, nó là dòng dõi Bà La Môn, tài gì mà không có sức học uyên thâm, giới hạnh nghiêm chỉnh. Ta sẽ nhờ nó xem sao.

Nghĩ như vậy bèn sai người mời Ưu Ðà Di vào cung, nàng khiêm tốn tâu rằng:

- Tâu Hoàng thượng, ân đức Hoàng thượng hầu khắp cả thần dân trong nước, ai ai lại không truyền tụng, tôi như hạt bụi dưới ánh mặt trời, như bọt nước trong bể cả. Bấy lâu chỉ biết tận hưởng những ân huệ cao siêu của Ngài, bây giờ Ngài ủy thác cho công việc theo hầu Thái tử tôi rất lấy làm vui, nhưng cũng lấy làm sợ.

- Nàng Ưu Ðà Di, tài đức của nàng sắc đẹp của nàng ở đây ai lại không biết, hãy nhân dịp này để tỏ lòng trung thành của nàng.

Hôm ấy vua đến khuyên Thái tử:

- Ðã biết bao lần ta phải nhắc lại rằng ta chỉ còn một mình con ở trên đời này là ta quý mà thôi. Ðã biết bao lần con làm ta phải âu sầu nhớ đến mẹ con chăng? Ôi? nếu con biết những sự mong mỏi của mẹ con lúc tuổi tác cao mà vẫn chưa thai nghén, nếu con biết những lúc mẹ con cùng ta sung sướng với giấc mộng kỳ lạ của mẹ con. Ôi! Nếu con biết những nỗi hân hoan của mẹ con lúc mang con trong lòng cầu nguyện cho con sau này được hơn người. Cứ mỗi lần con không vui ta bùi ngùi tưởng nhớ đến mẹ con và tiếc rằng không còn mẹ con ở đây để dỗ dành con hộ ta.

- Thưa cha, con đã là đứa con bất hiếu, con xin từ nay yên vui để cha bằng lòng, để linh hồn mẹ con được nhẹ nhàng trên chín từng trời thẳm. Mẹ con bây giờ còn làm sao gặp được con nữa, mà con cũng vậy, hình ảnh mẹ con còn có tìm đâu được ở trần giới này.

Như biết được Thái tử Thích Ca sắp rơi vào bẫy của mình, vua vẫn ôn tồn không lộ vẽ sung sướng của mình.

- Lời con nói nhắc ta nhớ đến một việc mà ta quên hẳn đi.

- Thưa cha nhớ lại việc gì?

- Còn một người sống ở thành này rất giống mẹ con ngày xưa.

- Thưa cha người ấy là ai con muốn tìm cho gặp.

- Phải, ý nghĩ của con rất hay, vì tội nghiệp cho con, con vừa ra đời được bảy hôm thì mẹ con vội từ giả vườn Lâm Tỳ Ni, người con muốn chẳng ai xa lạ, chính là nàng Ưu Ðà Di, người đánh đàn hôm trước.

Tối đó ở hoa viên, Ưu Ðà Di ngồi trên một ghế da trước mặt vua và Thái tử. Trăng Ấn Ðộ tỏa một thứ ánh sáng huyền ảo trên thành quách, những cây trắc cao vút như muốn níu theo điệu nhạc do chính dây tơ dưới mười ngón tay tài tử đưa ra bên cạnh, những khóm lài đầy trĩu những hoa có hương ngào ngạt khiến cho những người hầu đứng bên dẫu có chất phát cho mấy cũng trở nên mơ mộng như nhà thi sĩ.

Hôm sau vua ban cho cha mẹ Ưu Ðà Di vàng ngọc châu báu để rước nàng vào cung. Tuy được trọng thưởng ông bà cụ không khỏi buồn vì xa con.

- Vàng ngọc châu báu có quý đâu bằng tình mẹ con. Xa con mẹ lấy làm đau lắm. Con hãy còn nhỏ, rồi đây ai săn sóc con. Tuy vậy lệnh nhà vua không ai dám trái. Mẹ cầu nguyện cho vua và Thái tử sẽ yêu mến con như thầy mẹ đối với con vậy.

Ưu Ðà Di an ủi mẹ:

- Con đã lớn rồi mẹ ạ! Lẽ đâu con phải bắt mẹ lo lắng cho con. Hoàng tử người rất hiền lành, như mẹ đã thấy những khi Ngài dạo trước cửa nhà ta. Con sẽ cố làm cho Ngài vui, thế nào Ngài cũng chiều con như mẹ vậy. Ông cụ ít bịn rịn hơn, khuyên con:

- Con đã 15 tuổi rồi đó, gắng mà giữ gìn tâm tính. Con phải luôn luôn khiêm tốn nết na như những ngày sống gần thầy mẹ vậy, vì chức vị của cải dễ làm hư tâm tánh con người lắm đó. Thôi con cứ vui đi, thầy mẹ cũng mừng cho con.

Ưu Ðà Di cúi đầu vâng lời cha mẹ, rồi nàng chạy tìm em, một cậu bé đang loay hoay dán một con diều nhỏ.

- Em ở lại vui vẻ nhỉ! Ðừng làm phiền cha mẹ, rồi lúc nào chị sẽ đem quà bánh về cho em. Em sẽ thay chị cho các con vật mình nuôi ăn uống. Luôn luôn săn sóc chứ đừng đánh đập nó.

Nói đoạn nàng kéo tay em ra vườn để thăm lại những cảnh vật thân yêu. Cây khế mà dưới gốc nàng đã bao lần ngồi hát, ngồi đàn cho cả nhà nghe.

- Nàng đi còn có ai mà hát dưới đêm trăng nữa?

Cây huệ than:

- Ai vuốt ve tôi? Tôi nở hoa cho ai?

Hoa hồng nũng nịu:

- Tôi lấy tóc ai mà bíu nữa?

Ưu Ðà Di trả lời:

- Các bạn ơi, thầy mẹ tôi và em tôi lại săn sóc hơn tôi nữa kia.

Ðàn ngỗng lúc bấy giờ ở dưới nước lại kéo lên:

- Rồi đây ai chìa tay cho chúng tôi mổ?

- Em tôi sẽ đưa bàn tay xinh xắn hơn tôi cho các ngươi.

Nước trong hồ cũng phụng phịu:

- Chiều chiều ai soi bóng trong lòng tôi nữa?

- Còn có em tôi soi bóng trong lòng của ngươi, em tôi còn ngoan ngoãn hơn tôi, đẹp đẽ hơn tôi.

Bồ câu và các thứ chim trong vườn cũng bay đến.

- Nàng đi thật đấy à? Vắng nàng chúng tôi hót cho ai nghe đây và ai hát cùng chúng tôi?

- Có thầy mẹ tôi và em tôi nghe những điệu thánh thót của các ngươi, giọng em tôi còn tốt hơn giọng tôi, sẽ hòa cùng các người.

Con chó lúc bấy giờ cũng chạy quấn quít bên chân nàng:

- Nàng đi, ai vuốt ve tôi và dắt tôi đi dạo?

- Em tôi vẽ vui đùa với ngươi.

Lúc ấy con chim nhỏ của nàng nuôi ở đâu cũng bay đến:

- Tôi nhất định theo nàng.

- Em sẽ theo ta và đậu trên cây đàn của ta.

Lúc cha mẹ và em đưa ra đến cửa, nàng như nhớ việc gì, quay lại bảo em:

- Em có nhớ những nhà tu hành ngày ngày đến xin ăn trước cửa, em sẽ kính cẩn em các thức ăn ra biếu lấy em ạ.

Ở cửa xe ngựa đã sẵn sàng để đón lấy nàng vào cung điện. Những người theo hầu nghiêng mình chào đón.



Thanked by 2 Members:

#12 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/06/2012 - 23:14

Về cung, Ưu Ðà Di tìm hết cách để làm cho Thái tử vui. Trước vẻ hồn nhiên của người con gái ấy, Thái tử không thể buồn được nữa. Ngày nào Thái tử cũng cùng với nàng cưỡi ngựa đi dạo trong khu vườn rộng thênh thang. Bên cạnh những đóa hoa tươi sắc, những lá biếc xum xuê biết hót bằng tiếng chim. Vợ Thái tử là bà Da Du Ðà La rất yêu mến nàng vì nhờ nàng bày vẻ những điệu hát những bài đàn cho con bà. Ưu Ðà Di lấy những lời rất dịu dàng để khuyên bảo như chị với em. Ðối với những người hầu hạ lúc nào nàng cũng tỏ ra là một người vừa nhũn nhặn vừa khoan dung. Nàng lại đem lòng yêu mến tất cả những người xung quanh nàng. Nàng lại biết tự tay đi hái những lá thuốc để chữa bệnh cho những người ở bên nàng trong cơn nguy hiểm.

Nhưng ở đời hễ được nhiều người mến chuộng thì lại tăng phần căm tức ghen tuông của những đứa tiểu nhân. Cũng may ở trong cung chỉ có một người ngầm ghét Ưu Ðà Di mà thôi, người đó là một cung tần tên là Sai A.

Một bữa Ưu Ðà Di vào phòng mình thấy quần áo treo trên móc đều bị con gì nhấm thủng cả, mà căn phòng cao ráo ấy làm gì có dán hay chuột. Hôm khác nàng thấy cây đàn tự nhiên đứt mất mấy dây, nàng phải nhọc công một buổi để buộc dây cho đúng điệu. Có hôm nàng săn sóc chậu hoa quý định đem bày ở phòng sách của Thái tử. Buổi sáng hoa ở chậu vừa nụ xinh tươi, thế mà chiều đến nàng phải khóc, vì không thấy hoa ở trên cành nữa. Ưu Ðà Di đoán có ai ngầm hại mình, nhưng nghĩ mãi cũng chẳng biết là ai, vì trong cung mọi người đối với nàng đều tử tế cả. Nhưng trong khi nàng không biết ai ngầm hại mình, Sai A lại càng nghĩ ngợi những mưu kế ghê tởm để ngầm hại. Nhưng hắn không ngờ làm một việc dữ chưa chắc hại nổi ai mà mình lại bị điều dữ đến cho mình.

Một tối hắn biết thế nào Ưu Ðà Di cũng ngủ rất say vì nàng phải đàn khuya, hắn khuyên một đứa tớ rất trung thành của hắn lén vào phòng của Ưu Ðà Di theo lời dặn của hắn. Ưu Ðà Di thiêm thiếp ngủ trên chiếc nệm trắng tinh, đôi tay nho nhỏ của nàng trong giấc ngủ vẫn không rời cây đàn chín dây. Con chim xinh xinh đang đậu ở đầu giường. Cái dáng điệu ngủ đáng yêu và vô tội ấy, ai nỡ đứng trước mà nghĩ đến những chuyện giết hại được.

Lúc ấy con hầu của người cung tần vừa đến bên người lính canh ở trước phòng của Ưu Ðà Di. Nó toan lấy thuốc mê ra bỏ theo lời dặn của Sai A nhưng nó lại ngầm nghĩ: anh này say ngủ như chết, có bỏ cũng phí, để lát nữa ta bỏ cho cô bé này cho nhiều, càng nhiều càng mê lâu ta càng dễ hành động.

Nó mỉm cười, mất cả lo lắng từ trước, bước sang người anh lính hầu ngủ lăn trên đất. Nó mở cửa lẻn vào phòng Ưu Ðà Di, con chim thấy động kếu ríu rít và đến mổ tay người con gái đang ngủ. Nhưng vì nhọc Ưu Ðà Di say mê như không biết gì. Con hầu của Sai A tức khắc rút một ít thuốc rẩy trên mắt nàng và đưa tay xua đuổi con chim. Chim sợ sệt bay lên ở một góc phòng, nhưng nó vẫn kêu ríu rít. Con thị tỳ lại rút trong túi ra một cái hộp con. Nhưng tay nó dừng phắt lại. Trước khuôn mặt hiền từ đang nằm ngủ say, nó cảm thấy như đứng trước một vật gì trong sạch, rất quý báu, nó muốn ôm chầm lấy để thu tất cả mọi tội lỗi. Nó quay đi không nỡ làm hại con người đang ngủ ấy nữa.

Nhưng con thị tỳ quay lại sực nhớ phần thưởng của Sai A hứa cho nó. Ðồng tiền bao giờ cũng có một sức mạnh xúi giục người ta dễ làm bậy. Phần vì ham tiền thưởng, phần vì sợ nếu không được việc sẽ bị chủ hành hạ, con thị tỳ mắm miệng quay vào. Nó quả quyết rút cái hộp ra. Nếu nó lanh tay một tý thì người con gái hiền hậu kia không còn ở trên đời này nữa, nhưng tay nó run lật bật, một con rít trong hộp đáng lẽ rơi trên mình Ưu Ðà Di, lại cứ bíu lấy hộp rồi bò thẳng lên tay nó, nó khiếp sợ quá thét lên, lúc ấy tên lính hầu vừa tỉnh giấc và con hầu của Ưu Ðà Di ở phòng bên cạnh nghe tiếng rú chạy vào. Con nữ tỳ của Sai A không tài nào thoát khỏi. Trong lúc kinh khủng nó thú cả tội lỗi.

Không mấy chốc nó bị điệu cổ vào nhà giam xét hỏi và những viên lương y đã đến giải thuốc mê cho Ưu Ðà Di. Cơ mưu của Sai A bị tiết lộ. Vua tức giận lắm định đem giết kẻ làm việc ác đức ấy đi cùng với tên thị tỳ đã giúp việc cho hắn. Ưu Ðà Di được tin ấy động lòng thương hại xin cho những kẻ kia được nhẹ tội. Cảm lòng nhân đức của nàng tuy phải tù tội, nhưng tránh được cái chết, lấy làm ăn năn tội ác của mình, từ ấy thề sẽ chữa lại tâm tánh. Còn những kẻ ở trong cung càng yêu mến người con gái nhân đức kia.



Thanked by 2 Members:

#13 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/06/2012 - 23:19

Hết cái nạn ấy, Ưu Ðà Di được sống vui vẻ bên cạnh Thái tử. Thường hai người cùng đánh cờ, cùng đọc sách, cùng hòa đàn. Thật là đôi thiếu niên sung sướng trong đời này vậy. Tuy thế có những việc xảy đến mà không bao giờ người ta ngờ có được, hôm ấy đoàn ngựa của nhà vua lại ung dung kéo ra cửa thành phía đông. Mặt trời quang đãng trên con đường phẳng, đoàn ngựa chạy dưới bóng hai hàng cây kè kè lá xòe ra như những cái quạt lớn.

Qua những cây ấy, Thái tử nhìn thấy những người cày ruộng mình trần trùi trụi cùng với những con trâu hì hục cày bừa trên những thửa ruộng lầy lội. Một luồng gió mát thổi qua, Thái tử bất giác nghĩ đến cái khoái trá trên mình ngựa dưới bóng cây râm mát và cái cảnh lam lũ của những người làm ruộng kia dưới ánh nắng mặt trời gay gắt. Cảnh tượng ấy, Thái tử đã gặp từ năm còn nhỏ trong một cuộc dạo chơi với vua cha. Thì ra lòng thương xót của người không theo thời gian mà thay đổi. Cảnh tượng ấy vừa qua, đi được một lát, đoàn ngựa gặp phải một vật gì lù lù nằm choáng cả lối đi. Một tên thị vệ tâu:

- Bẩm Thái tử cho tôi đến trước xem vật gì nằm choáng ngang đường.

Nói đoạn, hắn phi ngựa chạy đến trước. Lúc Thái tử cùng bọn hầu đến gần thì thấy người thị vệ đã xuống ngựa hất cái vật kia qua một bên đường, vật ấy cứng đờ như một khúc gỗ.

- Bẩm Thái tử, thây một kẻ chết.

Nó vừa nói vừa vọt lên ngựa định theo Thái tử nối tiếp cuộc đi chơi, nhưng Thái tử gò cương lại nhìn cái xác chết mà ruồi nhặng đương tha hồ đục khoét. Thái tử thấy lòng se lại ngồi nghĩ đến đời sống của con người thật là khổ: suốt đời chỉ thấy lo lắng bâng khuâng, bệnh hoạn, già nua, chết chóc. Nghĩ vậy, Thái tử không thiết đến cuộc đi chơi nữa. Những thị vệ trông thấy Thái tử trở lại buồn rầu, lo quá. Chúng bèn bàn nhau đưa Thái tử về hoa viên rồi mời Ưu Ðà Di ra khuyên dỗ Thái tử. Ưu Ðà Di vội vã ra vườn. Nàng thiết tha như một nàng tiên trong cảnh bồng lai. Tuy vậy, Thái tử vẫn điềm nhiên ngồi trầm tư bên một gốc cây. Ưu Ðà Di lại gần nỉ non.

- Thưa Thái tử, có phải hôm nay Thái tử buồn vì như lời thị vệ nói Ngài đã gặp những cảnh thương tâm chăng? Nếu vậy sao Ngài không nhân trời tối này đi dạo cho khuây khỏa lại cứ ngồi giữ kín mối sầu làm gì vậy? Hay là tại lỗi tôi không kịp theo hầu Thái tử chăng?

Thái tử vẫn điềm nhiên không đáp.

- Thưa Thái tử, Ngài không nhớ một hôm trong vườn hoa, Ngài đã bảo tôi là em gái Ngài, tôi có nét mặt giống Hoàng hậu không đủ làm cho Ngài vui sao?

Thái tử nhìn thấy đôi mắt long lanh sáng của người con gái quỳ trước mặt, ra lệnh cho nàng đứng dậy:

- Tôi không muốn nàng biết nỗi buồn của tôi, bởi nàng cũng như đóa hoa vô tư kia.

- Thưa Thái tử, những đóa hoa kia cũng biết buồn rồi đó, hôm nay tôi thấy hoa nào cũng ủ rũ cả, như thế không thật sao?

- Hoa nào lại có thể giữa màu sắc được bền lâu.

- Thưa Thái tử đời cũng vậy, ai lại không đau ốm, bệnh tật và chết.

- Nhưng cái chết của cây cỏ không máu mủ thịt xương, còn con người, con vật đến lúc bệnh hoạn có khi làm cho không ai có thể đứng gần bên được. Vì vậy tôi biết người sinh ra thì khổ nên tôi muốn tìm cách để trừ cái khổ ấy đi. Tôi đã hết cách tiêu khiển. Có cái gì tôi muốn mà không được. Thế mà cách để được yên vui tôi, làm sao tôi yên vui được lúc tôi nghĩ đến không làm sao tìm được bên cạnh đời no ấm xa hoa của tôi, biết bao nhiêu người khổ sở lăn lóc ốm đau, già nua bệnh hoạn.

Ưu Ðà Di không biết phân giải thế nào bèn đến quỳ tâu bên Thái tử nét mặt rầu rầu. Lúc ấy nhận thấy vì mình mà những người xung quanh phải khổ lây, Thái tử gượng cười đứng dậy cùng Ưu Ðà Di đi dạo quanh vườn. Những người hầu từ nảy đến giờ lo ngay ngáy, sợ nếu Thái tử còn buồn thì sẽ bị vua cha quở mắng, lúc bấy giờ cũng tươi lên. Chim chóc từ bốn phía vườn cũng bay lại hòa thành khúc nhạc rất vui. Những hoa huệ bổng vươn mình lên trắng xóa khắp vườn làm cho những hoa bướm khác tăng phần rực rỡ.

Tuy cố gượng vui nhưng nét mặt trầm tư của Thái tử, nhiều lúc vẫn lộ ra không giấu được. Vua lại tìm hết cách để làm cho Thái tử khuây. Ðàn hát xướng ca không ngớt. Tuy vậy hình như không có kết quả gì mấy. Một hôm vua cha bảo Ưu Ðà Di:

- Từ nay con hãy chiều chiều hầu Thái tử ra vườn hoa cửa Bắc mà ta vừa mới lập xong. Con sẽ mỗi ngày thay một thứ áo xinh đẹp để cùng với những thiên nhiên ở đấy làm vui cho Thái tử, vì ta chắc không ai có thể bằng con trong việc này. Những đình tạ hoa nước trong vườn kia không phải chỉ riêng cho Thái tử, đó là phần thưởng ta tặng cho con đó để chung vui cùng Thái tử.

Chiều ấy song trên mình ngựa Thái tử Thích Ca và Ưu Ðà Di đi trước một đoàn thị vệ áo hầu rực rỡ. Ưu Ðà Di chỉ những màu sắc tươi đẹp ở một bụi cây, trên mặt nước, hay ở một khoảng trời lần lượt hiện ra hai bên đường. Thái tử Thích Ca luôn luôn mỉm cười nhưng trong đôi mắt vẫn phảng phất một mối buồn không dứt được.



Thanked by 2 Members:

#14 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/06/2012 - 23:29

Vườn hoa cửa Bắc của vua Tịnh Phạn là một vườn hoa đẹp nhất xứ Ấn Ðộ. Trong vườn có cả các thứ cây quí hoa lạ ở các nơi đem đến. Những giống chim giống thú đỗ ở các miền xa, những đường lối sạch sẽ như mặt bàn trải thảm, những nệm cỏ xanh tươi, những hồ nước trong leo lẻo in bóng, những đình tạ nạm vàng mạn ngọc chói lên ánh sáng rực rỡ.

Vào vườn không thể lấy mắt mà đếm những màu sắc của hoa thú trong ấy. Ðến bên cạnh hồ da thịt mát rượi, hương lên nồng nàn. Người ta tưởng các thứ nước hoa Ấn Ðộ đều là lấy ở đó ra. Nói tóm lại, như chắt lọc ở khu vườn này tất cả cái tinh túy của vũ trụ thần tiên. Tuy vậy, Thái tử cũng nhìn qua loa cảnh vật rồi tìm một góc cây ngồi nghĩ và bảo người hầu đem Ưu Ðà Di đi dạo các nơi. Mọi người đang dụ dự Thái tử quả quyết:

- Các ngươi hãy vâng lời cho ta vui. Ưu Ðà Di nàng hãy đi dạo chơi vì chỗ này mát mẻ nên tôi ngồi đây một lát, tí nữa tôi sẽ theo.

Thái tử ngồi một mình bên gốc cây suy nghĩ. Bao nhiêu những cảnh xưa lại hiện về trong óc. Những phút sung sướng, những lúc đau buồn, những cảnh hào nhoáng xa hoa, những kẻ tật bệnh đói rét, những thảm trạng của đời người lần lượt diễn ra trong trí của vị Hoàng tử. Ðang lúc ấy, một người đầu không tóc mình khoác một manh áo xấu xí, tay chống gậy đi đến. Nhưng dáng điệu thì uy nghi, đôi mắt thì lóng lánh như có luồng điện. Thái tử thấy trong điệu bộ lạ lùng của người này có vẻ huyền bí, khác hẳn với những người thường ngày đã gặp trong cung. Thái tử hỏi:

- Ông ở đâu lại?

- Tôi ở khu rừng ở xứ này.

- Ông làm gì ở đây?

- Bẩm, tôi làm kẻ tu hành theo tìm học đạo.

- Tu hành là người thế nào?

- Là một kẻ chuyên suy nghĩ đến những lý lẽ của mọi sự, mọi vật, để tìm tòi những phương pháp phá hết các sự phiền muộn đang buộc con người với đời không thiệt, được đó mất đó, để về sau hết kiếp này khỏi chịu kiếp khác.

Nói xong ông thầy dùng phép thần thông bay bỗng lên không lẫn với màu sắc huyền ảo của hoàng hôn. Thái tử mừng reo lên:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta quyết tu thế nào cho được cho như vậy mới nghe.

Ưu Ðà Di và kẻ hầu đã quay về. Tuy dưới ánh nắng hoàng hôn mà ai nấy cũng đều lấy làm lạ rằng Thái tử Thích Ca trở nên vui vẻ. Ðêm ấy Thái tử tâu với vua cha cho theo tu hành như ông thầy tu kia. Vua giật mình khuyên can.

- Ai gieo vào cho con cái tư tưởng điên rồ ấy? Con không phải là nhà vua trên muôn ngàn dân ở xứ này sao? Bây giờ con lại làm một ông thầy tu cực khổ, rách rưới, thì ta nhục nhã biết bao nhiêu; dòng dõi vua chúa không phải đến đây là hết?

- Thưa cha, công đức của cha mẹ như trời như bể. Con sống ở giữa châu báu ngọc ngà, giữa những sự nâng niu, chìu chuộng, không còn thiếu gì nữa. Tuy vậy bấy lâu nay con vẫn bị những phiền muộn mà không được vui gì, không vàng ngọc gì làm khuây khỏa được. Nay tình cờ con gặp được một vị tu hành nghe có mấy lời của người mà lòng con như cất được gánh nặng từ bấy lâu nay đè nén. Vậy xin vua cha cho con được xuất gia, đó là một cách yên vui hoàn toàn vậy.

- Ta đã hết sức chiều Thái tử, nhưng đến việc này ta không thể nghe theo. Con là con nhà vua, con sẽ là nhà vua, ta chỉ biết có thế, con đừng xin nài gì nữa.

Từ đấy vua truyền lệnh cho những người hầu canh giữ trong cung rất nghiêm ngặt. Thái tử đi đâu là người theo, tuy vậy nghĩ đến chuyện xuất gia, Thái tử vẫn luôn luôn vui vẻ. Ðêm nào cũng vậy, ở các cửa thành vẫn có lệnh canh nghiêm nhặt, lại có lính đi tuần tiểu. Thái tử Thích Ca vẫn ngày đêm lo nghĩ về kế xuất gia. Một đêm Thái tử đợi cho trong cung cấm không còn một tiếng động, nhẹ nhàng nhỏm dậy khoác áo, dắt vào mình một thanh kiếm ngắn. Qua mấy cánh cửa sổ để mở, trời đêm chỉ còn nhấp nhánh sao mờ, Thái tử vươn mình từ trên cửa sổ tầng thứ ba nhảy xuống vườn hoa.

Thỉnh thoảng lính hầu lại vác cung đi qua lại. Thái tử Thích Ca vừa rơi xuống đất, thì nhún mình nhảy vào một nhóm lài để tránh những quân lính canh. Vừa lúc ấy một bóng đen ở bên cũng nhảy xổ theo. Thái tử Thích Ca nhanh nhẹn khóa hai tay người ấy.

- Bẩm Thái tử, tôi đây ạ.

Nghe giọng nói Thái tử Thích Ca nhận được tiếng của Xa Nặc, người hầu trung thành của mình.

- Ngươi làm ta giật mình tưởng quân gác, thế đã xong chưa?

- Bẩm lũ kia uống rượu tẩm thuốc mê ngủ lăn ra cả. Tôi định vào đây để mời Thái tử đi ngay. Tôi nhắm cái cửa sổ Ngài vừa nhảy qua, nhưng quân canh lúc ấy chưa đi khuất.

- Thôi chúng ta nhanh chân chứ, ngựa đâu?

- Bẩm dưới cây dừa nước đằng kia.

Hai người len qua các nhóm cây rồi lên ngựa. Trong đêm chân con ngựa của Hoàng tử sáng lên như bốn ngọn đèn xanh. Tuy vậy lính canh không ai biết cả. Anh nào cũng đang đánh một giấc ngủ ngon. Không mấy chốc hai con ngựa đã nện móng trên con đường vắng vẻ ngoài thành Ca Tỳ La Vệ. Phố xá lâu đài im lặng đang êm giấc trong đêm khuya, dưới trăng sao mờ mờ, dần dần bị bỏ lại biến xa trong đêm mù, rồi tan mất, Thái tử vừa đến một khu rừng rậm:

- Xa Nặc trung thành ơi, thôi anh hãy về, mang con ngựa về tặng Ưu Ðà Di vì ta không muốn một ai theo ta vào trong rừng rú.

Xa Nặc toan kêu nài, Thái tử bèn ra hiệu nên vâng lời về ngay. Xa Nặc buồn rầu dẫn con ngựa về. Lúc quay lại bóng Thái tử vừa khuất trong rừng rậm. Trời vừa tảng sáng, Ưu Ðà Di nghe có tiếng gọi nho nhỏ nhưng cấp bách ngoài cửa. Ưu Ðà Di vừa mở cửa. Xa Nặc đã hớt hải thưa:

- Bẩm cô nương, Hoàng tử tặng cô con ngựa quý, tôi đã buộc nó ở bên ngoài, thôi xin chào cô nương tôi đi chịu tội đây.

Ưu Ðà Di sửng sốt níu áo Xa Nặc hỏi chuyện đầu đuôi. Xa Nặc đem câu chuyện thuật lại, Ưu Ðà Di khóc sướt mướt, Xa Nặc an ủi:

- Thưa cô đây là ý muốn của Thái tử, lẽ nào cô nương không muốn Thái tử vui hay sao?

Tuy vậy nàng vẫn không thể đè nén lòng mình, bỏ mặc Xa Nặc ngồi đấy, ra ngoài lấy ngựa của Xa Nặc phóng như bay ra ngoài hoàng thành trước những lũ quân ngơ ngác. Xa Nặc ngồi lại một mình lắc đầu buồn bã. Ngoài sân chim rũ lông đầy cả lối đi.

Ba ngày lưu lạc trong rừng rậm, người nhọc bụng đói mà vẫn không tìm được Thái tử. Ưu Ðà Di đã ngã gục bên ngựa, một tối thứ ba, đến lúc mở mắt dậy nàng thấy trong mình nhẹ nhõm khác thường. Một người mình trần trùi trụi không râu không tóc, nhưng với những đường nhăn trên mặt trên mình có vẻ đã nhiều tuổi lắm. Ưu Ðà Di bủn rủn cả người, nàng liếc thấy con ngựa của mình đang đứng bên một gốc cây định chạy lại lấy ngựa để trốn. Người kia gọi giật lại:

- Nàng Ưu Ðà Di.

Nghe gọi đúng tên mình, nàng quay lại kinh ngạc nhưng cũng cố can đảm xem thử người nào lại biết mình.

- Cô không nhớ tôi sao?

- Thưa cụ tôi không được rõ.

- Nàng không nhớ nàng đã cho tôi cơm ở nhà nàng hay sao? Nàng chóng quên thế?

Tưởng rằng ma quỷ hiện lên ám ảnh mình vì nàng không nhớ người ấy là ai. Tuy vậy nàng vẫn giữ lễ phép trả lời.

- Phải, tôi biết cô đang bận tìm Thái tử phải không?

Nghe người đoán đúng ý nghĩ mình, nàng vội kên lên:

- Cụ ơi, Hoàng tử ở đâu cụ bảo giùm tôi. Thái tử đi lối nào hở cụ?

- Thái tử đã đi xa rồi cô ạ. Cô hãy ngồi yên đây rồi tôi sẽ giúp cô.

Ưu Ðà Di vâng lời nghe theo.

- Không giấu gì cô, tôi là một kẻ tu hành lâu năm ở chốn rừng này học được ít phép mầu nhiệm, đã đoán biết những việc đã qua và sắp xảy đến. Ðêm qua nhìn một ngôi sao tôi biết rằng Thái tử sẽ xuất gia, tôi rất vui mừng, vì thế nào Hoàng tử sau này cũng sẽ là một vị đại cứu thế.

- Thưa cụ, thế tôi có gặp được Hoàng tử không?

- Nàng hãy yên tâm, Hoàng tử đã vào rừng sâu khó lòng mà gặp được, nhưng nàng hãy vui đi, vì thế nào Ngài cũng thành Phật mà tế độ chúng sanh.

- Phật là thế nào? Bẩm cụ có uy quyền, có sung sướng hơn Hoàng tử không?

- Chính chúng tôi cũng cố tu để một ngày kia được thấy ánh sáng của Phật đây. Phật là đức đại từ đại bi thông thuộc hết những lý lẽ cao siêu, những nguyên nhân huyền bí để chỉ vẽ chúng ta tránh xa con đường tội lỗi khổ sở, các ông hoàng làm sao sánh kịp.

- Thế liệu Hoàng tử có thành Phật được không? Ngài có về với chúng ta không?

- Thế nào Ngài cũng thành Phật, một đức Phật xưa nay chưa từng có ở thế giới này. Thôi tôi chỉ nói chừng ấy cho cô vui, cô nên nghe tôi về ngay nhà vì chính là lúc cô nên về theo sự suy đoán của tôi, cô hãy cưỡi ngựa chạy về nhà đi, tôi sẽ đưa cô ra khỏi rừng này, đây mấy viên thuốc cô hãy cầm lấy để cứu người. Bây giờ cô hãy ngậm một viên đi.

Vừa ngậm xong tức thì nàng thấy trong người vui tươi tự kiếm được lời để tự an ủi mình:

- Hoàng tử rồi sẽ thành Phật, người sẽ về với chúng ta.

Ðến cổng nhà, nghe có tiếng khóc mới chạy vào thì thấy mẹ và em đang ngồi bên giường của cha. Ông cụ đang thoi thóp trên giường bệnh. Nàng cầm một viên thuốc bỏ vào miệng cha, tức thì ông cụ mở mắt chống tay ngồi dậy tỉnh táo như thường, nàng bèn lấy hai viên thuốc khác đưa cho mẹ và em tức thì ai nấy đều trở nên vui vẻ. Bà mẹ ôm lấy em vào lòng:

- Tôi lại gặp được con tôi vui tươi hơn trước, thật là phước quá. Nhưng làm sao con lại về được đây?

Ưu Ðà Di đem mọi chuyện kể lại cho cha mẹ nghe. Hai cụ đều tỏ vẻ sung sướng. Vừa lúc ấy, những cây cỏ ngoài vườn cũng đều reo lên, cây khế nói:

- Nàng đã về, nàng sẽ vui vẻ ca hát với chúng ta, ở bên gốc của ta.

Cây huệ:

- Ðêm nay tôi sẽ nở hoa trắng mướt cho nàng vuốt ve.

Cây hồng:

- Tôi sẽ bíu lấy tóc nàng, nàng ơi!

Con ngỗng:

- Nàng sẽ chìa tay xinh đẹp của nàng cho tôi mổ lúa.

Mặt hồ:

- Chiều chiều, nàng lại ra đây rửa chân, tôi lại được ôm bóng nàng.

Chim bồ câu và chim chích:

- Nàng lại cùng chúng ta hát đây.

Con chó:

- Nàng ve vuốt tôi đi, ve vuốt tôi đi.

Con chim từ ngày nàng rời cung điện vẫn bay theo nàng:

- Tôi sẽ luôn luôn đậu trên cây đàn của nàng.

Ưu Ðà Di tưởng những ngày mình sống trong cung điện bên cạnh vị Hoàng tử chỉ là một giấc mộng xinh đẹp để điểm trang cho đời sống của mình, từ đây nàng mới thật sống vui vẻ bên cạnh những cảnh vật lúc nào cũng âu yếm mình.

Trực Hiền




Thanked by 2 Members:

#15 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/06/2012 - 23:37

9. Tại sao phải niệm Phật

Thành Thất La Phiệt có một ông hoàng tánh rất hung bạo. Thêm vào đó, quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội án trước pháp luật. Chưa một lời phải, một đạo giáo nào cảm hóa được ông. Một hôm ông gặp Phật khi Phật du hóa xứ này. Mới thấy, lòng ông bỗng cảm phục như voi dữ trước quản tượng. Ngài có dạy ông vài lời sơ lược:

- Hãy tưởng niệm Phật Ðà, hãy từ bi thương người, sốt sắng cứu người.

Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất, ông liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn trong lòng của ông nữa, khi ông toan đánh đuổi người. Bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại, nhưng không bố thí chút gì. Tối hôm đó vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhờ thuật lại, ông nhớ lại rõ ràng hình dung Ðức Phật và lời Ngài dạy. Ðêm hôm ấy ông suy nghĩ mung lung.

Ông nghĩ: “Nhớ Phật, phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ”.

Rồi trời mới sáng ông liền đi tìm Phật. Giữa đường gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường, ông suy nghĩ, ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền túi ra cho. Người ấy e sợ, cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo:

- Vì tưởng nhớ Phật, nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi chịu ơn anh, chớ nào anh có mang ơn gì với tôi.

Người hành khất nghe thế, lấy làm lạ, vì không lạ gì tánh nết của ông và uy danh của Ðức Phật nữa. Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm:

- NAM MÔ PHẬT ÐÀ. (kính lễ đấng Giác Ngộ).

Ông hoàng cũng bất giác niệm theo và đi mau tìm Phật. Khi gặp được Phật ông thuật lại rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong, Ðức Phật mỉm cười hiền từ bảo:

- Phải! Niệm Phật, ông hãy tưởng niệm người nghèo khổ. Tưởng niệm người nghèo khổ là tưởng chư Phật đó.

Viên Âm

Thân làm việc ích lợi
Miệng nói điều phải
Ý nghĩ những sự tốt đẹp
Như thế là niệm Phật.





Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |