Jump to content

Advertisements




CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO


95 replies to this topic

#1 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 00:20

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

MỤC LỤC

PHẦN THỨ NHẤT

CÁC ĐẤNG CHÂN SƯ

CHƯƠNG I: SỰ HIỆN DIỆN CỦA CÁC CHÂN SƯ

Đại lược
Sự chứng minh của các tôn giáo
Những bằng chứng gần đây
Sự kinh nghiệm cá nhân của tôi
Sự tiến hóa của vạn vật
Đời sống siêu nhân loại
Quần Tiên Hội

CHƯƠNG II: THỂ XÁC CỦA CÁC CHÂN SƯ

Hình dáng của các Ngài
Một thung lũng ở Tây Tạng
Nhà của Chân Sư Kuthumi
Những hoạt động của Chân Sư
Những nhà khác
Các Chân Sư thuộc cung số 1
Các Chân Sư thuộc cung số 2
Những Chân Sư thuộc các cung khác
Những thể xác kiện toàn
Mượn thể xác

PHẦN THỨ HAI

CÁC VỊ ĐỆ TỬ

CHƯƠNG III: CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHÂN SƯ

Vào cửa Đạo
Tánh cách vĩ đại của công việc phụng sự thiên cơ
Quyển sách “Dưới Chân Thầy”
Thái độ của người đệ tử
Kết dây liên lạc với Chân Sư
Không ai là người bị bỏ rơi
Những chướng ngại thông thường
Phải có sự trung thành tuyệt đối

CHƯƠNG IV: THỜI KỲ DỰ BỊ

Chiếc hình nộm
Những đệ tử dự bị trẻ tuổi
Hậu quả của sự tàn nhẫn đối với trẻ con
Bậc Thầy của Nhân Loại
Vào hàng dự bị
Lời dạy bảo của Chân Sư
Tánh nóng nảy
Tánh ích kỷ
Sự âu lo
Sự vui cười
Những lời nói vô ích
Tánh hấp tấp và khoe khoang
Giá trị của sự tập đoàn

CHƯƠNG V: THỜI KỲ NHẬP MÔN

Một cuộc lễ nhập môn chính thức
Sự hợp nhất với Chân Sư
Việc chuyển di thần lực
Gởi thông điệp
Kiểm điểm tư tưởng
Sự tiêu khiển
Sự thành công chắc chắn

CHƯƠNG VI: THỜI KỲ CHUẨN BỊ ĐIỂM ĐẠO

Bốn nhân duyên đưa đến cửa Đạo
Những đức tính cần thiết

PHẦN THỨ BA

NHỮNG CUỘC ĐIỂM ĐẠO LỚN

CHƯƠNG VII: CUỘC ĐIỂM ĐẠO THỨ NHẤT

Đấng Điểm Đạo độc tôn
Người tân Đạo Đồ đối với Quần Tiên Hội
Những trường hợp thất bại
Một cuộc Điểm Đạo thứ nhất
Thời gian của một cuộc lễ Điểm Đạo
Địa vị con của Đức Thầy
Trình độ Điểm Đạo
Cơ hội hiện tại
Những thiếu niên được Điểm Đạo

CHƯƠNG VIII: CÁC CUỘC ĐIỂM ĐẠO THỨ NHÌ VÀ THỨ BA

Ba điều chướng ngại đầu tiên
Một cuộc Điểm Đạo thứ nhì
Sự phát triển trí huệ
Giai đoạn nguy hiểm
Cuộc Điểm Đạo lần thứ ba
Những chướng ngại thứ tư và thứ năm

TỰA

Quyển sách này trình bày nhiều vấn đề từ trước đến nay chỉ được nghiên cứu và thảo luận trong những buổi nhóm họp của một số ít người, gồm những sinh viên Huyền Môn đã có sự hiểu biết thâm sâu về Đạo Lý. Những người này sẵn sàng khảo cứu môi vấn đề liên quan đến những địa hạt tâm linh mà họ chưa có thể bước vào ngay bây giờ, nhưng hy vọng có ngày sẽ bước vào trong một tương lai về sau.

Tôi có thể bảo đảm và chứng thực những điều đã được viết ra trong quyển sách này, nó ghi chép đúng đắn những điều mà tác giả đã quan sát một cách tỉ mỉ và cẩn thận, nhưng có không tuyên bố một uy tín nào, cũng không đòi hỏi độc giả phải chấp thuận hay tin theo. Nó không tự hào được viết ra do một sự cảm hứng tâm linh, mà chỉ là một sự tường thuật nhửng điều mắt thấy tai nghe của tác giả.


ANNIE BESANT

#2 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 00:44

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

PHẦN THỨ NHẤT
CÁC ĐẤNG CHÂN SƯ
CHƯƠNG I: SỰ HIỆN DIỆN CỦA CÁC CHÂN SƯ
ĐẠI LƯỢC

Sự có mặt trên thế gian của những Người đã trở nên Toàn thiện, là một điều rất quan trọng cho những điều mà Thông Thiên Học trình bày cho chúng ta. Điều này rất hợp lý sau khi chúng ta đã hấp thụ được những giáo lý Thông Thiên Học, về Luật Nhân Quả và Luật Tiến Hóa bằng phương pháp Luân Hồi. Nếu chúng ta để ý quan sát chung quanh, chúng ta thấy con Người ở nhiều trình độ tiến hóa khác nhau: có nhiều người còn kém chúng ta rất xa và có những người, trên phương diện nầy hay phương diện khác, đã vượt khỏi chúng ta một cách rõ rệt.

Vì lẽ đó, có thể có những người khác càng tiến nhiều hơn nữa; thật vậy nếu Nhân loại cứ tuần tự tiến hóa trải qua một loạt nhiều kiếp sống liên tiếp, nhằm một mục đích nhất định, thì tất là phải có những người đã đạt được mục đích đó.

Vài người trong chúng ta, trong thời kỳ tiến hóa đó, đã khai mở một vài giác quan thượng đẳng, những giác quan này hãy còn tiềm tàng trong mỗi người, và sẽ là cái sở đắc chung cho tất cả mọi người trong tương lai. Nhờ những giác quan đó, chúng ta có thể nhìn thấy những nấc thang tiến hóa ở trên cũng như ở dưới chúng ta, và chúng ta nhận thấy rằng tất cả mọi nấc thang tiến hóa đều có người đã đạt tới.

Có rất nhiều bằng chứng trức tiếp về sự hiện hữu của những bậc Toàn thiện, mà ta gọi là những Chân Sư. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng trước hết mỗi người trong chúng ta phải tự quả quyết rằng, những bậc đó hẳn là phải có; sau đó, chúng ta mới có thể suy diễn rằng nhưng người mà chúng ta được tiếp xúc thuộc về loại này.

Lịch sử của tất cả các quốc gia đều chứa đựng những công trình của những bậc vĩ nhân, thuộc về tất cả mọi nghành hoạt động của con người. Những người ấy, trong phạm vi hoạt động riêng của họ, đã vượt khỏi quần chúng ở một mức quá cao đến nỗi, có những thời kỳ những lý tưởng của họ thật là quá tầm hiểu biết của người đương thời. Lẽ tất nhiên, không những công việc của họ làm đã bị mất đi đối với nhân loại, mà cho đến tên tuổi của họ cũng không được lưu truyền.

Người ta nói rằng lịch sử của một quốc gia, có thể tóm tắt bằng tiểu sử của một số rất ít người, một số ít những người xuất sắc, vượt khỏi đám đông và thực hiện những bước tiến lớn lao trong tất cả các ngành nghệ thuật, âm nhạc, văn chương, khoa học, triết lý, từ thiện, chánh trị và tôn giáo. Những người này vượt khỏi trình độ của giới họ, hoặc về phương diện sùng tín và bác ái, như những bậc Thánh và những nhà từ thiện; hoặc về phương diện hiểu biết thâm sâu về Vũ trụ và nhân sinh, như những triết gia và những nhà bác học; hoặc về phương diện phụng sự Nhân loại, như những bậc đại văn hào và những nhà cải tạo xã hội.

Nếu ta thử xét xem những người đó đã vượt khỏi nhân loại được bao nhiêu, và đã đi bao xa trên con đường tiến hóa, thì thật chúng ta không thể nhận thấy cái giới hạn của sự tiến hóa đó.

Rất có thể, trong thời quá khứ, và cho đến ngày nay, vẫn có những người tiến hóa hơn cả những nhân vật lịch sử lưu danh hậu thế, những người cao cả về tâm linh, cũng như về kiến thức hay đường nghệ thuật, những người hoàn toàn về phương diện toàn thiện của nhân loại, những người mà ta gọi là những đấng Thánh Nhân hay Siêu Nhân, mà có vài người trong chúng ta đã có cái diễm phúc vô biên được gặp gỡ.

Những đấng Siêu Nhân ấy làm vẻ vang và tô điểm cho những trang lịch sử, đồng thời cũng là cái vinh diệu và hy vọng cho nhân loại, vì chúng ta biết rằng các Ngài là những đấng tiền phong làu làu chói rạng, như ngọn hải đăng để soi đường cho chúng ta noi theo, nếu chúng ta muốn đạt được cái quả vị tốt đẹp huy hoàng của các Ngài. Chúng ta đã chấp nhận từ lâu thuyết tiến hóa của mọi hình thể để biểu lộ sự sống thiêng liêng.

Một tư tưởng bổ túc và lớn lao hơn nhiều, là sự tiến hóa của chính sự sống thiêng liêng đó, nó chỉ rằng cái lý do của sự tiến hóa hình thể, để càng ngày trở nên tốt đẹp, mềm dẻo tế nhị hơn, là vì cái Sự Sống bên trong cần tự biểu lộ qua những hình thể đó. Những hình thể sinh ra, trưởng thành, già cỗi và chết, nhưng cái Tinh thần bên trong vẫn sống trường cửu, nó đem đến một linh hồn cho những hình thể đó, và tiến hóa bằng sự kinh nghiệm thu thập được do các hình thể ấy. Khi một hình thể đã đạt được mục đích và trở nên già cỗi thì nó bị loại bỏ, để nhường chỗ cho một hình thể khác.

Đằng sau cái hình thể đang tiến hóa, luôn luôn có một sự sống vô cùng: sự sống thiêng liêng đó thấm nhuần trong toàn cõi thiên nhiên, như cái áo khoác muôn màu của Thượng Đế. Chính Thượng Đế tự biểu lộ trong sắc đẹp của cái hoa, trong sức mạnh của cái cây, trong cái dịu dàng mềm mại của con thú cũng như trong Tâm hồn con Người. Chính vì cái Ý chí của Ngài hỗn hợp với Cơ Tiến Hóa, mà ta thấy Sự Sống ở khắp nơi luôn luôn tiến hóa không ngừng, và vì đó sự hiện hữu của những Người Toàn Thiện là vấn đề rất tự nhiên, do sự kết tinh đến chỗ tuyệt đích của một con đường tiến hóa dài và liên tục về cả những phương diện quyền năng, minh triết và bác ái. Và trên những Đấng Cao cả đó, vượt khỏi tầm nhỡn quang và tầm hiểu biết của chúng ta, còn những chân trời sáng lạn huy hoàng hơn nữa, mà chúng tôi sẽ trình bày sau.

Cái hậu quả hợp lý của sự kiện trên, là tất phải có những Người Toàn Thiện trên thế gian. Thật thế, có biết bao nhiêu những bằng chứng về sự hiện hữu của những bậc siêu nhân trải qua mọi thời đại. Những bậc nầy, thay vì hoàn toàn từ giã cõi Trần để tiếp tục một đời sống cá nhân trong những cõi siêu nhiên, vì tình thương nhân loại, đã ở lại tiếp xúc với thế gian.

Những bậc ấy giúp đỡ nhân loại tiến hóa về mọi mặt mỹ lệ, bác ái và chân lý, để giúp họ trở thành những Người Toàn Thiện, cũng ví như thỉnh thoảng ta gặp một nhà thảo mộc học yêu các giống cây cỏ, và cố gắng vun trồng một giống cam quý hay một giống hoa hường thượng hạng.

#3 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 02:03

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

SỰ CHỨNG MINH CỦA CÁC TÔN GIÁO

Các Kinh Thánh của tất cả mọi tôn giáo đều chứng minh sự hiện diện của những bậc Siêu Nhân đó, tràn đầy sức sống Thiêng Liêng đền nỗi người ta coi các Ngài như những đại diện của Thượng Đế vậy. Trong mỗi tôn giáo, và đặc biệt nhất ngay từ khi thành lập tôn giáo ấy, một và có khi nhiều đấng Cao Cả như thế xuất hiện. Người Ấn độ giáo có những đấng Thần linh của họ, hay những hiện thân của Thượng Đế như đấng Krishna, Shankaracharya và Đức Phật Thích Ca cùng nhiều bực Chân Sư, đại Thánh và Giáo Chủ.

Những đấng Cao Cả đó chú ý không những đến sự thức tỉnh tánh chất tâm linh con Người, mà còn chú ý đến tất cả những gì có thể góp phần vào sự sống tiện nghi của nó ở cõi hạ giới này. Tất cả những người thuộc về đạo Gia tô đều biết rõ, hay ít nhất cũng phải biết, sự nối gót kế nghiệp nhau của những nhà Tiên Tri, Giáo Chủ và bực Thánh của tôn giáo họ; họ biết rằng, theo một ý nghĩa nào đó (có lẽ không được hiểu rõ) đấng Giáo Chủ tối cao của họ, đức Jésus Christ, vừa là Người, vừa là Trời.

Và tất cả những tôn giáo cổ, đã suy tàn cùng với sự suy vong của các quốc gia, thậm chí đến những tôn giáo của những bộ lạc dã man, đều chủ trương rõ rệt sự hiện hữu của những bậc Siêu Nhân, là những bậc giúp đỡ bằng mọi cách những dân tộc còn ấu trĩ đã sống cùng một thời với các Ngài.

NHỮNG BẰNG CHỨNG GẦN ĐÂY

Gần đây, không thiếu gì những điều chứng minh trực tiếp cho sự hiện diện của các đấng Cao Cả. Trong thuở thiếu thời của tôi, tôi không cảm thấy cần dùng những sự chứng minh như thế, vì sự học hỏi của tôi đã giúp tôi hoàn toàn tin tưởng rằng những đấng Cao Cả ấy có thật. Theo tôi thì thật là một sự tự nhiên, mà tin nơi sự hiện hữu của những bậc Siêu Nhân đó, và tôi có cái ý muốn mãnh liệt là gặp gỡ các Ngài một cách trực tiếp.

Tuy nhiên, có nhiều người trong số những tân hội viên Thông Thiên Học muốn biết những bằng chứng về điều đó. Xin nói ngay rằng bà Blavatsky và Đại tá Olcott, là những nhà sáng lập Hội Thông Thiên Học, bà Annie Besant và chính tôi đều đã thấy một vài vị trong các đấng Cao Cả đó; những hội viên Thông Thiên Học khác, cũng đã có cái ân huệ nhìn thấy một hay hai vị Chân Sư. Về điều nầy, người ta có thể tìm thấy nhiều chứng minh cụ thể, trong những tác phẩm của các vị mà tôi vừa kể trên.

Có người cho rằng những kẻ nhìn thấy, hay tưởng tượng rằng họ nhìn thấy các đấng Chân Sư, có thể chỉ là nằm mơ hay là bị một ảo ảnh. Có điều chắc rằng chúng tôi rất ít khi nhìn thấy các Ngài trong những khi mà, như các Ngài, chúng tôi còn ở trong xác thân. Trong những thuở ban đầu của hội Thông Thiên Học, khi mà chỉ có một mình bà Blavatsky mở đặng năng khiếu thần thông, thì các Chân Sư thường hay hiện hình để cho mọi người đều thấy đặng các Ngài.

Người ta có thể tìm thấy nhiều bằng chứng về điều nầy trong lịch sử thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học: những đấng Cao Cả xuất hiện như thế, tự nhiên không phải là ở trong xác thân Ngài, mà đó chỉ là một sự hiện hình.

Nhiều người trong chúng ta nhìn thấy các Ngài một cách thường xuyên và đều đều trong giấc ngủ. Trong khi ngủ chúng tôi xuất vía, hay đi bằng thể Trí, tùy trình độ tiến hóa của mỗi người, để đến viếng các Ngài và chúng tôi nhìn thấy các Ngài trong thể xác, nhưng khi đó chúng tôi không còn ở trong xác thân và vì đó, ở cõi trần, người ta hay có sự nghi ngờ về loại kinh nghiệm nầy. Họ phản đối rằng: “Trong trường hợp đó, anh đã ở ngoài xác thân và bởi đó, có thể anh đã nằm mơ hay là bị một ảo ảnh: hoặc là những người mà anh nhìn thấy đã xuất hiện như một cái bóng rồi lại biến mất. Làm sao anh biết chắc rằng đó là đức Thầy?”.

Có một vài trường hợp mà Chân Sư và người nhìn thấy Ngài đều ở trong thể xác. Đó là trường hợp của bà Blavatsly; tôi đã nghe bà chứng minh rằng bà đã từng sống một thời gian trong một đạo viện ở xứ Népal, tại đây bà thấy ba vị trong các đấng Chân Sư, luôn luôn ở trong thể xác của các Ngài. Một vài vị trong số đó đã nhiều lần xuống núi, từ những đạo viện của các Ngài trong dãy Hy Mã Lạp Sơn để vào tận xứ Ấn Độ.

Đại tá Olcott thuật lại rằng ông thấy hai vị Chân Sư trong những dịp vừa kể trên đó, là đức Chân Sư Morya và đức Chân Sư Kuthumi. Sư huynh Damodar K. Mavlankar, mà tôi được quen biết hồi năm 1884, đã gặp Chân Sư Kuthumi trong thể xác của Ngài. Ngoài ra còn có trường hợp của sư huynh S.Ramaswamilyer, mà tôi rất quen biết thời kỳ đó, đã có dịp gặp Chân Sư Morya bằng thể xác, và người ta có thể đọc bài tường thuật về việc nầy nhan đề là: Bằng cách nào một đệ tử đã gặp Chân Sư, trong quyển 5 năm với giáo lý Thông Thiên Học.

Ông W.T.Brown, thuộc chi bộ Luân Đôn, cũng đã có diễm phúc gặp một trong những đấng Cao Cả đó trong những hoàn cảnh tương tự. Ngoài ra, còn có rất nhiều chứng minh của các vị sư huynh người Ấn Độ, không hề được góp nhặt hoặc kiểm điểm lại, vì lý do chánh là các vị đã từng có được sự kinh nghiệm đó, đều hoàn toàn tin tưởng nơi sự hiện diện của các bậc Siêu Nhân và việc có thể gặp gỡ các Ngài, đến nỗi họ không thấy cần phải ghi chép những sự kinh nghiệm cá nhân như thế.

#4 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 02:15

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

SỰ KINH NGHIỆM CÁ NHÂN CỦA TÔI

Về phần tôi, tôi có thể thuật lại hai lần tôi đã gặp đặng Chân Sư, trong khi Ngài và tôi đều ở trong thể xác. Một vị là đấng Chân Sư mà người ta mệnh danh là Jupiter, trong quyển sách nhan đề Những tiền kiếp của Alcyone, chính Ngài đã giúp đỡ bà Blavatsky rất nhiều, để viết một vài phần của bộ sách nầy tại Philadelphie và New York. Khi tôi còn ở tại Adyar, Ngài đã có lòng tốt mà khiến vị sư huynh đáng kính của tôi là T. Subba Rao hãy dắt tôi đến viếng Ngài. Vâng lời Ngài dạy, chúng tôi lên đường đến nơi đạo viện của Ngài, và được Ngài tiếp đón rất lịch sự. Sau một cuộc nói chuyện dài và vô cùng lý thú, chúng tôi được hân hạnh dùng cơm với Ngài, mặc dù Ngài thuộc giai cấp Bà la môn, và trải qua một đêm với nửa ngày hôm sau dưới mái nhà của Ngài.

Trong trường hợp này người ta sẽ nhìn nhận rằng không thể có vấn đề ảo tưởng. Còn vị Chân Sư thứ nhì mà tôi đã có cái hạnh phúc được gặp là Chân Sư Bá Tước Saint Germain, có khi người ta gọi Ngài là Hoàng tử Rakoczy. Tôi gặp Ngài trong những dịp rất thông thường, không có hẹn nhau trước, và như có vẻ tình cờ, trong khi Ngài đi bộ chơi ở đường phố Corso tại La mã và phục sức như một người trưởng giả nước Ý. Ngài đưa tôi vào khu vườn trên đồi Rincio, và Ngài với tôi cùng ngồi đàm đạo trên một giờ về Hội Thông Thiên Học và công việc của Hội; có lẽ tôi nên nói rằng chính Ngài nói và tôi ngồi nghe thì đúng hơn, và trả lời khi Ngài hỏi.

Tôi thấy có những vị nhân viên khác của Quần Tiên Hội trong nhiều dịp khác nhau. Lần đầu mà tôi gặp một vị trong các Ngài là ở một khách sạn tại Cairo; trong dịp đó, tôi đi qua Ấn Độ cùng với bà Blavatsky và những người khác, và chúng tôi ghé lại thủ đô Ai Cập trong ít lâu. Chúng tôi có thói quen hay tựu họp trong phòng bà Blavatsky để làm việc; hôm ấy tôi ngồi bệt xuống sàn, cắt và dán những bài báo mà bà muốn cất để dành. Bà thì ngồi ở một bàn gần đó, cánh tay trái của tôi đụng vào áo dài của bà. Cánh cửa phòng ở ngay trước mặt chúng tôi vẫn khép chặt trong lúc đó.

Thình lình, không có gì chuẩn bị trước, tự nhiên có một người đứng sững giữa bà Blavatsky và tôi, mà chúng tôi có thể sờ mó được. Tôi giựt nảy mình và tỏ vẻ luống cuống. Bà Blavatsky lấy làm thú vị lắm và bảo tôi: “Nếu anh không đủ sự hiểu biết để giữ bình tĩnh trước một sự nhỏ nhặt như thế, thì anh sẽ không đi xa trên đường Huyền Môn!”. Tôi được giới thiệu cho người khách lạ, vị nầy lúc đó chưa phải là một Chân Sư, nhưng một vị La Hán, còn dưới các Chân Sư một bậc. Tới nay, vị ấy đã trở nên Chân Sư Djwal Kul.

Vài tháng sau đó, một ngày nọ đức Chân Sư Morya đến thăm chúng tôi. Ngài có cái hình dáng bề ngoài như một người thường với thể xác vật chất. Ngài đi qua gian phòng của tôi để đến gặp bà Blavatsky lúc ấy đang làm việc trong phòng bà. Đó là lần đầu tiên mà tôi thấy Ngài một cách rõ ràng, vì hồi đó tôi chưa khai mở đầy đủ những năng khiếu tiềm tàng để nhớ lại những gì tôi thấy trong cái thể thanh của tôi. Một lần khác, tôi thấy đức Chân Sư Kuthumi trong những trường hợp tương tự trên nóc trụ sở trung ương của Hội Thông Thiên Học tại Adyar. Lúc đó Ngài đang bước qua một hàng rào lan can, dường như Ngài vừa hiện hình từ khoảng trống không ở bên kia hàng rào. Tôi cũng đã nhiều lần thấy đức Chân Sư Djwal Kul với một dáng điệu như vậy ở trên nóc trụ sở đó.

Những sự chứng minh vừa kể trên có vẻ ít giá trị hơn, vì các vị Chân Sư xuất hiện như những hình bóng. Nhưng từ khi đó, tôi đã tập sử dụng tự do những thể thanh cao của tôi và đến viếng các vị Chân Sư bằng cách đó, nên tôi có thể chứng thật rằng những vị đã hiện hình cho chúng tôi thấy trong những năm đầu tiên của Hội Thông Thiên Học, chính là những vị Chân Sư mà tôi vẫn thường thấy trong những đạo viện của các Ngài. Có người cho rằng, cũng như những người khác đã cùng có sự kinh nghiệm đó, tôi chỉ là nằm mơ, vì những cuộc thăm viếng nói trên đã xảy ra trong giấc ngủ của xác thể. Tôi chỉ có thể đáp lại rằng đó là một giấc mơ trường cửu một cách lạ lùng, và trong trường hợp riêng của tôi, nó đã kéo dài trên bốn mươi năm, và đồng thời có một số đông người cũng đã có kinh nghiệm giống như thế!

Tôi xin mời những ai muốn có những sự chứng minh về vấn đề này (và sự muốn đó rất là hợp pháp), hãy tra cứu những tài liệu sách vở có từ lúc khởi đầu thành lập Hội Thông Thiên Học. Những người có dịp gặp bà Hội Trưởng của chúng ta (bà Annie besant) có thể được nghe bà thuật lại có tất cả bao nhiêu vị Chân Sư mà bà đã gặp trong nhiều dịp khác nhau. Nhiều hội viên của chúng ta cũng sẽ không ngần ngại mà chứng minh rằng họ đã thấy một vị Chân Sư; có thể trong cơn tham thiền họ đã thấy dung nhan của Ngài và sau đó, đã có bằng chứng chính xác rằng đó là vị nào.

Ngoài ra, người ta sẽ tìm thấy nhiều chứng minh trong bộ sách Nhựt ký của Đại tá Olcott, hay trong quyển sách nhan đề: Các Chân Sư có thật không? mà tác giả là ông M.A.O.Hume, ông này trước kia đã từng có một địa vị cao trong ngành Hành Chánh ở Ấn Độ, và đã từng hợp tác nhiều với vị nguyên Phó Hội Trưởng của chúng ta, ông A.P.Sinnett. Việc nầy đã được công bố trong quyển Thông Thiên Học bí truyền.

Ông Hume, một người Anh lai Ấn Độ, tính đa nghi, với một tâm hồn tích cực của một luật gia, đã đích thân mở một cuộc điều tra về sự hiện diện của các Chân Sư, mà có khi người ta gọi là những bậc Anh Cả, vì các Ngài thuộc về nhóm Quần Tiên Hội và là những bậc Anh Cả của Nhân Loại. Dẫu rằng ở vào thời kỳ xa xăm đó, ông Hume cũng đã kết luận rằng ông đã thu thập được những bằng chứng không thể chối cãi, về sự hiện diện của các Ngài. Lẽ tất nhiên sau nầy còn có nhiều bằng chứng khác nữa, đã chồng chất thêm kể từ khi ông viết quyển sách đó.

Nhờ có được nhãn quang siêu linh và những năng khiếu khác do sự phát triển những quyền năng tiềm tàng, mà chúng tôi được kinh nghiệm một cách thường xuyên rằng ngoài ra con đường tiến hóa của nhân loại, còn có những con đường tiến hóa khác, và trong số đó có những bậc ngang hàng với các vị Chân Sư, thuộc về cấp đẳng sinh hoạt cao hơn chúng ta. Chúng tôi đã gặp một vài vị mà ta gọi là Thiên Thần, và những vị khác tiến hóa cao hơn chúng ta nhiều về đủ mọi phương diện.

#5 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 02:27

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

SỰ TIẾN HÓA CỦA VẠN VẬT

Từ khi chúng tôi có thể giao tiếp với các vị Chân Sư trong thời gian phát triển của chúng tôi, tự nhiên là chúng tôi đã hỏi các Ngài, với tất cả tấm lòng thành kính, rằng bằng cách nào các Ngài đã đạt tời trình độ ấy? Các Ngài đều trả lời rằng cách đây không lâu các Ngài cũng đã từng ở vào trình độ tiến hóa của chúng ta bây giờ. Các Ngài đã bước ra khỏi hàng ngũ của nhân loại, và một vị trong các Ngài đã nói rằng một ngày kia chúng ta cũng sẽ trở nên như các Ngài vậy; rằng toàn thể Thái Dương Hệ của chúng ta là một biểu lộ của sự sinh hoạt, tiến hóa từ trình độ thấp đến cao và càng lên cao mãi, vượt khỏi sự hiểu biết của con người, cho đến quả vị Thiêng Liêng.

Lúc bắt đầu sự tiến hóa của vạn vật, có những giai đoạn rõ rệt, loài thảo mộc là loài kết tinh của loài kim thạch, loài cầm thú tiếp diễn sau loài thảo mộc, và loài người tiếp theo sau loài cầm thú. Cũng như thế, loài người có một cứu cánh nhất định, một cái giới hạn mà khi họ vượt qua thì họ bước sang một giai đoạn cao hơn một cách rõ rệt, tức là: trên loài người còn có những bậc Siêu nhân loại.

Trong khi nghiên cứu hệ thống tiến hóa đó, chúng ta được biết rằng trong mỗi người đều có ba phần chánh: xác thân, linh hồn và Tinh Thần, mỗi phần như thế lại có thể chia ra làm nhiều chi nhánh khác. Đó là sự định nghĩa con Người, mà Thánh Paul đã đưa ra cách đây hai ngàn năm. Tinh Thần hay là Nhứt Nguyên Chơn Thần (Monade) là hơi thở của Thượng Đế (vì danh từ spirit (Tinh thần) gốc do chữ la tinh spiro,có nghĩa là hơi thở), tức là điểm linh quang của Thượng Đế, và là con Người thật, mặc dầu người ta có thể diễn tả đúng hơn là nó phảng phất ở trên đầu con người.

Chương trình tiến hóa của nó là phải giáng xuống cõi vật chất, để thu hoạch những kinh nghiệm rõ ràng và minh bạch trong mọi chi tiết về vật chất. Theo chúng tôi được biết, điểm Chơn Thần đó, tức là một điểm linh quang của Thượng Đế, không thể giáng xuống thấp đến cõi trần là nơi chúng ta đang tư tưởng và hoạt động. Đó là bởi vì cái tỷ lệ rung động của nó khác biệt quá nhiều với tỷ lệ rung động của vật chất, và bởi đó phải có những trạng thái vật chất trung gian. Cái điểm linh quang đó vốn có tự cõi nào trong thiên nhiên, điều đó chúng tôi không được biết, vì nó vượt quá tầm hiểu biết của con người. Sự biểu lộ thấp hơn của Chơn Thần, mà người ta có thể gọi là sự phản chiến của điểm linh quang của Thượng Đế, giáng xuống cõi thấp nhất trong các Cõi của vũ trụ, như chúng tôi đã nói trong quyển Thông Thiên Học dẫn giải.

Chúng ta thường nói bảy cõi trong thiên nhiên, tức là cõi vật chất của Vũ Trụ. Chơn Thần có thể giáng xuống cõi thứ hai của những cõi nầy, tức là cõi mà ta gọi là Cõi Chơn Thần, nhưng nó dường như không thể xuống thấp hơn nữa được. Để có sự tiếp xúc cần thiết với cõi vật chất nặng trọc hơn nữa, nó tự phân thân ra một phần xuyên qua hai cõi và phần đó tức là cái mà ta gọi là Chơn Nhơn hay Linh hồn.

Tinh thần của Thượng Đế, cao hơn cái Phàm Nhơn của ta nhiều, phảng phất ở trên. Linh hồn ta chỉ là một phần yếu đuối và thô thiển của nó, có thể gọi là một đầu của ngón tay bằng lửa mà Chơn Thần chỉ xuống cõi chúng ta. Chính linh hồn cũng không thể giáng xuống thấp hơn cái phần trên của cõi Thượng giới, cõi thứ năm kể từ cõi trên hết, cõi trần là cõi thứ bảy và cõi thấp nhất, và để có thể xuống một vị trí thấp hơn, nó phải chiết ra một phần của nó, phần này trở nên cái phàm nhơn mà chúng ta được biết. Như thế, cái phàm nhơn đó, mà mỗi người trong chúng ta tưởng là chính mình, thật ra chỉ là một phần của một mảnh.

Mọi sự tiến hóa trải qua những loài thấp thỏi trong cõi thiên nhiên, đều có một mục đích là chuẩn bị sự phát triển của thành phần con người. Một con thú, trong cuộc sống ở cõi trần, và ít lâu sau ở cõi trung giới, có một linh hồn cũng riêng biệt và độc lập như linh hồn con người. Linh hồn đó không tái sinh trở lại trong một thể xác riêng biệt, nó trở lại một kho vật chất tinh anh mà giáo lý Thông Thiên Học gọi là hồn khóm (Âme groupe). Hồn khóm đó ví như một hồ nước, đem sự sống đến cho nhiều con thú đồng một loài.

Thí dụ như hai mươi con ngựa. Khi một con ngựa sắp do hồn khóm đó mà sinh ra thì sự vật diễn ra như thể người ta đem một cái bình vào trong hồ nước để múc đầy bình đem ra ngoài. Trong một kiếp sống của con ngựa nó thu thập được mọi sự kinh nghiệm làm thay đổi linh hồn của nó và do đó nó học được những bài học nhất định; những bài học đó có thể ví như những thuốc nhuộm với nhiều màu sắc riêng biệt được trộn vào cái bình đầy nước. Khi con ngựa chết linh hồn nó trở về hồn khóm ví như nước trong bình được đổ vào cái hồ nước trở lại và những màu trong bình nước hòa lẫn trong hồ. Nếu một con ngựa khác cũng do một hồn khóm sinh ra thì phần nước tượng trưng cho linh hồn của nó và đổ vào một bình khác không thể giống như phần nước tượng trưng cho con ngựa trước.

Khi một con thú đã phát triển đầy đủ để có thể trở nên người, thì sau khi chết, linh hồn nó không còn trở về hồn khóm nữa, mà thành một cá tính riêng biệt. Và khi đó, mới diễn ra một sự kiện vừa lạ lùng vừa tốt đẹp. Cái tinh hoa của linh hồn đó, tượng trưng bằng nước trong bình, trở nên một cái thể hoạt động cho một cái gì cao hơn nhiều, thể hiện cho một đời sống thanh cao hơn. Chúng ta không có một thí dụ đúng đắn nào ở cõi trần để diễn tả điều đó, trừ ra cái thí dụ đúng đắn nào ở cõi trần để diễn tả điều đó, trừ ra cái thí dụ bơm không khí vào chất nước bằng áp lực mạnh để làm nước sủi bọt có chất hơi.

Nếu ta chấp nhận cái biểu tượng đó, chất nước tượng trưng cho linh hồn con thú, nay đã trở nên cái thượng trí của một người, và chất không khí bơm vào nước tức là cái Chơn Nhơn mà tôi đã có dịp nói qua, cái Linh hồn con người, biểu lộ Tinh Thần của Thượng Đế. Việc linh hồn giáng trần được tượng trưng trong truyện Thần thoại cổ Hy Lạp bằng biểu tượng cái Chén. Cái Chén là sự tượng trưng toàn hảo của cơ tiến hóa hạ tầng, trong đó được rót chất rượu của sự sống thiêng liêng, để linh hồn người có thể sinh ra. Như chúng tôi đã nói, linh hồn con thú trước kia nay trở nên thể thượng trí con Người, cái Thể nầy vốn ngự tại phần trên của cõi Thượng giới, tức là cái thể bất diệt trường cửu của Chơn Nhơn hay Linh hồn người. Tất cả những bài học đã thâu thập được trong giai đoạn tiến hóa đầu tiên của các hình thể, lúc ấy mới được chuyển qua cái trung tâm sinh hoạt mới nầy.

Sự tiến hóa của linh hồn tức là sự tuần tự trở về một cõi giới siêu việt thanh cao, ở ngay dưới cõi Chơn Thần, nó đem theo những kết quả của sự giáng Trần, dưới hình thức những kinh nghiệm và đức tánh đã thâu thập được.

Cái thể xác của chúng ta đã hoàn toàn phát triển, và như thế, chúng ta đáng lẽ phải làm chủ nó; nhưng chúng ta chỉ thật sự làm chủ nó khi nào xác thân được hoàn toàn đặt dưới sự kiểm soát của linh hồn. Nói chung thì sự kiểm soát đó đã được thực hiện trong những giống dân tiến hóa của nhân loại hiện thời, tuy rằng có lúc thân xác cũng còn quật khởi trở lại. Thể Vía cũng đã hoàn toàn phát triển, nhưng nó hãy còn lâu mới được đặt dưới sự hoàn toàn kiểm chế của chúng ta, dẫu cho trong những giống dân tiến hóa, mà chúng ta là những phần tử, người ta hãy còn thấy có nhiều người bị lệ thuộc những tình cảm của chính họ. Thay vì họ chủ trị những cảm xúc đó theo ý muốn, họ lại thường khi bị những cảm xúc đó chế ngự họ. Họ để cho những điều xúc cảm của họ chạy loạn xạ, như một con ngựa rừng chạy lồng lên vì sợ hãi, chở người kỵ mã trên lưng nó đi đến những nơi mà y không hề muốn đến.

Người ta có thể nói rằng đối với những phần tử tốt của những giống dân tiến hóa nhất hiện thời, thì xác thân của họ đã phát triển hoàn toàn và được kềm chế, còn thể Vía của họ cũng phát triển không kém, nhưng chưa được chủ trị. Thể Trí của họ còn đang phát triển, nhưng chưa được đầy đủ. Bởi đó họ còn phải cố gắng nhiều trước khi ba thể Xác, Vía và Trí hoàn toàn chịu khuất phục linh hồn. Khi nào điều ấy được thực hiện, thì cái Chơn Tánh con người sẽ thu hút được phàm tánh, và Chơn Nhơn, hay Linh Hồn, sẽ chủ trị được Phàm Nhơn. Mặc dầu con người vẫn chưa được hoàn toàn, những Thể của nó đã được khá thuần nết để chỉ còn theo đuổi có một mục đích duy nhất mà thôi.

Từ trước đến giờ, linh hồn đã cố gắng từ từ và chậm chạp để kiểm soát những Thể riêng của nó cho đến khi hòa hợp với chúng làm một. Sau đó, đến lượt Chơn Thần phải làm chủ Linh Hồn và sẽ đến một thời kỳ mà Chơn Thần với Linh Hồn sẽ hỗn hợp làm một, cũng như Phàm Nhơn hiệp nhứt với Chơn Nhơn. Đó tức là Chơn Nhơn hiệp nhứt với Chơn Thần. Khi nào kết quả đó được thành tựu, thì con người sẽ đạt được cái mục đích của sự Nhập Thế: y sẽ trở nên một bậc Siêu Nhân, tức một vị Chơn Tiên vậy.

#6 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 02:32

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

ĐỜI SỐNG SIÊU NHÂN LOẠI

Đến khi đó, lần đầu tiên, con người mới bước vào đời sống thật sự, vì cái Cơ Tiến hóa vĩ đại đó, trước hết trải qua các loài sinh hoạt thấp thỏi, và sau đó trải qua loài người cho đến các bậc Siêu Nhơn loại, chỉ là một cuộc chuẩn bị cho đời sống thật sự của Tinh Thần, nó chỉ bắt đầu khi con người đã vượt khỏi trình độ làm người. Nhân loại là lớp học cuối cùng của trường đời ở thế gian, và khi nào con người đã hoàn thành sự học hỏi của y ở dưới Trần, thì y mới bước vào đời sống thật sự, đời sống của Tinh Thần đến lúc vinh quang, hay đời sống của Đấng Christ.

Đời sống đó như thế nào, chúng ta chưa thể biết được, mặc dầu chúng ta thấy những vị đã từng sống cuộc đời đó, đó là một đời sống huy hoàng và tốt đẹp không có gì so sánh được, và thậm chí nó vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta. Tuy nhiên, nó là một sự thật sống động và sâu xa mà sau cùng mỗi người trong chúng ta sẽ có được một cách tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta không thể tránh khỏi cái đời sống đó, dù chúng ta muốn. Khi chúng ta hành động ích kỷ và đi ngược dòng tiến hóa, chúng ta sẽ làm chậm trễ sự tiến bộ của mình, nhưng rốt cuộc chúng ta không thể chận đứng trào lưu tiến hóa.

Sau khi đã giải thoát khỏi kiếp sống làm người, bậc Toàn Thiện thường bỏ lại những Thể vật chất của Ngài, nhưng Ngài vẫn giữ cái quyền năng khoác lấy bất cứ một Thể nào, nếu Ngài xét thấy cần dùng cho công việc của Ngài. Trong đa số trường hợp, bậc Siêu Nhân đã đạt tới trình độ ấy rồi thì không còn cần dùng một thể xác nữa. Ngài không còn giữ lại Thể Vía, Thể Hạ Trí hay đến Thể Thượng Trí, mà sống một cách thường xuyên ở cảnh giới cao nhất của Ngài.

Khi nào, vì một mục đích gì, mà Ngài cần tiếp xúc với một cõi giới thấp hơn, Ngài phải dùng đỡ một cái Thể tạm thời thuộc về cõi giới đó, bởi vì Ngài chỉ có thể tiếp xúc với những người ở cõi đó, qua sự trung gian của vật chất thuộc về cõi giới liên hệ. Nếu Ngài muốn nói chuyện với người khác bằng phương tiện vật chất, Ngài phải khoác lấy một cái xác thân; ít nhất Ngài phải có một sự hiện hình, dù là chỉ có một phần, nếu không Ngài sẽ không thể nói cho người ta hiểu được.

Cũng như thế, nếu Ngài muốn ghi một ấn tượng trong Trí của ta, Ngài phải khoác lấy một thể Trí. Bất cứ lúc nào Ngài cần khoác lấy một hạ thể để làm công việc của Ngài, Ngài có quyền năng để làm như vậy tùy theo ý muốn, nhưng Ngài chỉ giữ cái Thể đó trong thời gian cần thiết mà thôi.

Có bảy con đường chờ sẵn bậc Toàn Thiện trong giai đoạn tiến hóa Siêu Nhân Loại. Chúng tôi sẽ nói đến vấn đề nầy trong một chương sau.

#7 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 02:36

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

QUẦN TIÊN HỘI

Thế gian được dìu dắt và điều khiển một phần lớn do một Hội Quần Tiên, mà trong đó các Chân Sư của chúng ta có dự phần. Những người học Đạo thường có quan niệm sai lầm về các Ngài. Họ thường coi các Ngài như một nhóm sống chung nhau trong các Đạo Viện lớn ở một nơi bí mật. Những người khác tưởng các Ngài là Thiên Thần; nhiều sinh viên Huyền môn của chúng ta tưởng rằng các Ngài hết thảy đều là người Ấn Độ, hay hết thảy đều ờ trên dãy Hy mã lạp sơn.

Những điều đó không đúng. Những nhân viên Quần Tiên Hội đều có sự giao tiếp thường xuyên với nhau luôn luôn, nhưng sự giao tiếp đó diễn ra ở các cõi trên, và các Ngài không có nhất thiết phải sống chung với nhau. Vài vị trong các Ngài, mà chúng ta gọi là các Chân Sư Minh Triết, bằng lòng thâu nhận đệ tử để dạy Đạo, và coi đó như một phần công việc của các Ngài. Nhưng các vị ấy chỉ gồm một thiểu số trong cái thành phần vĩ đại của các bậc Toàn Thiện.

Các Chơn Tiên đều có nhiều quyền năng kỳ bí, nhưng hết thảy những quyền năng đó đều phát triển một cách tự nhiên từ những khả năng mà chúng ta hiện có... Sự thật thì vị Chơn Tiên có những khả năng đó ở một mực độ cao hơn ta rất nhiều. Tôi nghĩ rằng cái đặc tính cao quý nhứt của Chân Sư, so với chúng ta, là Ngài xét mọi vật với một quan điểm khác hẳn chúng ta, vì Ngài tuyệt đối không còn giữ một dấu vết nào của tư tưởng ích kỷ nó thường hiện rõ ở đa số người.

Vị Chơn Sư đã loại trừ cái Ngã thấp hèn và sống không phải cho mình, mà cho tất cả. Tuy nhiên với một ý nghĩa mà chỉ có một mình Ngài có thể hiểu một cách thật sự, cái tất cả đó thật ra không phải cái gì khác hơn là Ngài. Ngài đã đạt tới trình độ không còn một mảy may sơ sót trong tánh tình, không còn một tư tưởng hay tình cảm vị kỷ, và cái động lực duy nhất của Ngài là hợp tác với Thiên Cơ, cùng hòa hợp với Đức Thượng Đế điều khiển cơ Tiến Hóa.

Cái đặc tính lộ liễu nhất của vị Chân Sư, sau cái đặc tính kể trên, là sự phát triển hoàn toàn về cả mọi phương diện. Hết thảy chúng ta đều bất toàn; không một ai trong chúng ta đã đạt tới cái mức độ cao tột trên bất cứ một lãnh vực nào; thậm chí nhà thông thái hay bậc đại thánh cũng chỉ đạt tới một cao độ phi thường ở trên một điểm mà thôi, và còn nhiều khía cạnh của tánh chất họ vẫn chưa phát triển. Hết thảy chúng ta đều có vài mầm mống của vô số những đặc tính, nhưng ở mỗi người, cái mầm đó chỉ mới thức động có một phần và một cách không đồng đều.

Trái lại, một vị Chân Sư là một người hoàn toàn phát triển về tất cả mọi phương diện, một người mà lòng sùng tín, bác ái, thiện cảm và lòng thương xót chúng sinh đều nảy nở hoàn toàn. Đồng thời, phần trí tuệ của Ngài là một cái gì vượt khỏi tầm hiểu biết của ta, rất xa trong lúc hiện tại, và phần tâm linh của Ngài vô cùng tuyệt diệu và thiêng liêng. Ngài vượt trội lên hẳn tất cả mọi người mà chúng ta được biết, bởi vì Ngài đã hoàn toàn phát triển.

#8 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 23:00

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

CHƯƠNG II

THỂ XÁC CỦA CÁC CHÂN SƯ

HÌNH DÁNG CỦA CÁC NGÀI

Những người học Đạo thường có một quan niệm mập mờ và không rõ ràng về các Đấng Chân Sư. Có lẽ chúng tôi sẽ giúp họ nhận định rằng đời sống của các Ngài là tự nhiên như thế nào, và các Ngài có hình dáng về thể chất ra sao, bằng cách nói vài lời về đời sống hằng ngày và hình dáng bề ngoài của một vài vị Chân Sư. Vị Chân Sư không có một đặc tính nào về thể chất để có thể phân biệt Ngài với đời thường, nhưng Ngài luôn luôn có cái diện mạo oai nghiêm, quý phái, hùng dũng, thánh thiện và im lặng, và ai đã gặp Ngài thì không khỏi nhận ra rằng họ đã đứng trước một người phi thường.

Ngài là một người hùng yên lặng; Ngài chỉ nói khi nào có một mục đích nhất định hoặc để khuyến khích, giúp đỡ hay ngăn ngừa. Tuy nhiên, Ngài có hảo ý một cách lạ lùng, và có tinh thần hài hước rất dồi dào, một sự hài hước có thiện cảm luôn luôn, không bao giờ chạm lòng người khác, mà luôn luôn để làm nhẹ bớt những sự khó khăn của đời sống hằng ngày. Đức Chân Sư Morya có lần nói rằng người ta không thể tiến trên đường đạo nếu không có một tinh thần hài hước, và tôi quả có nhận thấy rằng tất cả các vị Chân Sư mà tôi đã gặp đều có đức tính đó.

Phần nhiều các vị Chân Sư đều có cái hình dáng bề ngoài tốt đẹp; xác thân của các Ngài được hoàn toàn về đủ mọi phương diện, vì các Ngài sinh hoạt hoàn toàn đúng phép dưỡng sinh, và các Ngài không bao giờ lo lắng ưu phiền về bất cứ một việc gì. Tất cả các nghiệp quả xấu của các Ngài đã dứt tuyệt từ lâu; thể xác của các Ngài là cái thể hiện rõ ràng của Chơn Nhơn, trong phạm vi giới hạn của cõi Hồng trần. Bởi đó, không những cái thể xác hiện thời của Chơn Sư thường rất phong nhã tuấn tú, mà cho đến bất cứ cái thể xác mới nào mà Ngài có thể khoác lấy trong một kiếp lai sinh, đều có thể sẽ giống hệt như xác thân cũ, ngoại trừ một vài sự khác biệt về chủng tộc và gia đình, vì không có gì làm thay đổi cái thể xác đó. Khi vì một lẽ gì mà Chơn Sư quyết định dùng một thể xác mới, thì nhờ sự giải thoát khỏi mọi điều trói buộc của nghiệp quả, mà các Ngài có trọn quyền tự do chọn lựa một thể xác thuận lợi nhứt cho công việc mà Ngài sẽ phải làm. Bởi lẽ đó, quốc tịch của cái xác thân mới mà Ngài khoác lấy trong một thời gian nhất định, không phải là điều tối quan trọng.

Muốn biết rõ một người nào có phải là Chân Sư hay không, cần phải quan sát cái thể Thượng Trí của người ấy, vì sự tiến hóa của người biểu lộ bằng một Thượng Trí nảy nở rất lớn với những màu sắc đặc biệt, sắp thành nhiều vòng tròn cùng một trung tâm, như đã phác họa trong bức hình vẽ cái thể Thượng Trí của một vị La Hán, ở trong quyển sách Con người, hữu hình và vô hình.

#9 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 23:10

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

MỘT THUNG LŨNG Ở TÂY TẠNG

Có một vùng thung lũng ở Tây Tạng, hiện nay có ba vị Chân Sư đang sống ở đó là Chân Sư Morya, Chân Sư Kuthumi và Chân Sư Djwal Kul. Hai vị Chân Sư Morya và Kuthumi thì ở trong hai ngôi nhà ở hai bên thung lũng đối diện với nhau, ở những triền núi hai bên đều có rừng thông bao phủ, và có một khe suối chảy. Có những con đường mòn đưa từ hai ngôi nhà này xuống tận đáy thung lũng, và gặp nhau ở nơi cuối cùng, tại đó có một nhịp cầu nhỏ bắc ngang qua khe suối. Gần chiếc cầu này có một con đường hầm nhỏ hẹp, đưa đến một hệ thống những động phủ rộng lớn ở dưới mặt đất, chứa đựng một viện cổ tàng huyền bí dưới sự chăm nom của đức Chân Sư Kuthumi, nhân danh Quần Tiên Hội.

Viện Cổ Tàng này chứa đựng nhiều tài liệu rất dồi dào phong phú, dường như là để ghi lại dấu tích toàn thể lịch trình tiến hóa của con người. Người ta thấy có những hình thể, coi tự nhiên như hồi còn sống, của mỗi loại mỗi kiểu người đã từng sống trên quả Địa Cầu, từ những giống người Lémurins to lớn có những khớp xương rời rạc lỏng lẻo, đến những giống người lùn di tích cuối cùng của những giống dân còn cổ lổ hơn, và cách xa với nhân loại ngày nay nhiều hơn nữa. Những kiểu hình nổi diễn tả những sự biến đổi kế tiếp nhau của lớp vỏ địa cầu, và đặc biệt nhất là hình dáng tổng quát của lớp vỏ địa cầu này trước và sau mỗi kỳ thiên tai lớn, đã gây nên những sự biến đổi đó. Những bản đồ to lớn ghi dấu những cuộc di chuyển của những giống dân trên địa cầu, và chỉ rõ những quãng đường dài bao xa mà họ đã vượt qua từ những địa điểm xuất phát. Những bản đồ khác ghi chép ảnh hưởng của các tôn giáo trên thế gian, chỉ rõ nơi nào mỗi tôn giáo đó được thực hành một cách nguyên thủy thuần túy, và nơi nào nó bị lẫn lộn với những tàn tích của những tôn giáo khác.

Những pho tượng lớn bằng hình người ghi dấu hình thể của một vài bậc lãnh tụ và đạo sư của những giống dân cổ đã biệt tích từ lâu; và nhiều di vật liên hệ đến những trào lưu tiến hóa quan trọng của nền văn minh nhân loại được giữ gìn lại cho hậu thế xem xét. Người ta cũng thấy có những bản thảo bút tự nguyên văn rất cổ xưa và quý vô giá, thí dụ như một bản bút tự của chính đức Phật viết khi Ngài còn là Thái Tử Sĩ Đạt Ta, và một bản khác của đấng Christ viết lúc thiếu thời khi Ngài sinh ở xứ Palestine.

Tại đây cũng được giữ gìn bản nguyên văn vô giá của bộ Thiên Thơ (The Book of Dzyan), mà bà Blavatsky đã miêu tả trong đoạn mở đầu bộ sách “Giáo lý Nhiệm mầu” (Doctrine Secrète). Tại đây cũng có những sách viết bằng những văn tự lạ lùng, thuộc về những thế giới khác chúng ta. Cũng có những di tích các hình thể động vật và thảo mộc, một vài thứ rất xưa, đào lên từ dưới đất, còn phần lớn hoàn toàn khác lạ đối với khoa học hiện nay. Những kiểu mẫu của một vài thành phố cổ xưa thuộc về một thời quá khứ xa xăm, đã bị lãng quên trong ký ức loài người, cũng được trưng bày tại đây để dùng cho sự học hỏi của các vị Đệ tử.

Tất cả những pho tượng và kiểu mẫu đều đượm màu sắc tự nhiên giống như thật; và tất cả đều đặt chung một chỗ tại đây một cách hữu ý, để cho hậu thế thấy rõ những giai đoạn tuần tự trước sau của lịch trình tiến hóa của nhân loại, chứ không phải chỉ trình bày có những mẫu rời rạc, bất toàn, như ở các viện Bảo tàng của thế gian. Tại đó, người ta cũng thấy những kiểu mẫu của tất cả mọi thứ máy móc cơ khí, sản phẩm của những nền văn minh khác nhau, cùng là những hình ảnh rất dối dào phong phú cho ta thấy những loại pháp môn phù thủy, thông dụng ở những thời kỳ khác nhau trong lịch sử. Trong dãy hành lang đưa đến những gian phòng rộng rãi đó, được gìn giữ những hình nộm sống của những vị đệ tử còn đang ở trong thời kỳ dự bị của hai vị Chân Sư Morya và Kuthumi. Những hình nộm đó được sắp hàng như những pho tượng chung quanh những vách tường, và tiêu biểu cho những vị đệ tử nói trên một cách rất đúng đắn. Tuy nhiên, người ta không nhìn thấy được những hình nộm đó bằng cặp mắt phàm trần, vì thứ vật chất thấp thỏi nhất để tạo nên những hình nộm đó là chất dĩ thái.

Gần chiếc cầu, cũng có một ngôi chùa nhỏ với kiểu nóc nhọn giống như chùa Miến Điện, nơi đó vài người dân làng đến đốt hương tụng niệm và dưng hoa quả cúng Phật. Một con đường gồ ghề khúc khuỷu đưa xuống tận thung lũng bên cạnh dòng suối. Từ hai ngôi nhà của các Chân Sư, người ta có thể nhìn thấy lẫn nhau; cả hai đều ở trên đối cao hơn chiếc cầu, nhưng vì chỗ đó dòng suối uốn quanh, nên từ trên cầu người ta thấy hai nhà đều khuất. Nếu ta theo con đường mòn ấy lên tận thung lũng qua khỏi nhà đức Chân Sư Kuthumi, nó sẽ đưa ta đến một ghềnh đá cao nhô lên, qua khỏi chỗ đó dòng suối lại uốn quanh và không thấy nhà Chân Sư nữa. Cách xa chỗ ấy một đoạn đường, thung lũng trổ ra một vùng cao nguyên trên đó có một cái hồ mà tục truyền rằng bà Blavatsky thường tắm ở đó, và bà thấy rằng nước hồ rất lạnh lẽo. Thung lũng được che khuất và hướng về phía nam, và mặc dầu vùng chung quanh mùa đông tuyết phủ, tôi không nhớ rõ thấy có nhà nào ở gần bên nhà của các Chân Sư. Những nhà này được xây bằng đá một cách rất dày và chắc chắn.

#10 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 23:50

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

NHÀ CỦA CHÂN SƯ KUTHUMI

Ngôi nhà của đức Chân Sư Kuthumi chia làm hai phần do một đường hành lang ở giữa. Khi bước vào đường hành lang này, cửa đầu tiên bên tay mặt đưa đến gian phòng chính. Chân Sư thường hay ngồi tại đây. Gian phòng này rất rộng và cao, chiếm trọn mặt tiền. Đằng sau gian phòng này, có hai buồng khác gần vuông vức, một buồng Ngài dùng làm thư phòng, và buồng kia làm buồng ngủ.

Những gian phòng đó chiếm trọn một bên dãy hành lang, hình như để dùng làm tư thất của Chân Sư, có một hàng ba rộng rãi bao chung quanh. Phần bên kia của ngôi nhà, ở bên trái dãy hành lang từ cửa bước vào, hình như chia làm nhiều buồng nhỏ hơn và nhiều văn phòng. Chúng tôi không có dịp quan sát tỉ mỉ những buồng này, nhưng chúng tôi nhận thấy từ buồng ngủ đi qua bên này hành lang có một cái buồng tắm.

Gian phòng lớn có nhiều cửa sổ ở cả mặt tiền và mặt hậu, dưới các cửa sổ có để một chiếc ghế dài. Có một lò sưởi lớn ở giữa vách tường đối diện với các cửa sổ mặt tiền. Lò sưởi đặt nơi đó để có thể sưởi ấm tất cả ba buồng. và có một nóc che bằng sắt cán mỏng kiểu lạ, mà người ta nói rằng kiểu độc nhất ở Tây Tạng. Gần bên có chiếc ghế bành của Ngài, làm bằng gỗ chạm rất xưa, chỗ ngồi êm ái khỏi cần dùng nệm lót. Trong phòng có đặt bàn và trường kỷ, phần nhiều không có chỗ dựa, và ở một góc có đặt một cây dương cầm của Chân Sư, trần nhà cao chừng bảy thước, kèo và cột chạm trỗ rất đẹp. Buồng ngủ trang hoàng rất giản dị. Có một chiếc giường treo như cái võng giữa hai cây đà bằng gỗ chạm, gắn chặt trong vách, một cây đà chạm hình đầu sư tử, một cây chạm đầu voi. Lúc không dùng đến thì giường xếp lại vào vách tường.

Thư phòng là một gian buồng xinh xắn, chứa đựng hằng ngàn quyển sách. Trên vách có những chiếc kệ rất cao, đựng sách viết bằng nhiều thứ chữ, trong số đó có những tác phẩm cận đại Âu Châu và ở trên cao có những kệ đựng những bộ sách cổ viết bằng tay. Chân Sư là một nhà ngôn ngữ học uyên bác, không những Ngài là một học giả Anh ngữ, Ngài còn biết tiếng Pháp và tiếng Đức một cách tường tận. Thư phòng còn có một cái máy đánh chữ, do một vị đệ tử tặng cho đức Chân Sư.

Về gia quyến của Chân Sư thì tôi chỉ biết rất ít. Trong nhà có một người đàn bà, hiển nhiên là một vị Đệ tử, mà Ngài gọi bằng chị. Tôi không biết bà ấy có phải là chị ruột Ngài hay không; hoặc bà có thể là một chị em họ hay một cháu gái. Bà ấy có vẻ già hơn Ngài nhiều, nhưng không phải vì thế mà sự liên hệ gia đình nói trên không có được, vì từ lâu Ngài có vẻ như không thay đổi về tuổi tác và hình dáng bề ngoài. Bà ấy có hơi giống Ngài đôi chút, và một đôi khi bà cũng góp mặt khi có những cuộc hội họp tại nhà, mặc dầu công việc chính của bà hình như là coi về việc quản gia và trông nom người làm. Trong số những người giúp việc nhà, có hai vợ chồng một người lão bộc ở với Chân Sư từ lâu. Họ không biết gì về sự cao cả của vị chủ nhân họ, nhưng họ coi Ngài như một người chủ rất khoan dung và khả ái, và lẽ tự nhiên là họ được rất nhiều ân huệ trong khi phụng sự Ngài.

NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHÂN SƯ

Đức Chân Sư có một khu vườn riêng biệt của Ngài, Ngài cũng có một sở ruộng đất và mướn lao công để trồng trọt. Gần nhà có những bụi cây trổ bông và những khóm hoa mọc tự do, cùng với những bụi hoa rừng. Xuyên qua vườn, có một giòng suối nhỏ, và một ghềnh thác với một nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang khe suối...

Đức Chân Sư thường hay ngồi tại đây khi Ngài ban tư tưởng lành và ân huệ cho những người chung quanh. Nhìn thoảng qua thì hình như lúc đó Ngài chỉ ngồi ngắm cảnh, nghe chim hót hoặc nghe nước suối chảy dưới khe. Cũng có đôi khi Ngài ngồi yên trên chiếc ghế bành và khi những người chung quanh Ngài thấy Ngài như thế, họ biết rằng Ngài cần sự yên tĩnh và không nên quấy rầy; họ không biết rõ Ngài đang làm gì, nhưng định chừng rằng Ngài đang nhập định. Sự kiện rằng người phương Đông hiểu và kính trọng sự thiền định có thể là một trong những lý do vì sao các Chân Sư thích sống ở Đông phương hơn là ở Tây phương.

Như thế chúng ta thấy Chân Sư ngồi im lặng gần như suốt ngày và nhập định. Nhưng trong khi Ngài hình như vô vi bất động như thế, sự thật Ngài luôn luôn hoạt động không ngừng ở cõi trên; Ngài sử dụng những sức mạnh thiên nhiên và ban rải ảnh hưởng cùng ân huệ cho hằng ngàn linh hồn cùng một lúc, ví các Chân Sư là những vị bận rộn nhất trên đời. Tuy nhiên, Chân Sư cũng làm nhiều công việc thuộc về thế gian; Ngài có soạn ít nhiều nhạc phẩm và viết nhiều văn thư cùng bài vở với nhiều mục đích khác nhau. Ngài cũng chú trọng đến sự tiến bộ của khoa học vật lý, mặc dầu đó là một ngành hoạt động đặc biệt của một trong những vị Chân Sư khác.

Thỉnh thoảng, Chân Sư Kuthumi cưỡi một con ngựa lớn, và khi các Ngài làm việc chung với nhau, Ngài cùng đi với Chân Sư Morya, vị này luôn luôn cưỡi một con ngựa bạch tuyệt đẹp. Ngài thường viếng thăm một vài tu viện, và có khi Ngài cưỡi ngựa lên một truông núi để viếng một đạo viện hẻo lánh ở trên núi cao. Cưỡi ngựa trong khi đi làm công việc hằng ngày hình như là môn thể dục chính của Ngài, nhưng có khi Ngài cũng đi bộ với Chân Sư Djwal Kul, vị này sống trong một cái trại nhỏ mà Ngài tự xây cất lấy, ở gần thung lũng đưa đến vùng cao nguyên.

Đôi khi, Chân Sư đánh đàn dương cầm đặt tại gian phòng lớn trong nhà Ngài. Cây đàn này Ngài đặt làm ở Tây Tạng dưới sự trông nom của Ngài, với tấm bảng nhận nút giống như kiểu đàn Tây phương, và Ngài có thể chơi mọi bản nhạc phương Tây. Cây đàn nầy không giống như mọi cây đàn khác, vì nó có hai mặt, và người ta có thể chơi đàn hoặc từ phòng khách, hoặc từ thư phòng. Những bản nhận nút có thể dùng chung một lượt hoặc dùng riêng biệt.

Bằng phương pháp truyền từ điển, Ngài làm cho cây đàn nầy giao tiếp với các vị Thiên Thần âm nhạc (Gandharvas) để cho khi nào đánh đàn, thì có sự hợp tám mươi lăm tác của những vị Thiên Thần đó. Bằng cách đó, Ngài có được một sự phối hợp âm thanh rất huyền diệu khác hẳn âm nhạc của trần gian.

Khúc ca của Thiên Thần luôn luôn vẫn vang rền trong Vũ Trụ. Nó vẫn luôn luôn văng vẳng bên tai người thế gian, nhưng họ không muốn nghe thấy âm thanh kỳ diệu đó. Nó là tiếng sóng gầm dưới biển, tiếng gió than thở trên nhành cây, tiếng suối chảy trong khe núi, âm nhạc của giòng sông và thác đổ, cùng với bao nhiêu những âm thanh khác hợp thành khúc ca hùng mạnh của Thiên Nhiên. Đó chỉ là dư âm trên cõi thế tục, của một âm thanh huyền diệu hơn, tức là khúc ca của Thiên Thần.

Trong quyển "Ánh sáng trên đường Đạo" có viết: "Chỉ có những đoạn rời rạc của khúc ca Huyền diệu lọt vào tai ngươi trong khi ngươi còn là thế tục. Nhưng nếu ngươi lắng nghe, ngươi hãy nhớ kỹ để không cho mất một âm thanh nào, và cố gắng tìm hiểu ở đó ý nghĩa của sự huyền diệu nó bao phủ chung quanh ngươi. Trải qua dòng thời gian, ngươi sẽ không cần có thầy. Vì cũng như con người có giọng nói, thì Vũ Trụ mà y sống trong đó cũng có âm thanh. Sự sống vốn có âm thanh và không bao giờ im lặng. Âm thanh đó không phải là một tiếng khóc than, như ngươi có thể tưởng; nó là một tiếng ca thần diệu. Ngươi hãy biết rằng ngươi là một phần tử của sự hòa hiệp chung; và ngươi hãy học tuân theo những định luật của sự điều hòa trong vạn vật."

Mỗi buổi sớm mai, có một số người không hẳn là đệ tử, mà là những kẻ theo Ngài, đến nhà của Chân Sư ngồi ngoài hàng ba và ngoài ngõ. Đôi khi Ngài dạy họ một vài điều, trong một bài thuyết pháp ngắn; nhưng thường khi Ngài tiếp tục công việc của Ngài và không chú ý đến họ ngoài ra ban cho họ một nụ cười thân thiện, mà họ cũng bằng lòng nhận một cách vui vẻ. Hiển nhiên là họ đến để được ngồi trong vòng hào quang của Ngài và chiêm ngưỡng Ngài. Đôi khi, Ngài dùng cơm trước mặt họ, ngồi ngoài hàng ba cùng với những người dân Tay Tạng và những người khác ngồi dưới đất ở chung quanh Ngài; nhưng thường khi Ngài dùng bữa một mình trong phòng riêng. Có thể rắng Ngài chỉ dùng bữa ăn ngọ theo luật Nhà Chùa, vì tôi không nhớ có thấy Ngài dùng cơm chiều bao giờ. Cũng có thể rằng Ngài không cần ăn mỗi ngày.

Khi Ngài muốn dùng bữa, thì Ngài dặn người nhà làm những thức ăn mà Ngài thích, chớ không ăn đúng giờ. Tôi có thấy Ngài dùng những chiếc bánh nhỏ và tròn, màu nâu và ngọt; bánh nầy làm bằng bột mì, đường và bơ, và là thứ bánh thường dùng trong nhà, do bà chị của Ngài làm. Ngài cũng dùng cơm với cari, thứ cari nầy nấu lỏng như súp. Ngài dùng một cái muỗng bằng vàng kiểu lạ và rất đẹp, cán muỗng có chạm hình con voi. Đó là một bửu vật gia truyền, rất cổ và rất quý. Ngài thường mặc y phục trắng, nhưng tôi không thấy Ngài đội mũ trên đầu bao giờ, ngoại trừ những dịp rất hiếm có, khi Ngài mặc áo vàng của phái Gelugpa và đội một cái mão cao, giống như chiếc mão sắt của người La Mã thời xưa. Còn Chân Sư Morya thường hay bịt khăn.

NHỮNG NHÀ KHÁC

Nhà của đức Chân Sư Morya ở phía bên kia thung lũng nhưng ở chỗ đất thấp hơn, ở kế cận ngôi chùa nhỏ và cửa vào những động đá. Nhà nầy có một lối kiến trúc hoàn toàn khác hẳn, có hai từng, mặt tiền day ra đường lộ có hàng ba và cửa kiếng. Sự sinh hoạt hằng ngày của Ngài cũng tương tự như cách sinh hoạt của đức Chân Sư Kuthumi.

Nếu chúng ta noi theo đường lộ bên trái dòng suối, và đi lên cao lần lần dọc theo bờ thung lũng, chúng ta đi ngang qua biệt thự và công viên của Chân Sư Kathumi ở bên tay mặt; và lên cao hơn nữa, ta thấy cùng một bên đường lộ có một cái chòi nhỏ của Chân Sư Djwal Kul tự Ngài dựng lên hồi thời kỳ Ngài còn là đệ tử, để có chỗ ở và học Đạo gần bên sư phụ Ngài. Trong chòi có treo một bức họa do một vị đệ tử người Anh của đức Chân Sư Kuthumi vẽ lại một quang cảnh hội họp trong gian phòng lớn tại nhà Chân Sư Kuthumi, trong đó có nhiều vị Chân Sư và đệ tử tham dự. Bức họa nầy được vẽ để kỷ niệm một buổi hội họp đặc biệt thú vị và có kết quả rực rỡ tại nhà Chân Sư.

#11 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 23:55

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

CÁC CHÂN SƯ THUỘC CUNG SỐ I

Nói về hình dáng bề ngoài của các vị Chân Sư, thì tùy theo mỗi vị thuộc cung nào, mà xác thân của các Ngài cũng chịu ảnh hưởng phần nào của cung đó. Cung số một có đặc điểm trội nhất là Uy Quyền, và những người thuộc về cung nầy là những vị Vua Chúa, những nhà lãnh đạo, những nhà cai trị và chỉ huy, trước hết của thế giới tâm linh, và sau nữa của cõi giới hồng trần. Bất cứ người nào có đến một mực độ phi thường cái khả năng lãnh đạo người khác và hướng dẫn họ một cách khéo léo theo con đường của mình chọn thì chắc là người ấy thuộc về cung số một.

Đó là những đặc tính của Đức Bàn Cổ Vaivasvata, đấng Cao Cả dìu dắt Giống Dân thứ năm. Ngài cao lớn hơn tất cả các đấng Chân Sư và có thân hình cân đối hoàn toàn. Ngài là Người kiểu mẫu của Giống Dân thứ năm, và mỗi người của Giống Dân nầy đều là con cháu của Ngài. Đức Bàn Cổ có một gương mặt rất oai nghiêm, biểu lộ một uy quyền lớn, mũi cao, cặp mắt màu nâu, một chòm râu đầy đặn và tướng mạo hùng dũng như tướng sư tử. Bà Annie Besant tả hình dạng Ngài như sau: Ngài cao lớn và hùng vĩ như một vị Vua, cặp mắt tinh anh như mắt phụng, rạng ngời ánh sáng như màu hoàng kim. Hiện nay, Ngài ở trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách nhà của Đức Bồ Tát Di Lặc không xa.

Cùng một phong độ giống như thế là đức Chân Sư Morya. Ngài sẽ là vị kế nghiệp đức Bàn Cổ Vaivasvata sau này và là vị Bàn Cổ tương lai của Giống Dân thứ sáu. Ngài vốn là một vị Vua xứ Rajputana bên Ấn Độ. Ngài có một chòm râu đen chẻ ra làm hai phần, tóc Ngài mầu sậm gần như đen, xõa xuống tận vai, cặp mắt đen và sáng, đầy vẻ oai nghi. Ngài có oai phuông của một vị tướng soái. Ngài nói từng câu vắn như ra lệnh, như Ngài vẫn quen được thiên hạ tuân lệnh một cách mau chóng. Ngài có cái tác phong uy nghi lẫm liệt, tỏa ra chung quanh Ngài một cái sức mạnh và uy quyền làm cho người ta phải cung kính rất mực.

Bà Blavatsky thường hay thuật chuyện bà gặp đức Chân Sư Morya tại công viên Hyde ở Luân Đôn, hồi năm 1851, khi Ngài đến đó cùng với những ông Hoàng Ấn Độ để dự cuộc Triển Lãm Quốc Tế lần đầu tiên. Một chuyện lạ, là hồi đó, tuy mới là một đứa trẽ có bốn tuổi, tôi cũng thấy Ngài, nhưng không hề biết chi cả. Tôi còn nhớ được cha tôi dắt đi xem một cuộc biểu diễn đồ sộ huy hoàng, trong đó có một đoàn kỵ mã Ấn Độ mặc sắc phục rực rỡ. Đoàn kỵ mã oai nghi hùng dũng, cưỡi những con ngựa rất đẹp; lẽ tự nhiên tôi nhìn xem mê man, và cho rằng đoàn kỵ mã ấy là một đoàn biểu diễn đẹp nhất trong cuộc Hội Chợ huy hoàng đó. Trong khi tôi vừa nhìn đoàn kỵ mã đi qua, vừa nắm lấy bàn tay cha tôi, thì một người cao lớn trong số những vị anh hùng cưỡi ngựa đó nhìn tôi với cặp mắt đen láy và sáng ngời. Cái nhìn đó làm cho tôi vừa sợ hãi, nhưng đồng thời cũng vừa làm cho tôi cảm thấy một nguồn hạnh phúc tràn ngập không thể tả. Đoàn kỵ mã đi qua, tôi không thấy Người nữa, nhưng hình ảnh cái nhìn như chớp nhoáng đó luôn luôn trở lại với trí nhớ còn non nớt của tôi.

Tự nhiên, hồi đó tôi không biết Ngài là ai, và có lẽ tôi không bao giờ có thể nhận ra Ngài, nếu Ngài không nhắc lại việc đó với tôi nhiều năm về sau. Một ngày nọ nhân lúc nói chuyện trước mặt Ngài về những thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học, tôi tình cờ nói rằng lần đầu tiên tôi có cái diễm phúc được gặp Ngài trong thể xác, là trong dịp Ngài đến viếng bà Blavatsky ở Adyar, để giúp thêm sức và đưa cho bà một vài chỉ thị. Lúc ấy Ngài đang nói chuyện với vài vị Chân Sư khác, bèn day lại bên tôi một cách đột ngột và nói: "Không, đó không phải là lần đầu tiên. Con có nhớ chăng khi còn là một đứa trẻ nhỏ, con có xem đoàn kỵ mã Ấn cưỡi ngựa đi qua vườn Hyde Park, và lúc đó chính Ta đã để ý đến con?" Tôi sực nhớ ra ngay, và nói: "Bạch Sư Phụ, Người kỵ mã ấy là Sư Phụ hay sao? Lẽ ra con phải biết ngay từ khi đó." Tôi không nhắc đến việc này khi kể lại những việc gặp gỡ Chân Sư trong xác phàm của Ngài, vì hồi đó tôi không biết rằng người kỵ mã ấy chính là đức Sư Phụ, và cũng bởi vì lời chứng minh của một đứa trẻ con có thể là không có giá trị bao nhiêu.

Một nhân vật khác cũng có cái phong độ đế vương là đức Bàn Cổ Chakshusha, vị Bàn Cổ của Giống Dân thứ tư. Ngài là người Trung Hoa, thuộc giai cấp rất quý phái. Ngài có lưỡng quyền cao như người Mông Cổ, và gương mặt có vẻ như một pho tượng tạc bằng ngà. Ngài thường mặc áo dài thêu chỉ vàng óng ánh rất đẹp. Theo lệ thường, chúng tôi không có tiếp xúc với Ngài trong công việc hằng ngày, trừ khi nào chúng tôi có dịp săn sóc một vị Đệ Tử thuộc về Giống Dân của Ngài.

#12 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/10/2011 - 23:59

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

CÁC CHÂN SƯ THUỘC CUNG THỨ 2

Đức Di Lặc Bồ Tát (Maitreya), vị Chưởng Giáo của thế gian, và vị phụ tá chính của Ngài là đức Chân Sư Kuthumi, có một đặc điểm trội nhất là toàn thân các Ngài tỏa ra một lòng Bác Ái vô biên bao trùm tất cả muôn loài. Hiện thời, Đức Di Lặc Bồ Tát có cái xác thân thuộc về chủng tộc Celte, nhưng khi Ngài lâm phàm để dạy dỗ nhân loại trong tương lai gần đây như Ngài đã định, thì Ngài sẽ dùng một xác thân đã chuẩn bị sẵn của một trong các vị đệ tử của Ngài.

Gương mặt Ngài có một vẻ đẹp phi thường, đầy nghị lực nhưng cũng không kém nét hòa nhã, tóc Ngài màu vàng đỏ xõa xuống vai; chòm râu dài như người trong bức tranh cổ. Cặp mắt Ngài màu tím rất đẹp, giống như hai cái bông nhỏ, sáng như sao, trong như mặt hồ phẳng lặng với một niềm an tịnh trường cửu. Nụ cười của Ngài thật hiền lành khôn tả; toàn thân Ngài tỏa ra một hào quang sáng chói, chiếu diệu một ánh sáng màu hồng rất đẹp, mà các đấng Cao Cả biểu hiện lóng bác ái vẫn thường có.

Ngài thường ngồi trên gian phòng chính của nhà Ngài trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, có nhiều cửa sổ trổ ra vườn và dưới chân núi là miền đồng bằng bao la của xứ Ấn Độ. Ngài mặc áo dài trắng có nẹp vàng, thường dạo chơi trong vườn buổi chiều gió mát, giữa những khóm hoa tỏa ra trong không khí một mùi hương thơm dịu. Ngài có cái cốt cách phi thường không thể tả, vì toàn thân Ngài toát ra một lòng bác ái bao la đem nguồn an ủi cho hằng triệu chúng sinh. Giọng nói của Ngài thốt ra những giáo lý đem lại sự bình yên cho cả Thiên Thần và thế gian, và tình thương của Ngài sẽ được ban rải cùng khắp tất cả những nơi tối tăm đau khổ. Mong rằng chúng ta hãy chuẩn bị để đón rước Ngài khi Ngài lâm phàm và để phụng sự Ngài với tấm lòng trung kiên và thành kính.

Đức Chân Sư Kuthumi hiện thân là một người Bà la Môn xứ Cachemire, nước da trắng như người Âu. Ngài cũng có mớ tóc xõa xuống vai, đôi mắt Ngài màu xanh, đầy vẻ an lạc và tình bác ái. Râu tóc Ngài màu nâu chiếu ánh vàng dưới ánh mặt trời. Gương mặt Ngài thật khó tả, thường hay đổi sắc thái khi Ngài mỉm cười; mũi thẳng, mắt lớn và xanh biếc. Cũng như đức Chưởng Giáo, Ngài là một nhà đạo sư và pháp sĩ, văn hiền thế kỷ trong tương lai, sẽ thừa kế đức Bồ Tát ở ngôi vị tối cao của Ngài. Ngài sẽ đảm nhiệm chức vụ đức Chưởng Giáo của thế gian, và trở nên vị Bồ Tát của Giống Dân thứ sáu.

#13 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/10/2011 - 21:12

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

NHỮNG CHÂN SƯ THUỘC CÁC CUNG KHÁC

Đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan) thuộc về Cung của nhà Chánh trị, nhà Tổ chức, mặc dầu Ngài cũng có nhiều đức tính của bậc quân nhân. Ngài có cái xác thân của người Ấn Độ, cao và hơi gầy, với nét mặt như tượng tạc trong đá, nhẵn nhụi không để râu. Gương mặt cứng rắn, cằm vuông, đầy nghị lực, cặp mắt sắc xảo như thấu rõ mọi sự. Ngài nói một cách vắn tắt như vị tướng quân ra lệnh. Ngài thường mặc áo dài theo kiểu Ấn Độ và bịt khăn trắng.

Đức Chân Sư Bá Tước St. Germain có nhiều điểm giống đức Văn Minh Đại Đế. Mặc dầu vóc mình Ngài không cao lớn, Ngài có tác phong của một vị quân nhân. Ngài có cái lễ độ và uy nghi của một vị lãnh chúa của thế kỷ mười tám; người ta nhận ngay ra rằng Ngài thuộc về một gia đình quý phái rất cổ xưa. Ngài có đôi mắt lớn màu nâu, chứa đầy vẻ dịu dàng hài hước, với ít nhiều nét uy quyền; và cái tác phong oai nghi của Ngài bắt buộc người ta phải vâng lời. Gương mặt Ngài nước da hơi sậm như màu trái ô liu; vừng tóc màu nâu của Ngài chia làm hai phần từ vầng trán trải ngược ra phía sau, bộ râu ngắn và dụm lại dưới cằm. Ngài thường mặc một bộ đồng phục màu sậm, buộc dây vàng, và điều này làm nổi bật sự oai vệ sẵn có của Ngài. Ngài thường ở lại một tòa lâu đài cổ ở vùng Đông Âu, thuộc sở hữu của gia đình Ngài từ nhiều thế kỷ.

Đức Chân Sư Sérapis thân hình cao, nước da trắng. Ngài sinh trưởng ở xứ Hy Lạp, mặc dầu công việc của Ngài thuộc về địa phận xứ Ai Cập. Gương mặt Ngài rất nhã nhặn và có vẻ khắc khổ.

Đức Chân Sư Vénitien có lẽ là vị khôi ngô tuấn tú nhất tất cà các Đấng Cao Cả trong Quần Tiên Hội. Ngài có vóc vạc rất cao, một chòm râu dài và tóc ánh vàng như của đức Bàn Cổ, cặp mắt xanh. Mặc dầu Ngài sinh trưởng ở thành phố Venise gia đình Ngài có giòng máu gothique trong huyết quản.

Đức Chân Sư Hilarion là người Hy Lạp. Ngài có một vừng trán thấp và rộng, giống như pho tượng Hermès của Praxitèles. Ngài cũng rất khôi ngô, và có vẻ trẻ hơn phần nhiều các vị Chân Sư khác.

Đức Chân Sư Jésus hiện nay có cái xác thân người Syrie. Ngài có nước da sậm, đôi mắt đen và râu đen của người Ả Rập, thường mặc áo rộng và bịt khăn trắng. Ngài là Đức Thầy của những người sùng tín, đặc điểm của Ngài là sự thanh khiết và sùng tín vô biên, không hề có sự gì làm chướng ngại. Ngài sống trong bộ lạc Druises ở núi Liban.

Có hai vị Chân Sư mà chúng tôi được gặp, hơi khác về hình dáng bề ngoài với những đấng Cao cả khác. Một trong hai vị ấy là đức Chân Sư Agastya, có nhiệm vụ coi sóc về phần tiến hóa tinh thần của xứ Ấn Độ. Đại Tá Olcott có viết về Ngài nhiều lần; Ngài chính là vị Chân Sư đã được mệnh danh là Jupiter trong quyển sách: “Con người, từ đâu đến và sẽ đi về đâu?” Ngài có hình dáng thấp hơn phần nhiều các vị Chân Sư khác trong Quần Tiên Hội, và là vị duy nhất, mà tôi nhận thấy tóc đã điểm bạc.

Ngài có vẻ quắc thước, và đi đứng mau lẹ, mau mắn như một quân nhân. Ngài là một địa chủ có nhiều đất ruộng; trong một dịp khi tôi và Đại Đức T.Subba Rao đến viếng Ngài, tôi thấy Ngài nhiều lần bàn tính công việc với những kẻ bộ hạ, hình như là những tá điền, đến phúc trình công việc và nhận chỉ thị của Ngài. Còn vị thứ hai là Chân Sư Djwal Kul, Ngài vẫn còn mang cái xác phàm cũ trong đó Ngài đạt quả vị Chơn Tiên (Asekha) cách đây không bao lâu. Ngài có gương mặt của người Tây Tạng, với lưỡng quyền cao, và đã có những nét biểu lộ sự già nua.

Đôi khi một vị Chơn Tiên muốn có một xác thân để dùng tạm thời giữa cảnh náo nhiệt của thế gian, vì một mục đích đặc biệt. Đó sẽ là trường hợp khi đức Chưởng Giáo lâm phàm, và chúng tôi được cho biết rằng khi đó nhiều vị Chân Sư khác, có thể xuất hiện để làm những vị Phụ tá, trợ giúp Ngài trong công việc giúp đỡ nhân loại.

Phần nhiều những vị Chân Sư đó sẽ noi theo gương của đức Chưởng Giáo, và sẽ dùng tạm xác thân của những vị Đệ Tử, và như thế, một số những xác thân đó cần phải được chuẩn bị sẵn cho các Ngài sử dụng. Đôi khi các sinh viên Huyền Môn đặt câu hỏi rằng vì các Chân Sư đã có mang xác phàm, thì tại sao các Ngài lại còn cần dùng những xác phàm khác trong dịp này.

#14 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/10/2011 - 21:20

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

NHỮNG THỂ XÁC KIỆN TOÀN

Những đấng Cao Cả sau khi đạt quả vị Chơn Tiên, chọn lựa con đường ở lại thế gian để trực tiếp giúp đỡ sự tiến hóa của Nhân loại, nhận thấy cần giữ lại xác phàm để tiện lợi cho công việc của các Ngài. Để cho thích ứng với mục đích phụng sự của Chân Sư, những xác phàm đó phải là một loại đặc biệt khác thường. Không những chúng phải tuyệt đối lành mạnh về sức khỏe, mà còn phải hoàn toàn biểu lộ chơn nhơn trên một mực tối đa, mà nó có thể biểu lộ dưới thế gian.

Sự cấu tạo một xác thân như thế không phải là chuyện dễ dàng. Khi linh hồn của một người thường chuyển tiếp đầu thai vào cái xác thân mới của một hài nhi, thì y nhận thấy xác thân này chịu ảnh hưởng của một vong linh giả tạo do nghiệp quả của y gây ra. Vong linh đó bận rộn tạo nên cái hình hài của xác thân sẽ sinh ra trên thế gian, và sau khi sinh ra, nó còn tiếp tục sự nhồi nắn hình hài đó cho đến khi xác thân đứa trẻ được sáu hay hay bảy tuổi.

Trong thời kỳ đó, linh hồn lần lần tiếp xúc chặt chẽ hơn với những thể mới của nó, tức là những thể Trí, thể Vía và thể Xác, và trở nên quen thuộc với những Thể này. Nhưng trong nhiều trường hợp, linh hồn không có ảnh hưởng bao nhiêu đối với những Thể mới, trước khi cái vong inh giả tạo rút lui. Linh hồn tự nhiên là có liên lạc với Thể Xác, nhưng thường chỉ chú ý rất ít đến Thể Xác đó, và chờ đến khi nào Thể Xác này đến thời kỳ khả dĩ đáp lại những cố gắng của nó.

Trường hợp của một vị Chơn Tiên thì khác hẳn. Vì một đấng Chơn Tiên không còn phải trả nghiệp quả xấu, nên không có vong linh giả tạo nào hoạt động: Chơn nhơn tức Linh Hồn của Ngài tự lãnh phần trách nhiệm coi sóc sự phát triển của Thể Xác ngay từ lúc đầu, và chỉ bị hạn chế bởi huyết thống di truyền của Thể Xác ấy mà thôi. Điều này giúp cho việc cấu tạo nên một Thể Xác tinh anh và tế nhị hơn nhiều, nhưng cũng gây thêm sự khó khăn cho Chơn nhơn và làm tiêu hao rất nhiều thời giờ và nghị lực của nó trong nhiều năm.

Vì lẽ đó, và cũng vì những lý do khác nữa, mà một vị Chơn Tiên không muốn tái diễn cái công trình khó nhọc này ngoài sự tối cần thiết, và bởi đó ngài làm cho Thể Xác của Ngài kéo dài sự sống của nó càng lâu càng hay. Những Thể Xác của chúng ta trở nên già nua và chết đi vì nhiều lý do khác nhau, như sự yếu đuối di truyền từ cha mẹ, bệnh tật, tai nạn, sự vô tiết độ, sự ưu phiền và làm việc quá sức. Nhưng trong trường hợp của một vị Chơn Tiên thì những nguyên nhân kể trên đều hoàn toàn không có, và ta nên nhớ rằng Thể Xác của Ngài có sức hoạt động và sức chịu đựng dẻo dai nhiều hơn bội phần của người thường.

Xét vì Thể Xác của các vị Chơn Tiên có những đặc tính như đã kể trên, nên các Ngài thường có thể duy trì Thể Xác ấy và sống lâu hơn người thường rất nhiều. Vì lẽ đó, xác phàm của các Ngài thường có một tuổi tác lớn hơn rất nhiều mặc dầu hình dáng bề ngoài xem có vẻ trẻ trung, lâu già. Thí dụ như đức Chân Sư Morya có cái hình dáng của một người vào độ bốn mươi tuổi: nhưng theo những chuyện mà các vị đệ tử thuật lại về cuộc đời của các Ngài, thì tuổi Ngài có lẽ lớn hơn gấp bốn hay năm lần như thế, và chính bà Blavatsky đã nói rằng khi bà thấy Ngài lần đầu tiên hồi bà còn nhỏ, thì Ngài vẫn có cái dung mạo giống y hệt như bây giờ.

Đức Chân Sư Kuthumi cũng có vẻ đồng một lứa tuổi với bạn Ngài là Chân Sư Morya: nhưng người ta nói rằng Ngài có thi lấy một bằng cấp Đại Học ở Âu Châu vào khoảng giữa thế kỷ trước, như vậy chắc chắn là Ngài đã hơn một trăm tuổi. Hiện thời chúng ta không thể biết các Ngài có thể kéo dài sự sống của xác phàm đến một giai đoạn tuổi là bao nhiêu, mặc dầu có những bằng chứng chỉ rằng các Ngài có thể sống lâu hơn gấp đôi số tuổi trung bình bảy mươi của một kiếp người.

Một Thể Xác được cấu tạo bằng cách đó để dùng làm công việc của cõi trên, tất nhiên là rất nhạy cảm, và bởi lẽ đó, nó cần được săn sóc cẩn thận chu đáo nếu muốn cho nó luôn luôn khỏe mạnh. Thể Xác ấy có thể hư hoại như xác phàm của chúng ta, nếu nó phải chịu bao nhiêu va chạm phũ phàng, và những sự rung động nặng nề xấu xa của thế gian. Bởi lẽ đó, các đấng Cao Cả thường hay sống cuộc đời ẩn dật, và ít khi xuất hiện nơi chốn phiền hà náo nhiệt của đời sống hằng ngày.

Nếu các Ngài xuất hiện trong những Thể Xác như thế giữa sự tọc mạch hiếu kỳ, và những cảm xúc mãnh liệt của người đời, là những điều rất có thể xảy ra khi đức Chưởng Giáo lâm phàm, thì chắc chắn là những thể xác đó sẽ bị tàn tạ rất mau chóng, và cũng vì bởi chúng rất vô cùng nhạy cảm, nên có thể chịu nhiều sự đau đớn vô ích.

#15 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/10/2011 - 21:26

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO

MƯỢN THỂ XÁC

Bằng cách mượn tạm Thể Xác của một vị đệ tử, đức Chân Sư tránh được những điều bất tiện kể trên, và đồng thời giúp thêm một cái đà rất mạnh cho sự tiến hóa của vị Đệ tử. Ngài chỉ dùng thể xác ấy khi cần dùng, hoặc để thuyết pháp, hoặc để ban một nguồn ân huệ đặc biệt; và khi Ngài đã làm xong điều Ngài muốn, thì Ngài rời khỏi thể xác ấy. Khi đó thì vị đệ tử nhập trở lại vào thể xác của mình, và Chân Sư cũng nhập vào Thể Xác của Ngài để tiếp tục công việc giúp đỡ thế gian. Bằng cách đó, công việc thường nhựt của Ngài sẽ không bị ảnh hưởng bao nhiêu; tuy nhiên, luôn luôn Ngài có sẵn dưới tay một thể xác mà Ngài có thể tạm dùng để hợp tác khi cần, trong công việc của đức Chưởng Giáo trên thế gian.

Chúng ta có thể tưởng tượng điều đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến ngưới Đệ tử, khi vị này được cái vinh dự lớn lao là đưa thể xác của mình cho Chân Sư dùng tạm. Một cơ hội to tát như thế thật là một sự giúp đỡ cho người Đệ tử chớ không phải một điều bất lợi; và trong khi thể xác của y được sử dụng, vị Đệ tử có cái diễm phúc được thấm nhuần luồng từ điển thiêng liêng của đức Chân Sư. Y phải túc trực sẵn sàng một bên để trở về cái xác phàm của mình sau khi Chân Sư đã dùng xong.

Phương pháp mượn tạm một thể xác thích nghi luôn luôn được các Chân Sư áp dụng, khi các Ngài thấy cần xuất hiện dưới thế gian trong tình trạng hiện thời. Đức Phật Thích Ca đã dùng phương pháp ấy khi Ngài xuất thế để đạt quả vị Phật, và đức Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) cũng vậy, khi Ngài đến viếng xứ Palestine cách đây hai ngàn năm. Một trường hợp ngoại lệ duy nhất mà tôi được biết là khi một vị Bố Tát kế nghiệp chức vụ một đức Chưởng Giáo sau khi vị này đã thành Phật, thì trong dịp xuất hiện lần đầu tiên dưới thế gian với chức vụ đó, Ngài đầu thai và sinh ra như một đứa hài nhi, theo phương pháp thai sinh thông thường. Đó chính là trường hợp của vị đương kim Bồ Tát, khi Ngài chuyển kiếp làm Shri Krishna ở vùng đồng bằng Ấn Độ, và được người Ấn tôn thờ với một lòng sùng tín mãnh liệt vô song trên thế gian.

Người ta không nên lầm lộn việc dùng tạm thể xác của một vị đệ tử với việc sử dụng vĩnh viễn một thể xác được chuẩn bị sẵn cho một nhân vật tiến hóa cao. Các vị đệ tử của bà Blavatsky, nhà sáng lập Hội Thông Thiên Học chúng ta, tin rằng sau khi bà từ trần, bà liền nhập vào thể xác của một người khác vừa bỏ trống. Tôi không được biết rõ cái thể xác đó có được chuẩn bị cho bà dùng hay không, nhưng có những trường hợp khác nó được chuẩn bị sẵn. Trong những trường hợp này, luôn luôn có ít nhiều sự khó khăn là làm sao cho thể xác hòa hợp thích ứng với nhu cầu và tánh chất của người sử dụng nó; và rất có thể sự hòa hợp đó không bao giờ được hoàn toàn.

Linh hồn sắp sửa trở xuống thế gian được chọn lựa trong hai điều; một là: dành rất nhiều thời giờ và công lao để trông nom sự cấu tạo một thể xác mới, thể xác này sẽ là một sự biểu lộ hoàn toàn con người thật của y ở cõi hồng trần; và hai là: tránh được tất cả sự phiền phức đó bằng cách nhập vào thể xác có sẵn của một người khác. Phương pháp này sẽ giúp cho y có được một thể xác khá tốt để dùng vào mọi mục đích thông thường, nhưng nó sẽ không bao giờ thi hành một cách hoàn toàn đủ mọi phương diện những điều mà y mong muốn. Trong mọi trường hợp, một vị Đệ tử tự nhiên ước muốn có cái hân hạnh giao thể xác của mình cho Chân Sư dùng tạm, nhưng thật ra ít có những thể xác được hoàn toàn tinh khiết để được sử dụng như thế.

Một câu hỏi thường được nêu ra, là tại sao một vị Chân Sư, mà công việc hầu như hoàn toàn thuộc về các cõi trên, lại cần dùng một thể xác phàm trần? Việc này thật ra không phải là việc của chúng ta can dự vào, nhưng nếu bàn về điều này không phải là phạm thượng và bất kính, thì có nhiều lý do được đưa ra. Đức Chân Sư phí nhiều thì giờ của Ngài để ban rải những nguồn ân huệ cho thế gian. Mặc dầu những nguồn ân huệ này thường được phát ra từ cõi Thượng Thiên hay từ cõi trên nữa, đôi khi Ngài cũng rải những nguồn thần lực thuộc về chất dĩ thái hồng trần. Bởi đó, viêc sử dụng một xác phàm tất nhiên là một điều tiện lợi.

Phần nhiều các Chân Sư mà tôi đã thấy ở cõi phàm trần đều có vài đệ tử hoặc thinh văn cùng sống chung, hoặc ở gần các Ngài; do đó việc sở hữu một xác phàm có thể là một điều hữu ích cho các Chân Sư dùng để tiếp xúc với họ. Dầu sao, ta có thể tin chắc rằng khi một vị Chân Sư quyết định dùng một thể xác hồng trần thì hẳn là Ngài có một lý do chánh đáng. Chúng tôi cũng được hiểu biết ít nhiều về những phương pháp làm việc của các Ngài, để có thể quả quyết rằng các Ngài làm tất cả mọi việc với mục đích thu hoạch kết quả tối đa, bằng những phương tiện làm tiêu hao sinh lực một cách tối thiểu.






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |