Jump to content

Advertisements




Ký sự bên kia không gian chiều thứ tư


117 replies to this topic

#1 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 21:14

Lời dẫn

Khi lang thang trên facebook, tôi thấy có một chuỗi bài viết rất hay về tâm linh nên xin phép đưa lên để mọi người cùng tham khảo. Tựa đề trang là ký sự phía bên kia không gian chiều thứ tư.

Trên nguyên tắc, tôi không chịu bất kỳ một trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp, chủ quan hay khách quan, các hậu quả hay lợi ích dù nhỏ hay lớn, âm phần hay dương phần do bài viết của tác giả gây ra.

Tôi cũng không chịu bất cứ một trách nhiệm nào trả lời bất cứ một câu hỏi nào liên quan.



I - HUYỀN THOẠI VÀ THỰC TẠI.
“Đời say cả một mình ta tỉnh! Đời đục cả một mình ta trong, nên ta bỏ đời mà đi”.
Với một bộ dạng thiểu não, có kẻ chán sự đời, lang thang. Đã thốt lên như thế, cùng gã lái đò nổi trôi trên bến Mịch La, trong quá khứ xa của lịch sử văn hóa chung…

Chẳng biết gã lái đò mà do duyên kỳ ngộ lá lay nào đó khéo tạo nên. Có trầm ngâm chia sẻ cùng Khuất Nguyên hay không? Tác giả của câu chuyện này không nhắc đến! Chỉ biết rằng gã lái đò đã xối thẳng vào kẻ dường mê, dường tỉnh kia, một gáo nước tựa hồ của dòng Mịch La: “Đời say cả! Sao ngươi không ăn cả bã, uống cả hèm, cho say luôn một thể? Đời đục cả! Sao ngươi không quậy thêm bùn, vỗ thêm sóng, cho đục luôn một thể? Tội chi mà phải bỏ đời mà đi?”. Nói xong, gã lái đò lẳng lặng đứng lên, nhổ sào. Tiếp tục cho con thuyền… chao nhẹ, nổi trôi…, xuôi theo dòng… Bỏ mặc kẻ ủ dột chìm đắm trong cô đơn ở phía bên kia bờ hoàng hôn.
Trong hoang lạnh, bóng thuyền trăng vừa nhô trên dòng Mịch La. Người ta vẳng nghe có tiếng nhịp gõ trên gác mái chèo… như bào ảnh, nhẹ xao trên mặt nước; “Nước sông Tương trong thì ta giặt mũ…. Nước sông Tương đục thì ta rửa chân…”. hòa cùng tiếng cười khanh khách đầy trá dị mênh mang…
Sau 3 ngày trầm ngâm, gậm nhấm về buổi t*o ngộ với gã lái đò trôi nổi bất chợt đó. Khuất nguyên cuối cùng đứng lên tự thốt thành tiếng: “Không được. Thân ta đang trắng như bông bưởi. Ai lại đem vùi xuống bùn dơ bao giờ”. Và Khuất Nguyên cùng ôm cả khối u uất đấy mà gieo trôi theo dòng Mịch La, xuôi về Hoàng Tuyền… và quyết neo đời bên bến Bỉ Ngạn.
... Đang chán sự đời, dự định bỏ đời mà đi! Ký ức như ở trên chợt ùa về từ một nơi nào đó thật sâu trong trong tâm khảm, khiến tôi càng tự ngán ngẩm hơn cho dự định. Mọi chuyện sẽ có sự khởi đầu cho bất cứ ai trong chúng ta, nếu một khi ai đó chợt ý thức về thân phận và kiếp làm người! Và sau khi đã gậm nhấm hằng đêm cho bằng hết, những chán chường giá trị cuộc sống đến ngán ngẫm. Tôi quyết định bỏ lại cuộc đời sau lưng và rũ bụi giày mà ra đi.
Ở đây không có nghĩa là bỏ cuộc đời theo cách của Khuất Nguyên. Để cho đời nối đời sau và sau nữa, cứ mỗi độ Đoan Ngọ lại thi nhau tưởng nhớ. Hoài vọng về một giá trị bị chôn vùi mà hầu như không ai biết cũng như có thể cảm nhận và hiểu được! Hóa ra cái kiếp làm người của Khuất Nguyên ngày đó vốn đã vô nghĩa rồi. Cái chết của Khuất Nguyên cho đến tận hôm nay. Lại càng tiếp tục chất chồng thêm hơn cho nấm mồ vô nghĩa phủ dày bụi thời gian mà thôi! Một trong những lý do khiến bản thân tôi bước ra khỏi dòng đời đang cuồng loạn cuộc sống vội đó là: Tôi ý thức rất sâu sắc về sự đào thải của quan điểm sống đương thời lúc đó đối với bản thân. Như thế, trước khi điều đó xảy ra. Tôi tự đào thải mình khỏi xã hội trước, không chờ đến lúc xã hội phải thực thi trách nhiệm đó.
Điều tôi muốn diễn tả là giai đoạn mà đất nước cũng như xã hội Việt Nam vừa vượt qua trường cảnh chiến tranh. Ngay lập tức phải rơi vào hoàn cảnh đối đầu với sự đổ nát sau chiến cuộc. Thuyết Định Mệnh là không phải bàn cãi nữa. Nhưng cớ chi mà Tạo Hóa éo le đến đổi đặt để cho Dân Tộc Việt Nam cứ hết rơi vào hoàn cảnh này lại đắm chìm trong hoàn cảnh khác. Cứ luân hồi mãi từ ngàn xưa, kể từ ngày giống nòi này mở nước cho đến tận hôm nay như thế!? Định mệnh nào mà Tạo Hóa cố ý gieo cho dòng giống này phải gánh vác truyền đời, muôn kiếp như vậy?.
Điều đáng sững sờ hơn nữa là cận cảnh đương thời. Sân khấu mà dân tộc và xã hội Việt Nam hôm nay đang phải diễn là: Theo đuổi những giá trị vật chất và không ngần ngại đặt nó lên hàng đầu. Có một điều rất đáng phải kinh sợ ấy là; Vốn liếng văn hóa bao gồm cả tư duy của xã hội Việt Nam đã bị ngọn lửa chiến tranh thiêu rụi gần như hoang tàn. Cả một trường đoạn của cuộc chiến tranh tang tóc suốt 500 năm vừa đi qua! Một cuộc bể dâu vừa đủ. Một thế cuộc cuối trong quy luật của Tạo hóa qua 4 đoạn trường bể dâu bao gồm 2000 năm; Sinh – Trưởng – Liễm – Tàng.
Bối cảnh diễn ra với những đạo diễn và diễn viên vừa bước ra khỏi cuộc chiến tang thương như thế. Hành trang sót lại một ít vốn liếng tư duy lẫn văn hóa đầy thương tật, khiếm khuyết như thế. Xã hội Việt Nam diễn biết bao bi hài cảnh… không thể diễn đạt thành lời cho được... Biết bao số phận khóc cười, mặc nổi trôi theo dòng đời cuồng loạn những xô bồ nhiễu nhương đó.
Bởi Giá trị vật chất và tinh thần vốn là hai phạm trù đối lập. Nơi nào có vật chất ắt những giá trị của tinh thần sẽ bị mai một. Và cũng có cùng một giá trị mô tả như thế đối với tinh thần ở chiều ngược lại. Hồi ức quá khứ trên bình diện địa cầu… Tìm về tận nơi khởi đầu của những tư duy của nhân loại. Tận đỉnh cao của tư duy cũng như văn hóa của nhân loại suy tôn thành nghệ thuật. Triết Học và Kịch Nghệ…
Nơi đỉnh chót vót của nghệ thuật triết học như: Triết gia khởi đầu là Heraclitus, rồi những Parmenides, Leucippus, Democritus.v… Với nền tảng tư duy cũng như văn hóa như thế. Họ cũng đã mang đầy khiếm khuyết khi phải đối diện với giữa vật chất và tinh thần rồi. Họ cũng đã diễn đầy những tấn bi hài kịch đương thời lúc đó rồi. Huống hồ chi bối cảnh mà xã hội Việt Nam đang phải đối đầu trong giai đoạn vừa nêu ở những dòng trên. Có một điều vượt lên trên tất cả những nguyên lý đương thời của tư tưởng phương tây lúc đó là: Cũng cùng một thời điểm đó. Tại phương đông cũng đã xuất hiện Phật Thích Ca Mâu Ni với tư tưởng tĩnh tại bên Ấn Độ! Và Phật cho sự biến động chỉ là vọng động. Thế giới quan của nhà Phật hướng đến một sự tĩnh tại tuyệt đối mà ta nghe gọi là chân như. Và tại Trung Quốc đồng thời xuất hiện Lão Tử với quan điểm đồng nhất giữa động và tĩnh. Đó là chưa kể đến những giá trị ở vào quá khứ xa hơn hàng ngàn năm trước thời điểm này nữa.
Thế nhưng trào lưu xã hội Việt Nam đang trên đỉnh ngọn thác sục sôi vật chất. Quan điểm về một giá trị tinh thần hoàn toàn là lạc hậu. Thậm chí nó dần trở thành một khái niệm mơ hồ trong tâm thức chung của những thế hệ hiện nay. Để tìm lại những giá trị tinh thần đó, ắt phải là những nơi thiếu vắng bóng dáng của vật chất. Đó phải là nơi lạc hậu, phù hợp với tư duy đã bị đào thải cùng quan điểm những thế hệ đương thời. Là bưng biền, núi cao, rừng sâu hẻo lánh, vắng ánh sáng đô thị.
Thế nhưng xã hội đang có xu hướng đô thị hóa cả những nơi này cho kịp đà phát triển chung! Thật nguy hiểm vô cùng. Bởi ánh sáng văn minh vốn phải trải qua quá trình tiến hóa, gọt dũa, sàng lọc, mới có thể chấp nhận, tiếp nhận những thành phần ưu tú nhất. Kỳ dư, chỉ là những con thiêu thân lao vào ánh sáng mà không ý thức được thân phận. Điều tất yếu phải đến là một xã hội hỗn loạn, vô văn hóa, và dẫn đến thoái hóa… trên bình diện. Với một môi trường sống quanh mình như thế. Tôi ý thức mình như một kẻ lạc loài. Nói thẳng ra là tư duy lạc hậu đối với giai đoạn. Một sự sống ký gửi tạm bợ, và hoàn toàn vô vị. Đến một ngày, tôi chợt nhận ra và không hiểu được mình đang cười hay mếu với bạn bè, cộng đồng mỗi khi đưa chuyện, gắng gượng mà hòa sống mỗi ngày. Chính xác là tôi chỉ nhe răng ra như… Phỗng, cho có lệ.
Và rồi tinh thần của tôi trong những dòng kết này không phải tìm đến cùng Khuất Nguyên nơi những dòng mở đầu. Mà là tìm đến với Từ Thức! Mơ về chốn của một Động Hoa Vàng nào đó đã ngủ yên trong trang cổ tích cùng thời gian. Nơi đỉnh cao của tư duy hiện đại. Người ta biết rằng: Mô hình huyền thoại chính là là mô hình gần với thực tại nhất! Từ đó suy ra mà định hướng cho một mục tiêu; Truy tìm tinh thần đã lạc mất do yếu tố thời đại đa tạp đang tạo ra và lây lan từng ngày.
Thế rồi, Tôi gói gọn những gì được cho là lạc hậu đối với xu thế. Bao gồm cả tư duy và quan điểm, đi ngược dòng trào lưu, trở về với huyền thoại. Hòng truy tìm lại những giá trị tinh thần đã thất lạc chốn hoang sơ nào đó còn sót lại trên toàn miền chân trời xa. Bởi di chỉ của xứ hồng hoang vẫn tiềm ẩn khẳng định với mọi giai đoạn thời gian rằng: Chân lý luôn luôn hiện diện nơi cuối chân trời góc biển của mọi giai đoạn. Cho dù bất kỳ là giai đoạn nào. Một nơi có thể đã từng được mô tả là “Rốn biển”. Nơi xứ sở đó, huyền thoại chỉ rõ bao gồm: Ba mươi sáu đảo và bảy mươi hai động. Chắc chắn trong đó có Động Hoa Vàng. Nơi huyền thoại xưa, Từ Thức đã từng một thời, lạc dấu chân hoang…
Trải biết bao trường đoạn trên suốt dặm dài đi tìm chân lý. Cuối cùng tôi đã đến được nơi cần đến trong huyền thoại: “Rốn biển”!. Tôi khẳng định rằng huyền thoại chính là thực tại. Một thực tại mà tạo hóa cố tình che dấu con người. Và cái giá phải trả cho công cuộc truy tìm đó là tinh thần và ý chí rất đắt và thật sự rất đắt. Tạo Hóa rất công bằng.
Cuối cùng, tôi đã đứng trong thế giới của huyền thoại giữa hiện thực. Đó là Động Thiên Thai! Tôi biết, là một trong bảy mươi hai động của thế giới huyền thoại đang chào đón. Cảm khái, tôi chép lại trên vách cửa động hai câu thơ: “Động môn vô tỏa thược, tục khách bất tằng lai”. Bởi theo một nghĩa nào đó, trong một thoáng tư duy thoảng qua. Tôi đã tự cảm nhận mình đã gột sạch gót “Tục Lữ”, đã được chào đón trước ngưỡng cửa Động Thiên Thai. Tạo Hóa có mặc ẩn điều gì, cho một kẻ xa đời và tìm về nơi rốn biển hay chăng!?.
Chỉ biết rằng; Trong suốt quãng thời gian rong chơi, cùng tháng ngày ngủ quên nơi xứ sở huyền thoại đó. Tôi đã một đôi lần bước qua ngưỡng cửa của thời gian. Điều này có nghĩa là bước qua không gian chiều thứ tư! Một thế giới nhiều chiều, tiềm ẩn song song cùng không gian 3 chiều đương đại. Một mô hình thực tại như có như không. Một lý tính của Thuyết Lượng Tử. Học thuyết đang hiện diện nơi đỉnh cao của tư duy đương đại.
Giờ đây, tôi lại đang ngồi lại, lặng lẽ nhìn và đếm thời gian trôi dần giữa cuộc sống đời thường ngày nào. Như dường biết, như dường không, giữa những xô bồ, đắm chìm theo dòng cuốn vật chất của cuộc sống cuồng loạn hiện tại. Thời gian dần trôi có vẻ như hối hả hơn về giai đoạn cuối…
Tôi vẫn đếm…, và chờ, đón…
Một hiện thực, bước ra từ huyền thoại, để đi vào đời thường.
.
Bạn đọc tự do chia sẻ.

I - HUYỀN THOẠI VÀ THỰC TẠI.
“Đời say cả một mình ta tỉnh! Đời đục cả một mình ta trong, nên ta bỏ đời mà đi”.
Với một bộ dạng thiểu não, có kẻ chán sự đời, lang thang. Đã thốt lên như thế, cùng gã lái đò nổi trôi trên bến Mịch La, trong quá khứ xa của lịch sử văn hóa chung…

Chẳng biết gã lái đò mà do duyên kỳ ngộ lá lay nào đó khéo tạo nên. Có trầm ngâm chia sẻ cùng Khuất Nguyên hay không? Tác giả của câu chuyện này không nhắc đến! Chỉ biết rằng gã lái đò đã xối thẳng vào kẻ dường mê, dường tỉnh kia, một gáo nước tựa hồ của dòng Mịch La: “Đời say cả! Sao ngươi không ăn cả bã, uống cả hèm, cho say luôn một thể? Đời đục cả! Sao ngươi không quậy thêm bùn, vỗ thêm sóng, cho đục luôn một thể? Tội chi mà phải bỏ đời mà đi?”. Nói xong, gã lái đò lẳng lặng đứng lên, nhổ sào. Tiếp tục cho con thuyền… chao nhẹ, nổi trôi…, xuôi theo dòng… Bỏ mặc kẻ ủ dột chìm đắm trong cô đơn ở phía bên kia bờ hoàng hôn.
Trong hoang lạnh, bóng thuyền trăng vừa nhô trên dòng Mịch La. Người ta vẳng nghe có tiếng nhịp gõ trên gác mái chèo… như bào ảnh, nhẹ xao trên mặt nước; “Nước sông Tương trong thì ta giặt mũ…. Nước sông Tương đục thì ta rửa chân…”. hòa cùng tiếng cười khanh khách đầy trá dị mênh mang…
Sau 3 ngày trầm ngâm, gậm nhấm về buổi t*o ngộ với gã lái đò trôi nổi bất chợt đó. Khuất nguyên cuối cùng đứng lên tự thốt thành tiếng: “Không được. Thân ta đang trắng như bông bưởi. Ai lại đem vùi xuống bùn dơ bao giờ”. Và Khuất Nguyên cùng ôm cả khối u uất đấy mà gieo trôi theo dòng Mịch La, xuôi về Hoàng Tuyền… và quyết neo đời bên bến Bỉ Ngạn.
... Đang chán sự đời, dự định bỏ đời mà đi! Ký ức như ở trên chợt ùa về từ một nơi nào đó thật sâu trong trong tâm khảm, khiến tôi càng tự ngán ngẩm hơn cho dự định. Mọi chuyện sẽ có sự khởi đầu cho bất cứ ai trong chúng ta, nếu một khi ai đó chợt ý thức về thân phận và kiếp làm người! Và sau khi đã gậm nhấm hằng đêm cho bằng hết, những chán chường giá trị cuộc sống đến ngán ngẫm. Tôi quyết định bỏ lại cuộc đời sau lưng và rũ bụi giày mà ra đi.
Ở đây không có nghĩa là bỏ cuộc đời theo cách của Khuất Nguyên. Để cho đời nối đời sau và sau nữa, cứ mỗi độ Đoan Ngọ lại thi nhau tưởng nhớ. Hoài vọng về một giá trị bị chôn vùi mà hầu như không ai biết cũng như có thể cảm nhận và hiểu được! Hóa ra cái kiếp làm người của Khuất Nguyên ngày đó vốn đã vô nghĩa rồi. Cái chết của Khuất Nguyên cho đến tận hôm nay. Lại càng tiếp tục chất chồng thêm hơn cho nấm mồ vô nghĩa phủ dày bụi thời gian mà thôi! Một trong những lý do khiến bản thân tôi bước ra khỏi dòng đời đang cuồng loạn cuộc sống vội đó là: Tôi ý thức rất sâu sắc về sự đào thải của quan điểm sống đương thời lúc đó đối với bản thân. Như thế, trước khi điều đó xảy ra. Tôi tự đào thải mình khỏi xã hội trước, không chờ đến lúc xã hội phải thực thi trách nhiệm đó.
Điều tôi muốn diễn tả là giai đoạn mà đất nước cũng như xã hội Việt Nam vừa vượt qua trường cảnh chiến tranh. Ngay lập tức phải rơi vào hoàn cảnh đối đầu với sự đổ nát sau chiến cuộc. Thuyết Định Mệnh là không phải bàn cãi nữa. Nhưng cớ chi mà Tạo Hóa éo le đến đổi đặt để cho Dân Tộc Việt Nam cứ hết rơi vào hoàn cảnh này lại đắm chìm trong hoàn cảnh khác. Cứ luân hồi mãi từ ngàn xưa, kể từ ngày giống nòi này mở nước cho đến tận hôm nay như thế!? Định mệnh nào mà Tạo Hóa cố ý gieo cho dòng giống này phải gánh vác truyền đời, muôn kiếp như vậy?.
Điều đáng sững sờ hơn nữa là cận cảnh đương thời. Sân khấu mà dân tộc và xã hội Việt Nam hôm nay đang phải diễn là: Theo đuổi những giá trị vật chất và không ngần ngại đặt nó lên hàng đầu. Có một điều rất đáng phải kinh sợ ấy là; Vốn liếng văn hóa bao gồm cả tư duy của xã hội Việt Nam đã bị ngọn lửa chiến tranh thiêu rụi gần như hoang tàn. Cả một trường đoạn của cuộc chiến tranh tang tóc suốt 500 năm vừa đi qua! Một cuộc bể dâu vừa đủ. Một thế cuộc cuối trong quy luật của Tạo hóa qua 4 đoạn trường bể dâu bao gồm 2000 năm; Sinh – Trưởng – Liễm – Tàng.
Bối cảnh diễn ra với những đạo diễn và diễn viên vừa bước ra khỏi cuộc chiến tang thương như thế. Hành trang sót lại một ít vốn liếng tư duy lẫn văn hóa đầy thương tật, khiếm khuyết như thế. Xã hội Việt Nam diễn biết bao bi hài cảnh… không thể diễn đạt thành lời cho được... Biết bao số phận khóc cười, mặc nổi trôi theo dòng đời cuồng loạn những xô bồ nhiễu nhương đó.
Bởi Giá trị vật chất và tinh thần vốn là hai phạm trù đối lập. Nơi nào có vật chất ắt những giá trị của tinh thần sẽ bị mai một. Và cũng có cùng một giá trị mô tả như thế đối với tinh thần ở chiều ngược lại. Hồi ức quá khứ trên bình diện địa cầu… Tìm về tận nơi khởi đầu của những tư duy của nhân loại. Tận đỉnh cao của tư duy cũng như văn hóa của nhân loại suy tôn thành nghệ thuật. Triết Học và Kịch Nghệ…
Nơi đỉnh chót vót của nghệ thuật triết học như: Triết gia khởi đầu là Heraclitus, rồi những Parmenides, Leucippus, Democritus.v… Với nền tảng tư duy cũng như văn hóa như thế. Họ cũng đã mang đầy khiếm khuyết khi phải đối diện với giữa vật chất và tinh thần rồi. Họ cũng đã diễn đầy những tấn bi hài kịch đương thời lúc đó rồi. Huống hồ chi bối cảnh mà xã hội Việt Nam đang phải đối đầu trong giai đoạn vừa nêu ở những dòng trên. Có một điều vượt lên trên tất cả những nguyên lý đương thời của tư tưởng phương tây lúc đó là: Cũng cùng một thời điểm đó. Tại phương đông cũng đã xuất hiện Phật Thích Ca Mâu Ni với tư tưởng tĩnh tại bên Ấn Độ! Và Phật cho sự biến động chỉ là vọng động. Thế giới quan của nhà Phật hướng đến một sự tĩnh tại tuyệt đối mà ta nghe gọi là chân như. Và tại Trung Quốc đồng thời xuất hiện Lão Tử với quan điểm đồng nhất giữa động và tĩnh. Đó là chưa kể đến những giá trị ở vào quá khứ xa hơn hàng ngàn năm trước thời điểm này nữa.
Thế nhưng trào lưu xã hội Việt Nam đang trên đỉnh ngọn thác sục sôi vật chất. Quan điểm về một giá trị tinh thần hoàn toàn là lạc hậu. Thậm chí nó dần trở thành một khái niệm mơ hồ trong tâm thức chung của những thế hệ hiện nay. Để tìm lại những giá trị tinh thần đó, ắt phải là những nơi thiếu vắng bóng dáng của vật chất. Đó phải là nơi lạc hậu, phù hợp với tư duy đã bị đào thải cùng quan điểm những thế hệ đương thời. Là bưng biền, núi cao, rừng sâu hẻo lánh, vắng ánh sáng đô thị.
Thế nhưng xã hội đang có xu hướng đô thị hóa cả những nơi này cho kịp đà phát triển chung! Thật nguy hiểm vô cùng. Bởi ánh sáng văn minh vốn phải trải qua quá trình tiến hóa, gọt dũa, sàng lọc, mới có thể chấp nhận, tiếp nhận những thành phần ưu tú nhất. Kỳ dư, chỉ là những con thiêu thân lao vào ánh sáng mà không ý thức được thân phận. Điều tất yếu phải đến là một xã hội hỗn loạn, vô văn hóa, và dẫn đến thoái hóa… trên bình diện. Với một môi trường sống quanh mình như thế. Tôi ý thức mình như một kẻ lạc loài. Nói thẳng ra là tư duy lạc hậu đối với giai đoạn. Một sự sống ký gửi tạm bợ, và hoàn toàn vô vị. Đến một ngày, tôi chợt nhận ra và không hiểu được mình đang cười hay mếu với bạn bè, cộng đồng mỗi khi đưa chuyện, gắng gượng mà hòa sống mỗi ngày. Chính xác là tôi chỉ nhe răng ra như… Phỗng, cho có lệ.
Và rồi tinh thần của tôi trong những dòng kết này không phải tìm đến cùng Khuất Nguyên nơi những dòng mở đầu. Mà là tìm đến với Từ Thức! Mơ về chốn của một Động Hoa Vàng nào đó đã ngủ yên trong trang cổ tích cùng thời gian. Nơi đỉnh cao của tư duy hiện đại. Người ta biết rằng: Mô hình huyền thoại chính là là mô hình gần với thực tại nhất! Từ đó suy ra mà định hướng cho một mục tiêu; Truy tìm tinh thần đã lạc mất do yếu tố thời đại đa tạp đang tạo ra và lây lan từng ngày.
Thế rồi, Tôi gói gọn những gì được cho là lạc hậu đối với xu thế. Bao gồm cả tư duy và quan điểm, đi ngược dòng trào lưu, trở về với huyền thoại. Hòng truy tìm lại những giá trị tinh thần đã thất lạc chốn hoang sơ nào đó còn sót lại trên toàn miền chân trời xa. Bởi di chỉ của xứ hồng hoang vẫn tiềm ẩn khẳng định với mọi giai đoạn thời gian rằng: Chân lý luôn luôn hiện diện nơi cuối chân trời góc biển của mọi giai đoạn. Cho dù bất kỳ là giai đoạn nào. Một nơi có thể đã từng được mô tả là “Rốn biển”. Nơi xứ sở đó, huyền thoại chỉ rõ bao gồm: Ba mươi sáu đảo và bảy mươi hai động. Chắc chắn trong đó có Động Hoa Vàng. Nơi huyền thoại xưa, Từ Thức đã từng một thời, lạc dấu chân hoang…
Trải biết bao trường đoạn trên suốt dặm dài đi tìm chân lý. Cuối cùng tôi đã đến được nơi cần đến trong huyền thoại: “Rốn biển”!. Tôi khẳng định rằng huyền thoại chính là thực tại. Một thực tại mà tạo hóa cố tình che dấu con người. Và cái giá phải trả cho công cuộc truy tìm đó là tinh thần và ý chí rất đắt và thật sự rất đắt. Tạo Hóa rất công bằng.
Cuối cùng, tôi đã đứng trong thế giới của huyền thoại giữa hiện thực. Đó là Động Thiên Thai! Tôi biết, là một trong bảy mươi hai động của thế giới huyền thoại đang chào đón. Cảm khái, tôi chép lại trên vách cửa động hai câu thơ: “Động môn vô tỏa thược, tục khách bất tằng lai”. Bởi theo một nghĩa nào đó, trong một thoáng tư duy thoảng qua. Tôi đã tự cảm nhận mình đã gột sạch gót “Tục Lữ”, đã được chào đón trước ngưỡng cửa Động Thiên Thai. Tạo Hóa có mặc ẩn điều gì, cho một kẻ xa đời và tìm về nơi rốn biển hay chăng!?.
Chỉ biết rằng; Trong suốt quãng thời gian rong chơi, cùng tháng ngày ngủ quên nơi xứ sở huyền thoại đó. Tôi đã một đôi lần bước qua ngưỡng cửa của thời gian. Điều này có nghĩa là bước qua không gian chiều thứ tư! Một thế giới nhiều chiều, tiềm ẩn song song cùng không gian 3 chiều đương đại. Một mô hình thực tại như có như không. Một lý tính của Thuyết Lượng Tử. Học thuyết đang hiện diện nơi đỉnh cao của tư duy đương đại.
Giờ đây, tôi lại đang ngồi lại, lặng lẽ nhìn và đếm thời gian trôi dần giữa cuộc sống đời thường ngày nào. Như dường biết, như dường không, giữa những xô bồ, đắm chìm theo dòng cuốn vật chất của cuộc sống cuồng loạn hiện tại. Thời gian dần trôi có vẻ như hối hả hơn về giai đoạn cuối…
Tôi vẫn đếm…, và chờ, đón…
Một hiện thực, bước ra từ huyền thoại, để đi vào đời thường.
.
Bạn đọc tự do chia sẻ.



2 CUỘC THI LONG HOA HỘI.
Khai hội ở mùa Thu - Đông năm 1996 Bính Tý.
Mãi tận khi tôi đã ý thức được; Mình đang đứng trước cánh cổng của Đại Hội Long Hoa!
Lúc đó, trong tôi mới mơ hồ… nhớ lại những lạc cảnh. Tựa hồ như có như không, cùng hoàn cảnh của những tháng ngày vừa qua, trên suốt dặm dài trở về nguồn cội. Bồi hồi nhớ lại một trong những lưu ký đã chất oằn gánh, mỗi lúc nhọc nhằn thấm đẫm cả thể xác lẫn tinh thần. Tôi thường san nghiêng trang giấy vội:
Ta đến đây tìm lại dấu nhạn
Thuở hồng hoang lạc chốn mây ngàn
Ta đến đây tìm lại ngấn tích
Ngọn trúc nào chít mảnh trăng phai
Cõi trần ai dặm ngàn dong ruổi
Lối mục tiều thừa đuổi dấu chân
Lướt trong mơ hồn xót bội phần
Đường dê thỏ mờ dần hoang ảo.

Đang chìm đắm trong trầm ngâm những cảm xúc chập chờn… Ý thức về thực tại, vẫn thoắt ẩn thoắt hiện, cùng cảnh giới đang hiện diện một cách lạ thường, không xác định được, đang diễn ra! Tôi cắt nguồn tư duy bằng cách ngồi xuống một phiến đá ven lối. Sau khi hít vài hơi thật sâu, để đưa tâm trí trở về với an định. Tôi chậm rãi châm điếu thuốc lá và định thần nhìn lại cảnh vật xung quanh…
Với một chút hoang mang xen lẫn trong mắt; Vẫn thế! Cảnh vật trước mắt, đồng thời cũng là cảnh giới đã bị xóa nhòa ranh giới, giữa hiện thực và huyền ảo. Tôi sửng sốt, không thể tìm ra đâu là ranh giới để gọi thành tên thực cảnh, và chỉ ra đâu là huyễn cảnh! Qua lăng kính to tướng của những dấu chấm than và chấm hỏi. Tôi quan sát dòng người cứ lũ lượt đi qua cổng của… Cái gọi là Đại Hội Long Hoa… “!?”. Một khái niệm mà ký ức trong tôi đã từng được nghe, thấy và biết qua những truyền thuyết của tôn giáo. Điều đó đã tùy ý tích lũy và đọng lại… ở đâu đó trong tiềm thức. Tôi hoàn toàn không tài nào xác định được, cột mốc thời gian nào trong quá khứ, từng đã tích lũy khái niệm này, dù chỉ là vô thức trong tôi?
Cuối cùng, tôi chấp nhận với quan điểm: Tôi đã bước qua ngưỡng cửa của không gian chiều thứ tư! Thế giới đó hoàn toàn là một thực tại tiềm ẩn ở phía bên kia của không gian 3 chiều đương đại. Đang dần tìm cách thích nghi với trạng thái sốc trong thế giới đầy huyễn hoặc này. Bất chợt tôi nghe vẳng trong tai, có thể mô tả rõ hơn là tận gốc rễ của tai trong (!). Từ thinh không, lan tỏa âm thanh của tiếng trống giục khai hội… rất dị thường.
Để diễn đạt chính xác hơn cho tiếng trống đó là; “Âm…” chứ chưa đủ để gọi được thành “…Thanh”!. Cái vẳng “âm ba” đó, tuy chưa đủ thành “âm thanh”. Nhưng cường độ năng lượng tiềm ẩn trong đó của nguồn sóng âm này. Đủ gây giao động cộng hưởng và lan tỏa trên toàn miền của thế giới mà tôi gọi là huyễn - thực cảnh đó!
Thế rồi bất giác, tôi cũng vội vã hòa vào dòng…;
Quả thật ngôn ngữ của nhân loại chúng ta đã vấp phải những trở ngại khó khăn nhất định ở thế giới này!
Ví dụ: Cứ sau mỗi một dòng diễn tả, tôi cứ phải ghi vào nơi cuối dòng một dấu “chấm than”!, hoặc “chấm hỏi”!!. Cứ mãi như thế, sao được? Nhưng không như thế, cũng không ổn! Công cụ ngôn ngữ đã tỏ rõ sự bất lực, khi phải mang sứ mệnh là mô tả về thế giới này.
Cho nên tôi phải diễn đạt tiếp theo dòng trên, đã bỏ dở khi nãy là: … hòa vào dòng… Thần Tiên (không phải dòng người) đó, mà đi đến cổng Đại Hội. Tôi ngóng thấy phía trước, mọi bậc Thần - Tiên. Đều phải đưa ra “Thiệp báo danh” như vé vào cổng cho vị soát vé trước cổng Đại Hội xem xét, trước khi vị này cho qua cổng. Bất giác, tôi lục tìm trong các túi của mình một cách vô thức. Quái! Tôi phát hiện trong tay tôi cũng có một “phiếu báo danh” như thế! Hồi ức nhắc lại cho tôi biết rằng: Tôi đã từng nhận được Thiệp Báo này vào một trong những ngày cắm sào nơi cửa Thiền, trên dọc dài đi về nguồn cội một cách tự nhiên theo trật tự lạ lùng của vũ trụ. Đó chính là núi Cấm của vùng Thất Sơn. Một trạm dừng chân nơi cửa Thiền, những lúc gối mỏi, chân chồn, lạc nẻo đi về.
Hóa ra địa phương vùng 7 Núi, chính là nơi mà thí sinh phải tới đó để nhận Báo Danh, dự Đại Hội Long Hoa trong truyền thuyết. Một địa huyệt của trời đất mà Nguyễn Đình Chiểu, mãi tận khi cuối đời mới có thể lĩnh ngộ được. Và ông đã kịp ghi lại, làm di chúc, ở phía sau của… Toàn Tập Thơ Văn Đồ Chiểu, cho thế hệ tương lai:
“Ngũ Hổ năm anh thấy đã mầu.
Ai ngờ đến nỗi Thất Kinh Châu?”.

Do thuật “phong thủy đại cuộc” thì: Núi Ba Vì thuộc đuôi rồng. Ngũ Hành Sơn thể hiện lưng rồng. Và Bảy Núi chính là đầu rồng với tên gọi Kim Thành Huyệt. Đồ Chiểu ngày trước đã lưỡng lự giữa Gò Công và Mỹ Tho. Để rồi sau thất bại thiên cơ, ông đã chọn Bến Tre, do huyệt mạch nơi Cửa Đại thuyết phục ông. Tuy nhiên, cuối đời ông mới “ngờ” được Thất Kinh Châu. Quả thật! Tổ tiên giống nòi đã từng bị chôn vùi biết bao uất khí, đầy oan uổng như thế, trong suốt quá khứ lịch sử của dân tộc. Những thực tại oan khốc này, đã đẫm đầy lịch sử từ ngàn xưa đến nay, mà vẫn khó có ai nhìn thấu đáo cho được.
Tóm lại: Trước hết, chúng ta phải ý thức rằng; Hội Long Hoa là của Trời Đất tự nhiên, tạo nên theo cách như có như không. Vì thế, những ai được xét và xem là “thí sinh” dự hội. Thì ít nhất phải biết cách đọc được Sách Trời (Thiên Thư) đã. Thật khôi hài khi cứ muốn mình dự hội mà lại không đọc được một chữ nào trong Thiên Thư. Trời đất không đùa với nhân loại chúng ta bao giờ cả. Chúng ta thử hình dung, một thí sinh cứ muốn bước vào trường thi. Trong khi thí sinh đó lại không hề biết đọc một chữ nào cả! Trò đời vốn thường diễn mãi những tấn tuồng đầy bi hài như thế đấy.
Phàm, hễ muốn đọc và hiểu được sách trời, thì trước hết phải hiểu được sách người đã. Sau đó mới có thể nói đến sách trời ít nhiều được. Xưa nay hiểu việc người mà không hiểu việc trời là có. Còn hiểu việc trời mà không hiểu việc người là chưa có tiền lệ bao giờ. Thế nhân chúng ta hoàn toàn không đủ tự ý thức bản thân mình đối với Hội Long Hoa. Thật sự hội ấy đã bế mạc từ rất lâu rồi. Vậy mà thế nhân chúng ta, vẫn cứ thi nhau đi tìm cho đến tận hôm nay… Tận thời điểm mà tôi đang chép lại những dòng miêu tả này, về những diễn biến của đại hội có tính huyền thoại đó. Mong sao qua đây, những ai còn đang tưởng tượng về Hội Long Hoa hãy ý thức thực tại lại. Ý thức thực tại bản thân, gia đình, người thân. Từ đó làm nền tảng vươn ra cộng đồng, xã hội về một thực tại cuộc sống mà chúng ta đang sống.
Nếu như trước đây, có ai đó đã triển khai và đưa Huyền Thoại Đại Hội Long Hoa vào đời thường. Thì hôm nay, tôi có trách nhiệm và không ngần ngại thông báo rằng: Huyền thoại về Hội Long Hoa đó. Hiện nay đã thực sự đi vào truyền thuyết mất rồi, không còn nữa. Có còn chăng? Thì điều này cũng thể hiện đúng như bản thể của nó là truyền thuyết mà thôi. Qua đó, chúng ta truyền nhắc lại cho mai sau về một giai đoạn đã từng có xãy ra sự kiện này. Thêm một lần nữa, tôi nhắc lại: Đại Hội Long Hoa đã thực sự bế mạc từ rất lâu rồi. Và hiện thân của nó hôm nay, đã là một truyền thuyết, không hơn không kém.
...Cuối cùng, cũng đã đến lượt tôi trình phiếu báo danh cùng vị soát phiếu. Trong bất giác, cả hai chúng tôi đều nhận ra nhau! Vị này, tôi đã có từng biết và hiểu trong quá khứ của lịch sử, nhưng chưa từng quen! Không qua lời nói, cả hai trao đổi qua ánh mắt và hoàn toàn hài lòng về sự hiện diện của nhau trước cổng Đại Hội. Điều này có thể được tôi mô tả thêm như:
Tự nhủ; À…! Hóa ra thiên cơ là như thế đấy. Bởi người gửi thông điệp vốn không chủ đích. Kẻ nhận thông điệp cũng hoàn toàn không chủ ý. Ứng hẹn, trao nhau một ánh mắt khải tín của định mệnh được gọi là đủ. Vừa bước qua cổng Đại Hội, tôi choáng ngợp trước thế giới của Thiên Trường đúng nghĩa. Có thể mô tả đại hội này với tên gọi là “Quần Tiên Hội”, vẫn chưa đủ. Bởi ngoài các nhóm Tiên Lữ còn có tất cả các vị Thần Khách tụ hội nữa. Như bên kia là nhóm Bát Tiên, không biết họ quá hải vào thời điểm nào mà đang hiện diện và tán gẫu cùng nhau trông rất vẻ… tiên phong đạo cốt. Kìa lại có nào là Dương Tiễn, cả cha con Lý Tịnh, Na Tra.v.v… Đó đây còn có cả Tam Thanh, rồi những Xích Tòng Tử, Quảng Thành Tử, Vân Trung Tử… Không kể xiết… cả thảy. Đầy đủ cả. Đầy đủ tất cả những vị Thần Tiên bao gồm trong quá khứ lịch sử thần thoại và tư duy chúng ta đã từng được biết đến, đều có mặt tại Đại Hội Long Hoa này.
Chỉ lạ mãi một điều: Một kẻ mà bụi tục còn vương gót giày, lang bạt, chán sự đời. Không thể hiểu vì duyên cớ dun rủi nào, mà lại “được đi lạc” vào Đại Hội này cho được? Kể ra cũng thật là lạ lùng, bởi khó có thể biết được nguyên do từ đâu lại như thế? Đó là tôi, một tục khách, mắt trần hẳn hoi (nên cứ trông vẻ như huyễn, như thực…). Duy nhất, hiện diện lẻ loi tại Đại Hội! Tôi ý thức và tự nhủ: Dù sớm dù muộn. Tôi cũng sẽ mô tả Đại Hội Long Hoa này lại cùng bè bạn (rõ vương lụy), đã bỏ quên giữa dòng đời, đang mãi ngụp lặn trong tục lụy, ôm mộng vớt trăng qua ngòi bút. Chỉ có điều mà tôi quyết tránh dẫm vào vết chân đi trước như sau:
Lưu ý:
Tôi không diễn tả thế giới này theo cách mà đã từng có một số rất hiếm người từng lạc vào miền cảnh giới này như: Hứa Trọng Lâm diễn thuyết Phong Thần trong quá khứ xa của lịch sử. Dấu chân của Hứa Trọng Lâm lại được Ngô Thừa Ân dẫm lên ở vào giai đoạn sau đó, qua tác phẩm Tây Du Ký. Và ở chừng mực hiện tại cũng mô phỏng không khá hơn hai vết chân trước đó là Kim Dung với Kiếm Hiệp trọn bộ.

Xét ở Việt Nam, xuất sắc và tiêu biểu có thể liệt kệ ở đây là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đồ Chiểu có vẻ kém hơn vài phần trong Lục Vân Tiên. Tuy nhiên ông cũng thể hiện được qua Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp.
Tất cả họ đều sử dụng lối hành văn gần với Văn U Mặc.
Họ nói chung thường lấy những hiện tượng trong thế giới quan của Kinh Dịch làm nhân vật và địa danh mà diễn thuyết trong tác phẩm của mình. Lấy những khắc chế, dung hòa của vận khí, kể cả huyệt mạch để mô tả xung đột trong tác phẩm.
Ví dụ:
1- Đồ Chiểu có ẩn ngữ “Bào Tử Phược và Mộng Thê Triền” (hai giá trị ám chỉ cuộc đời chỉ là bào ảnh, nhỏ nhoi, thoáng qua trong đời người ) làm hai nhân vật Tiều - Ngư. Đạo Dẫn, Kỳ Nhân Sư. Rồi địa danh Đan Kỳ, Nhân Khu v.v…
2- Nguyễn Du với Kim Vân Kiều có: nhân vật Kim Trọng. Khó khăn lắm, chúng ta mới có thể hình dung ra được điều ám chỉ đó chính là thời điểm của khí tiết giữa Thu. Bởi mùa Thu thuộc Kim. Một tháng bao gồm Mạnh, Trọng, Quý. Vậy Kim Trọng mà Nguyễn Du mượn để khắc họa đã hiện hữu chân tướng. Toàn bộ tác phẩm đều phải được đọc ở chỗ không chữ là như thế đó. May ra ta mới có thể hiểu và cảm nhận được chân giá trị của Truyện Kiều. Cho dù là một Giáo Sư, một khi không biết Kinh Dịch. Họ hoàn toàn không có thể hiểu được Nguyễn Du muốn nói gì qua tác phẩm Kim Vân Kiều. Đó là một thực tế.

3- Kim Dung Thì cũng mô tả như thế cả thôi: Chẳng hạn như Võ Lâm Ngũ Bá. Chẳng qua chỉ là mượn giá trị của Ngũ Hành mà mô tả. Đối với Kinh Dịch thì lý tính vạn vật nơi phương Bắc vốn cằn cỗi, hoang sơ, tiêu điều.
Nên nhân vật Bắc Cái nhất định phải là Cái Bang. Vốn thuộc âm nên sở hữu Chưởng nói chung là hợp lý. Nguyên do âm khí theo 6 kinh âm và xuất ra theo lòng bàn tay. Đối lập là Phương Nam. Thuộc Dương nên ngón nghề tất yếu sẽ là Chỉ. Dương khí theo 6 Kinh dương và xuất ra theo ngón tay.
Và Phương Nam vốn khí hậu ôn hòa, sinh sôi ngũ cốc, ắt phải giàu. Từ đó, nhân vật Lý Chính Thuần phải là Vua. Lại nữa; Cái lý của phương Nam vốn thuần dương, thuộc chính khí. Nên từ đó nhân vật “Lý Chính Thuần” phải có tên như thế.
Phương Đông đích thị là biển. Đảo cũng là nơi sản sinh toàn cây thuốc. Nhân vật Hoàng Dược Sư là đại diện. Sở dĩ có biệt danh Đông Tà bởi tính vốn thuộc Dương nhưng lại hành Âm. Âm thì phải mô tả là Tà vậy.
Đối lập là phương Tây thì có Tây Độc Âu Dương Phong. Chúng ta có thể hình dung theo cách đã trình bày là được. Dĩ nhiên đã là đại diện cho 4 mùa và tiềm ẩn 4 Hành, thì đâu hẳn là ai giỏi hơn ai cho được.
Tuy nhiên có nhân vật Dương Trùng Dương trong cổ mộ do: Dương Trùng Dương ở đây có nghĩa là ngày 6 tháng 6 ÂL. Theo lý của Dịch thuộc Mộ. Tính của Thổ vốn được bố trí ở vào trung tâm của ngũ hành. Nên võ công có bao gồm cả bốn nhân vật kia. Bốn tháng cuối của mỗi mùa thuộc Thổ và cũng đều Nhập Mộ. Dương Trùng Dương phải ở trong cổ mộ là tất yếu. Nhưng những kẻ dựa vào học vấn mà suy diễn nhân vật Dương Trùng Dương thành ra Dương Trùng Vương! Lại có người Bắc cho dân Nam vốn phát âm sai. Từ đó chỉnh lại thành ra Vương Trùng Dương mới đúng!! (đúng hơn là… tai họa).
4- Với Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân cũng không khác. Tôi có thể dẫn ra như Tam Tạng cưỡi Long Mã là ý nói đến Tiên Thiên Đồ. Do thiếu Hậu Thiên là sự thành, cho nên thầy trò mới bị Thần Quy nhận chìm khi đã thỉnh được Kinh. Còn hình tượng của Chim Đại Bàng là ý ám chỉ đến Lục Tổ Huệ Năng đi tìm Kinh mà ra. Dẫn tạm một vài ý mọn dễ hiểu như thế thôi.
5- Phong Thần của Hứa Trọng Lâm cũng hoàn toàn được xây dựng cùng một nguyên lý như thế cả. Chúng ta có thể dựa theo những diễn giải vừa qua là nắm bắt được toàn diện.
Tóm lại: Những tác giả ở trên, muốn mượn những giá trị đó, để mô tả về cảnh giới mà họ lạc vào trong lúc Thiền Định. Biết vậy, nên tôi không dẫm vào những vết chân đã hằn lối mòn đấy trong lịch sử chung của nhân loại xưa nay. Tôi cố gắng mô tả giống như thực tại có thể, như đã mô tả vừa qua. Đó là thế giới quan của huyền thoại. Chính xác hơn là thế giới thực tại tiềm ẩn phía bên kia của không gian chiều thứ tư.
Thống nhất trên quan niệm như thế. Tiếp theo, tôi sẽ mô tả lại những diễn biến phía bên trong của Đại Hội Long Hoa. Mục đích của Đại Hội này mở ra là để tìm người “thuần” cho bằng được con: “Ngựa Tiêu Sương”!
Vì thế, bài tiếp theo sẽ có tựa; Đại Hội Long Hoa - Thuần Tiêu Sương Mã.
.


NGỰA TIÊU SƯƠNG.
Ngựa Tiêu Sương đã từng bị dứt cương và mất dấu một cách tuyệt bí, trong một chừng mực của quá khứ lâu.
Và Tiêu Sương Mã thật sự đã đi vào huyền thoại cùng thần thoại tự bao giờ rồi. Trong những huyền thoại chung mà thế hệ hôm nay từng được biết. Bất chợt có khi nào hồi vọng về một ký ức xa. Cương giới ký ức có nguy cơ chập chờn mất dấu nơi cận vó của Thiên Lý Mã!
Truyền thuyết có từng kể lại rằng:
Sở dĩ có tên gọi Thiên Lý Mã? Là bởi loài ngựa này, có khả năng đi ngàn dặm (thiên lý) đường, chỉ gói gọn trong một ngày! Nơi xuất xứ truyền thuyết của Thiên Lý Mã, là ở vào thời loạn liệt quốc xuân thu. Thế nhưng, nghe đâu thiên hạ vẫn truyền tai nhau; Còn có một loài ngựa khác hơn Thiên Lý Mã nữa!
Nguồn năng lượng tiềm ẩn của loài ngựa này, nếu xét và lấy theo khả năng của Thiên Lý Mã để so sánh thì:
Chúng ta cứ xem thời khắc hạt sương tan trên đầu ngọn cỏ của buổi sớm mai làm thước đo. Loài ngựa ấy, có thể đi ngàn dặm, khi hạt sương buổi sớm chưa kịp tan trên đầu ngọn cỏ! Vì thế nên mới có tên là Tiêu Sương Mã. Một giống ngựa của huyền thoại. Tả cách khác, gần đúng hơn nữa: Là chủng ngựa của Dòng Thần Tiên nơi đầu nguồn quá khứ. Đó là những gì trích ngang, đã được ghi trong lý lịch của Ngựa Tiêu Sương huyền thoại.
Và huyền thoại đó, có toàn cảnh như sau:
Thuở hồng hoang… Hỗn mang cỡ; Thần thánh, ma quỷ, và con người, còn chung sống lẫn lộn với nhau! Ví như tiều phu đi vào rừng, lắm lúc vì nợ, có thể gặp Quỷ Núi! Kẻ chán đời đi lang thang, thoảng khi tại duyên, ắt được ngộ Tiên sa!! (tôi kể, có điển tích Từ Thức làm chứng).
Huyền thoại về chốn Thiên Bồng lúc bấy giờ từ bởi: Nguyên do khả năng của Ngựa Tiêu Sương vốn có nước đại như thế. Nên Trời ấn định chức Nguyên Soái của chốn Thiên Bồng, sẽ cưỡi Ngựa Tiêu Sương, để đi tuần khắp vòng Trời, vào thời khắc Trời mở cửa và Đất đóng cửa hằng ngày. Chúng ta phải biết; Duy nhất chỉ có Ngựa Tiêu Sương, mới đủ “mã lực” để đi tuần định kỳ, 4 cửa Trời trong ngày mà thôi. Một vòng Trời còn được gọi là một độ “Mông Hạn Ảnh”! Và Tiêu Sương Mã Đáo ở tại cửa mà ta quen nghe gọi, là Ngọ Môn Quan (Nam Thiên Môn).
Trong sự hời hợt chung của tư duy thế nhân chúng ta. Khó có ai có thể hình dung được sự uy lẫm của một vị Nguyên Soái của chốn Thiên Bồng là như thế nào cả. Chúng ta đã tích lũy kiến thức về vị Thiên Bồng Nguyên Soái này qua tác phẩm Tây Du Ký của tác giả Ngô Thừa Ân. Từ đó, hình ảnh của vị Thiên Bồng Nguyên Soái này, được hình dung qua sự lôi thôi, nhố nhăng, của một nhân vật trừu tượng Trư Bát Giới! Sản phẩm tư duy đó, được hình thành từ vốn vay “ân sủng”, từ nguồn tư duy rơi **** “thừa”, của “Ngô Thừa” Ân mà thôi. Một tai hại đong đầy cho định kiến chung hiện nay.
Thế rồi, ngày lại ngày. Tháng tiếp tháng. Năm nối năm; Vị Nguyên Soái của chốn Thiên Bồng cùng Tiêu Sương Mã tung vó tuần hành, viễn du khắp cả vòng trời suốt cả 2 lượt, sớm tối đi về. Phàm mệnh đề vốn đã là tính viễn du của những lãng tử, ắt sẽ hấp thụ khí phiêu bồng khắp nơi, mà sinh ra chất lang bạt là tất định.
Và tất nhiên định mệnh đó, đã khiến cho tính lãng du khắp thiên nhai ngày ấy, phải vương hạt bụi trần sau gót giầy. Trong một trớ trêu của Tạo Hóa mà vị Nguyên Soái cùng Ngựa Tiêu Sương phải Tuần Hành trước Ngọn Gió Đông, ngang qua một Tiểu Tiết… Cái khí se lạnh lúc hoàng hôn sau Tiết Lập Đông, khiến kẻ lãng tử lỏng nhẹ cương. Ngựa Tiêu Sương lơi vó nhạc Tuần, từ Mạnh… Hành sang thận Trọng… lúc qua cuối ngõ khi Đất đóng cửa.
Bất chợt ai đó! Sớm hé cửa Cung Hàn, cuối nẻo hoàng hôn… (Chỉ chừng đó thôi…)*.
Thôi, Chết! Bước chân kẻ lãng tử, khéo vướng phải sợi tóc của Tiên Nga, lơ đễnh giăng ngang lối nguyệt mất rồi.
Kể từ thời điểm đó. Sợi tóc tơ của Tiên Tử nơi Cung Hàn đã khéo vướng chân, khiến cho kẻ lang bạt… lỡ vương, rồi tự vấn vào bước chân hoang: Và rồi sau Tuần Hành từ thận Trọng nối đến Quý...! Mặc cho Vũ Điệu Nghê Thường, luân khúc cùng nhịp Vó Nhạc Tiêu Sương. Khiến cho Nguyên Soái chốn Thiên Bồng, quên lối về Nam Thiên Môn đúng thời khắc. Nguyên do mải mê mà quên lưu ý từ Tiểu Tiết đến Đại Tiết. Bởi mùa đông nên khí đất trời cũng khiến cho Tuyết pha Sương. Bởi cớ đó nên Hạt Sương chiều hôm, lâu tan hơn thường lệ. Kẻ lang bạt ỷ lại vào vó Ngựa Tiêu Sương. Ngỡ rằng dáng sương còn mọng chưa phai, lướt qua Tiểu Tiết… mà chuốc lấy đọa đày.
Kể từ thời điểm của sự kiện đó xảy ra. Ngựa Tiêu Sương đã trở thành Ngựa Hoang, tung vó đi vào huyền thoại chốn viễn xứ thiên nhai…
Thời gian thắm thoắt... Trải qua một Hội Đất Trời vừa đủ.
Chính vì thế:
Đại Hội Long Hoa mở ra chính là để tìm cho được kẻ đủ sức Thuần Tiêu Sương Mã. Xét lược thao tam thế. Nhân loại chúng ta cũng đang sống trong Hội Ngọ của đất trời. Vận, Thế, Chu, Kỳ, Tuần… đều là Ngọ! Tất cả vạn sự trong tam lý Trời – Đất – Người, đều đã tụ hội. Hiện tại, chúng ta chỉ còn mỗi một việc là chờ đến Thời, Khắc nữa mà thôi.


Điểm qua huyền thoại của Tiêu Sương Mã vừa nêu như trên. Chúng ta đủ hình dung được; Tại sao lại phải có Đại Hội với tên gọi Hội Long Hoa. Đồng thời cũng ý thức tầm vóc của Đại Hội đối với khả năng của mỗi cá nhân chúng ta mà quy tâm kiến tánh thực tại bản thân.
Thiết nghĩ… Tôi nhất định cũng cần phải lưu ý thêm. Để cho đa số trong chúng ta cứ lầm tưởng về vị giám khảo, chủ trì đại hội này:
Cuộc Thế hôm nay tuy là Hội Ngọ nhưng Vận, Hành, vốn lại là Kim Cuộc! Cái lý ở chỗ âm bồng dương, dương cõng âm. Rất khó để xem xét thấu đáo cho dễ dàng được. Để dễ hiểu hơn với quan điểm hiện nay; Ví như Hội Ngọ là một dự án cần khai thác. Thế nhưng để Vận Hành được thì; Nguồn vốn đầu tư phải là Kim Cuộc. Đó là trình tự.
Cho nên chúng ta nhất định phải nhận và xác định được; Thế cuộc này là Kim Cuộc. Kim Cuộc với họ tên đầy đủ theo khai sinh là: Kim Môn Đại Cuộc! Là cuộc cuối. Đồng thời Kim cuộc cũng là “Tàn Cuộc”! Bởi tự tính của Kim Cuộc vốn là như thế. Nên vị Chủ Trì Đại Hội Long Hoa, không thể có ai khác hơn ngoài: Tây Vương Mẫu.
“Sau ba hồi trống khai hội vừa dứt từ hướng đông bắc của thiên trường. Âm ba tiếng trống như sấm rền vọng thinh không, lan tỏa chưa dứt thì:
Từ Nam Thiên Môn. Cửa "cảnh" trời vừa mở, tất cả các chư vị thần tiên hốt thấy bóng Tiêu Sương Mã phóng ra giữa sân thiên trường như tia chớp. Bốn vó vừa chạm mặt đất. Ngựa Tiêu Sương tung hai vó trước, chồm lên đá liên hoàn cước vào không trung và đình trong mã bộ: Vó trái điểm đất, vó phải chỉ trời cùng với tiếng hí lộng, vang rền một tràng dài, đinh tai khắp đại hội. Lấp lóa cùng nắng mai; Bờm và tóc rối mềm sương sớm, lòa xòa phủ trước trán Tiêu Sương, tung bay hoang dại cùng gió lộng giữa sân thiên hội.
Ngay tức khắc, từ phía đông của thiên trường. Nhóm Bát Tiên bước ra với Lý Thiết Quải dẫn đầu. Thoáng ngạc nhiên, tôi nghĩ trộm: Có lẽ Lão Tiên này đã quá chán với cái nạng sắt, dò từng bước trong bộ dạng ăn mày cả nghìn năm rồi. Nên nóng nảy muốn tiên phong mà ra bắt Ngựa Tiêu Sương trước chăng?!
Tuy với bộ dạng như thế, thoắt một phát. Lý Thiết Quải đã chộp được bờm Tiêu Sương và tung mình nhảy lên lưng nó một cách gọn gàng. Không để cho Lão Tiên kịp yên vị. Ngựa Tiêu Sương búng vó lao vào trời xanh như một mũi tên. Ngay lập tức, nhóm Thất tiên lướt theo hỗ trợ…
Thú thật. Với đôi mắt thịt, trần tục như tôi. Không thể nào quan sát cũng như theo dõi kịp những tình huống nào diễn biến lúc đấy cả. Chỉ có thể mô tả lại được là: Sau khi bụi của cơn cuồng phong lắng xuống sau sải vó của Ngựa Tiêu Sương mất hút vào thiên nhai. Nhóm Bát Tiên với người nào người nấy trong bộ dạng thiểu não, đầu cổ đầy bụi sương, khập khiễng dìu nhau trở lại sân thiên trường…!? Nhóm Bát Tiên có tới những 8 mạng, liên hoàn thay nhau cũng chỉ có thể cầm cự được đôi ba khắc...
Sau một nước đại ra oai. Ngựa Tiêu Sương lại về đến sân thiên trường trong đại hội. Chờ xem, kẻ Thần Tiên nào tiếp theo, muốn nếm mùi sương tuyết khắp cõi thiên bồng.
Tiếp theo sau nhóm Bát Tiên là Thần Na Tra. Na Tra lướt bánh xe lửa, chống ngược hỏa kích, nhún mình phi lên lưng ngựa. Nhanh hơn gió, Ngựa Tiêu Sương lại vút vào trời xanh. Với 36 phép thần thông luân chuyển hóa thân trên lưng Tiêu Sương. Thần Na Tra cũng chỉ có thể trụ được tới cửa Bắc là ngộp nước. Có lẻ do Na Tra đã dùng gân rồng làm cương chế ngự Tiêu Sương hay sao mà...? Khiến Ngao Thuận ( như ngẫu nhiên) dùng nước biển Bắc, nổi mưa dập tắt hỏa xa và hỏa kích của Na Tra khi qua ngang cửa này? Dĩ nhiên Na Tra "tắt lửa", đành thúc thủ. Tính từ Cảnh giới của Nam Thiên Môn. Na Tra Đành về Hưu non tại nơi giác hải của Ngao Thuận vậy.
Cứ thế, hết lượt này đến lượt khác. Hết nhóm này tới nhóm khác mà vẫn chưa có thể cưỡi được Ngựa Tiêu Sương trong vòng một nước đại. Tôi cần diễn tả rõ hơn là: Một nước đại của Ngựa Tiêu Sương là qua một cửa trời. Giáp một vòng trời phải qua 4 nước đại. Mỗi lần Ngựa phi nước đại, tiếng vó ngựa nghe tựa như hàng vạn vó ngựa nện móng chứ không phải một con. Bụi lốc cuốn theo vó chân như cuồng phong, bão lốc mù trời. Cây cối, núi rừng bị cuốn ngã rạp mỗi khi vó ngựa vút ngang qua. Những tràng hí dài của Tiêu Sương hòa cùng tiếng gió mưa, sấm chớp gây rúng động cả một góc trời tây thuở ấy. Hễ cứ mỗi lần tung vó là Tiêu Sương nhất thiết chạy giáp một vòng trời rồi mới chịu quay trở lại giữa sân đại hội. Ngạo nghễ mài móng tung bụi gió, lắc bờm rải khí sương, thách thức kẻ tiếp theo.
Cứ thế, đại hội diễn ra suốt cả mùa Thu mà vẫn chưa một ai theo nổi Tiêu Sương một vòng Trời cả. Quy định; Nếu cưỡi được Tiêu Sương lần lượt qua tất cả 4 vòng trời (không phải là 4 cửa đâu đấy), mới có thể khẳng định là thuần phục được nó. Ngựa Tiêu Sương càng chạy, càng hăng. Thời gian về cuối Thu, núi rừng xơ xác cành dưới vó ngựa. Lá vàng cuốn theo bụi lốc đuổi theo sau vó, trông cảnh tượng thật vô cùng hùng vĩ. Cho dù có là một đạo diễn giàu óc tưởng tượng đến mấy, cũng không thể dựng cảnh để mô tả lại cho được. Đó là một thiệt thòi cho nền nghệ thuật thứ Bảy của nhân loại chúng ta nói chung.
Đã tận mắt chứng kiến cảnh tranh tài thuần Tiêu Sương Mã suốt mùa Thu của các bậc Thần Tiên. Tôi gần như chết khiếp. Bởi tôi từng đã biết qua tiếng tăm cũng như tài nghệ của từng vị trong quá khứ lịch sử rồi. Đêm về mệt mỏi (chỉ đứng theo dõi thôi cũng đắm đuối hết cả rồi), tranh thủ ngả lưng, chợp mắt lấy sức để ngày mai... xem tiếp. Đêm nằm trong Động Thiên Thai. Tai vẫn nghe muôn vàn tiếng vó ngựa sải vó ầm ầm khắp trời. Tiếng gió mưa rít theo tiếng sấm chớp, cuồng phong, hòa cùng tiếng hí vang rền của Tiêu Sương mà khiếp đảm. Thỉnh thoảng, lại có một vài cành cây rừng. Bị lốc vó của Tiêu Sương cuốn thốc, đập vào tận vách trong động, lôi kẻ lạc khách đang lạc trong mộng trở ra khảo thí!
...Tiết trời đã giao mùa sang đông. Vậy mà mồ hôi trên mình Tiêu Sương ướt đẫm. Hai cánh mũi nở to, hơi thở hồng hộc, cuộn hơi khói xộc thẳng ra theo hai hốc mũi. Những vị Thần Tiên càng về sau, càng cao pháp thuật hơn. Càng nuôi hy vọng Ngựa Tiêu Sương đã thấm mệt, nên dễ thuần phục được. Với tâm trạng vừa mừng vừa lo, họ tranh nhau thi thố mỗi khi Ngựa Tiêu Sương về đến. Trước đó, nơi tôi đã mô tả ở những dòng vừa qua...
...Nhìn lại mình thì... ! Tự nhủ; Được có mặt ở bên trong cảnh giới của không gian này để chứng kiến diễn biến của Hội Long Hoa là cả một kỳ duyên đắt giá vô cùng rồi. Và tôi cũng (không dám nói là lượng sức) tự biết loại mình đứng ra ngoài cuộc thi Thuần Tiêu Sương từ bao giờ rồi.
Đến khi thấy Ngựa Tiêu Sương nhễ nhại mồ hôi, thở hồng hộc sau mỗi vòng trời về đến. Tôi động lòng trắc ẩn, bèn xách một thùng nước, mang đến cho Tiêu Sương uống đỡ khát. Ngựa Tiêu Sương nhìn thấy, không ngần ngại vục mõm uống một hơi cạn sạch! Tiện tay, tôi vơ vội vài nắm cỏ chìa ra trước mắt Tiêu Sương. Cũng tiện mõm, Ngựa ta thè lưỡi, cuốn gọn nắm cỏ vào mồm, nhai vội cho kịp quần hội đang chực chờ cương chế.
Và cũng kể từ thời điểm đó. Cứ mỗi lần Tiêu Sương Mã tung vó vào thiên nhai. Tôi lại chạy tới sơn khê, lo việc sách nước và cắt cỏ chờ sẵn. Khi về đến, Ngựa Tiêu sương lại chạy tới chỗ tôi nhai vội vài miệng cỏ và vục nhanh thùng nước lấy sức. Chờ để tiếp tục cho kẻ tiếp theo đo vó ở đâu đó dọc lối gió, đường mây nơi thiên nhai hải giác. Có kẻ cảm thông nên Ngựa Tiêu Sương dường như lên tinh thần. Ra chiều có vẻ dũng mãnh hơn nữa. Sau một vòng trời, Ngựa Tiêu Sương lại tức tốc chạy đến bên tôi để nạp năng lượng. Không hẹn, chúng tôi đã trở thành đôi bạn từ lúc nào không biết. Cùng nhau hỉ hả mỗi lần có một ai đó?. Ngã lăn quay sau vó ngựa Tiêu Sương.
Và rồi cũng đến lúc tàn Đông. Điều này cũng có nghĩa là Tàn Hội. Thái Ất, kể cả Tam Thanh cũng ra tay rồi. Thậm chí kể cả những vị tự lượng sức bỏ cuộc cũng phải buộc cưỡi thử luôn cả rồi. Thế mà vẫn không thể thuần được Ngựa Tiêu Sương! Nguy cơ bế mạc đại hội trong cảnh ngơ ngác của cõi Thần Tiên nói chung, dần hiển hiện trước mắt.
Để độc giả chớ nghi ngờ tôi nói quá quắt; Chẳng hạn như Thái Ất Chân Nhân (thầy của Na Tra), cũng chỉ có thể theo được Tiêu Sương Mã chưa đủ đến "giáp" vòng của thiên nhai. Bởi tài nghệ cũng như phép thuật của Thái Ất phải "đổ" lại "cận cảnh" giới... Giáp Ngọ Môn mà thôi. Tóm lại: Thái Ất không thể hiển hiện nơi Giáp Ngọ Môn cho được!
Đó đây, đã có từng nhóm các vị Thần Tiên trong bộ dạng tiu nghỉu. Lục đục theo nhau trong lẳng lặng bước ra cửa đại hội ra về. Tôi cũng hòa vào dòng Thần Tiên đó mà đi ra cửa đại hội để về...

Bất chợt có một vị Thần hay Tiên nào đó trong đám đông, chỉ vào tôi và nói to lên: Còn vị này vẫn chưa cưỡi Ngựa Tiêu Sương! Tất cả đại hội đều quay lại nhìn tôi ngạc nhiên! Và họ nhất loạt ồ lên. Phải rồi! Vẫn còn một thí sinh chưa thi. Đang trong sự thất vọng bởi nguy cơ phải chờ đến Đại Hội lần sau. Điều này có nghĩa là 12 ngàn năm sau nữa, mới đến kỳ mở hội theo quy luật định kỳ của trời đất được. Các chư vị vây lấy tôi thúc giục.
Tôi hoảng quá, gãi đầu, gãi cổ... phân trần: Tôi chỉ là một kẻ tục nhân lạc lõng duy nhất ở đây. Không biết vì duyên cớ gì, gì... nào đó, mà lại được đi lạc vào chốn này? Chẳng có tài nghệ gì cả. Lấy đâu mà dám cả gan "múa rìu qua mắt... quần Tiên" cho được. Tóm lại, tôi diễn tả một cách rất thói tục là: Xin các vị bỏ qua cho.
Lại bất chợt có một vị nào đó "nhiều chuyện". Cắt xen ngang vào: Tôi thấy nãy giờ " tục huynh đệ " đi tới đâu, Ngựa Tiêu Sương cũng lẽo đẽo đi theo tới đó kia kìa?! Tôi lúc này mới nhìn lại đầy bất ngờ, khi thấy Ngựa Tiêu Sương đang đứng phía sau lưng mình!. Vội phân bua: Không đâu. Tại vì tôi lấy nước và cỏ cho Tiêu Sương. Nên có lẽ nó mến, mới có vẻ như thế thôi. Lại một giọng nào đó cất lên từ trong quần Tiên: Không cần biết bởi bất kể kỳ duyên nào. Phàm đã có mặt tại đại hội là đủ tiêu chuẩn và buộc phải dự thi. Có như thế mới gọi là "tàn hội" được.
Chỉ chực có thế. Cả đại hội nhao nhao cả lên: Phải rồi! Phải rồi! Đã có mặt là nhất định phải thi. Ngay lập tức, tất cả chư vị Thần Tiên dạt ra và quây thành vòng tròn, khiến tôi ngơ ngác lẫn Ngựa Tiêu Sương, trở thành đứng giữa sân đại hội. Âm thanh của tất cả Thần Tiên nhất loạt reo hò:
Phải cưỡi!... Phải cưỡi!... Phải cưỡi!...
Tôi e dè nhìn Ngựa Tiêu Sương? Nó không có vẻ gì là nghi ngại tôi cả. Trái lại, nó khịt khịt mũi và dụi đầu với chòm tóc rối, phủ đầy bụi gió sương vào tay tôi! Bấc giác tôi đưa tay cào cào, vuốt bờm tóc rối nùi trên cổ của nó. Ngựa Tiêu Sương vẫn đứng im! Tôi vỗ vỗ lên trán nó. Nói khẽ, thoáng nhanh qua tai nó: Các vị đó ép quá, t*o thử một chút cho họ im đi nhé? Nói rồi tôi nắm bờm Tiêu Sương và phốc lên lưng nó...
Lạ thay! Ngựa Tiêu Sương vẫn đứng im!! Cả đại hội chợt im vắng đến lặng cả không gian của cảnh giới đó. Bất chợt Ngựa Tiêu Sương gõ móng vài nhịp rồi phi nước kiệu... vòng quang đại hội. Sau đó, cũng không đổi nước vó. Ngựa Tiêu Sương phi lên thinh không và đưa tôi dạo quang vòng trời hết một lượt trước sự ngơ ngác của quần Tiên. Như để cho tôi dần quen với cảm giác. Vòng thứ hai, Ngựa Tiêu Sương chuyển vó dần ra nước đại. Và rồi Ngựa Tiêu Sương đã đưa tôi đi vòng quanh cõi thiên bồng suốt cả 3 lượt nữa bằng nước đại.
Cuối cùng, sau khi qua 4 lượt khắp cõi thiên bồng. Tôi và Ngựa Tiêu Sương về đến sân đại hội trước sự ngơ ngác còn hiện rõ trong ánh mắt mọi vị Thần Tiên lúc bấy giờ. Bất chợt (tôi mượn ngôn ngữ của Nhà Phật làm phương tiện là); Trong một sát na - toàn hội chợt đồng nhất với tinh thần tham thông hốt ngộ:
Thì ra... Thuần Tiêu Sương Mã chính là ở cái Nhân - Nghĩa, chứ không phải tài nghệ hay pháp thuật của Thần Tiên hay Ma Quỷ gì cả! Ngựa Tiêu Sương từ ngàn xưa kia, vốn đã là Thần Mã của cõi Thần Tiên rồi. Cái cương - chế - ngự Tiêu Sương phải xuất phát từ sự chân thành của cái Đức. Từ đó có thể cảm - thông - hóa - ứng, đối với Ngựa Tiêu Sương mà nó thuận cho cưỡi.
Cho dù khắp trong lục cõi, bất kể là trần tục. Nếu một khi có tính chân thành xuất phát từ sự cảm thông chia sẻ, ắt sẽ cảm hóa. Và vạn vật, kể cả Thần Tiên, Ma Quỷ, tất cảm ứng mà thành vạn sự. Toàn đại hội Thần Tiên lúc đó hoàn toàn bị thuyết phục trong một điều mà ta quen gọi là 'Đạo Lý" tiềm ẩn bất ngờ này.
Cuối cùng Đại Hội Long Hoa cũng đã bế mạc trong sự chờ đợi chung suốt bao ngàn năm nay là thuần cho được Tiêu Sương Mã. Trong Đại Hội ngày đó. Có một điều rõ ràng mà trong lịch sử của Thiên Thư đã ghi rằng: Tôi chính là người đã thuần được Ngựa Tiêu Sương trong Hội Long Hoa.
Sau ngày đó; Sáng hôm sau... Lạ thay! Không gian và cảnh vật của ngày hôm qua đã đi vào hư không, phía bên kia cánh cửa của không gian chiều thứ tư mất rồi! Gió sương đã đóng cánh cửa (then tạo hóa) đó, đối với mọi kẻ trần tục, đều bất khả xâm phạm. Đó là điều mà chúng ta quen gọi một cách vô thức là "Phong Tỏa" (gió khóa) hoặc "Niêm Phong" (gió đóng), một cách lạ lùng không có thể hiểu được đối với tư duy đương đại.
Kỷ niệm về cuộc thi của Đại Hội Long Hoa. Cứ khiến tôi bâng khuâng một cách lạ thường trong suốt khoảng thời gian sau đó cho tận mãi đến ngày hôm nay. Đêm đêm, thỉnh thoảng trong giấc ngủ chập chờn giữa chốn núi rừng cô quạnh. Tôi vẫn thường vẳng nghe tiếng hí của Ngựa Tiêu Sương, chen lẫn tiếng vó ngựa là cuồng phong vang vọng tìm về...
Tôi biết, và đồng thời cũng nhận được thông báo qua Thiên Thư: Hội Long Hoa chỉ là kỳ thi Thứ Nhất! Còn hai kỳ thi nữa, nhất định phải ứng thí cho kịp kỳ, theo luật định của Tạo Hóa !!.
Điều này hiển nhiên như câu: "Thiên - Địa - Nhân gian đồng nhất lý". Vì thế nhất thiết phải qua đủ 3 kỳ thi!!! Đại loại như Cá Vượt Vũ Môn ắt phải qua 3 đợt sóng. Từ khi trở về không gian 3 chiều sau cánh cổng của không gian chiều thứ tư. Tư duy cũng như quan điểm của tôi có nhiều biến đổi lạ thường! Tôi ý thức được rằng: Những điều đó, chỉ có thể chôn chặt trong tâm tư của riêng tôi mà thôi. Tuyệt đối không có thể giải bày cũng như chia sẻ cùng bất kỳ ai cho được. Bởi đó là những điều chỉ xảy ra ở nơi mà Nhà Phật có từng mô tả: "Phi tưởng xứ địa phương". Tôi có thể mô tả cụ thể và ngắn gọn hơn với hai chữ: "Mặc Khải"!
Tôi biết được: Hai kỳ thi sắp đến, càng phức tạp gấp bội phần, so với Hội Long Hoa. Trong khi tôi thuần được Ngựa Tiêu Sương trong Hội Long Hoa? Chẳng qua do xuất phát từ đáy lòng là một tâm tư hoàn toàn cách vô khởi, rất vô tư. Tư tưởng không gợn bọt bụi nào, cho dù đó là bụi của cõi Thần Tiên hay Trần Tục. Một thành quả may phước, bởi nguyên nhân tự tính của bản thân, đã vốn như thế. Tôi tin và hiểu rõ chính mình.
Cũng sau sự kiện Hội Long Hoa. Tôi suy gẫm rất nhiều và rất nhiều điều đã thấy được ở không gian phía bên kia. Cuối cùng tôi tự nhủ: Càng cao danh vọng, chỉ càng dày gian nan thêm thôi. Tôi lại vốn không màng những điều như thế. (vốn đã bỏ lại chốn xa hoa của Sài Gòn sau lưng, và tìm về nơi biển xa, đảo vắng). Ai muốn cứu nhân độ thế? Cứ tiếp tục tìm dự kỳ Hội sắp đến. Tôi chỉ muốn có một cuộc sống bình dị, đơn giản như mọi người dân tầm thường nhất, sau những tháng ngày đã trải qua. Tôi chỉ muốn được quay trở về với cuộc sống đời thường như đã từng... thường sống.


Bỏ mặc kỳ hai lại nơi giác hải mà Trời đã khải thị: Pháp Hoa Hội!


II - KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ 5!
(Ký Sự Ngục Thứ 12)

Tôi tự nhủ và xác quyết một cách vững vàng rằng; Trước mặt tôi đích thị là sông Nại Hà trong truyền thuyết!

Mặc dù cảnh giới xung quanh, không mô phỏng giống như những gì tôi đã được biết qua sách sử, từng mô tả về dòng sông này. Tôi ý thức một cách rất rõ ràng là mình vừa bước qua cánh cổng của không - thời gian 4 chiều. Bởi thế giới mà tôi đang lạc bước vào, vốn là miền địa phương của "Ty Xứ". Một nơi mà Nhà Phật gọi là chốn "tưởng xứ địa phương", đối với ngôn ngữ cũng như tư duy nhân loại của chúng ta.

Giữa đêm hoang lạnh. Sương đêm mờ ảo che phủ dày đặc. Trước mắt tôi chập chờn hiện ra là một cảnh giới rất dị thường! Trong nhất thời lúc đó, tôi không hề biết rằng mình vừa bước vào không gian chiều thứ 5. Do cảnh vật đầy ảo mị đó, có vẻ như thôi miên ý thức tôi mà sự hiếu kỳ cứ thúc giục tôi dấn bước tới.

Trong thế giới của không gian chiều thứ 5 năm này. Mật độ vật chất dày đặc đến nỗi; Không gian xóa nhòa mọi ranh giới cảnh vật thành một màu đen mờ đặc. Hơi thở quyện đầy không khí nặng. Thời gian cũng bị che khuất mọi thông tin về nó. Thậm chí khái niệm thời gian dường như không hiện hữu nữa rồi. Tôi chỉ có thể mô tả là không biết đã bao lâu, tôi dò dẫm đi chập chờn một cách nặng nề như thế...

... Và rồi trước mắt tôi, trong không gian mờ đục, thấp thoáng hiện ra một dòng sông chắn ngang! Tôi định thần nhìn kỹ thì thấy đó là một dòng sông cạn trơ đáy! Bất giác, tôi cố gắng nhìn quanh... Và thấy chiếc cầu bắc ngang sông ở ngay phía trước mặt.

Như tôi đã diễn tả ở những dòng mở đầu; Khi nhìn thấy chiếc cầu bắc ngang sông. Tôi biết mình đang đứng trước dòng sông huyền thoại đầy ám mị của không gian chiều thứ 5. Đó là dòng sông chắn ngang ranh giới của miền "Ty Xứ". Theo truyền thuyết thì trên trời dường như có sông Ngân Hà. Dưới đất thì hiện diện sông Hằng Hà. Và Âm Phủ cũng tàng ẩn sông Nại Hà!

Trong cội nguồn văn hóa của người Việt, có đôi chút khác biệt với người Hoa, khi mô tả về dòng sông này. Ví như cây cầu bắc qua sông Nại Hà chỉ đơn độc mỗi một cây cầu bằng tre mà thôi. Nó không phải là cây cầu bằng đá. Cây cầu dẫn vào âm phủ, chính xác phải được cấu tạo chỉ là một cây tre đơn độc. Được bắc dập dềnh ngang sông Nại dài mịt mù. Không hề có lan can, tay vịn hoặc cây chống gì cả! Mọi linh hồn khi nhập âm ty, nhất định phải đi qua trên cây cầu tre ấy. Phía bên dưới là một dòng sông mà nước là máu tanh hôi đen thẳm. Dòng sông máu đấy vốn là kết huyết tinh từ những kẻ chết oan khốc bị lạc hồn, lạc phách. Trong dòng sông thì đầy rẫy những thuồng luồng, rắt rít. Chực chờ những linh hồn nào đi ngang qua mà tranh nhau nhảy lên, hòng đớp lấy mà lôi xuống dưới.

(...Nhấn đoạn bổ sung...:

... Có một nguyên lý để hình thành dòng sông đầy máu oan hồn này. Tôi cũng nhất định phải mô tả cho chúng ta hiểu thêm. Thường thì con người có đủ 3 hồn và 7 phách (vía) đối với Nam. Riêng người Nữ thì có đến 9 phách. Hồn thì ngụ trong máu huyết, Phách thì lại trú trong dịch tinh (tuỷ...). Do hồn ngụ ở trong máu nên ta thấy máu chảy nhiều, khi nhìn vào đấy, ta thường có cảm giác ớn lạnh hay khiếp đảm. Lúc chết, máu cạn đông lại hoàn toàn thì linh hồn cũng theo đó mà thoát ra hết. Riêng thể phách rất dễ tán, nên rất khó ra hết được một lượt. Nếu linh hồn ra đủ 3 và thể phách cũng ra đủ 7 thì người đó nhất định chuyển kiếp (đầu thai) rất nhanh. Nếu như chưa đủ phách thì linh hồn còn phải vất vưởng mà chờ hội tụ cho đủ phách mới có thể chuyển kiếp được. Vì nguyên do đó cho nên ta thấy khi chết; Nhất định phải quàng thi thể lại 3 ngày. Mời các vị lại với tiếng kèn trống, đọc kinh, gõ mõ... với mục đích là để nhanh siêu thoát. Tuy các vị ấy cũng không thể hiểu nguyên do từ đâu, chỉ một mực tin như thế là đủ. Bởi những điều này nằm ngoài khả năng tư duy của họ.

Ví dụ: Do bản tính nhẹ và hay tán. Nên khi chết, thể phách tán ra bởi những chấn động kể cả âm thanh xung quanh và tiềm ẩn trong thi thể mà không thoát ra được. Mục đích của tiếng kinh, mõ, trống, kèn nói chung. Cốt là làm bão hòa mọi âm thanh bất chợt khác. Từ đó thể phách mới dần tụ lại và thoát ra bên ngoài để hội cùng linh hồn được. Chứ thỉnh thoảng lại có một tiếng động (nhất là giữa đêm khuya vắng lặng) thì thể phách đang tụ, lại thình lình tán ra mất, không thoát ra được. Ta có thể nhận được điều này qua những biểu hiện:

Khi ta nhìn vào một cái xác nào, mà ta cảm thấy rất yên bình, thì đó là hồn và phách đã ra hết. Khi phách còn thì ta cảm thấy có điều bất an, gợn sợ khi nhìn vào xác. Và thường thì những xác này hay bị xì hơi, gây mùi rất khó chịu cho mọi người xung quanh.

Về phần linh hồn nếu những ai chết bởi tai nạn nói chung. Máu của họ nếu chảy ra nhiều và bị thấm vào đất. Linh hồn sẽ bị vương ở đó không tan được. Rất khó để chuyển kiếp. Lạc phách đã khó chuyển kiếp rồi, lạc hồn thì lại càng khó hơn. Và máu của những người này thấm qua đất, hòa cùng máu của muông thú mà tụ lại thành dòng sông Nại Hà này, chảy qua trước cửa âm phủ đó vậy).

Qua vài dòng lưu ý chung như thế. Sau đây ta lại tiếp tục trở lại đề tài dở dang do nhấn đoạn vừa rồi:

... Chỉ lạ mãi một điều, vì trước mắt tôi chỉ là một dòng sông đã khô cạn, trơ đáy?! Tuy thoáng ngạc nhiên, tôi cũng sang sông theo cách: Đi bộ một cách chậm rãi trên những hòn đá dưới lòng sông cạn mà qua sông. Bởi sông cạn trơ, không nhất thiết phải đi trên cây cầu tre để vào Ty Phủ mà làm gì.

Cảnh giới bên kia âm phủ càng khiến tôi càng lạ lùng và ngạc nhiên hơn nữa. Bởi trước cửa âm ty không hề thấy bất kỳ một Đầu Trâu, Mặt Ngựa nào ra đón hoặc chặn lại cả! Thậm chí hoàn toàn vắng lặng, bất kể bộ dạng của bất kỳ Quỷ Xứ bao gồm Viễn Quỷ hoặc Cận Quỷ nào lai vãng trong xứ quỷ !?

Đã thế, Tôi chẳng màng nện trống ngục trước trước Ty Động làm gì. Cứ thế mà nhập Sở Ty... Cảnh giới bên trong vẫn hoàn toàn khác xa và rất khác như những gì mà tôi đã từng được biết qua sách sử đã mô tả lại. Các cửa ngục mà tôi đã đi qua, tuyệt nhiên không hề thấy bất kể một ma nào lảng vảng cả!? Quanh vách của mỗi ngục, vẫn còn treo lủng lẳng đầy những dây xích sắt, âm vào vách tường đá, thả bông thỏng xuống mà không có một ai bị giam giữ!

Khi tôi vào tới cửa ngục cuối cùng. Ngục thứ 12. Thật bất ngờ khi ngục này vẫn còn mở, so với 11 cửa ngục trước đó. Và tôi chợt nhìn thấy linh hồn kẻ tội đày không thể siêu thoát trong cửa ngục cuối cùng này lại là Thanh Đề!

Tôi nhớ lại theo như kinh sách của Nhà Phật có ghi chép lại quá khứ tội lỗi của bà Thanh Đề đã gây ra. Do tội đó quá nặng, cho nên hiện vẫn chưa có cách nào thoát khỏi gông cùm cũng như hình phạt, nơi cửa ngục cuối cùng này được.

Ngẫm lại chuyện quá khứ mà bà Thanh Đề từng gây ra. Xem xét sâu xa hơn nguyên nhân nào mà khiến bà phải hành động như thế? Chẳng qua vì bà không muốn để cho con của mình đi tu. Bởi với suy nghĩ của riêng bà thì đó là cả một sự khổ hạnh mà con bà phải chịu thiệt thòi trong tương lai gần. Từ đó khiến bà phải bằng mọi giá ngăn cản con mình nên khiến có hành động như thế. Để rồi tận hôm nay bà vẫn chưa trả hết tội.

Kinh sử còn ghi lại khi Mục Kiền Liên đã đắc đạo. Lúc xuống âm phủ thăm mẹ. Vẫn không có cách nào cứu thoát tội cho mẹ của mình được. Sau đó, như chúng ta đã biết: Lễ Vu Lan báo hiếu hiện nay cũng chính là cứu cánh duy nhất mà bà Thanh Đề lẫn Mục Kiền Liên mong mỏi hằng năm và... hằng năm, hằng năm nữa...

Khi đã tận mắt đứng trước đọa cảnh mà bà Thanh Đề đang phải chịu nơi ngục cuối cùng này. Tôi xét lại chuyện xưa của Mục Liên và Thanh Đề.

Nếu xét theo Đạo thì như thế nhân đã từng xét xưa nay rồi. Và mọi người đều chấp nhận vào cái kết thúc như hiện nay đang diễn ra.

Thế nhưng không một ai có thể dám tư duy ngược lại vấn đề này cả!? Điều này có nghĩa là nếu ta xét ở góc độ của Đời so với Đạo thì sao? Bởi bà Thanh Đề vì thương con với tất cả tấm lòng của một người mẹ. Bà không muốn nhìn thấy con mình chịu khổ hạnh trên con đường tìm Đạo. Bà sẵn sàng làm tất cả để hy vọng ngăn cản con của mình, bằng bất kỳ giá nào, cho dù phải trả đắt. Tóm lại: Bà chấp nhận hy sinh, cốt để con mình không phải chịu khổ hạnh. Với tấm lòng của một bà mẹ yêu thương con đến vô hạn như thế. Với tư duy nông cạn, bà không hề đo lường cũng như biết được hậu quả mà bà phải gặt ở tương lai từ nguyên nhân mình đã gieo. Vì cho dù có tư duy với một tư duy sáng suốt nhất. Thế nhân chúng ta cũng không thể nào hình dung tới những gì phải trả như Thanh Đề đã và đang phải trả cho được.

Xét riêng về Mục Liên thì sao? Chúng ta không đủ đại trí, đại hùng để suy xét rằng: Khi Mục Liên đã đắc quả. Có xuống thăm và mãi tận hôm nay vẫn chưa có thể tự cứu mẹ của mình được!

Về vấn đề này thì tôi đã gợi ý đến đây là quá đủ rồi. Chúng ta hãy tự xét xem sao?

Riêng cá nhân tôi lúc đó. Khi tận sở thị bà Thanh Đề bị hành phạt đã thấy bất nhẫn vô cùng. Tôi không miêu tả cảm xúc hay những gì thuộc tư duy của tôi diễn ra lúc ở đây. Tôi chỉ có thể mô tả rằng mình đã cảm thấy bất nhẫn vô cùng. Cho nên khi thấy bà Thanh Đề cầm ly nước uống, ly nước hóa thành lửa. Tôi liền giật lấy và uống thay, để chia vơi cho tấm lòng của một người mẹ như bà. Lúc bà bưng chén cơm ăn, chén cơm biến ra dòi. Tôi không ngần ngại giành lại và ăn giúp... Thoảng qua tư duy với ý nghĩ... Sao cái đạo lại xử sự hà khắc làm vậy?

Lạ thay! Ngay lập tức, những xích xiềng trên tay của bà Thanh Đề rơi tuột ra tất cả!... Tất cả các Quỷ xứ cũng tan biến đi đâu mất hết !?

Cũng trong sát na, tôi chợt hốt ngộ; Hóa ra tất cả đạo lý tiềm ẩn ở đây là như thế! Nếu ngày trước Mục Liên làm việc này (tôi đã bất chợt làm) cho mẹ. Ắt cứu được mẹ của mình rồi vậy. Đằng này thì Mục Liên đã lấy tay áo cà sa che mắt mà khóc, không dám nhìn cảnh tượng khi mẹ mình ăn dòi và uống lửa khi ấy. Trong khi nguyên nhân mẹ bị đọa đày như vậy là do xuất phát chính từ lòng mẹ đã thương chính mình.

Nếu ngày ấy, Mục Liên chịu hình phạt thay bằng cách ăn, uống thay cho mẹ mình. Ắt đã cứu được mẹ của mình rồi. Bởi Thanh Đề chịu đọa là cũng từ Mục liên mà ra. Như thế, tôi chỉ là người dưng, khác họ lạc qua đường. Cám cảnh nên mới có hành động như thế đối với Thanh Đề. Dĩ nhiên mọi xích xiềng lẫn bất kỳ hình phạt nào cũng đều bị vô hiệu ngay tức thời.

Đó là Đạo.

Hồi ký này là tôi chép lại về sự kiện đã xảy ra trong không gian chiều thứ 5 mà tôi từng trải qua như thế đó. Tôi biết, và tôi ghi lại lại một cách chắc chắn rằng: Bà Thanh Đề đã hoàn toàn được xá tội kể từ thời điểm đó.

Sau khi đã thấy cửa ngục cuối cùng cũng không còn ai. Tôi liền quay trở ra. Ánh trăng muộn giống như con thuyền lơ lững cập bờ phía bên này dòng Ngân Hà. Ánh sáng bàng bạc trải xuống lòng Nại Hà như soi bước cho tôi. Có tiếng gà gáy giục sáng vang lên phía bên kia Nại Hà... Tôi vội bước...II - KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ 5!
(Ký Sự Ngục Thứ 12)

Tôi tự nhủ và xác quyết một cách vững vàng rằng; Trước mặt tôi đích thị là sông Nại Hà trong truyền thuyết!

Mặc dù cảnh giới xung quanh, không mô phỏng giống như những gì tôi đã được biết qua sách sử, từng mô tả về dòng sông này. Tôi ý thức một cách rất rõ ràng là mình vừa bước qua cánh cổng của không - thời gian 4 chiều. Bởi thế giới mà tôi đang lạc bước vào, vốn là miền địa phương của "Ty Xứ". Một nơi mà Nhà Phật gọi là chốn "tưởng xứ địa phương", đối với ngôn ngữ cũng như tư duy nhân loại của chúng ta.

Giữa đêm hoang lạnh. Sương đêm mờ ảo che phủ dày đặc. Trước mắt tôi chập chờn hiện ra là một cảnh giới rất dị thường! Trong nhất thời lúc đó, tôi không hề biết rằng mình vừa bước vào không gian chiều thứ 5. Do cảnh vật đầy ảo mị đó, có vẻ như thôi miên ý thức tôi mà sự hiếu kỳ cứ thúc giục tôi dấn bước tới.

Trong thế giới của không gian chiều thứ 5 năm này. Mật độ vật chất dày đặc đến nỗi; Không gian xóa nhòa mọi ranh giới cảnh vật thành một màu đen mờ đặc. Hơi thở quyện đầy không khí nặng. Thời gian cũng bị che khuất mọi thông tin về nó. Thậm chí khái niệm thời gian dường như không hiện hữu nữa rồi. Tôi chỉ có thể mô tả là không biết đã bao lâu, tôi dò dẫm đi chập chờn một cách nặng nề như thế...

... Và rồi trước mắt tôi, trong không gian mờ đục, thấp thoáng hiện ra một dòng sông chắn ngang! Tôi định thần nhìn kỹ thì thấy đó là một dòng sông cạn trơ đáy! Bất giác, tôi cố gắng nhìn quanh... Và thấy chiếc cầu bắc ngang sông ở ngay phía trước mặt.

Như tôi đã diễn tả ở những dòng mở đầu; Khi nhìn thấy chiếc cầu bắc ngang sông. Tôi biết mình đang đứng trước dòng sông huyền thoại đầy ám mị của không gian chiều thứ 5. Đó là dòng sông chắn ngang ranh giới của miền "Ty Xứ". Theo truyền thuyết thì trên trời dường như có sông Ngân Hà. Dưới đất thì hiện diện sông Hằng Hà. Và Âm Phủ cũng tàng ẩn sông Nại Hà!

Trong cội nguồn văn hóa của người Việt, có đôi chút khác biệt với người Hoa, khi mô tả về dòng sông này. Ví như cây cầu bắc qua sông Nại Hà chỉ đơn độc mỗi một cây cầu bằng tre mà thôi. Nó không phải là cây cầu bằng đá. Cây cầu dẫn vào âm phủ, chính xác phải được cấu tạo chỉ là một cây tre đơn độc. Được bắc dập dềnh ngang sông Nại dài mịt mù. Không hề có lan can, tay vịn hoặc cây chống gì cả! Mọi linh hồn khi nhập âm ty, nhất định phải đi qua trên cây cầu tre ấy. Phía bên dưới là một dòng sông mà nước là máu tanh hôi đen thẳm. Dòng sông máu đấy vốn là kết huyết tinh từ những kẻ chết oan khốc bị lạc hồn, lạc phách. Trong dòng sông thì đầy rẫy những thuồng luồng, rắt rít. Chực chờ những linh hồn nào đi ngang qua mà tranh nhau nhảy lên, hòng đớp lấy mà lôi xuống dưới.

(...Nhấn đoạn bổ sung...:

... Có một nguyên lý để hình thành dòng sông đầy máu oan hồn này. Tôi cũng nhất định phải mô tả cho chúng ta hiểu thêm. Thường thì con người có đủ 3 hồn và 7 phách (vía) đối với Nam. Riêng người Nữ thì có đến 9 phách. Hồn thì ngụ trong máu huyết, Phách thì lại trú trong dịch tinh (tuỷ...). Do hồn ngụ ở trong máu nên ta thấy máu chảy nhiều, khi nhìn vào đấy, ta thường có cảm giác ớn lạnh hay khiếp đảm. Lúc chết, máu cạn đông lại hoàn toàn thì linh hồn cũng theo đó mà thoát ra hết. Riêng thể phách rất dễ tán, nên rất khó ra hết được một lượt. Nếu linh hồn ra đủ 3 và thể phách cũng ra đủ 7 thì người đó nhất định chuyển kiếp (đầu thai) rất nhanh. Nếu như chưa đủ phách thì linh hồn còn phải vất vưởng mà chờ hội tụ cho đủ phách mới có thể chuyển kiếp được. Vì nguyên do đó cho nên ta thấy khi chết; Nhất định phải quàng thi thể lại 3 ngày. Mời các vị lại với tiếng kèn trống, đọc kinh, gõ mõ... với mục đích là để nhanh siêu thoát. Tuy các vị ấy cũng không thể hiểu nguyên do từ đâu, chỉ một mực tin như thế là đủ. Bởi những điều này nằm ngoài khả năng tư duy của họ.

Ví dụ: Do bản tính nhẹ và hay tán. Nên khi chết, thể phách tán ra bởi những chấn động kể cả âm thanh xung quanh và tiềm ẩn trong thi thể mà không thoát ra được. Mục đích của tiếng kinh, mõ, trống, kèn nói chung. Cốt là làm bão hòa mọi âm thanh bất chợt khác. Từ đó thể phách mới dần tụ lại và thoát ra bên ngoài để hội cùng linh hồn được. Chứ thỉnh thoảng lại có một tiếng động (nhất là giữa đêm khuya vắng lặng) thì thể phách đang tụ, lại thình lình tán ra mất, không thoát ra được. Ta có thể nhận được điều này qua những biểu hiện:

Khi ta nhìn vào một cái xác nào, mà ta cảm thấy rất yên bình, thì đó là hồn và phách đã ra hết. Khi phách còn thì ta cảm thấy có điều bất an, gợn sợ khi nhìn vào xác. Và thường thì những xác này hay bị xì hơi, gây mùi rất khó chịu cho mọi người xung quanh.

Về phần linh hồn nếu những ai chết bởi tai nạn nói chung. Máu của họ nếu chảy ra nhiều và bị thấm vào đất. Linh hồn sẽ bị vương ở đó không tan được. Rất khó để chuyển kiếp. Lạc phách đã khó chuyển kiếp rồi, lạc hồn thì lại càng khó hơn. Và máu của những người này thấm qua đất, hòa cùng máu của muông thú mà tụ lại thành dòng sông Nại Hà này, chảy qua trước cửa âm phủ đó vậy).

Qua vài dòng lưu ý chung như thế. Sau đây ta lại tiếp tục trở lại đề tài dở dang do nhấn đoạn vừa rồi:

... Chỉ lạ mãi một điều, vì trước mắt tôi chỉ là một dòng sông đã khô cạn, trơ đáy?! Tuy thoáng ngạc nhiên, tôi cũng sang sông theo cách: Đi bộ một cách chậm rãi trên những hòn đá dưới lòng sông cạn mà qua sông. Bởi sông cạn trơ, không nhất thiết phải đi trên cây cầu tre để vào Ty Phủ mà làm gì.

Cảnh giới bên kia âm phủ càng khiến tôi càng lạ lùng và ngạc nhiên hơn nữa. Bởi trước cửa âm ty không hề thấy bất kỳ một Đầu Trâu, Mặt Ngựa nào ra đón hoặc chặn lại cả! Thậm chí hoàn toàn vắng lặng, bất kể bộ dạng của bất kỳ Quỷ Xứ bao gồm Viễn Quỷ hoặc Cận Quỷ nào lai vãng trong xứ quỷ !?

Đã thế, Tôi chẳng màng nện trống ngục trước trước Ty Động làm gì. Cứ thế mà nhập Sở Ty... Cảnh giới bên trong vẫn hoàn toàn khác xa và rất khác như những gì mà tôi đã từng được biết qua sách sử đã mô tả lại. Các cửa ngục mà tôi đã đi qua, tuyệt nhiên không hề thấy bất kể một ma nào lảng vảng cả!? Quanh vách của mỗi ngục, vẫn còn treo lủng lẳng đầy những dây xích sắt, âm vào vách tường đá, thả bông thỏng xuống mà không có một ai bị giam giữ!

Khi tôi vào tới cửa ngục cuối cùng. Ngục thứ 12. Thật bất ngờ khi ngục này vẫn còn mở, so với 11 cửa ngục trước đó. Và tôi chợt nhìn thấy linh hồn kẻ tội đày không thể siêu thoát trong cửa ngục cuối cùng này lại là Thanh Đề!

Tôi nhớ lại theo như kinh sách của Nhà Phật có ghi chép lại quá khứ tội lỗi của bà Thanh Đề đã gây ra. Do tội đó quá nặng, cho nên hiện vẫn chưa có cách nào thoát khỏi gông cùm cũng như hình phạt, nơi cửa ngục cuối cùng này được.

Ngẫm lại chuyện quá khứ mà bà Thanh Đề từng gây ra. Xem xét sâu xa hơn nguyên nhân nào mà khiến bà phải hành động như thế? Chẳng qua vì bà không muốn để cho con của mình đi tu. Bởi với suy nghĩ của riêng bà thì đó là cả một sự khổ hạnh mà con bà phải chịu thiệt thòi trong tương lai gần. Từ đó khiến bà phải bằng mọi giá ngăn cản con mình nên khiến có hành động như thế. Để rồi tận hôm nay bà vẫn chưa trả hết tội.

Kinh sử còn ghi lại khi Mục Kiền Liên đã đắc đạo. Lúc xuống âm phủ thăm mẹ. Vẫn không có cách nào cứu thoát tội cho mẹ của mình được. Sau đó, như chúng ta đã biết: Lễ Vu Lan báo hiếu hiện nay cũng chính là cứu cánh duy nhất mà bà Thanh Đề lẫn Mục Kiền Liên mong mỏi hằng năm và... hằng năm, hằng năm nữa...

Khi đã tận mắt đứng trước đọa cảnh mà bà Thanh Đề đang phải chịu nơi ngục cuối cùng này. Tôi xét lại chuyện xưa của Mục Liên và Thanh Đề.

Nếu xét theo Đạo thì như thế nhân đã từng xét xưa nay rồi. Và mọi người đều chấp nhận vào cái kết thúc như hiện nay đang diễn ra.

Thế nhưng không một ai có thể dám tư duy ngược lại vấn đề này cả!? Điều này có nghĩa là nếu ta xét ở góc độ của Đời so với Đạo thì sao? Bởi bà Thanh Đề vì thương con với tất cả tấm lòng của một người mẹ. Bà không muốn nhìn thấy con mình chịu khổ hạnh trên con đường tìm Đạo. Bà sẵn sàng làm tất cả để hy vọng ngăn cản con của mình, bằng bất kỳ giá nào, cho dù phải trả đắt. Tóm lại: Bà chấp nhận hy sinh, cốt để con mình không phải chịu khổ hạnh. Với tấm lòng của một bà mẹ yêu thương con đến vô hạn như thế. Với tư duy nông cạn, bà không hề đo lường cũng như biết được hậu quả mà bà phải gặt ở tương lai từ nguyên nhân mình đã gieo. Vì cho dù có tư duy với một tư duy sáng suốt nhất. Thế nhân chúng ta cũng không thể nào hình dung tới những gì phải trả như Thanh Đề đã và đang phải trả cho được.

Xét riêng về Mục Liên thì sao? Chúng ta không đủ đại trí, đại hùng để suy xét rằng: Khi Mục Liên đã đắc quả. Có xuống thăm và mãi tận hôm nay vẫn chưa có thể tự cứu mẹ của mình được!

Về vấn đề này thì tôi đã gợi ý đến đây là quá đủ rồi. Chúng ta hãy tự xét xem sao?

Riêng cá nhân tôi lúc đó. Khi tận sở thị bà Thanh Đề bị hành phạt đã thấy bất nhẫn vô cùng. Tôi không miêu tả cảm xúc hay những gì thuộc tư duy của tôi diễn ra lúc ở đây. Tôi chỉ có thể mô tả rằng mình đã cảm thấy bất nhẫn vô cùng. Cho nên khi thấy bà Thanh Đề cầm ly nước uống, ly nước hóa thành lửa. Tôi liền giật lấy và uống thay, để chia vơi cho tấm lòng của một người mẹ như bà. Lúc bà bưng chén cơm ăn, chén cơm biến ra dòi. Tôi không ngần ngại giành lại và ăn giúp... Thoảng qua tư duy với ý nghĩ... Sao cái đạo lại xử sự hà khắc làm vậy?

Lạ thay! Ngay lập tức, những xích xiềng trên tay của bà Thanh Đề rơi tuột ra tất cả!... Tất cả các Quỷ xứ cũng tan biến đi đâu mất hết !?

Cũng trong sát na, tôi chợt hốt ngộ; Hóa ra tất cả đạo lý tiềm ẩn ở đây là như thế! Nếu ngày trước Mục Liên làm việc này (tôi đã bất chợt làm) cho mẹ. Ắt cứu được mẹ của mình rồi vậy. Đằng này thì Mục Liên đã lấy tay áo cà sa che mắt mà khóc, không dám nhìn cảnh tượng khi mẹ mình ăn dòi và uống lửa khi ấy. Trong khi nguyên nhân mẹ bị đọa đày như vậy là do xuất phát chính từ lòng mẹ đã thương chính mình.

Nếu ngày ấy, Mục Liên chịu hình phạt thay bằng cách ăn, uống thay cho mẹ mình. Ắt đã cứu được mẹ của mình rồi. Bởi Thanh Đề chịu đọa là cũng từ Mục liên mà ra. Như thế, tôi chỉ là người dưng, khác họ lạc qua đường. Cám cảnh nên mới có hành động như thế đối với Thanh Đề. Dĩ nhiên mọi xích xiềng lẫn bất kỳ hình phạt nào cũng đều bị vô hiệu ngay tức thời.

Đó là Đạo.

Hồi ký này là tôi chép lại về sự kiện đã xảy ra trong không gian chiều thứ 5 mà tôi từng trải qua như thế đó. Tôi biết, và tôi ghi lại lại một cách chắc chắn rằng: Bà Thanh Đề đã hoàn toàn được xá tội kể từ thời điểm đó.

Sau khi đã thấy cửa ngục cuối cùng cũng không còn ai. Tôi liền quay trở ra. Ánh trăng muộn giống như con thuyền lơ lững cập bờ phía bên này dòng Ngân Hà. Ánh sáng bàng bạc trải xuống lòng Nại Hà như soi bước cho tôi. Có tiếng gà gáy giục sáng vang lên phía bên kia Nại Hà... Tôi vội bước...



THÁI CỰC TƯỢNG ĐỒ CỦA NƯỚC VIỆT NAM
TRONG KỶ NGUYÊN MỚI

(Diễn Giải Theo Câu Hỏi Bạn Đọc)



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Lưu Ý:
Theo tư duy nơi đỉnh cao của nền khoa học đương đại. Để khai thác, giải thích toàn diện một mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên. Bắt buộc chúng ta phải hội đủ 3 công cụ:

1. Công cụ ngôn ngữ đơn thuần.
2. Công cụ ngôn ngữ hình học.
3. Công cụ ngôn ngữ toán học.

Vì thế, với đồ hình ở trên. Ta có đủ cả 3 yếu tố khai thác đó:

1. Hệ thống ngôn ngữ trình bày, với quan điểm của tư duy phương đông ta thường gọi là: "LÝ".

2. Hệ thống ngôn ngữ đồ hình minh họa, ta quen nghe gọi xưa nay là: "TƯỢNG".

3. Hệ thống ngôn ngữ số biểu thị, vốn là toán học của thuở ban đầu thường được gọi là nguyên nhân: "SỐ".

Quy tắc thứ hai; Phàm những loại sách được liệt vào hàng Kinh Điển nói chung. Nó vốn vượt lên trên tầm tư duy suy luận thông thường của chúng ta, rất khó để theo kịp mà nắm bắt cho được. Ở vào cấp độ này thì thường là sách kén độc giả chứ không còn là độc giả kén sách nữa rồi. Và những dạng Kinh Điển nói chung, vốn đều được viết bằng loại văn "U Mặc"!

Muốn hiểu rõ: Nhất thiết ta phải biết được điều đó trước đã. Sau mới có thể tìm hiểu dần được. Đó chính là cách đọc chỗ "không chữ" mà ta từng nghe Nhà Phật mô tả là "ngôn vô ngôn" vậy.

Tất cả sách có dạng liên quan đến đồ hình như trên. Xưa nay đều lấy Phương Nam quay lên phía trên. Bởi do theo luật lệ mà xưa kia Hoàng Đế tạo ra Chỉ Nam Xa (kim chỉ nam) để tìm Xi Vưu mà ra. Thế nhưng hiện nay thì la bàn đã chỉ Phương Bắc làm mẫu mực. Mọi đồ hình nói chung; Toàn cầu cũng thống nhất lấy hướng phía trên biểu đồ là Phương Bắc. Vì thế tôi cũng đã xoay lại và quy định theo sự thống nhất đó.

Đó là quy tắc, chúng ta cùng bước vào tour tham khảo chung.

Theo như mọi sách cùng sự lý giải xưa nay đều có một sự bất đồng là: Không thống nhất năm bắt đầu khởi nguyên là năm nào trong: ... 62, ...63, ... 64 !?. Đó chẳng qua là do lý tại hệ thống Tam Tài mà ra cả thôi. Ví như; Trời sinh ở Tý, Đất sinh ở Sửu, Nhân sinh ở Dần. Từ đó cho nên; Khi tham khảo sách nào mà ta thấy ... 62 là đang diễn lý ở Thiên. ... 63 thì trình bày ở lý Địa. Dĩ nhiên ...64 ắt mô tả là lý Nhân rồi vậy. Và đại đa số trong chúng ta đều biết cuộc này thuộc Hạ Nguyên, thuộc Lý Nhân. Đó phải theo hệ vận hành từ 1864 làm khởi nguyên chẳng hạn (tính theo đại - tiểu nguyên).

Với đồ hình ở trên, sở dĩ tôi lấy theo 1863 là bởi:

Thứ nhất; Do rất khó tính được chi tiết, nên xưa nay hay tính di dịch ở 3 năm, 3 tháng, 3 ngày, 3 giờ v.v..., là được.
Thứ hai; Là khi tính chi tiết thì không thể cố định cho được. Bởi cứ 4 năm là xảy ra một năm nhuận. Khí, Tiết sẽ bị sai lạc đi, do phải chen vào 2 Tiết. Lúc đó buộc phải tính tới quy pháp Siêu Thần, Tiếp Khí mới chuẩn được. Nếu không sẽ sai lạc hết. Ta sẽ không biết quy luật lúc đó đang vận hành theo lý của nguyên lý nào trong Tam Lý (Thiên - Địa - Nhân) để mà xử lý được. Điều này đã xảy ra đối với sự kiện của trận Xích Bích năm xưa giữa cách tính của Khổng Minh và Chu Du chẳng hạn.
Thứ ba; Thế cuộc lẫn thời vận hiện nay là "Thiên Nhân Hợp Phát". Từ đó cho nên tôi dụng 1863 làm khởi nguyên là vậy.

Về vấn đề nhận định thời vận là rất khó. Tuy nhiên tôi vẫn cố gắng trình bày một cách đơn giản nhất có thể. Mong rằng qua đó, chúng ta phần nào nắm được thời thế mà khai thác xử lý. Hầu có giúp ích được ít nhiều gì cho xã hội hiện nay không. Bằng không, ta vẫn tích lũy được một phần nào đó ý thức về học thuật này của Dịch Học.

Xem xét và nhận định:

Trong Âm Phù Kinh có câu;

"Thiên phát sát cơ, di tinh dịch tú.
Địa phát sát cơ, long xà khởi lục.
Nhân phát sát cơ, thiên địa phản phúc.
Thiên Nhân hợp phát, vạn biến định cơ".

Dịch nghĩa:

"Trời mở cơ giết, dời sao lớn đổi sao nhỏ.
Đất mở cơ giết, rồng rắn phát sinh trên cạn.
Người mở cơ giết, đất trời tráo trở.
Trời và người cùng mở, là báo hiệu một cuộc thay đổi để lập lại cuộc mới".

Dựa trên quan điểm đó để xem xét và nhận định thời cuộc thì ta thấy:

Trong khoảng chừng 10 năm trở lại đây. Mô hình của vũ trụ tự nhiên phản ảnh: Các thiên thể, thiên thạch ngoài vũ trụ cứ lạc quỹ đạo mà lao vào trái đất ngày càng nhiều hơn thêm! Điều đó nói lên cái gọi là "dời sao lớn, đổi sao nhỏ". Qua đó ta nhận định đó là dấu hiệu thuộc Lý Thiên. Là cơ trời.

Cũng như thế, cùng một khoảng thời gian xem xét như trên. Long Xà Khởi Lục ở đây không có nghĩa là con rồng và rắn. Mà ta phải suy ra như: Châu chấu, sâu bọ, côn trùng không thấy phá hoại mùa màng chi cả. Do đó ta loại trừ Cơ Địa.

Và trên bình diện địa cầu trong khoảng một thập niên hiện nay: Hiện tượng bão lụt, sóng thần, nina, nino, vân vân... nổi lên với một mật độ không thể tưởng tượng được. Điều này phản ảnh câu "thiên địa tráo trở". Chắn chắn ta không ngần ngại khẳng định điều đó là Nhân Cơ.

Vậy tổng hợp những hiện tượng đó trong giai đoạn này thì ta có được kết luận: Thời vận này thuộc thế cuộc của "Thiên Nhân Hợp Phát". Mà Thiên Nhân hợp phát thì... Như ở trên tôi đã trình bày qua rồi. Không nhất thiết phải lập lại nữa.

Xưa nay, trải qua bao cuộc bể dâu. Tùy theo thế cuộc thuộc thời vận nào mà ta nhất định phải nương theo để đắc chí hành sự. Ví như thời của Nhà Chu thuộc vận Thổ. Đến Nhà Tần thuộc vận Thủy chẳng hạn. Ở đây tôi lấy thời mạt Hán (Đông Hán) làm dẫn giải như:

Ta thấy Tào Tháo đắc Thiên Thời. Tôn Quyền đắc Địa Lợi, và Lưu Bị thì đắc Nhân Hòa. Qua đó mới có thế chân kiềng, khi đã đắc một trong 3 tiêu chí đã nêu như thế. Ta xét thấy do đắc Thiên Thời nên Tào Tháo cuối cùng gồm thâu thiên hạ về một mối là vậy. Tuy nhiên, đó là quan điểm của người Trung Hoa mà trải qua các quá trình lịch sử đã minh chứng. Riêng quan điểm tại Việt Nam thì lại xem Nhân Hòa là quan trọng hơn hết. Chẳng hạn như câu phát biểu gần của Phan Bội Châu: "Thiên thời không bằng Địa lợi, Địa lợi không bằng Nhân hòa".

Trên đây là tôi đưa ra những quan điểm của từng giai đoạn làm dẫn chứng về thế cuộc và thời vận mà thôi. Tuy nhiên, quan điểm của một giai đoạn, không đủ so sánh với phản ảnh trong suốt quá trình của lịch sử được. Tóm lại; Từ đó sẽ cho chúng ta nhận định được nền tảng của cái gọi là thời thế mà mong xuất xử, nếu được.

Cho nên cuộc này thuộc "Kim Cuộc". Phàm hễ Kim cuộc thì luôn luôn là cuộc cuối. Là Tàn Cuộc, là chiến cuộc. Ta thường gọi chung với tên: "Kim Môn Đại Cuộc". Thời vận thì nhất định phải là "Thiên Nhân Hợp Phát". Bởi tính của đại cuộc thì riêng một Thiên thời, Địa lợi hoặc Nhân hòa cũng đều không đủ để độc diễn một phương rồi. Nếu ta xét và thường nghe câu "Vương Thổ", thì Kim lại là "Hoàng Kim". Nếu đã xem mệnh Thổ là Vương thì mệnh Kim thuộc Đế rồi vậy.

Tôi đưa ra một vài điển hình sau:

Hiện nay, ta thường nói câu cửa miệng một cách mặc định rằng thời đại Hoàng Kim! (Hoàng = Đế). Mà hễ đa kim ngân thì phá luật lệ. Cái lý của Kim thể hiện ở: ... Vì thiên hạ theo đuổi giá trị của nó mà gây ra biết bao cảnh; Bạn bè quay lưng, anh em trở mặt, chồng vợ ly tán, cha mẹ con cái chia rẽ v.v... Ta có thể nhận ra sự phản ảnh đó trên bình diện xã hội đương đại, tôi không nhất thiết phải trình bày. Lại nữa; Cái tính của Kim vốn là chiến cuộc... Cho nên "Đệ Tam Thế Chiến" ắt không tránh khỏi rồi vậy.

Vấn đề là ta nhất thiết phải nhận định cho được vận thế để xử lý thời cuộc. Và đồ hình ở trên không ngoài mục đích ấy. Tôi trình bày, diễn giải sơ lược về đồ hình, ta cùng nhận định chung:

Theo như mẫu đồ hình này là trình bày trong phạm vi của một Vận bao gồm 360 năm. Một Vận lại chia làm 2 Thế, mỗi Thế có 180 năm. Mốc tính, lấy từ giai đoạn của 1763 là giai đoạn mà Quang Trung và Nguyễn Ánh đang tranh hùng để định hình nước Việt Nam hiện nay. Từ đó ta tính tới trong 360 năm thế cuộc trong phạm vi đồ hình. Dĩ nhiên nguyên lý của khởi nguyên chuyển vận thì mốc tại 1863. Cho nên ta thấy từ 1863 tính đi 60 năm (một Chu), đến 1913 là thuộc Thượng Nguyên (một ô kẻ ngang là 10 năm), là Lý Thiên. Từ 1923 tiếp 60 năm nữa là đến 1973 thuộc Trung Nguyên là lý Địa. Và 1983 đến 2033 là dứt thời Hạ Nguyên, nay là lý Nhân. Ta xét thấy năm 2017 thuộc đời Hạ Nguyên. Lại nằm trong vạch bôi màu hồng thuộc mùa thu là Kim Vận. Thời thì thuộc Tiết Xử Thử trong cung Khôn. Vốn là Cửa Tử. Hội thì thuộc Hội Ngọ của đất trời.

Vạch màu hồng là tôi thể hiện "Cái Khí" của Thời, Vận, Hội của trời đất đang chuyển vận đến và tụ tại vị trí đó. Hiện nay tương quan với khu vực Tây Nguyên của đất nước. Và đang vận vào tới giới hạn cuối của khu vực Tây Nguyên là Lâm Đồng. Lưu ý là vòng chuyển vận này phải hết 360 năm mới lập lại một vận khác như thế. Điều này có nghĩa là cái vạch màu hồng, nếu chuyển vận ra khỏi khu vực Tây Nguyên, thì phải 360 năm sau mối tụ lại được như thế nữa.

Sở dĩ cách bố trí của đồ hình tính từ phía trên, bên trái (theo vị trí của người quan sát) là Cung khảm và Tiết Đông Chí là nguyên do: Trong Cửu cung thì Khảm thuộc Thủy là số 1. Điều này cũng có nghĩa là cái sự khởi thủy ban đầu. Cho nên Khảm tất phải ở vị trí đó. Tiếp đến, dĩ nhiên mỗi cung Quái sẽ kiêm 3 Tiết trong 24 Tiết trong năm. Mà cung Khảm khởi Thủy vốn tại Tiết Đông Chí. Hơn nữa, hàng năm thì khí của trời đất cũng bắt đầu vận hành từ Tiết Đông Chí, bất di bất dịch từ ngày tạo dựng vũ trụ cho tới nay. Và đồ hình trên mới có sự bố trí như thế.

Kết luận như sau:

Qua trình bày đồ hình như trên. Ta có được ý thức về một cuộc thế "Tàn Cuộc", có thể kiễng chân nhìn thấy trong một tương lai gần ngay trước mắt. Tôi nhắc lại: Quy luật của sự tiến hóa chỉ thuộc về sinh vật nào ưu tú nhất.

Phàm; Hễ không Tiến Hóa ắt Thoái Hóa vậy...

Thiên Nhân Hợp Phát? Có nghĩa là quy luật của vũ trụ, sẽ thay đổi toàn bộ vũ trụ để thiết lập lại một nền móng khác...

Sửa bởi MikeDo: 07/04/2018 - 21:07


Thanked by 5 Members:

#2 NNLTT

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 563 Bài viết:
  • 215 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 21:25

Chiếm #2. Và hóng tóm tắt.

#3 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 21:28

1 - PHƯƠNG TIỆN.
Ở đâu đó…
Trong thế giới của 84.000 kinh sách Nhà Phật, đã được liệt kê không gọi là thừa (bao gồm tiểu thừa và đại thừa). Ta còn lắng đọng lại một thuyết ngôn dụ thính như: “Tất cả mười phương tam thế các chư Phật, đều quán bằng tai không có lối mòn nào khác”!. Phần lớn trong chúng ta, bất kể tri thức vơi đầy, đều có thể đo, lường… được rằng:

Quan điểm của Nhà Phật đối với cõi phù sinh của nhân thế, vốn “bất khả thuyết, và vô sở tri”!?. Lý do như thế, nên ở đây tôi chỉ sử dụng phương tiện đó (thính giác), để mô phỏng hóa hiện tượng, phản ảnh lên công cụ nào trong cõi phù sinh này, chứ sở dĩ không phải ở nơi bên kia địa phương vốn là đất Phật. Qua đó, hy vọng phép hóa dụ ấy sẽ tạo thành công cụ dẫn nhập trật tự cho những bài tiếp theo.
Hóa ra, cõi phù sinh này chẳng qua được phù trợ nhờ phương tiện là 5 giác quan để tạm sinh tồn cả thôi! Từ đây ta nhận diện phương tiện phù trợ quan trọng nhất chính là khứu giác. Bởi hơi thở là phương tiện đầu tiên phù trợ ta chào đời với tiếng khóc ký sinh. Và cũng chính hơi thở đóng vai trò cuối cùng thôi phù trợ ta lúc trối lời vĩnh biệt mà quy tử. Thế rồi 5 phương tiện đó như 5 con thuyền, phù ta theo dòng đời suốt một cuộc - phù - thế - nhân - sinh.
Thế nhưng những ai chợt ý thức được thân phận kiếp phù sinh một khi đã rong chơi theo dòng đời đó. Họ tận dụng những phương tiện đó trong suốt cuộc lãng du một cách tốt nhất như: Họ hòa nhịp hơi thở tương giao, tương tác những cảm xúc, chia sẻ sự thi vị, lắng nghe để cảm thông, và nhìn nhận lòng vị tha… Để rồi, họ phải thốt lên đầy ngỡ ngàng nơi bến đục cuối dòng đời với 3 từ; “kiếp phù du”! Đã có được mấy ai ý thức được kiếp phù sinh để tận sống như thế? Cho dù đại đa số thế nhân sinh tồn một cách vô ý thức, trôi lạc giữa dòng đời này… Và bỏ mặc thế sự, rồi nơi cuối dòng đời, dù trong dù đục. Một khi quy tử, đã khác gì nhau đâu?
Lòng trắc ẩn thổn thức… Kiếp phù sinh trong cuộc thế nhân đã như thế. Biết nơi đâu giữa dòng đời là cửa thần phù (phù thần) ngang qua cõi Phật, hòng rẽ bến mê mà mô phỏng để tìm về? Bởi thế cuộc sinh tồn hôm nay. Tất cả thế nhân đang quay cuồng, nơi cuối dòng ngàu đục, chờ thời khắc quy tử.
Thật ra, trong cuộc mưu sinh đầy tất bật, với biết bao cái nợ cơm áo đời thường. Đã có những lúc giữa dòng đời ngược xuôi của kiếp phù sinh đó. Chúng ta từng vô tình lướt ngang qua, lối rẽ vào cửa thần phù, một đôi lần! Điều đó cũng đã xảy ra giống như trong chừng mực nào đó của những dòng chia sẻ này vậy. Qua những dòng khô cứng, nhàm đều giữa những con chữ rối rắm ở trên. Đâu đó, ta đã bỏ và lướt qua cửa thần phù!
Như dòng trích dẫn lại đây:
“Ở đâu đó…
Trong thế giới của 84.000 kinh sách Nhà Phật, đã được liệt kê không gọi là thừa (bao gồm tiểu thừa và đại thừa). Ta còn lắng đọng lại một thuyết ngôn dụ thính như: “Tất cả mười phương tam thế các chư Phật, đều quán bằng tai không có lối mòn nào khác”!”.

Riêng dòng trích dẫn này cũng đã phản ảnh rất rõ rằng; Câu dụ thính đó nằm lẫn giữa muôn vàn những pháp ngôn của Nhà Phật, rất dễ bị lướt qua trong quá trình ta tiếp nhận tri thức bằng thị giác. Riêng cái phương tiện phù thính này chính là cửa thần phù, để ta vượt qua bể khổ của kiếp phù sinh nhân thế.
Thường thì trong cõi phù sinh. Thế nhân chúng ta trao đổi, tương tác, phù trợ với nhau qua 2 phương tiện là Thị giác và Xúc giác. Như tác giả chuyển giao tri thức bằng xúc giác. Độc giả tiếp nhận qua Thị giác. Từ đây suy ra… Những tri thức mà nhân loại chúng ta nói chung, thường được nhận và tích lũy qua thị giác bằng cách; Đọc từ sách vở của các thế hệ trước truyền lại. Trong khi theo quan điểm của Nhà Phật thì 5 giác quan đó chỉ là Ngũ Tặc. Sự thu nạp tri thức đó vốn không đủ và đong đầy khiếm khuyết. Tự mỗi cá nhân phải biết sàng lọc. Hơn nữa, giai đoạn mà xã hội ta đang sống hiện nay phản ảnh: Phương tiện ngôn ngữ nhân loại chúng ta vốn đã nghèo nàn, nay lại càng xơ xác hơn! Thậm chí đã hóa thô kệch và có biểu hiện ô nhiễm trầm trọng.
Và cũng phỏng theo những dòng vừa trích dẫn lại thì Phật dùng phương tiện “Phù Thính”. Và đây cũng chính là lối mòn duy nhất.
Từ đây nhìn lại bắt đầu từ… trong Tâm. Sự sống bắt đầu phát sinh, kết tinh trong lòng mẹ. Phương tiện phù sinh đầu tiên chính là âm thanh. Nó được tương tác qua nhịp đập của con tim người mẹ với bào thai để hình thành sự sống ban đầu. Để rồi khi chào đời, âm thanh của tiếng khóc đầu tiên cất lên khai sinh cuộc sống. Ngay lập tức âm thanh từ mẹ hòa nhịp vỗ về. Âm thanh của lời ru, nhịp nôi, tiếng võng… hòa điệu cùng nhịp sống của vũ trụ luôn theo suốt trọn cuộc phù sinh. Thậm chí âm thanh còn theo phù trợ mãi, theo mãi… Tận khi ta đã bỏ lại sau lưng kiếp phù sinh cùng nhân thế. Âm thanh vẫn du dương, gõ nhịp, ru thể phách, dìu theo linh hồn, hòa điệu luân hồi cùng hóa công qua tiếng mõ lời kinh đưa tiễn, vẳng tận thinh không…
Điều tôi muốn đến ở đây chính là âm thanh của âm nhạc!
Như ở đầu bài viết này, ta có nói đến việc mô phỏng theo “đạo phù” nào đó? Mà Phật đã dùng pháp ngôn, hóa dụ cho kiếp phù sinh nhân thế này qua lối mòn “quán bằng tai (thính giác)”. Như thế, qua 5 phương tiện phù trợ cho kiếp phù sinh này. Ta đã kiến giác! Đã thấy được chí ít trong Ngũ Tặc, ta thấy được giác… Thính mà ta quen nghe mô tả là kiến giác. Đã “gặp (ngộ)” được nẻo Thần Phù trong cõi phù sinh với tên gọi là giác ngộ!!
Không khó khăn lắm để ta nhận ra lĩnh vực tiếp theo để khai thác đấy phải là âm nhạc. Cung thứ 2 trong 7 loại hình nghệ thuật, bởi âm nhạc chính là lĩnh vực dành cho tất cả. Không loại trừ người sang kẻ hèn. Mặc người trí, kẻ ngu. Cho dù có là Beethoven, Mozart… Tiếng sáo Trương Chi hay là sáo mục đồng. Hoặc em bé nằm nôi của bất kỳ chủng tộc nào. Từ văn minh đến tận rừng sâu, cũng đều cảm nhận được nhịp điệu và âm nhạc. Thậm chí đến muông thú, cỏ cây, sỏi đá. Vân vân và v.v… Muôn vật cũng hòa cùng nhịp điệu của “Hóa Công”.
Hy vọng qua nhận diện được chân giá trị của phương tiện phù sinh đó. Chúng ta sẽ nắm bắt được tần số giao động cộng hưởng. Qua đó, nghe được âm ba của vũ trụ, dự nghe nhạc trời. Và sau cùng là hòa vào nhịp luân vũ của muông trùng… đến muôn trùng…
Bởi đó là nghệ thuật. Và đồng thời cũng là nẻo của Đạo, dìu thế nhân chúng ta bước qua kiếp phù sinh, đã luân trải biết bao cuộc bể dâu, nổi trôi...

2 - TIẾNG ĐÀN BÁ NHA - TỬ KỲ!
Bá Nha và Tử Kỳ đã trở thành đôi bạn "tri âm" được xem là sáng giá và mẫu mực nhất trong lịch sử xưa nay.
Tình bạn tri âm này luôn là tấm gương để biết bao thế hệ noi theo để lấy đó làm hãnh diện. Là câu nói cửa miệng của mọi tầng lớp cũng như lĩnh vực trong xã hội, xuyên suốt mọi giai đoạn bất kỳ. Trên đỉnh cao, giàu tư duy của bậc thức giả, danh giá. Trong tầng giữa, đủ ý thức của gã phong trần, lang bạt. Dưới gầm thấp, vắng nhận thức của kẻ cơ nhỡ, hèn kém. Thậm chí kể cả những bợm nhậu nơi đầu rừng xó núi. Tất cả những họ, đều chực chờ để thốt ra cửa miệng hai tiếng tri âm. Dành cho kẻ nào mà họ cảm thấy xứng đáng nhận, từ họ. Và kẻ được rót vào tai hai câu đó sau liên tiếp vài ba cái vỗ vai, càng lấy làm đắc chí với sự đời lắm thay.
Ngàn năm qua, thiên hạ dưới gầm trời cứ một mực đinh ninh như thế. Họ say đến đỗi từng không thiếu kẻ nghi ngờ: Có khi hai ta chính là bản sao tái sinh từ Bá Nha và Tử Kỳ chăng?!
Quả thật; Bá Nha và Tử Kỳ là một giấc mộng dài, khiến đời say mãi ngàn năm.
Thuận theo quy luật của tự nhiên là không có điều gì tồn tại mãi cùng thời gian được. Và thời gian cũng có trách nhiệm là đào thải hoặc chọn lọc những gì được gọi là sự thật vào thời điểm nhất định mà thời gian buộc phải trả lời. Thời điểm đó chính là thời điểm mà nhân loại chúng ta chuẩn bị bước qua ngưỡng cửa của kỷ nguyên mới. Và hai tiếng "tri âm" đó, sẽ được thời gian hôm nay "phát âm" có "âm vang" như:
Hồi ức đưa ta trở về với tấn tuồng Bá Nha khóc Tử Kỳ ở cảnh mở màn, khi Bá Nha cắm sào trên bến Hàm Dương (không phải Hán Dương) thuở ấy. Phải biết nhân vật Bá Nha khi đắc thời thường đắc cả chí với ngón đàn mà mình đang sở hữu. Một truyền cầm trác tuyệt có thể giữ được gió, cầm cả trăng. Mỗi khi Bá Nha thả hồn lướt phím rung dây.
Tuy nhiên Bá Nha cũng luôn cho rằng; Thiên hạ không ai đủ để thưởng thức được tiếng đàn của mình cả. Bá Nha thường đơn lẻ trải lòng phiêu lãng cùng đất trời ở những nơi dòng uẩn, khúc vắng. Như bến Hàm Dương theo như tích cũ đã kể chẳng hạn.
Ở đây, tôi chỉ nói đến những sự cố xảy ra trong câu chuyện chứ không nhắc đến toàn bộ cốt truyện được mệnh danh là Tri Âm này. Vì thế nên ta xem xét vào thời điểm cây đàn bị đứt dây!?
Vậy khi sự cố đó xảy ra. Căn cứ vào đâu để Bá Nha biết được là có kẻ nào đó đang lén nghe đàn? Chẳng lẽ những người bạn trước đó từng đã nghe Bá Nha đàn trong quang minh chính đại thì không đứt dây hay sao? Thế nhưng có chắc gì những lúc đó ngoài những bạn bè đang nghe lại không bất chợt có ai lén nghe bên ngoài thì sao? Có uẩn khúc gì bị che giấu sau ngón đàn của Bá Nha ngày đó hay không?
Vấn đề ở đây lại không phải là nghe lén hay nghe minh bạch gì cả, mà chính là biết nghe (tri âm) tiếng đàn, và không biết nghe (vô tri âm) tiếng đàn! Như thế cũng có nghĩa là: Vô tri thì không xảy ra cớ sự gì. Bằng như gặp được kẻ hữu tri thì đàn sẽ có hiện tượng đứt dây! Tại sao lại có sự cố quái dị như thế đối với những ai được liệt vào hạng được gọi là tri âm? Tình tiết này sẽ được làm rõ chân tướng khi ta xét xem những sự cố gì xảy ra trong suốt câu chuyện của đôi bạn tri âm này.
Khi Tử Kỳ được viên quan "mời" xuống thuyền để đối chất. Ta thấy bối cảnh lúc đó như hai diễn viên bất đắt dĩ, diễn vai "Ngư Tiều Dao Cầm Vấn Đáp" vậy.
Theo như chỗ biết hạn hẹp của tôi thì nguồn gốc của cây Dao Cầm này không như những gì mà Tử Kỳ đã diễn tả cùng Bá Nha ngày đó. Không hề bởi do Phục Hy thấy 5 ngôi sao sa xuống cây ngô đồng cũng như chim phụng đáp trên đó. Bèn dùng gỗ ngô đồng mà làm ra cây đàn Dao Cầm này.
Thật sự cây đàn này được thiết kế từ một loại gỗ của cây Xích Tùng ngàn năm trên cung Dao Trì của Tây Vương mẫu, nên mới có tên là Dao Cầm (Đàn của cung Dao Trì). Nó vốn được tạo ra là để mô phỏng nhịp điệu và âm thanh của vũ trụ trích từ sao Bắc Đẩu. Đó là Sao Tiêu (Tiêu Khúc) và Sao Dao (Dao Cầm) trong bộ Tiêu - Dao - Du của tòa Bắc Đẩu mà ra. Tử Kỳ không đủ để biết tới căn nguyên nguồn cội đó cho được. Tóm lại: Đó vốn là "nhạc trời", chỉ dành riêng cho "Hóa Công" nơi Tiên cõi. Không phải là nơi để thế nhân học đòi mà làm loạn theo thói phong lưu.
Chúng ta cứ tạm biết như thế đã. Mọi sự sẽ hạ hồi phân giải, khi tất cả đã dần minh bạch.
Tiếp diễn câu chuyện Tử Kỳ nhắc đến đoạn: Khi Bá Nha đàn khúc "Khổng Tử Khóc Nhan Hồi". Đến câu thứ 3 trong 4 câu thì đàn bị đứt dây bất chợt. Từ đó dẫn đến việc phát hiện "kẻ nghe lén" Tử Kỳ. Và rồi đôi bạn tri âm cùng ngồi mà đàm đạo rất tâm đắc. Khiến cho bao kẻ ngàn đời sau, rất lấy làm ngưỡng mộ.
Tôi cũng đi thẳng vào ý của của bài này như sau:
Thật ra có một sự thật lấy làm kinh hoàng tất cả mọi tư duy suốt bao ngàn năm qua là: Tiếng đàn của Bá Nha ngày đó đã vô tình hại chết Tử Kỳ! Không như những gì mà người đời vẫn ca tụng là đôi bạn tri âm. Một nỗi oan khốc phải ngậm ngùi nghìn thu.
Bởi tiếng đàn đầu tiên mà Bá Nha "đã gẩy" trong sự thiếu hiểu biết ngày đó trên bến Hàm Dương, chính là "Khúc Đoạt Mạng". Tử Kỳ nghe được (tri âm) nên ắt phải chết sau 100 ngày! Cho nên chúng ta thấy Tử Kỳ đã vội vã về nhà: Bỏ cả việc đốn cũi hằng ngày mà chỉ lo tìm mua sách đọc cho tới chết (tiền từ 2 lượng vàng của Bá Nha tặng!?). Bởi Tử Kỳ biết mình sẽ chết sau 100 ngày nữa. Cha Mẹ già không có ai phụng dưỡng. Từ đó Tử Kỳ mới ra sức "chạy" mua sách về đọc cả ngày lẫn đêm để mà tìm thuốc "chữa". Tuy nhiên, cuối cùng thì Tử Kỳ cũng không thể vượt qua được "kỳ tử" sau kỳ hạn 100 ngày.
Về sự kiện này thì chỉ còn có mỗi Bá Nha biết được mà thôi. Bởi Bá Nha đã thấu cũng như hiểu được ngón đàn giết người mà mình đang sở hữu suốt bấy lâu trong vô tri. Nay chẳng qua nhờ duyên kỳ ngộ, khéo sắp đặt cho gặp được Tử Kỳ, mới có thể liễu ngộ. Đồng thời chính điều đó cũng ngay lập tức đã đoạt mạng Tử Kỳ. Nỗi lòng này, Bá Nha biết không thể giải bày cùng ai được cả. Bá Nha thể hiện điều đó qua câu thơ "Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ" của mình trong ngày đó rồi vậy. Còn kẻ thứ hai có thể gọi được là "tri âm" để chia sẻ thì... Đã hóa nấm mồ bên bến Hàm Dương mất rồi.
Như tôi đã diễn tả khi Bá Nha liễu ngộ thiên cơ thì hỡi ôi! Và điệu đàn thứ hai mà Bá Nha đàn bên mộ của Tử Kỳ là "Điệu Truy Hồn". Cho nên ta thấy mây đen vần vũ, ai oán, như hồn của Tử Kỳ kéo về... bên mộ. Bá Nha thành tâm tạ tội trước mộ của kẻ Tri Âm.
Và sau đó việc phải làm của Bá Nha chính là ngay lập tức đập bỏ cây đàn này. Bởi Bá Nha không muốn thấy; Rồi sẽ lại một ngày nào đó. Bất chợt trên một uẩn khúc của dòng đời nào đó. Bá Nha lại thêm một lần nữa bị đứt dây đàn.
Bởi có một kẻ ẩn sĩ bất đắc dĩ nào đó nữa, phải "bị nghe trộm" tiếng đàn.
-------------
Ức tích khứ niên thu
Giang biên tằng hội quân
Kim nhật trùng lai phỏng
Bất kiến tri âm nhân
Đãn kiến nhất bôi thổ
Thảm nhiên thương ngã tâm
Thương tâm thương tâm phục

Bất nhẫn lệ phân phân
Lai hoan khứ hà khổ
Giang bạn khởi sầu vân
Tử kỳ tử kỳ hề
Nhĩ ngã thiên kim nghĩa
Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ
Thử khúc chung hề bất phúc đàn
Tam xích dao cầm vị quân tử.

Và...
Suất toái dao cầm phượng vĩ hàn
Tử Kỳ bất tại đối thùy đàm
Đại thiên thế giới giai bằng hữu
Dục mịch tri âm nan thượng nan!

BẢN DỊCH
Nhớ đến mùa thu năm trước
Từng gặp bạn bên bờ sông
Hôm nay trở lại tìm
Không thấy người tri âm
Chỉ thấy một nấm mộ đất
Thảm thiết đau thương lòng ta
Ôi thương tâm! Lại thương tâm!
Không cầm được nước mắt ròng ròng
Vui đến rồi đi, còn lại đau khổ
Mây sầu trổi lên bên ven sông
Tử Kỳ hỡi! Tử Kỳ ơi!
Em và anh có nghĩa ngàn vàng
Dù có đến tận vô bến bờ cũng không nói hết lời
Vậy khúc nhạc này cũng dứt không đàn nữa
Dao cầm ba thước chết luôn theo em.
(Như bài dịch nghĩa trên có đúng hay không? Tự mỗi chúng ta cảm nhận).
---
VÀ ĐÂY LÀ Ý CỦA BÀI THƠ NÀY
Cho dù hàng tỷ năm sau nữa
Cuộc gặp gỡ hội tụ trên sông
Có lập lại giống như hôm nay không
Không thấy có người nào hiểu thấu
Chỉ thấy có một nấm mồ mà thôi
Tự nhiên thảm thương trong tâm ta
Ôi thương tâm! Phục trong tâm!
Không nhẫn tâm được, nước mắt cứ phân trần
Vui đi rồi, đau khổ tới sao
Hồn bạn theo mây gieo sầu trên sông
Tử Kỳ hởi! Tử Kỳ ơi!
Ta nghe câu tình nghĩa tựa thiên kim
Lịch đếm tận chân trời cũng không nói được
Khúc Thử vĩnh viễn không đủ phúc để đàn nữa
BA THƯỚC DAO CẦM VỐN CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ.
.
Bạn đọc tự do chia sẻ.


3 - KHỔNG TỬ KHÓC NHAN HỒI!
(Dấu chân mà Bá Nha dẫm phải)

Sau khi biết được nỗi oan khốc ngàn năm của tiếng đàn "đôi bạn tri âm". Giấc định mộng viễn khứ tri âm đó, khó có thể lay tỉnh trong một sớm một chiều cho được.

Bởi sự thật sao mà trần trụi, nghẹn đắng, đau thương, và khó nuốt trôi là vậy. Hoảng nhiên, ta ước thà làm thân dã tràng trước cơn dâu bể. Hơn là nhìn mọi giá trị văn hóa lịch sử, cùng những danh nhân kiệt tác, phải mang gông đọa đầy tư duy khổ sai miên viễn... trong kỷ nguyên mới này.

Ôi! Vốn tri âm; " Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ", quả là thế!.

Cái giá của sự tiến hóa lại gọt dũa một cách thảm nhiên đến thế sao?!

Không! Ý thức chung của thế nhân chúng ta, dĩ nhiên là kháng án trước bản án định giá phải trả quá đắt này. Để công bình, tôi tiếp tục đưa chúng ta lục soát lại những giá trị tiềm ẩn nào còn tồn đọng trong nỗi oan khốc nghìn thu. Vọng tín vào một khả dĩ cứu cánh nào đó mà tòa kiến trúc "tri âm" có thể nương tựa trong hồi nghiêng đổ?

Nếu thế; Ta phải quay trở lại với nỗi oan nghìn thu của Bá Nha và Tử Kỳ vậy. Ta biết Bá Nha vốn là một bậc quân tử mẫn thế đương thời trong giai đoạn đấy. Dĩ nhiên quan niệm sống mà Bá Nha tôn thờ là Nhân - Nghĩa - Lễ ... của Khổng giáo. Khiến nên khi chợt "ngộ thiên cơ". Bá Nha đã chấp nhận ôm Trung - Hiếu mà chịu tuẫn tiết, do cái vòng Lễ Giáo mà Khổng Tử đã đặt định.

Bởi vì ngoài những lễ giáo mà Bá Nha được giáo huấn từ Khổng Tử, còn có "ngón đàn", kể cả thậm chí điệu đàn của Khổng Tử nữa kia! Ta thấy Tử Kỳ đã "tố cáo" rõ ràng là: Bá Nha đã tấu khúc "Khổng Tử Khóc Nhan Hồi"! Đến đoạn thứ 3 là đứt dây. Và Bá Nha cũng tô đậm cho oan khúc đó thêm ở đoạn cuối với điệu "Bá Nha Khóc Tử Kỳ" !.

Như thế; Ta buộc phải đi ngược dòng lịch sử đôi chút, và dừng lại ở giai đoạn Khổng Tử mà bóc lớp tuần phủ lâu năm xem sao?.

Chúng ta biết Khổng Tử đã từng đi học đàn từ Tương Tử. Dõi theo hành tung của Khổng Tử... suốt những tháng ngày bôn ba khắp thiên hạ. Ta không thấy có điều gì bất thường nổi lên ngoài những học thuyết Nhân Đạo mà ông đang thi thố. Với hy vọng mong được trọng dụng trong các chư hầu lúc đấy.

Tuy nhiên; Trong một khúc ngoặc ở đoạn cuối của cuộc trường hành thuyết giáo. Vào lúc Khổng Tử bị vây hãm ở đất Khuông. Mọi người hết lương thực, đói dậy không nổi nữa. Ta thấy có một sự kiện dị hoặc là Khổng Tử khi ấy đã tỏ ra rất điềm đạm trong cơn khốn cùng. Ông không ngừng đánh đàn, cứ mải mê ca hát suốt cả ngày như thế! Tuy nhiên cuối cùng rồi Khổng Tử cũng phải buông đàn và thốt lên:

“Từ ngày vua Văn mất đi, chẳng phải tất cả văn hóa của nhân loại đang nằm ở ta cả hay sao? Nếu quả thật như thế, thì bọn giặc này có thể làm gì được ta?”.

Xét câu ta thán đấy, chúng ta thấy rằng; Khổng Tử đã nghi ngờ về học thuyết Nhân Đạo cũng như khả năng của chính mình. Vì chứng tỏ là nếu Rợ Địch ở đất Khuông ngày đó không tha cho thì phải bỏ mạng mất rồi. Ngay sau khi thoát nạn đấy. Khổng Tử tức tốc đến yết kiến Lão Tử. Bởi Khổng Tử biết Lão Tử đang là ngôi sao sáng nhất trong nhóm Bách Gia đương thời.

Chúng ta thấy lịch sử còn chép lại cuộc hội kiến này qua câu chuyện “Hỏi Lễ” giữa Khổng Tử và Lão Tử. Vừa gặp mặt, Lão Tử đã mắng Khổng Tử tối tăm cả mặt mũi:

- Tôi sở dĩ nhắc cho ông biết lời của những kẻ mà nay đã xương tàn cốt rụi hết cả rồi; "Người ta nghèo thì khoác áo tơi, đi chân đất. Giàu thì cũng tập đòi đi xe che lọng". Tôi khuyên ông nên bỏ cái dâm chí của ông đi.

Nói rồi, Lão Tử xua ra và đóng sập cổng trước sự ngơ ngác của Khổng Tử cùng học trò!?

Ra ngồi ngoài nhà nghỉ mát, Khổng Tử vẫn ngờ ngợ chưa tỉnh. Học trò thấy sự việc rất quái dị, không hiểu bèn hỏi Thầy. Khổng Tử đáp:

- Chim bay trên trời, ta lấy tên mà bắn. Cá lội dưới nước, ta lấy lưới mà giăng. Thú đi trong rừng, ta lấy bẫy mà dò. Nay ta thấy Lão Tử như con rồng! thoắt ẩn, thoắt hiện, không biết nẻo nào mà lần.

Đang còn mơ mơ hồ hồ... chưa rõ. Bất chợt có kẻ cuồng nước Sở là Tiếp Dư đi ngang. Vừa đi, Tiếp Dư vừa hát ngô nghê vài câu. Ngay lập tức Khổng Tử tỉnh hẳn mê lầm. Vội về nhà mở trường dạy học và không đi khắp nơi để mong thiên hạ trọng dụng nữa. Vào thời điểm này Khổng Tử đã 63 tuổi rồi. Kể như trót một đời người, bôn ba khắp nơi mà vẫn không ai trọng dụng cả. Khi tỉnh ngộ thì cũng đã về cuối đời. Cũng kể từ lúc này, Khổng Tử lại tiếp tục nghiên cứu Kinh Dịch một cách nghiêm túc nhất. Với tất cả hy vọng có một thực tại chân lý còn tiềm ẩn trong Kinh Dịch.

Cũng tính từ giai đoạn này. Chúng ta thấy Khổng Tử đã nghiền ngẫm tất cả những gì thuộc di chỉ của Văn Vương ngày xưa còn để lại. Chẳng hạn như phép bói Dịch, kể cả cây đàn Dao Cầm được truyền lại Nhà Chu từ Hoàng Đế ngày trước!

Lưu ý chung: Ở đây tôi chỉ xem xét những gì có liên can tới tiếng đàn mà thôi. Cho nên phạm vi chỉ giới hạn trong Kinh Nhạc. Riêng Kinh Dịch thì sẽ được xem xét ở chủ đề khác. Chắc chắn sẽ còn tiềm ẩn nhiều oan tình hơn nữa. Mọi sự để hạ hồi phân giải.

Ta chưa quên Khổng Tử đã từng phát biểu về nhạc là:

"Ai biết được bí quyết của âm nhạc tức là biết được cái bí quyết làm giao động lòng người. Ai biết được bí quyết làm giao động lòng người tức là biết được bí quyết dẫn dắt con người. Ai biết được bí quyết dẫn dắt con người tức là biết được bí quyết cai trị con người".

Vậy là đã rõ việc Khổng Tử cứ đánh đàn cả ngày trong cơn nguy khốn ở đất Khuông là cớ gì rồi vậy. Và câu ta thán ngay sau khi buông đàn, càng có vẻ như đóng ngoặc kép thêm cho nhận định này.

Và ta sẽ hiểu tại sao Khổng Tử thường nói chỉ thích "Cổ nhạc" chứ không thích "Kim nhạc"!. Kim nhạc là tính từ giai đoạn Tây Chu cho tới Đông Chu. Là thời điểm Khổng Tử đang sống. Còn Cổ nhạc là tính từ thời Vua Thuấn.

Cho nên tôi không ngần ngại chỉ ra rằng: Trong một lần Khổng Tử (mày mò nguyên cứu) đánh đàn, Nhan Hồi bất chợt đi vào và... "Đàn Bị Đứt Dây" !?.

Và Khổng Tử đã thảm thốt; "Trời hại ta! Trời hại ta!". Đối với cái chết sau 100 ngày của Nhan Hồi khi bị lỡ "lén nghe tiếng đàn" này! Và hiển nhiên khúc nhạc sau đó phải có tên: "Khổng Tử Khóc Nhan Hồi" là tất yếu. Dĩ nhiên Bá Nha uất nghẹn vì đã bước dẫm đúng vào dấu chân mà vị "Vạn Thế Sư Biểu" đã từng in hằn trước đấy. Vì thế bản photocoppy phải có tên là: "Bá Nha Khóc Tử Kỳ" mới đúng nguyên bản gốc của tôn sư để lại.

Từ đây; Chúng ta biết hệ thống Lục Kinh tất nhiên phải còn lại Ngũ Kinh mà thôi. Bởi đối với Kinh Nhạc; Khổng Tử phải có trách nhiệm khai tử nó bằng mọi giá.

Thật Kinh hoàng!

Bởi vì nền móng của văn hóa thật sự đã bị lung lay tận gốc rễ. Điều này nếu là sự thật; Thì cũng có nghĩa là đã đến thời điểm của ngày tận thế rồi vậy.

Sự việc đã thật sự trở nên nghiêm trọng một cách trầm trọng vô cùng.

Như thế, ta xét thấy kể cả Khổng Tử lẫn Bá Nha đều cùng tấu một "điệp khúc" oan khốc như nhau mà thôi! Vấn đề được đặt ra là đòi hỏi: Vì đâu nên nỗi thành ra nông nỗi dường ấy, đối với một người như Khổng Tử?!

Để minh bạch mọi sự, ta xét ở tầng sâu hơn của tư duy thì: Mọi sự đều bởi nguyên nhân từ tiếng đàn mà ra cả! Vì mỗi khi có ai biết nghe là ngay lập tức dây đàn có biểu hiện "sát" ngay tức khắc! Ta nhận định cây đàn mà Khổng Tử hay Bá Nha sử dụng đều chính là cây Dao Cầm. Cây đàn này còn được gọi là Thất Huyền Cầm. Do lúc Bá Nha và Khổng Tử sử dụng đều là 7 dây cả thảy. Vậy truy nguyên nguồn gốc, lai lịch của cây đàn này dần trở về quá khứ thì:

Do trước đấy Cơ Phát phạt Trụ đã thêm dây "Vũ" là dây thứ 7. Điều này cũng có nghĩa là trước khi Cơ Phát thêm vào thì đó là Lục Huyền Cầm. Thế thì trước Cơ Phát, Bá Ấp Khảo đã thêm dây thứ 6 gọi là dây "Văn" rồi!

Tôi kết luận:

Cây đàn Dao Cầm này, nguồn gốc ban đầu vốn có 5 dây mà thôi. Đó là Ngũ Huyền Cầm.

Tạm thời trở về quá khứ xa hơn nữa. Trong giới hạn phạm vi mà Khổng Tử có thể nhìn tới được như: Thời Nhà Ngu. Do Khổng Tử có thường nói chuộng nhạc cổ hơn kim. Tôi khẳng định điều ám chỉ của Khổng Tử chính là Khúc Nam Phong mà Vua Thuấn thường hay đàn.

Ở trong nẻo khuất xa của sử sách có rơi rớt đoạn:

Khi Vua Nghiêu thử Thuấn, có gả 2 em gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn. Kèm theo của hồi môn là cây Dao Cầm có 5 dây! Và Vua Thuấn đã đánh đàn với khúc Nam Phong để trị nước. Kết quả thì như chúng ta cũng đã từng được sử sách mô tả lại rồi vậy, không nhất thiết phải chép lại ra đây làm gì.

Tôi tạm giới hạn phạm vi quá khứ xem xét từ giai đoạn này trở lại. Sau khi phân tích và làm rõ mọi sự thấu đáo. Tôi sẽ xét và trình bày đến tận cội nguồn, lai lịch của cây đàn Dao Cầm này sau. Thậm chí kể cả phục hồi lại giá trị nguyên vẹn, vốn đã thất lạc từ thuở dấu chim xưa lạc chốn mây ngàn.

Trên đây là những gì liên can đến cây đàn Dao Cầm chứa đầy oan khúc này. Đó là ta xét từ giai đoạn của Bá Nha trở về quá khứ, giới hạn trong phạm vi hoài vọng của Khổng Tử. Riêng dò về tương lai gần thì sao?

Ta lại bắt gặp dấu tích cây đàn này thêm một lần nữa. Dao Cầm chính là gói hành trang được mang trên vai của kẻ lang bạt Cao Tiệm Ly! Như thế; Tiếng đàn của Cao Tiệm Ly sẽ được tôi mô tả tường tận trong bài viết tiếp theo sau hai oan khúc vừa qua. Vì cớ gì mà một danh cầm nơi cung Dao Trì của Tiên cõi lại trở thành một "Oan Khúc Cầm Ma" như thế? Khiến đến nỗi một con người như Khổng Tử, vẫn bị mắc sai lầm "chết người" như bỡn?!

Những oan khốc này nhất định sẽ được làm sáng tỏ. Sau khi tôi trình bày qua 3 điển hình minh chứng làm cáo chứng. Đó là tiếng đàn của Cao Tiệm Ly và những oan khốc vẫn còn chôn vùi trong sự hãnh diện tai hại chung xưa nay.

Quả thật: "... Chặt hết trúc lam sơn, khó ghi đầy... oan khốc".

Sửa bởi MikeDo: 07/04/2018 - 21:45


Thanked by 1 Member:

#4 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 21:47

4 - CAO TIỆM LY VÀ UẤT KHÚC DAO CẦM!
"Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn,
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn".

Đó là lời bài thơ ca ngày trước, khi Kinh Kha đứng bên bờ sông Dịch đã cảm khí cất lên, trước lúc vượt biên sang Tần thực thi "nhiệm vụ bất khả thi"..., dài tập.
Như ta đã biết; Nhiệm vụ bất khả thi diễn ra thời Tần vốn rất nhiều tập. Trong đó nổi trội trên hết là tập mô tả điệp vụ mà Kinh Kha phải thủ vai chính. Trong đó, tính bi tráng cùng những tình tiết của sự kiện này. Đã đi thẳng vào lịch sử và cắm sâu cội rễ vào lòng người, suốt hàng ngàn năm qua. Như mọi tác phẩm điện ảnh thường xem, người ta luôn nhớ đến nhân vật chính và luôn luôn quên mất đạo diễn!
Và bài viết này có chủ đích là phân tích sự việc qua góc nhìn của một giám khảo. Thậm chí cũng có thể xem là một quan án. Xem xét lại những tiềm án lịch sử này! Bởi lịch sử có quá nhiều những oan khốc, còn bị chôn vùi nhiều cách rất oan uổng. Khiến cho thần phải sầu, quỷ bật khóc, trước sự nhởn nhơ của nhân thế suốt ngàn năm qua.
Và:
Cận cảnh của quá khứ xa, đưa ta trở về với bài bi ca trên bờ sông Dịch thủy ngày ấy...
Trước lúc không gian khoác chiếc áo bóng đêm lên vạn vật, che dấu tung tích Kinh Kha vượt biên trên dòng Dịch thủy, để đột nhập sang Tần. Có người bạn "tri âm" đã tiễn Kinh Kha một điệu Dao Cầm trước lúc sang sông!
Ôi, Trời!... Độc giả hiểu ý tác giả đang muốn diễn đạt đến điều gì rồi chứ? (Nếu chúng ta đã từng thưởng thức qua hai tiếng đàn của Khổng Tử và Bá Nha mà tôi đã trình bày vừa qua).
Kẻ "tri âm" của Kinh Kha đã tiễn "bằng hữu" ngày đó trên bờ Dịch thủy chính là Cao Tiệm Ly! Một kẻ lãng du đúng nghĩa, đúng như yêu cầu... không mong muốn "!?".
Điều diễn đạt ở dòng trên, có nghĩa là: Khúc đàn tiễn đưa Kinh Kha trong ngày đó của Cao Tiệm Ly, đã có xảy ra tình tiết "đứt dây đàn"!!...
Kinh Kha hốt nhiên có cảm giác khí lạnh của gió hoàn hôn trên dòng Dịch thủy phủ trùm toàn thân. (Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn). Dĩ nhiên cảm giác đó đã thoát ra thành lời như: ... "Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn"!
Chỉ có riêng Kinh Kha và "tiềm ẩn thủ" Cao Tiệm Ly, hiểu được tương lai gần trong giới hạn của 100 ngày nữa, sẽ có kết quả ra sao trong ngày Kinh Kha ca khúc khải hoàn nếu có. Kinh Kha không nhận nhiệm vụ bất khả thi ngày đó là không được rồi vậy.
Ta phải thấy hành động của hai con người này ngày ấy, quả thật rất đáng để những thế hệ mai sau phải ngưỡng mộ. Tuy nhiên trong đó, lịch sử đang còn tiềm ẩn những giá trị bị vùi lấp một cách rất oan uổng. Bởi như những gì vừa nêu. Cho dù Kinh Kha có đi hay không. Cái chết ắt phải đến sau trăm ngày (âm bản cái chết của Tử Kỳ). Vấn đề là Kinh Kha chọn cái chết nào, để còn lưu danh sử sách ngàn sau.
Kể cũng đáng ngậm ngùi thay cho Kinh Kha ngày đó. Một kẻ lang bạt, thất chí, lỡ vận trong thế cuộc đương thời khi ấy. Dẫu sao, Kinh Kha cũng đã kịp lưu danh trong trang sử ngàn thu ở đắc thời tương lai sau.
Thời gian tiếp diễn, được biểu thị như dòng gạch nối xuống dòng như đoạn sau.
Kịch bản mà đạo diễn Cao Tiệm Ly âm thầm hy sinh người bạn tri kỷ của mình cùng với cái hộp lễ vật có dán mác "Phàn Ô Kỳ". Đã hoàn toàn phá sản trước thời hạn 100 ngày.
Cao Tiệm Ly đã uất ức dốc túi, lập "Dự Án" tiếp tục đầu tư với canh bạc cuối cùng bao gồm... cả tính mạng của chính mình với kế hoạch như sau:
Cao Tiệm Ly dùng thuốc tự xông cho mù đôi mắt của chính mình. Với chủ ý không để cho chức năng của thị giác gây phân tâm. Bởi theo lẽ thường thì người mù sẽ có được sự tập trung cao hơn cho thính giác. Chính vì thế nên Cao Tiệm Ly tập trung hết khả năng vào âm thanh của cây Dao Cầm. Mong sẽ dùng khả năng cảm nhận âm thanh tinh túy nhất mà phát huy toàn bộ tuyệt kỹ của ngón đàn còn tiềm ẩn trong đó. Khi Cao Tiệm Ly cảm nhận được âm thanh của tiếng đàn đủ gây chấn động cả Quỷ Thần mới tính kế mưu thích Tần Thủy Hoàng tập 2.
Sau đó, Cao Tiệm Ly mới lần mò, giả dạng, thành kẻ ăn mày với đôi mắt mù lòa. Hằng ngày vào lúc hoàng hôn hoặc những đêm trăng lạnh. Thường đến ngồi dưới chân tường phía bên ngoài thành dạo khúc Dao Cầm ai oán.
Tiếng đàn đã lay động cả quỷ thần, muôn trùng, thậm chí cả cỏ cây, đến cảnh vật nhất loạt ra vẻ thê lương. Tiếng đàn đó rồi trong một ngày, cũng len lỏi đến tai Tần Thủy Hoàng tận chốn thâm cung!
Tần Thủy Hoàng bị âm thanh của cây Dao Cầm làm cho say mê. Bèn cho người gọi Cao Tiệm Ly vào cung để hầu đàn cho Tần Thủy Hoàng nghe. Ban đầu, Cao Tiệm Ly phải ngồi xa xa phía dưới để đánh đàn. Về lâu, Tần Thủy Hoàng dần "nhiễm âm", dẫn đến giao động ý thức. Vả lại, do thấy Cao Tiệm Ly chỉ là một gã mù nên cho lại ngồi gần mà đánh đàn.
Cơ hội ngàn năm đã đến. Cao Tiệm Ly mới dùng tất cả ngón đàn ra để mà thích khách Tần Thủy Hoàng... Tần Thủy Hoàng tuy say tiếng đàn như muốn lạc cả hồn, lìa cả phách. Tuy nhiên ngón đàn của Cao Tiệm Ly cũng chỉ có thể gây dật dờ, cuồng quay, nghiêng ngã, ra chiều ngồi không vững cho Tần Thủy Hoàng mà thôi!
Tất cả tuyệt kỹ của Dao Cầm đã được tuôn hết ra trên các ngón đàn ngày đó. Cao Tiệm Ly cũng không thể nào rung nổi dây "Sát" của Dao Cầm, để phát huy "Thử Khúc" mà ngày xưa; Bá Nha lẫn Khổng Tử từng dạo phải trong cảnh giới vô tình lạc khúc !? (Điều oái oăm này, tôi sẽ lý giải sau khi đã đưa ra ánh sáng toàn bộ sự thật).
Và kế hoạch phát triển Dự Án của Cao Tiệm Ly ngày đó hoàn toàn phá sản. Thế rồi, mọi năng lượng uất ức hờn căm ngày đó. Cao Tiệm Ly đã dồn nén vào phía bên trong của cây Dao Cầm đạt đến 50 cân trọng lượng. Để rồi trong một ngày, Cao Tiệm Ly đã giải phóng năng lượng toàn phần, tiềm ẩn bên trong cây Dao Cầm này vào thời điểm; Tần Thủy Hoàng đang say nghiêng ngã cùng tiếng đàn... Thần thức dần lạc vào cõi mộng muội...
Thật không may, Cao Tiệm Ly đã phải vấp ngã 3 lần liên tiếp trên cùng một lối mòn. Chúng ta nói chung, không đủ để thấy được ngày đó: Thích Khách có hành tung Xuất Quỷ, Nhập Thần. Hành thích không để lại dấu vết, che mắt tất cả thiên hạ suốt hàng ngàn năm qua chính là Cao Tiệm Ly.
Xét lịch sử xưa nay trên bình diện địa cầu. Kẻ mà lên kế hoạch "Thích Vương" 3 lần mà vẫn chưa bị bại lộ tung tích thì quả thật chỉ có mỗi Cao Tiệm Ly mà thôi.
Kịch bản thứ nhất: Đạo Diễn phải hy sinh Diễn Viên Chính vốn là bạn tri âm của mình là Kinh Kha cùng với hai Vai Phụ: Phàn Ô Kỳ lẫn Tần Vũ Dương.
Kịch bản thứ hai: Đạo Diễn kiêm luôn vai Diễn Viên Chính và phải hy sinh đôi mắt của mình.
Kịch bản thứ ba: Đạo Diễn hy sinh luôn cả Diễn Viên Chính do mình thủ vai.

Chúng ta thấy: Lần mưu thích thứ nhất tuy thất bại. Hành tung của Cao Tiệm Ly vẫn chưa bại lộ! Đến kế hoạch thứ hai phá sản. Ma không biết, Quỷ không hay!! Nhiệm vụ cuối cùng cũng bất khả thi trong vô tăm sủi...
Hành tung tuy có bại lộ. Nhưng "hành tích" của Cao Tiệm Ly, đã tuyệt đối sánh cùng thiên cơ suốt hàng ngàn năm qua!
Tôi khẳng định:
Đôi bạn xứng nghĩa với hai tiếng "Tri âm" chính là Cao Tiệm Ly và Kinh Kha chứ không phải bất kỳ ai khác. Cho dù có hiểu theo bất kể giá trị tiềm ẩn nào có trong đó, hoặc không.

Nhân đây! Tôi không ngại soi rọi một tia sáng trong kỷ nguyên mới. Làm tan áng mây mù thiên cơ ngàn năm che phủ. Hầu chuyện chúng ta một vài trống canh, sau một ngày dài... Lăn lộn cùng cái nợ áo cơm ngày thường như sau:
Để tô đậm thêm cho những giá trị tiềm ẩn mà đôi bạn này ngày đó còn lưu lại làm minh chứng: Họ đã khắc lên "bia miệng" truyền đời mà tôi lại chép lại từ đầu của bài viết này:
"Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn,
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn".


Tán Dịch...:
Thiên Thư mặc khải rằng:
Kẻ hành thích thiên kỷ Cao Tiệm Ly. Vốn đã được mặc định "tên tuổi" vào Dịch Lý với hai Quẻ: Tiệm và Ly!
Tiệm từ Quẻ: Phong Sơn Tiệm, thuộc cung Cấn của dương Thổ.
Ly từ Quẻ : Bát Thuần Ly, thuộc cung Ly của Hỏa.
Hội lý thiên cơ diễn ra trên địa phương của dòng sông Dịch của Kinh Dịch bao gồm:
Câu thơ ca: "Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn. Thể hiện Dịch Lý thuộc Thủy. Từ đó câu đầu sử dụng lý của Quẻ: Phong + Thủy = Hoán!
Quẻ Phong Thủy Hoán vốn thuộc Quẻ được sinh ra từ Bát Thuần Ly (Cha đẻ là Cao Tiệm Ly). Hoán cũng có nghĩa là hoán đổi tính mạng của Kinh Kha cho kế hoạch thích khách Tần Thủy Hoàng ngày ấy.

Câu thứ hai: "Tráng sĩ khứ hề, bất phục hoàn".
Tiềm ẩn Quẻ Tráng thuộc: Lôi Thiên Đại Tráng. Bất phục hoàn thuộc quẻ: Địa Lôi Phục. Vốn thuộc ở chung cung Khôn của Thổ. Đó là Cửa Tử, trong Tám Cửa. Vốn là Mộ của vạn vật.
Phàm cung Khôn đã trãi qua quẻ Phục thì mới tới Đại Tráng. Cho nên Tráng không thể tiếp tới Phục được. Đó là ý của câu "bất phục hoàn" nếu một khi Tráng đã khứ.


Có nghĩa là đôi bạn "Tri Âm" này đã thống nhất kế hoạch hành thích ví ngang cùng Quỷ Thần ngày đó rồi. Thế nhưng có điều gì mà phải cam chịu thất bại?
Tuy mặc dù sở học ngày đó của quái kiệt Cao Tiệm Ly hiểu thấu rằng:
Tần Thủy Hoàng rất cao siêu về dụng Dịch. Ví như Tần Thủy Hoàng biết Thời - Vận - Mệnh vốn thuộc Thủy Cuộc. Từ đó mới lấy hiệu là Thủy Hoàng Đế. Vả lại, Thủy là màu đen, nên Cờ, Giáp, Màn, Trướng đều thể hiện màu Đen. Lại nữa; Thủy vốn là số 6. Từ đó Thủy Hoàng Đế luôn đi xe 6 ngựa kéo. Ở 6 cung. Sau này vì do thích khách quá nhiều nên đã dụng: 6x6 = 36. Ta thấy Tần Thủy Hoàng đã ở theo 36 cung, và đi 36 xe mới khiến nên Trương Lương; Một lần nữa phải chịu cảnh lưu vong nước người mà mượn đầu heo nấu cháo.

Có một điều mà Cao Tiệm Ly cùng Kinh Kha tính không ra là; Đại Tượng đã ứng hiện thiên cơ ngay trên bờ sông Dịch Thủy ngày đó, trước lúc sang Tần rồi. Bởi Cao Tiệm Ly thuộc Hỏa. Kế hoạch Phong Thủy hoán cũng thuộc Hỏa.

Vậy mà khởi sự tại đất của Dịch thủy! Xuất phát tại Cửa Tử. Thời, Thế, Vận, Mệnh đều thuộc Thủy. Cao Tiệm Ly đã mang lửa đuốc ra đầu ngọn thác rồi vậy.
Âu! Cũng là định mệnh mà phận số đã an bài.
Dẫu sao đôi bạn tri âm Cao Tiệm Ly cùng Kinh Kha ngày đó, đã đi thẳng vào một trang trong Thiên Thư cho tới tận ngày hôm nay. Và chỉ chịu chấp nhận đứng trước "vành móng..." của vó ngựa Tiêu Sương mà thôi.
Để kết thúc bài viết kỳ này:
Ở đây tôi chưa bàn đến độ quán triệt. Ta thấy chí ít, Cao Tiệm Ly mới thật sự sở hữu ngón đàn có thể miêu tả là Tuyệt Kỹ Dao Cầm này. Còn Khổng Tử lẫn Bá nha trước đó chưa có thể chạm tới ngưỡng này cho được. Bởi điệp khúc "Khóc Tri Âm" trước đó, vốn tại vô tri âm mà gây ra cớ sự cả thôi. Riêng khúc "Cao Tiệm Ly Khóc Kinh kha" mới thật sự là Tri Âm một cách có chủ ý.

Như thế; Qua đơn cử 3 lần khóc tri âm trong quá khứ của lịch sử. Ta nhận định được giá trị đích thực của cây Dao Cầm là không thể chối bỏ. Tuy nhiên, vết hằn dấu chân của Khổng Tử trước đó đã khiến cho Bá Nha về sau dẫm phải một cách rất bi thương. Vậy dấu chân của Cao Tiệm Ly có gây vấp ngã cho hậu thế nào không? Điều này khiến ta phải soi tư duy vào góc khuất kho tàng thư của sử xanh... xem sao?
Bởi vết dấu của Cao Tiệm Ly và Kinh Kha xứng đáng là một thiên anh hùng ca đầy bi tráng. Trong chừng mực của một tương lai gần của lịch sử đã qua. Ánh hào quang đó, dễ khiến cho một kẻ sĩ nào đó. Trong một sự kiện nào đó nữa;
Nguyện được làm kiếp... "thiêu thân".
Điều tôi muốn diễn đạt là: Tiếng đàn Sĩ Nhiếp cùng Kê Khang qua Khúc Quảng Lăng Tán!
Và đó: Cũng là đề tài của bài viết có tính móc xích tiếp đến...

Sửa bởi MikeDo: 07/04/2018 - 21:50


Thanked by 1 Member:

#5 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 22:04


5 - KHÚC QUẢNG LĂNG TÁN.

Âm thanh ba hồi trống vọng thinh không... lay cửa Nam Thiên Môn. Báo hiệu sẽ tiễn đưa một oai linh hiển hách về... "chầu Trời"!

Trong bài viết trước đây với tựa đề "Phương Tiện". Âm thanh của nhạc điệu nói chung, là âm thanh cuối cùng. Phù trợ kiếp phù sinh nhân thế chúng ta về với cõi... lãng quên nào đó.

Tuy nhiên, Âm thanh của tiếng trống đơn lẻ nơi pháp trường. Là âm thanh chọn lọc, duy nhất khẳng định: Đưa khí phách những kẻ hiên ngang vào thẳng Ngọ Môn Quan, không khác.

Và rằng: Trong một trang lưu trữ hồ sơ của lịch sử pháp trường. Có chép lại thời điểm mà giai đoạn năm tháng cũ không phai vết dấu; Tiếng Dao Cầm là âm thanh đầu tiên hòa nhịp cùng tiếng trống nơi pháp trường. Và đồng thời đó cũng là tiếng vọng cuối của Dao Cầm còn rơi vương **** đâu đó trong Khúc Quảng Lăng.

Tiềm ẩn ý trong đó là:

Cùng với tiếng trống nơi pháp trường ngày đó. Không biết Dao Cầm đã tiễn Kê Khang hay, Kê Khang đã tiễn Dao Cầm về với miền tịch dương, qua khúc Quảng Lăng Tán?

Trước khi làm rõ những uẩn khúc này. Ta nhanh quay trở lại với mạch đề tài dễ có nguy cơ "lạc điệu"... vì mải "dạo... quanh".

Ánh sáng từ ngọn lửa Tiệm Ly. Cũng dần soi sáng đêm trường lịch sử cho phận "thiêu thân" noi theo, với tên gọi: Nhiếp Chính!

Nghe kể lại rằng; Nhiếp Chính trong một ngày nào đó (?), của quá khứ lịch sử xa lâu. Đã vì một hận cớ mà bỏ phố lên rừng suốt 10 năm để... học đàn! Không biết ngày đó Nhiếp Chính đã may kiến ngộ phải vị "quy sư phụ" nào mà không thấy sử sách nhắc đến?! Đã truyền lại tuyệt kỹ Dao Cầm.

Thay vì Kinh Kha và Tiệm Ly. Kẻ đeo kiếm, gã mang đàn. Cùng nhau đối ẩm, thù tạc, ngao du với thú tiêu dao giữa chợ đời... chỉ riêng đôi bạn. Đàng này thì Nhiếp Chính vác đàn rãi khắp chợ đời đến đỗi: Trâu, Ngựa đi ngang cũng đã phải dừng lại mà vểnh tai... nghe đàn!

Ấy! Chớ có lầm đấy. Bởi ngón đàn của Nhiếp Chính ngày đó đã đạt đến độ; Rung động cả chim muông, lục súc rồi đó vậy. Ý tại ca từ... Trường giang sóng sau xô sóng trước đó mà. Ai đó chớ có vì nông ý mà nghĩ cạn về khúc Dao Cầm kẻ sĩ này đang sở hữu.

Tất nhiên việc noi gương sáng của tiền nhân là chuyện phải xảy ra trong một sáng một chiều đẹp trời nào đó. Điều này có nghĩa là Nhiếp Chính cuối cùng rồi cũng ôm đàn học đòi, thích khách Hàn Vương! Như đã mô tả; Kinh Kha và Tiệm Ly, kẻ đeo kiếm, kẻ mang đàn. Nhiếp Chính bao gồm cả hai là vừa đeo kiếm lại kiêm luôn cả mang đàn! Cho thừa chí khí...

Thế nên ta thấy trong thời điểm Nhiếp Chính dùng điệu đàn để thích khách Hàn Vương cảm thấy bất khả thi. Vội buông đàn mà múa kiếm tiếp tục hành thích. Tuy nhiên sau cùng thì Nhiếp Chính đành "thích luôn chủ" thay vì chỉ phải "thích riêng khách". Kể cũng oan khốc một thời.

Nghe đâu, điệu đàn ngày đó mà Nhiếp Chính dùng để thích khách Hàn Vương chính là khúc Quảng Lăng Tán!, bất hủ.

... Trải qua đủ cuộc bể dâu khoảng chừng 500 năm sau. Mãi về thêm trăm sau nữa, Khúc Quảng Lăng lại một lần nữa, bước ra từ huyền thoại! Kể cũng lạ. Không ai thấy cũng như biết Kê Khang học đàn từ đâu cả! Truyền thuyết chỉ có thể truyền lại rằng: Chính Nhiếp Chính đã truyền lại khúc Quảng Lăng Tán cho Kê Khang qua giấc mộng!?.

Và Kê Khang đã phục hồi và đồng thời phát huy khúc Quảng Lăng Tán này lên một tầm cao vời vợi hơn trước đấy nữa. Chính vì lẽ đó mà khúc Quảng Lăng Tán đã đi liền với tên tuổi của Kê Khang mãi về sau. Chúng ta được biết Kê Khang là một ẩn sĩ trong nhóm của Trúc Lâm Thất Hiền. Suốt ngày chỉ ngao du sơn thủy, vui thú cầm kỳ thi họa cùng nhóm bạn, chẳng màng thế sự mà chen chân.

Ta thấy vì cớ gì mà đương thời Kê Khang khinh thường luôn cả bao gồm từ: Nhà Thương, Nhà Ân, Văn Vương, Khổng Tử!?. Điều đó càng nhấn mạnh thêm cho ta thấy ngón đàn Dao Cầm trong tay Kê Khang hẳn là trác tuyệt. Mà quả có như thế thật. Mọi sự để hạ hồi phân giải.

Như đã diễn tả ở đầu bài viết này: Trước pháp trường, sau ba hồi trống. Kê Khang đã dùng ân huệ cuối cùng là chơi bài Quảng Lăng Tán. Mặc cho đao phủ chống ngược mũi đao cạnh một bên chờ tiễn linh hồn trực chầu. Như những gì mà lịch sử đã ghi; Sau khi cùng Dao Cầm lướt xong khúc Quãng Lăng Tán. Kê Khang quăng đàn hét lớn: Khúc Quảng Lăng kể từ đây thất truyền.

Thế nhưng, Biết bao danh cầm của Trung Hoa từ đó đến nay khẳng định rằng Kê Khang đã sai! Bởi Khúc Quảng Lăng Tán vẫn còn hiện diện đến tận hôm nay!!

Riêng tôi vẫn lập lại lời của Kê Khang rằng: Quả như lời Kê Khang. Thất truyền thật rồi vậy. Điều này phản ảnh là cho đến mãi tận hôm nay. Vẫn chưa có một ai đủ để hiểu ý tấu của khúc Quảng Lăng Tán là gì cả!

Nếu ta xem như từ giai đoạn mà Kê Khang khai tử Khúc Quảng Lăng Tán thì: Dĩ nhiên đó sẽ là cột mốc chấm hết. Như thế, ta tạm giới hạn kể từ giai đoạn này để tra xét ngược trở về quá khứ cũng đã đủ dữ liệu rồi vậy. Cũng theo như lời của Khổng Tử thì ông luôn hoài vọng về cổ nhạc của thời Nhà Ngu. Vậy ta có một giai đoạn lịch sử tính từ Vua Nghiêu với Khúc Nam Phong, kéo dài đến Kê Khang trong Khúc Quảng Lăng Tán làm giới hạn cho phạm vi xem xét về Dao Cầm rồi vậy.

Xét tổng thể, ta có tất cả 3 điệu khóc cùng Dao Cầm!:

Thứ nhất là tiếng khóc rất âm thầm, sâu kín của Cơ Xương với điệu; "Văn Vương Khóc Bá Ấp Khảo", !. Tiếng khóc thứ hai lập lại ra vẻ rõ ràng hơn người xưa với; "Khổng Tử Khóc Nhan Hồi", !!. Và rồi tiếng khóc đó được khóc thét một cách não nùng qua: "Bá Nha Khóc Tử Kỳ", !!!. Một điệu khóc kéo dài suốt một cuộc bể dâu. Đăng đẳng 500 năm dài khóc bởi Dao Cầm!. Kể ra cũng rất, lấy làm lạ lùng!.

Những điệu, khúc còn lại. Ta có thể phân loại như sau:

Ngón đàn của Cao Tiệm Ly Tiễn Kinh Kha, tiễn Tần Vương và thậm chí tiễn luôn cả khổ chủ bao gồm. Dĩ nhiên, qua như những gì đã phân tích, được xem là ngoại hạng.

Tiếp đến...

Lại có 3 ứng cử viên nữa sở hữu ngón đàn Dao Cầm có thể xem là đã đạt tới cảnh giới khiến cầm thú, chim muông cũng phải rung động! Hiển nhiên đó là Nhiếp Chính, Kê Khang tấu chung khúc Quảng Lăng Tán. Ngoài ra không thể bỏ sót "cánh nhạn lạc" bởi tiếng đàn tại cửa ải Nhạn Môn Quan cho được! Điều mà tôi không thể bỏ sót qua, chính là Khúc Bình Sa Lạc Nhạn của Chiêu Quân trong xa mờ, phủ lấp bụi Hồ.

Lại phản ảnh thêm một cuộc bể dâu nữa cho đoạn sau này của Dao Cầm! Cũng 500 năm nữa lập lại quá khứ. Tuy có khác những điệu khóc sầu thảm của 500 năm trước. Là thay vào đó thành những khúc ai oán, bi thương, của 500 năm sau!

Khảo xét ở vào tầng sâu hơn nữa, cho thấy:

Tiếng đàn của Chiêu Quân có thể gây rung động được cầm thú (lạc nhạn) như Nhiếp Chính và Kê Khang. Ngoài ra tiếng đàn ấy kiêm luôn cả việc "Sát Tri Âm" như Tiệm Ly và Kinh Kha!! Bởi chính xác là cánh nhạn nơi biên thùy ngày đó đã bị đứt từng khúc ruột, rơi xuống mà chết "!?". Quả là có sự thật như thế, đối với ngón đàn của Chiêu Quân. Tình tiết này không như sự suy diễn của các nhà thơ, văn. Mô tả là do thấy sắc đẹp của Chiêu Quân, mà chim nhạn bay lạc đàn về cuối nẻo hoàng hôn.

Ta thấy: Vượt lên trên tất cả chính là tiếng đàn của Vua Thuấn với Khúc Nam Phong.

Tuy nhiên. Án xưa, tích cũ. Vẫn còn quá nhiều những giá trị tiềm ẩn đầy oan khốc, đang nộp hồ sơ tố cáo trước cửa của kỷ nguyên mới.

Và... Lý Lịch Dao Cầm đang được truy dấu quá khứ thân phận để bổ sung hồ sơ với "ký mã": "Ai Là Chủ Nhân Của Dao Cầm?".

Để làm được điều đó: Trước hết ta nhất định phải tra xét cho ra nguyên cớ nào mà Dao Cầm lại gây ra biết bao tiếng vọng muôn vẻ như thế? Chắc chắn điều đó sẽ có ở phía bên kia không gian chiều thứ tư. Với một cách mô tả khác là: Đó là thế giới của huyền thoại. Bởi Dao Cầm đã đi vào huyền thoại. Trong khi huyền thoại lại chính là mô hình gần với thực tại nhất.

Bước tiếp theo sẽ là chủ đề: "Hoàng Đế Với Dao Cầm Khúc Nôi!".

5 - KHÚC QUẢNG LĂNG TÁN.

Âm thanh ba hồi trống vọng thinh không... lay cửa Nam Thiên Môn. Báo hiệu sẽ tiễn đưa một oai linh hiển hách về... "chầu Trời"!

Trong bài viết trước đây với tựa đề "Phương Tiện". Âm thanh của nhạc điệu nói chung, là âm thanh cuối cùng. Phù trợ kiếp phù sinh nhân thế chúng ta về với cõi... lãng quên nào đó.

Tuy nhiên, Âm thanh của tiếng trống đơn lẻ nơi pháp trường. Là âm thanh chọn lọc, duy nhất khẳng định: Đưa khí phách những kẻ hiên ngang vào thẳng Ngọ Môn Quan, không khác.

Và rằng: Trong một trang lưu trữ hồ sơ của lịch sử pháp trường. Có chép lại thời điểm mà giai đoạn năm tháng cũ không phai vết dấu; Tiếng Dao Cầm là âm thanh đầu tiên hòa nhịp cùng tiếng trống nơi pháp trường. Và đồng thời đó cũng là tiếng vọng cuối của Dao Cầm còn rơi vương **** đâu đó trong Khúc Quảng Lăng.

Tiềm ẩn ý trong đó là:

Cùng với tiếng trống nơi pháp trường ngày đó. Không biết Dao Cầm đã tiễn Kê Khang hay, Kê Khang đã tiễn Dao Cầm về với miền tịch dương, qua khúc Quảng Lăng Tán?

Trước khi làm rõ những uẩn khúc này. Ta nhanh quay trở lại với mạch đề tài dễ có nguy cơ "lạc điệu"... vì mải "dạo... quanh".

Ánh sáng từ ngọn lửa Tiệm Ly. Cũng dần soi sáng đêm trường lịch sử cho phận "thiêu thân" noi theo, với tên gọi: Nhiếp Chính!

Nghe kể lại rằng; Nhiếp Chính trong một ngày nào đó (?), của quá khứ lịch sử xa lâu. Đã vì một hận cớ mà bỏ phố lên rừng suốt 10 năm để... học đàn! Không biết ngày đó Nhiếp Chính đã may kiến ngộ phải vị "quy sư phụ" nào mà không thấy sử sách nhắc đến?! Đã truyền lại tuyệt kỹ Dao Cầm.

Thay vì Kinh Kha và Tiệm Ly. Kẻ đeo kiếm, gã mang đàn. Cùng nhau đối ẩm, thù tạc, ngao du với thú tiêu dao giữa chợ đời... chỉ riêng đôi bạn. Đàng này thì Nhiếp Chính vác đàn rãi khắp chợ đời đến đỗi: Trâu, Ngựa đi ngang cũng đã phải dừng lại mà vểnh tai... nghe đàn!

Ấy! Chớ có lầm đấy. Bởi ngón đàn của Nhiếp Chính ngày đó đã đạt đến độ; Rung động cả chim muông, lục súc rồi đó vậy. Ý tại ca từ... Trường giang sóng sau xô sóng trước đó mà. Ai đó chớ có vì nông ý mà nghĩ cạn về khúc Dao Cầm kẻ sĩ này đang sở hữu.

Tất nhiên việc noi gương sáng của tiền nhân là chuyện phải xảy ra trong một sáng một chiều đẹp trời nào đó. Điều này có nghĩa là Nhiếp Chính cuối cùng rồi cũng ôm đàn học đòi, thích khách Hàn Vương! Như đã mô tả; Kinh Kha và Tiệm Ly, kẻ đeo kiếm, kẻ mang đàn. Nhiếp Chính bao gồm cả hai là vừa đeo kiếm lại kiêm luôn cả mang đàn! Cho thừa chí khí...

Thế nên ta thấy trong thời điểm Nhiếp Chính dùng điệu đàn để thích khách Hàn Vương cảm thấy bất khả thi. Vội buông đàn mà múa kiếm tiếp tục hành thích. Tuy nhiên sau cùng thì Nhiếp Chính đành "thích luôn chủ" thay vì chỉ phải "thích riêng khách". Kể cũng oan khốc một thời.

Nghe đâu, điệu đàn ngày đó mà Nhiếp Chính dùng để thích khách Hàn Vương chính là khúc Quảng Lăng Tán!, bất hủ.

... Trải qua đủ cuộc bể dâu khoảng chừng 500 năm sau. Mãi về thêm trăm sau nữa, Khúc Quảng Lăng lại một lần nữa, bước ra từ huyền thoại! Kể cũng lạ. Không ai thấy cũng như biết Kê Khang học đàn từ đâu cả! Truyền thuyết chỉ có thể truyền lại rằng: Chính Nhiếp Chính đã truyền lại khúc Quảng Lăng Tán cho Kê Khang qua giấc mộng!?.

Và Kê Khang đã phục hồi và đồng thời phát huy khúc Quảng Lăng Tán này lên một tầm cao vời vợi hơn trước đấy nữa. Chính vì lẽ đó mà khúc Quảng Lăng Tán đã đi liền với tên tuổi của Kê Khang mãi về sau. Chúng ta được biết Kê Khang là một ẩn sĩ trong nhóm của Trúc Lâm Thất Hiền. Suốt ngày chỉ ngao du sơn thủy, vui thú cầm kỳ thi họa cùng nhóm bạn, chẳng màng thế sự mà chen chân.

Ta thấy vì cớ gì mà đương thời Kê Khang khinh thường luôn cả bao gồm từ: Nhà Thương, Nhà Ân, Văn Vương, Khổng Tử!?. Điều đó càng nhấn mạnh thêm cho ta thấy ngón đàn Dao Cầm trong tay Kê Khang hẳn là trác tuyệt. Mà quả có như thế thật. Mọi sự để hạ hồi phân giải.

Như đã diễn tả ở đầu bài viết này: Trước pháp trường, sau ba hồi trống. Kê Khang đã dùng ân huệ cuối cùng là chơi bài Quảng Lăng Tán. Mặc cho đao phủ chống ngược mũi đao cạnh một bên chờ tiễn linh hồn trực chầu. Như những gì mà lịch sử đã ghi; Sau khi cùng Dao Cầm lướt xong khúc Quãng Lăng Tán. Kê Khang quăng đàn hét lớn: Khúc Quảng Lăng kể từ đây thất truyền.

Thế nhưng, Biết bao danh cầm của Trung Hoa từ đó đến nay khẳng định rằng Kê Khang đã sai! Bởi Khúc Quảng Lăng Tán vẫn còn hiện diện đến tận hôm nay!!

Riêng tôi vẫn lập lại lời của Kê Khang rằng: Quả như lời Kê Khang. Thất truyền thật rồi vậy. Điều này phản ảnh là cho đến mãi tận hôm nay. Vẫn chưa có một ai đủ để hiểu ý tấu của khúc Quảng Lăng Tán là gì cả!

Nếu ta xem như từ giai đoạn mà Kê Khang khai tử Khúc Quảng Lăng Tán thì: Dĩ nhiên đó sẽ là cột mốc chấm hết. Như thế, ta tạm giới hạn kể từ giai đoạn này để tra xét ngược trở về quá khứ cũng đã đủ dữ liệu rồi vậy. Cũng theo như lời của Khổng Tử thì ông luôn hoài vọng về cổ nhạc của thời Nhà Ngu. Vậy ta có một giai đoạn lịch sử tính từ Vua Nghiêu với Khúc Nam Phong, kéo dài đến Kê Khang trong Khúc Quảng Lăng Tán làm giới hạn cho phạm vi xem xét về Dao Cầm rồi vậy.

Xét tổng thể, ta có tất cả 3 điệu khóc cùng Dao Cầm!:

Thứ nhất là tiếng khóc rất âm thầm, sâu kín của Cơ Xương với điệu; "Văn Vương Khóc Bá Ấp Khảo", !. Tiếng khóc thứ hai lập lại ra vẻ rõ ràng hơn người xưa với; "Khổng Tử Khóc Nhan Hồi", !!. Và rồi tiếng khóc đó được khóc thét một cách não nùng qua: "Bá Nha Khóc Tử Kỳ", !!!. Một điệu khóc kéo dài suốt một cuộc bể dâu. Đăng đẳng 500 năm dài khóc bởi Dao Cầm!. Kể ra cũng rất, lấy làm lạ lùng!.

Những điệu, khúc còn lại. Ta có thể phân loại như sau:

Ngón đàn của Cao Tiệm Ly Tiễn Kinh Kha, tiễn Tần Vương và thậm chí tiễn luôn cả khổ chủ bao gồm. Dĩ nhiên, qua như những gì đã phân tích, được xem là ngoại hạng.

Tiếp đến...

Lại có 3 ứng cử viên nữa sở hữu ngón đàn Dao Cầm có thể xem là đã đạt tới cảnh giới khiến cầm thú, chim muông cũng phải rung động! Hiển nhiên đó là Nhiếp Chính, Kê Khang tấu chung khúc Quảng Lăng Tán. Ngoài ra không thể bỏ sót "cánh nhạn lạc" bởi tiếng đàn tại cửa ải Nhạn Môn Quan cho được! Điều mà tôi không thể bỏ sót qua, chính là Khúc Bình Sa Lạc Nhạn của Chiêu Quân trong xa mờ, phủ lấp bụi Hồ.

Lại phản ảnh thêm một cuộc bể dâu nữa cho đoạn sau này của Dao Cầm! Cũng 500 năm nữa lập lại quá khứ. Tuy có khác những điệu khóc sầu thảm của 500 năm trước. Là thay vào đó thành những khúc ai oán, bi thương, của 500 năm sau!

Khảo xét ở vào tầng sâu hơn nữa, cho thấy:

Tiếng đàn của Chiêu Quân có thể gây rung động được cầm thú (lạc nhạn) như Nhiếp Chính và Kê Khang. Ngoài ra tiếng đàn ấy kiêm luôn cả việc "Sát Tri Âm" như Tiệm Ly và Kinh Kha!! Bởi chính xác là cánh nhạn nơi biên thùy ngày đó đã bị đứt từng khúc ruột, rơi xuống mà chết "!?". Quả là có sự thật như thế, đối với ngón đàn của Chiêu Quân. Tình tiết này không như sự suy diễn của các nhà thơ, văn. Mô tả là do thấy sắc đẹp của Chiêu Quân, mà chim nhạn bay lạc đàn về cuối nẻo hoàng hôn.

Ta thấy: Vượt lên trên tất cả chính là tiếng đàn của Vua Thuấn với Khúc Nam Phong.

Tuy nhiên. Án xưa, tích cũ. Vẫn còn quá nhiều những giá trị tiềm ẩn đầy oan khốc, đang nộp hồ sơ tố cáo trước cửa của kỷ nguyên mới.

Và... Lý Lịch Dao Cầm đang được truy dấu quá khứ thân phận để bổ sung hồ sơ với "ký mã": "Ai Là Chủ Nhân Của Dao Cầm?".

Để làm được điều đó: Trước hết ta nhất định phải tra xét cho ra nguyên cớ nào mà Dao Cầm lại gây ra biết bao tiếng vọng muôn vẻ như thế? Chắc chắn điều đó sẽ có ở phía bên kia không gian chiều thứ tư. Với một cách mô tả khác là: Đó là thế giới của huyền thoại. Bởi Dao Cầm đã đi vào huyền thoại. Trong khi huyền thoại lại chính là mô hình gần với thực tại nhất.

Bước tiếp theo sẽ là chủ đề: "Hoàng Đế Với Dao Cầm Khúc Nôi!".



6 - HOÀNG ĐẾ VỚI DAO CẦM KHÚC...

Hoàng Đế!... Hai từ này đồng nghĩa với huyền thoại. Một khi nhắc đến Hoàng Đế, có nghĩa là ta đã nhắc đến huyền thoại rồi. Giai đoạn lịch sử kéo một lằn ranh phân định rõ rệt tại thời điểm của Vua Nghiêu, Thuấn!

Dù muốn hoặc không. Hễ nhắc đến thời Vua Nghiêu, Thuấn là ý thức chấp nhận đó là thời cổ xưa. Nhưng nếu nhắc đến Hoàng Đế thì mô hình tự nhiên phản ảnh đó là huyền thoại ngay lập tức!

Thế nhưng, đối với địa phương phía bên kia không gian chiều thứ Tư đó. Vốn không có cách biệt ranh giới rõ ràng như địa phương bên này của không gian 3 chiều đương đại. Điều đó cũng hoàn toàn có nghĩa; Tương lai chỉ là sự lập lại những gì từ trong quá khứ mà thôi. Bởi mô hình tự nhiên trong vũ trụ là: Hễ có Thủy ắt có Chung. Mà một khi mô hình thể hiện tính Chung thì điều tất yếu tiếp đến sẽ là Thủy.

Vì thế giai đoạn thực tại đang gõ cánh cửa của huyền thoại...

Cho nên người quen cũ của huyền thoại, nhất định phải lộ diện trước kẻ "tri âm" thực tại hiện nay. Sau một vòng trời, vó ngựa tiêu sương, mã đáo tại nơi tuyệt bí mà huyền thoại định quán. Đó là nơi mà sử sách huyền thoại xưa kia có ghi là:

Dịch Trạm và Quán Huyền!

Và trang đầu tiên của tác phẩm: "Truyền Thuyết Thời Hiện Đại". có nội dung được "thuyết" như sau:

... Không gian thoắt nhiên trở nên mù mịt, sương tuyết trùng vây, che phủ trận chiến khốc liệt khi ấy!... Tất cả tướng sĩ đều hoảng loạn, mất phương hướng, do cách nhau 3 thước, không nhìn rõ mặt. Duy nhất chỉ riêng Hoàng Đế là còn nhận định được phương hướng nhờ bảo vật Nam Xa mà thôi.

Hoàng Đế có cảm giác cô độc giữa bối cảnh mà trùng điệp binh lực đã bị tuyết sương xóa nhòa trong không - thời gian khi ấy. Ngay cả Thần Tướng Phong Hậu cũng lạc mất trong sương khí cùng với 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư. Giữa lòng không gian mù đặc sương khí đó; Những âm thanh gọi lạc nhau hoảng loạn rền khắp mọi nơi. Thỉnh thoảng lại vang lên tiếng gào thét thất thanh, đệm hòa gió tuyết như bản giao hưởng cuồng loạn của Hóa Công.

Ngoài phương hướng, không - thời gian cũng đã hoàn toàn bị xóa nhòa bởi sương tuyết. Hoàng Đế không còn nhận định được loạn cảnh này đã tồn tại bao lâu? Trong giá lạnh cô độc, hoàn cảnh này đã đưa Hoàng Đế bất giác hồi ức về cái nắng ấm miền hoang mạc của quê xa. Nơi yên bình mà Hoàng Đế đã bỏ rơi lại sau vó ngựa trường chinh từ bao giờ...

Thường thì chỉ khi rơi vào hoàn cảnh. Trong khi hoàn cảnh lại là yếu tố luôn làm thay đổi toàn bộ cục diện một cách bất ngờ!...

Hoàng Đế đang chết đuối cạnh chiếc phao yếu tố đó...

Đang chết đuối trong tuyệt vọng. Nỗi cô độc phủ chụp dần, niềm cố hương đang da diết, khắc khoải... gượng sống. Trong sương mờ, nhân ảnh của cây đàn Dao Cầm mờ ảo, chập chờn bên hiên của chiếc Nam Xa.

Đó là thời khắc cứu cánh, khi Hoàng Đế vô tình tấu lên khúc quê hương lạc dấu chân nhạn đã khuất xa... Đang thả hồn theo tiếng đàn da diết của cây Dao Cầm. Bất chợt Hoàng Đế thấy chập chờn trong sương mờ, có bóng một người đang đứng thẫn thờ lắng nghe tiếng đàn trước Nam Xa!

Hoàng Đế thảng thốt khi nhận ra đó chính là Xi Vưu!

Ý thức ùa về. Hoàng đế ngay lập tức sử dụng tuyệt kỹ của Dao Cầm, giữ chân kẻ đang ngóng tri âm đó. Cơ hội ngàn năm đang hội tụ dưới ngón đàn. Hoàng Đế không ngần ngại sử dụng tất cả tinh hoa của dây "Sát" dồn dập. Đó chính là dây thứ 6, là dây mà Hoàng Đế đã thêm vào Dao Cầm hòng chinh phục Xi Vưu. Thế nhưng huyền thức cuối cùng này cũng không thể đoạt mạng được Xi Vưu. Tuy nhiên nó cũng khiến cho Xi Vưu bủn rủn chân tay, nhớ về vợ con mà không tài nào đánh nổi được nữa!

Không biết Hoàng Đế đã sử dụng tiếng Dao Cầm hàng phục Xi Vưu ngày đó giữa màn sương tuyết ra sao? Bằng thủ pháp nào, không một ai biết được? Khi sương tuyết tan dần theo tiếng đàn thì hình bóng lẫn tung tích của Xi Vưu cũng tan biến mất theo, kể từ thời điểm đó mãi mãi!

Trận chiến Trác Lộc đã lưu vào huyền sử. Tuy nhiên tung tích của Xi Vưu sau trận Trác Lộc hoàn toàn không dấu vết! Huyền sử cũng không thể ghi chép được lại gì ngoài vài câu: Hoàng Đế đã dứt Xi Vưu ở một nơi được gọi là "Tuyệt Bí". Không ai biết được.
...

Trên đây là diễn biến cuối trong trận Trác Lộc. Ta thấy Hoàng Đế đã sử dụng điệu Dao Cầm để hàng phục Xi Vưu. Điều này có nghĩa là Hoàng Đế chính là người đầu tiên sử dụng Dao Cầm trong lịch sử của Trung Hoa trong trận Trác Lộc huyền thoại.

Vậy là phạm vi lịch sử đã nới rộng giới hạn xem xét cho dấu tích của Dao Cầm được tính từ Hiên Viên Hoàng Đế. Đó chính là địa phương quá khứ khởi thủy của tiếng Dao Cầm trong khởi sử Trung Hoa. Vậy xét trong cuối chiều thời gian hiện tại. Tiếng Dao Cầm đủ tiêu chí để làm đại diện giới hạn của phạm vi xem xét đến chính là: Khúc "Tiếu Ngạo Giang Hồ" của Kim Dung.

Qua nhận định ở trên, ta có được những diễn biến như:

Trước khi Hoàng Đế sử dụng Dao Cầm làm chiến cụ để hàng phục Xi Vưu thì Dao Cầm nguyên thủy vốn chỉ có 5 dây mà thôi! Chính Hoàng Đế đã thêm vào dây thứ 6 làm huyền thức cuối cùng trong tuyệt kỹ của Dao Cầm. Sau điệu đàn ở Trác Lộc, tiếng đàn Dao Cầm mai ẩn tung tích cho đến lúc Vua Thuấn tấu Khúc Nam Phong.

Ta thấy cây Dao Cầm mà Vua Thuấn sử dụng để trị nước lúc đó chỉ có 5 dây mà thôi! Điều này có nghĩa là: Sau trận Trác Lộc, Hoàng Đế đã cố tình tháo dây thứ 6 ra và trả lại nguyên vẹn giá trị của Dao Cầm nguyên thủy. Cho nên ta thấy cây Dao Cầm của tổ tiên truyền đời đến Vua Nghiêu chỉ có 5 dây khi tặng cho Thuấn làm của hồi môn.

Trong giai đoạn của Nhà Ân. Văn Vương vốn là dòng dõi hậu thế của Hoàng Đế ngày trước. Từ đó mới sở hữu bảo vật gia truyền này từ tổ tiên truyền lại trong gia tộc. Có một sự thật là chính Văn Vương mới là người thêm dây thứ 6 vào cây đàn này. Không phải Bá Ấp Khảo như mọi người thường lầm tưởng xưa nay!

Chính vì lý do đó cho nên Bá Ấp Khảo không hề biết dây thứ 6 vốn là dây "Sát" mà Hoàng Đế ngày xưa tạo ra cốt là để hạ sát Xi Vưu. Từ đó mới vô tình gây ra cái vu họa thích khách cho Bá Ấp Khảo một cách oan ức, khi dâng bảo vật gia truyền cho Vua Trụ để chuộc cha. Điều này mới khiến cho sau đó Văn Vương phải âm thầm tấu khúc "Văn Vương Khóc Bá Ấp Khảo", khi đã thoát được về nước. Điều này được minh chứng bởi dây thứ 6 này được gọi đúng tên của nó là dây "Văn".

Đến khi Cơ Phát dấy binh phạt Trụ. Lại đã thêm vào dây thứ 7 là dây "Vũ" theo tên hiệu của Vũ Vương. Kể từ giai đoạn này thì cây đàn Dao Cầm đang tiềm ẩn trong đó có dây "Sát".

Cho đến thời Đông Chu. Khổng Tử đã học lại tuyệt kỹ Dao Cầm của Văn Vương, kèm cả cầm phổ truyền đời từ Tây Chu. Hoàn toàn tin tưởng vào học thuật từ tổ tiên đó, Khổng Tử không ngần ngại viết Kinh Nhạc. Ta thấy sự kiện nổi lên khi Khổng Tử bị vây ở đất Khuông. Ta hẳn sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên cho lắm. Khi thấy Khổng Tử cứ mãi mê đánh đàn trong tình cảnh mọi người đói dậy không nổi. Bởi Khổng Tử đang ôm mộng dùng tiếng đàn này hàng phục Rợ Địch kia! Tuy nhiên ta thấy Khổng Tử đã không thể toại cái dâm chí đó được rồi vậy. Điều này đã tố cáo Khổng Tử chưa đủ để hiểu được Dao Cầm.

Đó chính là lý do Khổng Tử tỉnh ngộ và vội quay về mở trường học và tiếp tục mày mò nghiên cứu Dao Cầm. Và tiếng Dao Cầm ngày đó vang lên khúc "Khổng Tử Khóc Nhan Hồi" là đều có lý do chính đáng cả. Những câu nói của Khổng Tử còn ghi lại trong sách sử, đã là những cáo chứng không thể chối bỏ. Khổng Tử không thể lĩnh hội nổi tuyệt kỹ của Dao Cầm được. Chính điều này khiến nên Kê Khang có lời xem thường là hoàn toàn chính đáng.

Và Kinh Nhạc tất phải được khai tử so với Ngũ Kinh. Khổng Tử không hề giỏi về thuật đàn như mọi người lầm tưởng. Khổng Tử đã phải trả giá đắt khi mày mò tới dây "oan khiên", khiến gây nên cái chết của Nhan Hồi ngày đó. Ta thấy Bá Nha sở hữu những gì được truyền lại từ Khổng Tử. Nên cũng mô phỏng một cách tuyệt đối tận trung với thầy của mình qua khúc "Bá Nha Khóc Tử Kỳ"! Dĩ nhiên sau đó Bá Nha đã liễu ngộ tất cả về khả năng của Khổng Tử mà ông đã trọn đời tôn thờ. Và nấm mồ cô thảm trong tâm của Bá Nha có nấm đắp cao hơn của Khổng Tử là tất yếu. Rất đoạn trường.

Từ sự kiện này; Ta xét thấy Cao Tiệm Ly xứng đáng khoác cây Dao Cầm đi ngao du thiên hạ lúc đấy hơn hai bậc tiền nhân. Bởi Cao Tiệm Ly có biết giá trị của dây thứ 6. Và chính Cao Tiệm Ly đã sử dụng phương tiện này, để tiễn Kinh Kha quá giang Dịch thủy trước lúc nhập Tần. Nhưng phản ảnh hồi sau của kịch bản cho biết; Đạo diễn vẫn non tay đối với tiếng đàn Dao Cầm ngày ấy trong trung cảnh! Đó thực sự là bi cảnh không mong muốn đối với Cao Tiệm Ly. Bởi dây "Sát" không hiểu vì cớ gì mà mãi không chịu đứt, dưới mười ngón tay đã rã rời của kẻ hành thích? Kết luận cho thấy; Cao Tiệm Ly vẫn chưa có thể sở hữu tuyệt kỹ của Dao Cầm cho được.

Xét tới Nhiếp Chính; Nếu đã phần nào nắm được những sự kiện nào tiềm ẩn phía sau cây đàn Dao Cầm qua những dòng trình bày. Ta sẽ lấy làm ngạc nhiên cho tiếng đàn của nhân vật này. Bởi điệu đàn dưới tay Nhiếp Chính đã đạt tới đẳng cấp chôn chân cầm thú, lục súc, không nhấc lên nổi nữa rồi! Cớ sao lại chịu thất bại trong kế hoạch hành thích Hàn Vương?! Nguyên cớ bởi Nhiếp Chính không hề được biết rằng; Cây đàn Dao Cầm mà mình đang sử dụng lúc đó chỉ có 5 dây! Không có dây thứ 6 vốn là dây "Sát". Làm sao mà Nhiếp Chính có thể hoàn thành phi vụ này bằng tiếng đàn cho được.

Dĩ nhiên Kê Khang sau đó cũng lại dẫm phải hố chân đó thôi. Do Khúc Quảng Lăng Tán vốn được chỉ soạn và tấu bằng 5 dây mà thôi. Cho nên ta thấy hành động của Kê Khang trước pháp trường: Có mục đích là muốn dùng tuyệt kỹ Dao Cầm để mưu "Sát" đối thủ, tự cướp pháp trường giải nguy cho mình. Thật không may cho Kê Khang; Sau khi thất chí, Kê Khang đã quăng đàn và thốt lên một cách ai oán như thế.

Ta có thể cảm nhận tiếng đàn Quảng Lăng Tán qua tâm trạng của Kê Khang ngày đó rồi. Muốn cảm nhận được tiếng đàn của khúc Quảng Lăng Tán. Trước tiên ta phải biết và hiểu được có sự "tiềm sát" trong Dao Cầm đã. Từ đó mới có thể nhận ra âm thanh nhịp điệu đó diễn đạt sự tuyệt vọng của kẻ đang đứng trước cái chết.

...Khổ chủ lựa dây "điểm ngón" dạo đầu, với trạng thái tự tin của một sát thủ vờn mồi bằng "Cung Thương"! Đặc biệt khí sát được thể hiện cuối khúc dạo đầu rất mạnh.

Tiếp đến, tiếng Dao Cầm dẫn dòng suối nguồn từ cao sơn đổ về... Chợt âm thanh của dây sát vang lên đột ngột với âm Vũ (Vũ Khí)... tựa hồ ngọn thác đổ chụp xuống huyệt sâu. Đàn thủ thoáng ngạc nhiên bởi dây Vũ không đứt! Âm điệu lại cho thấy đàn thủ so dây chuẩn âm khí lại... Tiếng đàn thể hiện chủ nhân đã dụng âm Cung nén sát khí vào Huyền Vũ đến đỉnh tột độ rồi đột ngột hạ thủ chặt dây... Vẫn không đứt!?

Điệu nhạc nghe ra vẻ hoang mang khi đàn thủ so dây chuẩn âm lại, rồi điểm huyền sát, định uy lực nơi âm Cung ngập ngừng 2 lần vẫn không thấy biểu hiện gì? Có chiều nghe ra Cung Huyền như nghẹn vướng!

Sau đó là diễn tả tâm trạng hồ nghi, Có âm thanh liên tiếp điểm ngón, gặng dây đàn bằng âm Chủy, nhưng dây vẫn rắn rỏi, kiên cường!

Xóa âm, dạo điểm lại... âm bộ.

Rối chủ có phần loạn tâm hơn với thủ pháp chọn âm chuẩn nơi Cung Thương. Rồi khẳng định hỏa lực vào tại Chủy pháp!?... Không thể nào!?

Cao trào cuồng loạn khi nộ khí được kích dồn dập vào âm Chủy tam điệp, với một nhiệt lượng lên đến cao độ... Đàn vẫn không đứt dây?? Ngay lập tức Đàn thủ trở nên bấn loạn, bứt dây, cào cấu khắp ngũ huyền một cách thảng thốt.

Lại Xóa âm...

... Chọn lựa, lần tìm từng dây một để nhận định cung điệu lẫn âm "Sát". Rõ ràng Quảng Lăng Tán thuộc cung Thương kia mà!? Tuy có nghi ngờ nhưng khổ chủ vẫn điểm ngón hạ sát vào Giốc Huyền vài lần... Không xong. Kiểm âm... Âm pháp có phần bấn loạn. Tiếng âm điệp dồn dập cố bứt tất cả các dây vẫn không đứt!!

Xóa. Bứt..., tìm..., lạc... tán khúc.

Quãng hai, âm thanh dìu tâm trạng nhẹ dần, bình tâm trở lại. Sau đó lại rối loạn và..., gắng ý bứt dây vẫn không được. Âm Thương chợt ra chiều ai oán... dần. Rồi Đàn thủ cũng đành hủy Thương Huyền làm âm sát cuối cùng. Tiếng âm điệp dồn dập cố bứt tất cả các dây vẫn không đứt!!

Kết khúc; Âm điệu hoảng loạn vang lên tột độ với âm thanh nghẹn khàn đục của các dây đàn bị nén, ép cho đứt một cách hoảng loạn trong tuyệt vọng.

Đó là ý nhạc của khúc Quãng Lăng Tán đã thất truyền trên pháp trường ngày đó cùng Kê Khang. Dựa trên gợi ý này, ta có thể tìm nghe lại khúc Quảng Lăng Tán... để đồng cảm cùng Kê Khang.
...

Điểm lại thì:

Vua Thuấn, Nhiếp Chính và Kê Khang đều sở hữu cây Dao Cầm có 5 dây. Đây là nguyên bản gốc vốn có của Dao Cầm. Hoàng Đế và Văn Vương dụng 6 dây. Ngoài ra, tất cả những ai còn lại đều là 7 dây cả thảy. Vì thế nên Dao Cầm có nguy cơ tán khúc mất rồi.

Qua đó ta thấy được rằng; Bản tính của Dao Cầm vốn là để tấu lên hòa khúc nhịp điệu của muôn loài, vạn vật cùng vũ trụ. Tính hiếu sát của Dao Cầm là do chính Hoàng Đế tạo ra bởi tham vọng của mình. Tuy thế; Kể cả Hoàng Đế, vẫn chưa có thể hiểu nổi những giá trị nào, còn tiềm ẩn trong cây Dao Cầm này cho được! Từ đó khiến nên dẫn đến sự việc hậu thế nối dõi cứ mãi vấp ngã rất oan khốc.

Ví như:

Nếu biết cũng như có thể hiểu được phần nào đó về Dao Cầm thì: Không nên nỗi Văn Vương, Khổng Tử, Bá Nha nối nhau khúc vô tình mà hại thân bằng. Cao Tiệm Ly có khá hơn chút ít. Nhưng cũng lại "ép tử" bằng hữu và bản thân mà lại không thể "bứt tử" được kẻ thù! Xét đến Nhiếp Chính và Kê Khang. Cả hai tuy đạt đến đẳng cấp lay động muông thú vẫn không hề biết được lý tại Ngũ Huyền mà ra. Nếu không thế, sao lại có việc dám cả gan dùng tiếng đàn Dao Cầm mà hòng ủ mưu hành thích.

Khúc Quảng Lăng Tán đã tố cáo khổ chủ một cách hùng hồn nhất cho sự kiện này.

Tôi khẳng định chỉ riêng Chiêu Quân là có thể được xem là ngoại hạng đối với tuyệt kỹ Dao Cầm mà thôi. Tuy nhiên, đó là so với những ai xưa nay từng đàn Dao Cầm trong lịch sử cũng như văn hóa của Trung Hoa tính riêng. Bởi họ vốn có mắt mà không tròng suốt chiều dài lịch sử. Điển hình như Chiêu Quân tài sắc vẹn toàn như thế chẳng hạn. Ngay cả như một Hán Đế cũng chỉ tiếc cái nhan sắc của Chiêu Quân khi đã nhìn thấy mà thôi. Họ đâu có thấy được cái tài mà Chiêu Quân đang sở hữu cho được. Nhà Hán càng không thể nào hiểu rằng: Chính tiếng đàn đó của Chiêu Quân, đã ru tham vọng của Hồ Bang, vui với yên bình cùng muông thú nơi thảo nguyên. Không hề vì sắc của Chiêu Quân mà quên dấy binh bao giờ cả.

Và xét đến giai đoạn đương đại...

Khúc "Tiếu Ngạo Giang Hồ" của Kim Dung có phần ngạo mạn đấy. Nhưng điểm lại ngàn xưa qua... Quả nhiên khúc Tiếu Ngạo có quyền cười ngạo tất tần tật như thế thật. Nhưng chớ có ngạo mạn mà lại phải học lại câu "trèo cao té đau" trong lịch sử văn hóa của người Việt vậy.

Xét chi tiết mà khiến Kim Dung dám phát biểu câu "tiếu ngạo... ". Bởi nguyên do đã đưa Tiêu Khúc vào tấu cùng Dao Cầm. Lại còn Ngao Du sơn thủy cho được gọi là đủ.

Bởi đó chính là bản giao hưởng: Tiêu - Dao - Du muôn thuở của Hóa Công nơi tòa Bắc Đẩu. Tuy nhiên xem ra... Đó chẳng qua chỉ là tầm nhìn trong đáy mắt của Hà Bá đối với Hải Vương mà thôi.

Kìa! Nơi đầu nguồn lịch sử cho thấy:

Hoàng Đế vẫn chưa có thể hiểu cũng như sử dụng được những tuyệt kỹ còn tiềm ẩn trong Dao Cầm!! Vậy yêu cầu được đặt ra là đòi hỏi ta phải truy nguyên nguồn cội của Dao Cầm, tính từ giai đoạn huyền thoại của Hoàng Đế, ngược trở về quá khứ hồng hoang.

Đó là thời điểm sau "Không Giờ", trước buổi bình minh của huyền thoại.

Và điều phải đến, đang dần đến...

.

6 - HOÀNG ĐẾ VỚI DAO CẦM KHÚC...

Hoàng Đế!... Hai từ này đồng nghĩa với huyền thoại. Một khi nhắc đến Hoàng Đế, có nghĩa là ta đã nhắc đến huyền thoại rồi. Giai đoạn lịch sử kéo một lằn ranh phân định rõ rệt tại thời điểm của Vua Nghiêu, Thuấn!

Dù muốn hoặc không. Hễ nhắc đến thời Vua Nghiêu, Thuấn là ý thức chấp nhận đó là thời cổ xưa. Nhưng nếu nhắc đến Hoàng Đế thì mô hình tự nhiên phản ảnh đó là huyền thoại ngay lập tức!

Thế nhưng, đối với địa phương phía bên kia không gian chiều thứ Tư đó. Vốn không có cách biệt ranh giới rõ ràng như địa phương bên này của không gian 3 chiều đương đại. Điều đó cũng hoàn toàn có nghĩa; Tương lai chỉ là sự lập lại những gì từ trong quá khứ mà thôi. Bởi mô hình tự nhiên trong vũ trụ là: Hễ có Thủy ắt có Chung. Mà một khi mô hình thể hiện tính Chung thì điều tất yếu tiếp đến sẽ là Thủy.

Vì thế giai đoạn thực tại đang gõ cánh cửa của huyền thoại...

Cho nên người quen cũ của huyền thoại, nhất định phải lộ diện trước kẻ "tri âm" thực tại hiện nay. Sau một vòng trời, vó ngựa tiêu sương, mã đáo tại nơi tuyệt bí mà huyền thoại định quán. Đó là nơi mà sử sách huyền thoại xưa kia có ghi là:

Dịch Trạm và Quán Huyền!

Và trang đầu tiên của tác phẩm: "Truyền Thuyết Thời Hiện Đại". có nội dung được "thuyết" như sau:

... Không gian thoắt nhiên trở nên mù mịt, sương tuyết trùng vây, che phủ trận chiến khốc liệt khi ấy!... Tất cả tướng sĩ đều hoảng loạn, mất phương hướng, do cách nhau 3 thước, không nhìn rõ mặt. Duy nhất chỉ riêng Hoàng Đế là còn nhận định được phương hướng nhờ bảo vật Nam Xa mà thôi.

Hoàng Đế có cảm giác cô độc giữa bối cảnh mà trùng điệp binh lực đã bị tuyết sương xóa nhòa trong không - thời gian khi ấy. Ngay cả Thần Tướng Phong Hậu cũng lạc mất trong sương khí cùng với 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư. Giữa lòng không gian mù đặc sương khí đó; Những âm thanh gọi lạc nhau hoảng loạn rền khắp mọi nơi. Thỉnh thoảng lại vang lên tiếng gào thét thất thanh, đệm hòa gió tuyết như bản giao hưởng cuồng loạn của Hóa Công.

Ngoài phương hướng, không - thời gian cũng đã hoàn toàn bị xóa nhòa bởi sương tuyết. Hoàng Đế không còn nhận định được loạn cảnh này đã tồn tại bao lâu? Trong giá lạnh cô độc, hoàn cảnh này đã đưa Hoàng Đế bất giác hồi ức về cái nắng ấm miền hoang mạc của quê xa. Nơi yên bình mà Hoàng Đế đã bỏ rơi lại sau vó ngựa trường chinh từ bao giờ...

Thường thì chỉ khi rơi vào hoàn cảnh. Trong khi hoàn cảnh lại là yếu tố luôn làm thay đổi toàn bộ cục diện một cách bất ngờ!...

Hoàng Đế đang chết đuối cạnh chiếc phao yếu tố đó...

Đang chết đuối trong tuyệt vọng. Nỗi cô độc phủ chụp dần, niềm cố hương đang da diết, khắc khoải... gượng sống. Trong sương mờ, nhân ảnh của cây đàn Dao Cầm mờ ảo, chập chờn bên hiên của chiếc Nam Xa.

Đó là thời khắc cứu cánh, khi Hoàng Đế vô tình tấu lên khúc quê hương lạc dấu chân nhạn đã khuất xa... Đang thả hồn theo tiếng đàn da diết của cây Dao Cầm. Bất chợt Hoàng Đế thấy chập chờn trong sương mờ, có bóng một người đang đứng thẫn thờ lắng nghe tiếng đàn trước Nam Xa!

Hoàng Đế thảng thốt khi nhận ra đó chính là Xi Vưu!

Ý thức ùa về. Hoàng đế ngay lập tức sử dụng tuyệt kỹ của Dao Cầm, giữ chân kẻ đang ngóng tri âm đó. Cơ hội ngàn năm đang hội tụ dưới ngón đàn. Hoàng Đế không ngần ngại sử dụng tất cả tinh hoa của dây "Sát" dồn dập. Đó chính là dây thứ 6, là dây mà Hoàng Đế đã thêm vào Dao Cầm hòng chinh phục Xi Vưu. Thế nhưng huyền thức cuối cùng này cũng không thể đoạt mạng được Xi Vưu. Tuy nhiên nó cũng khiến cho Xi Vưu bủn rủn chân tay, nhớ về vợ con mà không tài nào đánh nổi được nữa!

Không biết Hoàng Đế đã sử dụng tiếng Dao Cầm hàng phục Xi Vưu ngày đó giữa màn sương tuyết ra sao? Bằng thủ pháp nào, không một ai biết được? Khi sương tuyết tan dần theo tiếng đàn thì hình bóng lẫn tung tích của Xi Vưu cũng tan biến mất theo, kể từ thời điểm đó mãi mãi!

Trận chiến Trác Lộc đã lưu vào huyền sử. Tuy nhiên tung tích của Xi Vưu sau trận Trác Lộc hoàn toàn không dấu vết! Huyền sử cũng không thể ghi chép được lại gì ngoài vài câu: Hoàng Đế đã dứt Xi Vưu ở một nơi được gọi là "Tuyệt Bí". Không ai biết được.
...

Trên đây là diễn biến cuối trong trận Trác Lộc. Ta thấy Hoàng Đế đã sử dụng điệu Dao Cầm để hàng phục Xi Vưu. Điều này có nghĩa là Hoàng Đế chính là người đầu tiên sử dụng Dao Cầm trong lịch sử của Trung Hoa trong trận Trác Lộc huyền thoại.

Vậy là phạm vi lịch sử đã nới rộng giới hạn xem xét cho dấu tích của Dao Cầm được tính từ Hiên Viên Hoàng Đế. Đó chính là địa phương quá khứ khởi thủy của tiếng Dao Cầm trong khởi sử Trung Hoa. Vậy xét trong cuối chiều thời gian hiện tại. Tiếng Dao Cầm đủ tiêu chí để làm đại diện giới hạn của phạm vi xem xét đến chính là: Khúc "Tiếu Ngạo Giang Hồ" của Kim Dung.

Qua nhận định ở trên, ta có được những diễn biến như:

Trước khi Hoàng Đế sử dụng Dao Cầm làm chiến cụ để hàng phục Xi Vưu thì Dao Cầm nguyên thủy vốn chỉ có 5 dây mà thôi! Chính Hoàng Đế đã thêm vào dây thứ 6 làm huyền thức cuối cùng trong tuyệt kỹ của Dao Cầm. Sau điệu đàn ở Trác Lộc, tiếng đàn Dao Cầm mai ẩn tung tích cho đến lúc Vua Thuấn tấu Khúc Nam Phong.

Ta thấy cây Dao Cầm mà Vua Thuấn sử dụng để trị nước lúc đó chỉ có 5 dây mà thôi! Điều này có nghĩa là: Sau trận Trác Lộc, Hoàng Đế đã cố tình tháo dây thứ 6 ra và trả lại nguyên vẹn giá trị của Dao Cầm nguyên thủy. Cho nên ta thấy cây Dao Cầm của tổ tiên truyền đời đến Vua Nghiêu chỉ có 5 dây khi tặng cho Thuấn làm của hồi môn.

Trong giai đoạn của Nhà Ân. Văn Vương vốn là dòng dõi hậu thế của Hoàng Đế ngày trước. Từ đó mới sở hữu bảo vật gia truyền này từ tổ tiên truyền lại trong gia tộc. Có một sự thật là chính Văn Vương mới là người thêm dây thứ 6 vào cây đàn này. Không phải Bá Ấp Khảo như mọi người thường lầm tưởng xưa nay!

Chính vì lý do đó cho nên Bá Ấp Khảo không hề biết dây thứ 6 vốn là dây "Sát" mà Hoàng Đế ngày xưa tạo ra cốt là để hạ sát Xi Vưu. Từ đó mới vô tình gây ra cái vu họa thích khách cho Bá Ấp Khảo một cách oan ức, khi dâng bảo vật gia truyền cho Vua Trụ để chuộc cha. Điều này mới khiến cho sau đó Văn Vương phải âm thầm tấu khúc "Văn Vương Khóc Bá Ấp Khảo", khi đã thoát được về nước. Điều này được minh chứng bởi dây thứ 6 này được gọi đúng tên của nó là dây "Văn".

Đến khi Cơ Phát dấy binh phạt Trụ. Lại đã thêm vào dây thứ 7 là dây "Vũ" theo tên hiệu của Vũ Vương. Kể từ giai đoạn này thì cây đàn Dao Cầm đang tiềm ẩn trong đó có dây "Sát".

Cho đến thời Đông Chu. Khổng Tử đã học lại tuyệt kỹ Dao Cầm của Văn Vương, kèm cả cầm phổ truyền đời từ Tây Chu. Hoàn toàn tin tưởng vào học thuật từ tổ tiên đó, Khổng Tử không ngần ngại viết Kinh Nhạc. Ta thấy sự kiện nổi lên khi Khổng Tử bị vây ở đất Khuông. Ta hẳn sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên cho lắm. Khi thấy Khổng Tử cứ mãi mê đánh đàn trong tình cảnh mọi người đói dậy không nổi. Bởi Khổng Tử đang ôm mộng dùng tiếng đàn này hàng phục Rợ Địch kia! Tuy nhiên ta thấy Khổng Tử đã không thể toại cái dâm chí đó được rồi vậy. Điều này đã tố cáo Khổng Tử chưa đủ để hiểu được Dao Cầm.

Đó chính là lý do Khổng Tử tỉnh ngộ và vội quay về mở trường học và tiếp tục mày mò nghiên cứu Dao Cầm. Và tiếng Dao Cầm ngày đó vang lên khúc "Khổng Tử Khóc Nhan Hồi" là đều có lý do chính đáng cả. Những câu nói của Khổng Tử còn ghi lại trong sách sử, đã là những cáo chứng không thể chối bỏ. Khổng Tử không thể lĩnh hội nổi tuyệt kỹ của Dao Cầm được. Chính điều này khiến nên Kê Khang có lời xem thường là hoàn toàn chính đáng.

Và Kinh Nhạc tất phải được khai tử so với Ngũ Kinh. Khổng Tử không hề giỏi về thuật đàn như mọi người lầm tưởng. Khổng Tử đã phải trả giá đắt khi mày mò tới dây "oan khiên", khiến gây nên cái chết của Nhan Hồi ngày đó. Ta thấy Bá Nha sở hữu những gì được truyền lại từ Khổng Tử. Nên cũng mô phỏng một cách tuyệt đối tận trung với thầy của mình qua khúc "Bá Nha Khóc Tử Kỳ"! Dĩ nhiên sau đó Bá Nha đã liễu ngộ tất cả về khả năng của Khổng Tử mà ông đã trọn đời tôn thờ. Và nấm mồ cô thảm trong tâm của Bá Nha có nấm đắp cao hơn của Khổng Tử là tất yếu. Rất đoạn trường.

Từ sự kiện này; Ta xét thấy Cao Tiệm Ly xứng đáng khoác cây Dao Cầm đi ngao du thiên hạ lúc đấy hơn hai bậc tiền nhân. Bởi Cao Tiệm Ly có biết giá trị của dây thứ 6. Và chính Cao Tiệm Ly đã sử dụng phương tiện này, để tiễn Kinh Kha quá giang Dịch thủy trước lúc nhập Tần. Nhưng phản ảnh hồi sau của kịch bản cho biết; Đạo diễn vẫn non tay đối với tiếng đàn Dao Cầm ngày ấy trong trung cảnh! Đó thực sự là bi cảnh không mong muốn đối với Cao Tiệm Ly. Bởi dây "Sát" không hiểu vì cớ gì mà mãi không chịu đứt, dưới mười ngón tay đã rã rời của kẻ hành thích? Kết luận cho thấy; Cao Tiệm Ly vẫn chưa có thể sở hữu tuyệt kỹ của Dao Cầm cho được.

Xét tới Nhiếp Chính; Nếu đã phần nào nắm được những sự kiện nào tiềm ẩn phía sau cây đàn Dao Cầm qua những dòng trình bày. Ta sẽ lấy làm ngạc nhiên cho tiếng đàn của nhân vật này. Bởi điệu đàn dưới tay Nhiếp Chính đã đạt tới đẳng cấp chôn chân cầm thú, lục súc, không nhấc lên nổi nữa rồi! Cớ sao lại chịu thất bại trong kế hoạch hành thích Hàn Vương?! Nguyên cớ bởi Nhiếp Chính không hề được biết rằng; Cây đàn Dao Cầm mà mình đang sử dụng lúc đó chỉ có 5 dây! Không có dây thứ 6 vốn là dây "Sát". Làm sao mà Nhiếp Chính có thể hoàn thành phi vụ này bằng tiếng đàn cho được.

Dĩ nhiên Kê Khang sau đó cũng lại dẫm phải hố chân đó thôi. Do Khúc Quảng Lăng Tán vốn được chỉ soạn và tấu bằng 5 dây mà thôi. Cho nên ta thấy hành động của Kê Khang trước pháp trường: Có mục đích là muốn dùng tuyệt kỹ Dao Cầm để mưu "Sát" đối thủ, tự cướp pháp trường giải nguy cho mình. Thật không may cho Kê Khang; Sau khi thất chí, Kê Khang đã quăng đàn và thốt lên một cách ai oán như thế.

Ta có thể cảm nhận tiếng đàn Quảng Lăng Tán qua tâm trạng của Kê Khang ngày đó rồi. Muốn cảm nhận được tiếng đàn của khúc Quảng Lăng Tán. Trước tiên ta phải biết và hiểu được có sự "tiềm sát" trong Dao Cầm đã. Từ đó mới có thể nhận ra âm thanh nhịp điệu đó diễn đạt sự tuyệt vọng của kẻ đang đứng trước cái chết.

...Khổ chủ lựa dây "điểm ngón" dạo đầu, với trạng thái tự tin của một sát thủ vờn mồi bằng "Cung Thương"! Đặc biệt khí sát được thể hiện cuối khúc dạo đầu rất mạnh.

Tiếp đến, tiếng Dao Cầm dẫn dòng suối nguồn từ cao sơn đổ về... Chợt âm thanh của dây sát vang lên đột ngột với âm Vũ (Vũ Khí)... tựa hồ ngọn thác đổ chụp xuống huyệt sâu. Đàn thủ thoáng ngạc nhiên bởi dây Vũ không đứt! Âm điệu lại cho thấy đàn thủ so dây chuẩn âm khí lại... Tiếng đàn thể hiện chủ nhân đã dụng âm Cung nén sát khí vào Huyền Vũ đến đỉnh tột độ rồi đột ngột hạ thủ chặt dây... Vẫn không đứt!?

Điệu nhạc nghe ra vẻ hoang mang khi đàn thủ so dây chuẩn âm lại, rồi điểm huyền sát, định uy lực nơi âm Cung ngập ngừng 2 lần vẫn không thấy biểu hiện gì? Có chiều nghe ra Cung Huyền như nghẹn vướng!

Sau đó là diễn tả tâm trạng hồ nghi, Có âm thanh liên tiếp điểm ngón, gặng dây đàn bằng âm Chủy, nhưng dây vẫn rắn rỏi, kiên cường!

Xóa âm, dạo điểm lại... âm bộ.

Rối chủ có phần loạn tâm hơn với thủ pháp chọn âm chuẩn nơi Cung Thương. Rồi khẳng định hỏa lực vào tại Chủy pháp!?... Không thể nào!?

Cao trào cuồng loạn khi nộ khí được kích dồn dập vào âm Chủy tam điệp, với một nhiệt lượng lên đến cao độ... Đàn vẫn không đứt dây?? Ngay lập tức Đàn thủ trở nên bấn loạn, bứt dây, cào cấu khắp ngũ huyền một cách thảng thốt.

Lại Xóa âm...

... Chọn lựa, lần tìm từng dây một để nhận định cung điệu lẫn âm "Sát". Rõ ràng Quảng Lăng Tán thuộc cung Thương kia mà!? Tuy có nghi ngờ nhưng khổ chủ vẫn điểm ngón hạ sát vào Giốc Huyền vài lần... Không xong. Kiểm âm... Âm pháp có phần bấn loạn. Tiếng âm điệp dồn dập cố bứt tất cả các dây vẫn không đứt!!

Xóa. Bứt..., tìm..., lạc... tán khúc.

Quãng hai, âm thanh dìu tâm trạng nhẹ dần, bình tâm trở lại. Sau đó lại rối loạn và..., gắng ý bứt dây vẫn không được. Âm Thương chợt ra chiều ai oán... dần. Rồi Đàn thủ cũng đành hủy Thương Huyền làm âm sát cuối cùng. Tiếng âm điệp dồn dập cố bứt tất cả các dây vẫn không đứt!!

Kết khúc; Âm điệu hoảng loạn vang lên tột độ với âm thanh nghẹn khàn đục của các dây đàn bị nén, ép cho đứt một cách hoảng loạn trong tuyệt vọng.

Đó là ý nhạc của khúc Quãng Lăng Tán đã thất truyền trên pháp trường ngày đó cùng Kê Khang. Dựa trên gợi ý này, ta có thể tìm nghe lại khúc Quảng Lăng Tán... để đồng cảm cùng Kê Khang.
...

Điểm lại thì:

Vua Thuấn, Nhiếp Chính và Kê Khang đều sở hữu cây Dao Cầm có 5 dây. Đây là nguyên bản gốc vốn có của Dao Cầm. Hoàng Đế và Văn Vương dụng 6 dây. Ngoài ra, tất cả những ai còn lại đều là 7 dây cả thảy. Vì thế nên Dao Cầm có nguy cơ tán khúc mất rồi.

Qua đó ta thấy được rằng; Bản tính của Dao Cầm vốn là để tấu lên hòa khúc nhịp điệu của muôn loài, vạn vật cùng vũ trụ. Tính hiếu sát của Dao Cầm là do chính Hoàng Đế tạo ra bởi tham vọng của mình. Tuy thế; Kể cả Hoàng Đế, vẫn chưa có thể hiểu nổi những giá trị nào, còn tiềm ẩn trong cây Dao Cầm này cho được! Từ đó khiến nên dẫn đến sự việc hậu thế nối dõi cứ mãi vấp ngã rất oan khốc.

Ví như:

Nếu biết cũng như có thể hiểu được phần nào đó về Dao Cầm thì: Không nên nỗi Văn Vương, Khổng Tử, Bá Nha nối nhau khúc vô tình mà hại thân bằng. Cao Tiệm Ly có khá hơn chút ít. Nhưng cũng lại "ép tử" bằng hữu và bản thân mà lại không thể "bứt tử" được kẻ thù! Xét đến Nhiếp Chính và Kê Khang. Cả hai tuy đạt đến đẳng cấp lay động muông thú vẫn không hề biết được lý tại Ngũ Huyền mà ra. Nếu không thế, sao lại có việc dám cả gan dùng tiếng đàn Dao Cầm mà hòng ủ mưu hành thích.

Khúc Quảng Lăng Tán đã tố cáo khổ chủ một cách hùng hồn nhất cho sự kiện này.

Tôi khẳng định chỉ riêng Chiêu Quân là có thể được xem là ngoại hạng đối với tuyệt kỹ Dao Cầm mà thôi. Tuy nhiên, đó là so với những ai xưa nay từng đàn Dao Cầm trong lịch sử cũng như văn hóa của Trung Hoa tính riêng. Bởi họ vốn có mắt mà không tròng suốt chiều dài lịch sử. Điển hình như Chiêu Quân tài sắc vẹn toàn như thế chẳng hạn. Ngay cả như một Hán Đế cũng chỉ tiếc cái nhan sắc của Chiêu Quân khi đã nhìn thấy mà thôi. Họ đâu có thấy được cái tài mà Chiêu Quân đang sở hữu cho được. Nhà Hán càng không thể nào hiểu rằng: Chính tiếng đàn đó của Chiêu Quân, đã ru tham vọng của Hồ Bang, vui với yên bình cùng muông thú nơi thảo nguyên. Không hề vì sắc của Chiêu Quân mà quên dấy binh bao giờ cả.

Và xét đến giai đoạn đương đại...

Khúc "Tiếu Ngạo Giang Hồ" của Kim Dung có phần ngạo mạn đấy. Nhưng điểm lại ngàn xưa qua... Quả nhiên khúc Tiếu Ngạo có quyền cười ngạo tất tần tật như thế thật. Nhưng chớ có ngạo mạn mà lại phải học lại câu "trèo cao té đau" trong lịch sử văn hóa của người Việt vậy.

Xét chi tiết mà khiến Kim Dung dám phát biểu câu "tiếu ngạo... ". Bởi nguyên do đã đưa Tiêu Khúc vào tấu cùng Dao Cầm. Lại còn Ngao Du sơn thủy cho được gọi là đủ.

Bởi đó chính là bản giao hưởng: Tiêu - Dao - Du muôn thuở của Hóa Công nơi tòa Bắc Đẩu. Tuy nhiên xem ra... Đó chẳng qua chỉ là tầm nhìn trong đáy mắt của Hà Bá đối với Hải Vương mà thôi.

Kìa! Nơi đầu nguồn lịch sử cho thấy:

Hoàng Đế vẫn chưa có thể hiểu cũng như sử dụng được những tuyệt kỹ còn tiềm ẩn trong Dao Cầm!! Vậy yêu cầu được đặt ra là đòi hỏi ta phải truy nguyên nguồn cội của Dao Cầm, tính từ giai đoạn huyền thoại của Hoàng Đế, ngược trở về quá khứ hồng hoang.

Đó là thời điểm sau "Không Giờ", trước buổi bình minh của huyền thoại.

Và điều phải đến, đang dần đến...

.



7 - DAO CẦM VÀ OAN KHÚC... NGÀN NĂM!

Vào khoảng 6000 năm trước... Ở vào giới hạn của giai đoạn mà ta có thể hình dung qua lăng kính văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ!

Trong buổi bình minh của thời kỳ hồng hoang. Do yếu tố thời gian luôn xóa nhòa mọi ranh giới trong chu kỳ thứ tư! Bất kể tính tới tương lai hoặc trở về quá khứ. Điều này khiến nên mọi tư duy nơi đỉnh cao của nhân loại, cũng khó lòng phân định tỏ tường mọi sự việc cho được. Tuy nhiên có một quy luật là; Chân lý và sự thật mãi mãi vẫn còn đó. Chẳng qua những chân lý cũng như sự thật đó bị huyễn mị, lẫn lộn và chôn vùi bao gồm vô ý và cố ý.

Ta sàng lọc những sự kiện đó như sau:

Trong tất cả những cuộc tranh cãi về thuở ban đầu xưa nay từ các nhà sử gia, học giả nói chung. Luôn luôn có 3 yếu tố nổi bật lên trên hết mà hầu như không ai nhận ra được như:

Thứ nhất; Bộ tộc Phục Hy với họ Khương.
Thứ hai ; Bộ tộc Hoàng Đế với họ Công tôn.
Thứ ba ; Bộ tộc Xi Vưu với họ Hồng Bàng.

Rõ ràng ba bộ tộc này là hoàn toàn tách biệt ngay từ thuở bình minh của lịch sử khu vực giao tranh này. Khởi thủy, Hoàng Đế vốn là người Mông Cổ. Họ sống du mục, săn bắn khắp trên toàn miền quá khứ đó, nên mới có việc tràn qua xâm lấn các bộ tộc nông nghiệp định cư là Phục Hy. Họ còn có "ký gửi" danh khác trong ngăn kéo niên giám lịch sử khu vực này là Hoa Hùng. Lịch sử chép; Khi Hoàng Đế dứt được dòng của tộc Phục Hy vào thời Thần Nông. Ta xem xét thì thật ra trong trận chiến khởi sử đó là trận Phản Tuyền. Trong trận này thì Đế Du Võng, thuộc đời thứ 8 của Thần Nông bại trận chứ không phải là Thần Nông. Đến đây thì chấm dứt dòng Thần Nông là dõi tộc của Phục Hy.

Ta thấy sử có chép lại là: Khi hoàng Đế cử binh đi đánh Xi Vưu. Có hội chư hầu ở Cối Kê! Chư hầu ở đây có nghĩa là dòng tộc của Thần Nông đã được thu phục trước đó. Và sau khi đã định được Xi Vưu, gồm thâu thiên hạ về một mối. Dĩ nhiên đã là dân một nước thì:

Ba họ kia có thể kết giao, qua lại và hòa huyết với nhau là lẽ đương nhiên. Nếu họ Khương của Phục Hy hoặc họ Hồng Bàng của Xi Vưu gả con cho họ Công tôn của Hoàng Đế thì gọi là Hoa Trung. Ý tại "trung hòa" giữa hai tộc của Phục Hy và Xi Vưu mà ra. Bằng như họ Hồng Bàng cưới về thì gọi là Hoa Hạ. Còn họ Khương cưới về thì được gọi là Hoa Thượng. Cho nên ta thấy:

1. Họ thuộc về Phục Hy = Hoa Thượng.
2. Họ thuộc về Hoàng Đế = Hoa Trung.
3. Họ thuộc về Xi Vưu = Hoa Hạ.

Gốc của từ nguyên Trung Hoa là từ Trung Hòa mà ra. Diễn giải của giai đoạn này, cho chúng ta biết được sự lầm lẫn từ ngàn xưa đến nay của tất cả các sử gia cũng như học giả về Trung Hoa. Gốc phát tích được tính từ Núi Thái Sơn. Dòng bên tả hình thành nên dòng Dương Tử, vốn là nơi mà dòng Xi Vưu định cư. Dòng bên hữu là Hoàng Hà, là nơi sinh sống của dòng Phục Hy. Và Hoàng Đế thống nhất, lấy đồng bằng Trung Nguyên làm bản địa. Từ đây ta xét; Nếu một số học giả cũng như sử gia cho rằng người Việt sống ở bờ nam sông Dương Tử. Thì người Hán phải sống ở về phía bờ bắc sông Hoàng Hà mới đúng. Do Tính từ bờ Bắc Dương Tử và bờ Nam Hoàng Hà là do tộc của Hoàng Đế cát cứ, thuộc Trung Nguyên của người Trung Hoa vốn là Mông Cổ chứ không phải người Hán. Vấn đề này phải chờ hội đủ những yếu tố chứng cứ sắp đến nữa. Sau đó tôi sẽ trình bày rõ ràng hơn về những xuất xứ cội nguồn bị lầm lạc. Bởi dòng đề tài này, đang bàn đến vấn đề của cây đàn Dao Cầm, nên có tính liên quan. Liên quan đến một giá trị thực tại kinh thiên động địa hơn, vốn đã bị vùi lấp từ ngàn xưa qua. Hôm nay, nhất định phải được phơi bày tất cả trước kỷ nguyên mới để; Định lại nền móng mới.

Việc gì đến ắt phải đến. Không sớm thì muộn, thời gian nhất định phải thực thi trách nhiệm đó. Và hôm nay, tôi đưa huyền tích của cây đàn Dao Cầm như sau:

Thuở hồng hoang...

Xi Vưu vốn là thủ lĩnh của bộ tộc Tam Miêu. Bản tính vốn phiêu bồng, ngao du sơn thủy. Tài nghệ của Xi Vưu trong giai đoạn đó, đã được khắp nơi suy tôn là Chiến Thần (Thần Chiến Tranh). Một anh hùng cái thế trong thời kỳ đó. Điều này, mãi đến hôm nay; Cận bang Hàn Quốc lẫn Nhật Bản vẫn công nhận và suy tôn. Trong những tháng ngày lãng du trong huyền sử, Xi Vưu thường sở hữu bên mình một nhạc cụ được gọi là Tiêu Khúc.

Dĩ nhiên với một lãng tử như thế, những khúc tiêu thường vang lên trên toàn miền lịch sử, vào những đêm trăng thanh để trải lòng nơi viễn xứ... Một tuyệt cảnh phiêu bồng, "sắc nét". Điều sắc nét này, hoàn toàn làm lu mờ hình ảnh khắc họa tay cao bồi với Harmonica của miền viễn tây, là ăn chắc.

Thuở gây hình, Thiên Tạo đã dựng nên một kiệt tác của thiên nhiên là; Tạc cho một bộ tộc khác sở hữu cây đàn Dao Cầm! Một bộ tộc của một dòng người Tiên! Đó chính là bộ tộc Cửu Lê, với vị thủ lĩnh là Tiên Huyền Nữ! (Cửu Thiên Huyền Nữ). Hóa công khéo lá lay, bày đặt cho tiếng Dao Cầm của Tiên Huyền Nữ, khéo rơi vào tai của kẻ lãng tử Xi Vưu trên dọc nẻo miên du... Không phải bức tranh tả cảnh... trai anh hùng gặp gái thuyền quyên nữa. Mà là một bức tranh siêu thực của chiến thần và tiên nữ! Hiển nhiên, chiến thần phải xiêu hồn, lạc phách theo tiếng đàn của tiên nữ thôi. Điều đó ta dễ biết và quen gọi với hai từ khó hiểu: Định Mệnh.

Và rồi việc sẽ đến là Khúc Tiêu của kẻ lãng du, trong một họa cảnh của buổi bình minh, lại vẽ thêm nét trăng thanh của quá khứ! Đã hòa Điệu Dao Cầm với Tiên Nữ là ý thiên định. Sự hòa duyên thiên định đó, đã sinh ra dòng Bách Việt trong cội nguồn lịch sử xa...

Nguyên nhân trên đây chính là nguyên do tại sao sử sách cứ không nhất định được; Khi thì cho Xi Vưu là thủ lĩnh Tam Miêu, lúc lại gọi là thủ lĩnh Cửu Lê. Họ cứ tranh cải nhau mà không biết cội rễ này. Tất nhiên Xi Vưu là thủ lĩnh của bộ tộc nào cũng đều đúng cả.

Khi Hoàng Đế thôn tính dứt Thần Nông. Hoàng Đế đã phát hiện ra những giá trị vô giá của hai bộ tộc này, rơi rớt trong bộ tộc của Thần Nông từ Phục Hy "chép lại". Một trong những giá trị đó có cây Dao Cầm. Đó là lý do mà Hoàng Đế đã ôm tham vọng lẫn mưu đồ đánh chiếm Xi Vưu.

Thế nhưng, vì nguyên cớ nào mà Hoàng Đế dám cả gan dấy binh đối địch cùng một vị Thần Chiến Tranh như thế!? Điều này tôi sẽ trình bày minh bạch, chi tiết trong một chủ đề khác. Một di bảo của dòng Bách Việt mà Hoàng Đế bằng bất kỳ giá nào cũng phải chiếm lĩnh cho bằng được. Riêng chủ đề này thì chỉ bàn về cây đàn Dao Cầm mà thôi. Bởi tính liên quan, nên có ít nhiều phải đả động đến.

Và Hoàng Đế đã lập mưu khống chế Tiên Huyền Nữ, chiếm đoạt cây Dao Cầm để hòng chiêu dụ Xi Vưu. Do tính lãng tử cũng như tiếng Dao Cầm làm say hồn Xi Vưu mà nên duyên ngày đó mà ra. Lịch sử sau này có mô phỏng lại trong giai đoạn của giống nòi từ Xi Vưu là: " Ta vốn là giống Rồng, nàng vốn là dòng Tiên, rất khó sống chung lâu dài với nhau được...". Bởi nguyên do đó, nên mới có cơ sở để Hoàng Đế lập mưu giam cầm được Tiên Huyền Nữ, thừa lúc Xi Vưu vắng bóng.

Chúng ta, người Việt hôm nay. Nhất định không được phép quên rằng: Tướng tinh của Xi Vưu vốn là Long Thần (Thanh Long). Và tướng tinh của Tiên Huyền Nữ vốn là Thần Quy (Huyền Vũ). Hai linh vật tạo nền móng vũ trụ. Thật bất hạnh thay cho những ai là kẻ đã từng bị lạc mất cội nguồn giống nòi đó. Hôm nay nhất định phải nhìn lại, để phải đứng thẳng, và phải hơn nữa; Vươn vai gánh vác non sông, đối đầu trong thiên hạ mà đón vận hội mới của dân tộc.

Kể từ giai đoạn này của những luận giải đã được trình bày. Chúng ta có thể suy diễn tiếp như sau:

Xét về Chiến Thần Xi Vưu; Phàm là một du thần lãng tử. Thân cưu danh Chiến Thần mà mọi người suy tôn. Vai đeo mang Tiêu Khúc, đỉnh đầu chải tuyết sương, gót chân lướt gió phiêu bồng. Ắt đó không phải hình bóng của một ác thần cho được. Lại càng không hề có khái niệm giả danh cho một mẫu đức tính như thế bao giờ cả. Nhạc, vốn chỉ xuất phát từ những tâm hồn bay bổng hòa cùng cái đẹp của tâm hồn lẫn vạn vật trong vũ trụ. Nhất là khi kết giao cùng Tiên Huyền Nữ của tộc Cửu Lê. Cái lý của "tạo vật" được thể hiện ra ở hai nhạc cụ là Tiêu Khúc và Dao Cầm rồi. Và "tạo nhân" ở Chiến Thần và Tiên Nữ. Với tất cả sự tổng hòa chân - thiện - mỹ đó, vốn được kết se từ bàn tay của Tạo Hóa.

Nên kết luận đó đã được lịch sử định nghĩa với hai chữ Thần Tiên.

Ta xét thấy âm điệu của cây đàn Dao Cầm, chỉ với một mục đích là tấu lên sự hòa điệu của muôn vật trong cảnh yên bình mà thôi. Năm dây đại diện tính của ngũ hành mà ra. Ngũ Hành vốn lại là 5 điều kiện để sinh thành vũ trụ vạn vật.

Điều này phản ảnh Khúc Nam Phong mà vua Thuấn đã từng dụng để trị nước. Ta xem sử đã ghi rằng Khúc Nam Phong đã khiến nước thịnh trị thái bình đến đỗi: Người đi, thú dữ phải nhường đường. Tối, chó không tiếng sủa. Ngày nắng, đêm mưa. Lúa trổ hai gié... Ta thấy tiếng Dao Cầm đã khiến con người, muông thú, cỏ cây, khí hậu nhất lượt hòa điệu hóa công trong nhịp sinh hóa diễn đạo. Đến Nhiếp Chính và Kê Khang về sau, có muốn khởi ác ý từ Dao Cầm, cũng đành phải thất vọng mà không hiểu được nguồn cơn.

Cái ác mống tiềm ẩn trong Dao Cầm lại có xuất phát mộng từ ác vọng của Hoàng Đế gửi vào dây Sát là dây thứ 6 mà ra cả thôi. Tuy nhiên, khi đạt được tham vọng ngày đó. Ta Thấy Hoàng Đế cũng có chiều hối hận, nên đã tháo dây thứ 6 ra mà giấu đi rồi. Điều này phản ảnh ở cây Dao Cầm mà Nghiêu đã tặng cho Thuấn. Cùng với lời dặn dò thế hệ mai sau từ Hoàng Đế là phải lo cho Lê Dân! Lê Dân ở đây ý là ám chỉ vào Dân tộc Cửu Lê. Sở hữu chủ của Cây đàn Dao Cầm nơi Tiên cõi. Một oan khốc lay chuyển cả thiên tâm địa dạ. Khiến nên nẻo đạo phải phủ mờ, lạc lối chân lý suốt bao ngàn năm trôi.

Điều bi ai đong đầy đau thương hiện nay ở chỗ: Đối với dòng Âu Lạc; Một đại đa số người Việt hôm nay, không biết Xi Vưu là ai! Một tiểu thiểu số có biết. Nhưng họ dường nghi hoặc, lại dường mơ hồ hơn, về vị Thần Nhân này trong lịch sử!! Cả thế hệ thiếu niên, thậm chí thanh niên đương đại, xem Xi Vưu là một ác thần thông qua những sách tóm tắt rồi trò game trong thế giới mạng có mã nguồn gốc Trung quốc đang gây sai lạc cho tư duy quan điểm của giới trẻ; Trong game nhập vai Hoàng đế tìm mọi cách truy lùng ác thần với bất kỳ giá nào!? Thật tai hoạ.

Tôi khẳng định rằng:

Cây đàn Dao Cầm đó chính là di chỉ của giống nòi Rồng Tiên, đã trao truyền về tới thế hệ Âu Lạc Việt trong Bách Việt tại thời điểm đương đại. Khúc Tiêu Dao đó của dân tộc, sẽ được tấu lên những giai điệu thái hòa trong kỷ nguyên mới. Điều đó minh chứng rằng; Dao Cầm chính là di bảo của nòi giống này. Chưa một ai xưa nay, đủ để tấu lên những tuyệt kỹ Tiêu Dao tiềm lạc đó.

Một sự kiện điển hình, bước ra từ huyền sử, minh chứng:

Thạch Sanh, một di dõi thuộc dòng Âu Việt, đã từng; Bãi binh 18 chư hầu! dưới ngón đàn Dao Cầm trong quá khứ lâu của nền Việt sử xa.

Để trước lúc phục khởi được tiếng đàn Dao Cầm cất lên khúc khải hoàn cùng chân chủ dòng Tiên Rồng. Ta nhất định phải biết âm thanh để kết tạo nên bản cộng giao Tiêu Khúc Dao Cầm đó vốn từ tinh hoa của Kinh Dịch. Một Thiên Bảo mà Tạo Hóa đã trao cho Người Việt vào một trong những buổi bình minh, thuở Người gây hình tạo hóa. Và những giá trị thực tại tiềm ẩn trong Kinh Dịch, chưa một ai đủ để hiểu được tận thời điểm hôm nay.

Loạt bài sau, tôi sẽ vì oan khiên của giống nòi ngàn năm. Quyết quét sạch rêu bụi, phủ lấp chân giá trị của Kinh Dịch suốt hàng ngàn năm qua.

Kết luận:

Trên bình diện địa cầu: "Chỉ có duy nhất Dân Tộc Kinh, mới đủ khả năng Khảo Kinh mà thôi!". Đó là Thiên Định.

Bởi; Ngày phán xét, đã đến...

.

7 - DAO CẦM VÀ OAN KHÚC... NGÀN NĂM!

Vào khoảng 6000 năm trước... Ở vào giới hạn của giai đoạn mà ta có thể hình dung qua lăng kính văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ!

Trong buổi bình minh của thời kỳ hồng hoang. Do yếu tố thời gian luôn xóa nhòa mọi ranh giới trong chu kỳ thứ tư! Bất kể tính tới tương lai hoặc trở về quá khứ. Điều này khiến nên mọi tư duy nơi đỉnh cao của nhân loại, cũng khó lòng phân định tỏ tường mọi sự việc cho được. Tuy nhiên có một quy luật là; Chân lý và sự thật mãi mãi vẫn còn đó. Chẳng qua những chân lý cũng như sự thật đó bị huyễn mị, lẫn lộn và chôn vùi bao gồm vô ý và cố ý.

Ta sàng lọc những sự kiện đó như sau:

Trong tất cả những cuộc tranh cãi về thuở ban đầu xưa nay từ các nhà sử gia, học giả nói chung. Luôn luôn có 3 yếu tố nổi bật lên trên hết mà hầu như không ai nhận ra được như:

Thứ nhất; Bộ tộc Phục Hy với họ Khương.
Thứ hai ; Bộ tộc Hoàng Đế với họ Công tôn.
Thứ ba ; Bộ tộc Xi Vưu với họ Hồng Bàng.

Rõ ràng ba bộ tộc này là hoàn toàn tách biệt ngay từ thuở bình minh của lịch sử khu vực giao tranh này. Khởi thủy, Hoàng Đế vốn là người Mông Cổ. Họ sống du mục, săn bắn khắp trên toàn miền quá khứ đó, nên mới có việc tràn qua xâm lấn các bộ tộc nông nghiệp định cư là Phục Hy. Họ còn có "ký gửi" danh khác trong ngăn kéo niên giám lịch sử khu vực này là Hoa Hùng. Lịch sử chép; Khi Hoàng Đế dứt được dòng của tộc Phục Hy vào thời Thần Nông. Ta xem xét thì thật ra trong trận chiến khởi sử đó là trận Phản Tuyền. Trong trận này thì Đế Du Võng, thuộc đời thứ 8 của Thần Nông bại trận chứ không phải là Thần Nông. Đến đây thì chấm dứt dòng Thần Nông là dõi tộc của Phục Hy.

Ta thấy sử có chép lại là: Khi hoàng Đế cử binh đi đánh Xi Vưu. Có hội chư hầu ở Cối Kê! Chư hầu ở đây có nghĩa là dòng tộc của Thần Nông đã được thu phục trước đó. Và sau khi đã định được Xi Vưu, gồm thâu thiên hạ về một mối. Dĩ nhiên đã là dân một nước thì:

Ba họ kia có thể kết giao, qua lại và hòa huyết với nhau là lẽ đương nhiên. Nếu họ Khương của Phục Hy hoặc họ Hồng Bàng của Xi Vưu gả con cho họ Công tôn của Hoàng Đế thì gọi là Hoa Trung. Ý tại "trung hòa" giữa hai tộc của Phục Hy và Xi Vưu mà ra. Bằng như họ Hồng Bàng cưới về thì gọi là Hoa Hạ. Còn họ Khương cưới về thì được gọi là Hoa Thượng. Cho nên ta thấy:

1. Họ thuộc về Phục Hy = Hoa Thượng.
2. Họ thuộc về Hoàng Đế = Hoa Trung.
3. Họ thuộc về Xi Vưu = Hoa Hạ.

Gốc của từ nguyên Trung Hoa là từ Trung Hòa mà ra. Diễn giải của giai đoạn này, cho chúng ta biết được sự lầm lẫn từ ngàn xưa đến nay của tất cả các sử gia cũng như học giả về Trung Hoa. Gốc phát tích được tính từ Núi Thái Sơn. Dòng bên tả hình thành nên dòng Dương Tử, vốn là nơi mà dòng Xi Vưu định cư. Dòng bên hữu là Hoàng Hà, là nơi sinh sống của dòng Phục Hy. Và Hoàng Đế thống nhất, lấy đồng bằng Trung Nguyên làm bản địa. Từ đây ta xét; Nếu một số học giả cũng như sử gia cho rằng người Việt sống ở bờ nam sông Dương Tử. Thì người Hán phải sống ở về phía bờ bắc sông Hoàng Hà mới đúng. Do Tính từ bờ Bắc Dương Tử và bờ Nam Hoàng Hà là do tộc của Hoàng Đế cát cứ, thuộc Trung Nguyên của người Trung Hoa vốn là Mông Cổ chứ không phải người Hán. Vấn đề này phải chờ hội đủ những yếu tố chứng cứ sắp đến nữa. Sau đó tôi sẽ trình bày rõ ràng hơn về những xuất xứ cội nguồn bị lầm lạc. Bởi dòng đề tài này, đang bàn đến vấn đề của cây đàn Dao Cầm, nên có tính liên quan. Liên quan đến một giá trị thực tại kinh thiên động địa hơn, vốn đã bị vùi lấp từ ngàn xưa qua. Hôm nay, nhất định phải được phơi bày tất cả trước kỷ nguyên mới để; Định lại nền móng mới.

Việc gì đến ắt phải đến. Không sớm thì muộn, thời gian nhất định phải thực thi trách nhiệm đó. Và hôm nay, tôi đưa huyền tích của cây đàn Dao Cầm như sau:

Thuở hồng hoang...

Xi Vưu vốn là thủ lĩnh của bộ tộc Tam Miêu. Bản tính vốn phiêu bồng, ngao du sơn thủy. Tài nghệ của Xi Vưu trong giai đoạn đó, đã được khắp nơi suy tôn là Chiến Thần (Thần Chiến Tranh). Một anh hùng cái thế trong thời kỳ đó. Điều này, mãi đến hôm nay; Cận bang Hàn Quốc lẫn Nhật Bản vẫn công nhận và suy tôn. Trong những tháng ngày lãng du trong huyền sử, Xi Vưu thường sở hữu bên mình một nhạc cụ được gọi là Tiêu Khúc.

Dĩ nhiên với một lãng tử như thế, những khúc tiêu thường vang lên trên toàn miền lịch sử, vào những đêm trăng thanh để trải lòng nơi viễn xứ... Một tuyệt cảnh phiêu bồng, "sắc nét". Điều sắc nét này, hoàn toàn làm lu mờ hình ảnh khắc họa tay cao bồi với Harmonica của miền viễn tây, là ăn chắc.

Thuở gây hình, Thiên Tạo đã dựng nên một kiệt tác của thiên nhiên là; Tạc cho một bộ tộc khác sở hữu cây đàn Dao Cầm! Một bộ tộc của một dòng người Tiên! Đó chính là bộ tộc Cửu Lê, với vị thủ lĩnh là Tiên Huyền Nữ! (Cửu Thiên Huyền Nữ). Hóa công khéo lá lay, bày đặt cho tiếng Dao Cầm của Tiên Huyền Nữ, khéo rơi vào tai của kẻ lãng tử Xi Vưu trên dọc nẻo miên du... Không phải bức tranh tả cảnh... trai anh hùng gặp gái thuyền quyên nữa. Mà là một bức tranh siêu thực của chiến thần và tiên nữ! Hiển nhiên, chiến thần phải xiêu hồn, lạc phách theo tiếng đàn của tiên nữ thôi. Điều đó ta dễ biết và quen gọi với hai từ khó hiểu: Định Mệnh.

Và rồi việc sẽ đến là Khúc Tiêu của kẻ lãng du, trong một họa cảnh của buổi bình minh, lại vẽ thêm nét trăng thanh của quá khứ! Đã hòa Điệu Dao Cầm với Tiên Nữ là ý thiên định. Sự hòa duyên thiên định đó, đã sinh ra dòng Bách Việt trong cội nguồn lịch sử xa...

Nguyên nhân trên đây chính là nguyên do tại sao sử sách cứ không nhất định được; Khi thì cho Xi Vưu là thủ lĩnh Tam Miêu, lúc lại gọi là thủ lĩnh Cửu Lê. Họ cứ tranh cải nhau mà không biết cội rễ này. Tất nhiên Xi Vưu là thủ lĩnh của bộ tộc nào cũng đều đúng cả.

Khi Hoàng Đế thôn tính dứt Thần Nông. Hoàng Đế đã phát hiện ra những giá trị vô giá của hai bộ tộc này, rơi rớt trong bộ tộc của Thần Nông từ Phục Hy "chép lại". Một trong những giá trị đó có cây Dao Cầm. Đó là lý do mà Hoàng Đế đã ôm tham vọng lẫn mưu đồ đánh chiếm Xi Vưu.

Thế nhưng, vì nguyên cớ nào mà Hoàng Đế dám cả gan dấy binh đối địch cùng một vị Thần Chiến Tranh như thế!? Điều này tôi sẽ trình bày minh bạch, chi tiết trong một chủ đề khác. Một di bảo của dòng Bách Việt mà Hoàng Đế bằng bất kỳ giá nào cũng phải chiếm lĩnh cho bằng được. Riêng chủ đề này thì chỉ bàn về cây đàn Dao Cầm mà thôi. Bởi tính liên quan, nên có ít nhiều phải đả động đến.

Và Hoàng Đế đã lập mưu khống chế Tiên Huyền Nữ, chiếm đoạt cây Dao Cầm để hòng chiêu dụ Xi Vưu. Do tính lãng tử cũng như tiếng Dao Cầm làm say hồn Xi Vưu mà nên duyên ngày đó mà ra. Lịch sử sau này có mô phỏng lại trong giai đoạn của giống nòi từ Xi Vưu là: " Ta vốn là giống Rồng, nàng vốn là dòng Tiên, rất khó sống chung lâu dài với nhau được...". Bởi nguyên do đó, nên mới có cơ sở để Hoàng Đế lập mưu giam cầm được Tiên Huyền Nữ, thừa lúc Xi Vưu vắng bóng.

Chúng ta, người Việt hôm nay. Nhất định không được phép quên rằng: Tướng tinh của Xi Vưu vốn là Long Thần (Thanh Long). Và tướng tinh của Tiên Huyền Nữ vốn là Thần Quy (Huyền Vũ). Hai linh vật tạo nền móng vũ trụ. Thật bất hạnh thay cho những ai là kẻ đã từng bị lạc mất cội nguồn giống nòi đó. Hôm nay nhất định phải nhìn lại, để phải đứng thẳng, và phải hơn nữa; Vươn vai gánh vác non sông, đối đầu trong thiên hạ mà đón vận hội mới của dân tộc.

Kể từ giai đoạn này của những luận giải đã được trình bày. Chúng ta có thể suy diễn tiếp như sau:

Xét về Chiến Thần Xi Vưu; Phàm là một du thần lãng tử. Thân cưu danh Chiến Thần mà mọi người suy tôn. Vai đeo mang Tiêu Khúc, đỉnh đầu chải tuyết sương, gót chân lướt gió phiêu bồng. Ắt đó không phải hình bóng của một ác thần cho được. Lại càng không hề có khái niệm giả danh cho một mẫu đức tính như thế bao giờ cả. Nhạc, vốn chỉ xuất phát từ những tâm hồn bay bổng hòa cùng cái đẹp của tâm hồn lẫn vạn vật trong vũ trụ. Nhất là khi kết giao cùng Tiên Huyền Nữ của tộc Cửu Lê. Cái lý của "tạo vật" được thể hiện ra ở hai nhạc cụ là Tiêu Khúc và Dao Cầm rồi. Và "tạo nhân" ở Chiến Thần và Tiên Nữ. Với tất cả sự tổng hòa chân - thiện - mỹ đó, vốn được kết se từ bàn tay của Tạo Hóa.

Nên kết luận đó đã được lịch sử định nghĩa với hai chữ Thần Tiên.

Ta xét thấy âm điệu của cây đàn Dao Cầm, chỉ với một mục đích là tấu lên sự hòa điệu của muôn vật trong cảnh yên bình mà thôi. Năm dây đại diện tính của ngũ hành mà ra. Ngũ Hành vốn lại là 5 điều kiện để sinh thành vũ trụ vạn vật.

Điều này phản ảnh Khúc Nam Phong mà vua Thuấn đã từng dụng để trị nước. Ta xem sử đã ghi rằng Khúc Nam Phong đã khiến nước thịnh trị thái bình đến đỗi: Người đi, thú dữ phải nhường đường. Tối, chó không tiếng sủa. Ngày nắng, đêm mưa. Lúa trổ hai gié... Ta thấy tiếng Dao Cầm đã khiến con người, muông thú, cỏ cây, khí hậu nhất lượt hòa điệu hóa công trong nhịp sinh hóa diễn đạo. Đến Nhiếp Chính và Kê Khang về sau, có muốn khởi ác ý từ Dao Cầm, cũng đành phải thất vọng mà không hiểu được nguồn cơn.

Cái ác mống tiềm ẩn trong Dao Cầm lại có xuất phát mộng từ ác vọng của Hoàng Đế gửi vào dây Sát là dây thứ 6 mà ra cả thôi. Tuy nhiên, khi đạt được tham vọng ngày đó. Ta Thấy Hoàng Đế cũng có chiều hối hận, nên đã tháo dây thứ 6 ra mà giấu đi rồi. Điều này phản ảnh ở cây Dao Cầm mà Nghiêu đã tặng cho Thuấn. Cùng với lời dặn dò thế hệ mai sau từ Hoàng Đế là phải lo cho Lê Dân! Lê Dân ở đây ý là ám chỉ vào Dân tộc Cửu Lê. Sở hữu chủ của Cây đàn Dao Cầm nơi Tiên cõi. Một oan khốc lay chuyển cả thiên tâm địa dạ. Khiến nên nẻo đạo phải phủ mờ, lạc lối chân lý suốt bao ngàn năm trôi.

Điều bi ai đong đầy đau thương hiện nay ở chỗ: Đối với dòng Âu Lạc; Một đại đa số người Việt hôm nay, không biết Xi Vưu là ai! Một tiểu thiểu số có biết. Nhưng họ dường nghi hoặc, lại dường mơ hồ hơn, về vị Thần Nhân này trong lịch sử!! Cả thế hệ thiếu niên, thậm chí thanh niên đương đại, xem Xi Vưu là một ác thần thông qua những sách tóm tắt rồi trò game trong thế giới mạng có mã nguồn gốc Trung quốc đang gây sai lạc cho tư duy quan điểm của giới trẻ; Trong game nhập vai Hoàng đế tìm mọi cách truy lùng ác thần với bất kỳ giá nào!? Thật tai hoạ.

Tôi khẳng định rằng:

Cây đàn Dao Cầm đó chính là di chỉ của giống nòi Rồng Tiên, đã trao truyền về tới thế hệ Âu Lạc Việt trong Bách Việt tại thời điểm đương đại. Khúc Tiêu Dao đó của dân tộc, sẽ được tấu lên những giai điệu thái hòa trong kỷ nguyên mới. Điều đó minh chứng rằng; Dao Cầm chính là di bảo của nòi giống này. Chưa một ai xưa nay, đủ để tấu lên những tuyệt kỹ Tiêu Dao tiềm lạc đó.

Một sự kiện điển hình, bước ra từ huyền sử, minh chứng:

Thạch Sanh, một di dõi thuộc dòng Âu Việt, đã từng; Bãi binh 18 chư hầu! dưới ngón đàn Dao Cầm trong quá khứ lâu của nền Việt sử xa.

Để trước lúc phục khởi được tiếng đàn Dao Cầm cất lên khúc khải hoàn cùng chân chủ dòng Tiên Rồng. Ta nhất định phải biết âm thanh để kết tạo nên bản cộng giao Tiêu Khúc Dao Cầm đó vốn từ tinh hoa của Kinh Dịch. Một Thiên Bảo mà Tạo Hóa đã trao cho Người Việt vào một trong những buổi bình minh, thuở Người gây hình tạo hóa. Và những giá trị thực tại tiềm ẩn trong Kinh Dịch, chưa một ai đủ để hiểu được tận thời điểm hôm nay.

Loạt bài sau, tôi sẽ vì oan khiên của giống nòi ngàn năm. Quyết quét sạch rêu bụi, phủ lấp chân giá trị của Kinh Dịch suốt hàng ngàn năm qua.

Kết luận:

Trên bình diện địa cầu: "Chỉ có duy nhất Dân Tộc Kinh, mới đủ khả năng Khảo Kinh mà thôi!". Đó là Thiên Định.

Bởi; Ngày phán xét, đã đến...



8 - KINH DỊCH - KINH VIỆT!

Chúng ta đã manh nha biết được một phần nào đó về cội nguồn lịch sử của Dân Tộc Việt Nam qua tiếng vọng của Dao Cầm.

Và trong loạt ký sự tiếp theo với chủ đề là Kinh Dịch. Một lạc thư, vốn lạc mạch và đang tìm về lạc chủ! Đó chính là cái lý của sự "quy hồi", hoàn toàn đồng nghĩa với hai từ; Thần Quy! (theo một cách hiểu nào đó, tùy thuộc tư duy độc giả).

"Thương thay thân phận con rùa
Xuống đình cõng hạc, lên chùa đội bia" !.

Tiếng vọng ca dao với âm thanh bi ai từ giống nòi Thần Quy! Câu thơ ca này đã vang vọng, xuyên rách bao trang sử khuất trong dạ trường tăm tối suốt ngàn năm. Ở đây tôi chỉ tạm bàn lướt qua như là... Xuống đình là nơi vốn chỉ thờ Thần, lại có vẻ cõng Hạc nơi Tiên cõi! Lên chùa là chốn để cúng Phật, lại ra chiều đội bia chốn trần tục!!. Bởi bia ấy vốn chỉ để ghi danh tiến sĩ mà thôi! Thiên tượng mong mặc định cho những thế hệ tương lai... nào đó (!?). Nếu thuộc dòng dõi Thần Quy, mong một ngày; Cái học con cháu đủ rộng, để minh oan cho tổ tiên trong quá khứ phải chịu nhiều oan khốc muôn đời vạn kiếp qua. Vậy mà biết bao thế hệ tiếp nối thế hệ... Có may mắn tránh được bia đá ngàn năm dãi dầu cùng năm tháng, cũng khó tránh được bia miệng trăm năm của Nguyễn Khuyến mà trơ theo với thời gian?! Những tiến sĩ giấy, tiến sĩ đá đó. Dù muốn dù không, cũng đành hóa thoái sĩ của ngày hôm qua mất cả rồi. Rất đỗi bi ai...

Và kẻ sĩ đương đại, có một vài ký sự giải bày như sau:

Hạt nhân cơ bản, hội đủ năng lượng yêu cầu..., gia tốc cho tham vọng của Hoàng Đế ngày đó dựa vào mà dám cả gan; Vuốt ngược vảy rồng dưới yết hầu của chiến thần Xi Vưu, chính là Kinh Dịch!

Ta phải biết Tiêu Khúc của chiến thần Xi Vưu ngày đó, dựa trên nền tảng của Tiêu Phổ là một phần của Kinh Dịch. Vì Liên Sơn Dịch chính là một áng thiên thư mà Tạo Hóa đã tạc trên mình của Thần Xi Vưu trong ngày thứ tư, khi Người thiết kế mô hình không gian vũ trụ tự nhiên.

Như tôi đã có từng diễn tả qua trong đoạn cuối của Dao Cầm. Lãng tử Xi Vưu thường ngao du trên toàn miền quá khứ hồng hoang đó, không phải chỉ ở "ao nhà" tại địa phương định xứ của dòng Dương Tử. Điều này phản ảnh trong một lần mà Xi Vưu đáo xứ muôn phương và xuống tắm trên dòng sông Hoàng Hà. Phục Hy đã "chép lại" được trên lưng của Xi Vưu bức đồ Liên Sơn đó.

Tôi cũng nhất thiết phác họa, lưu thêm nét ý, chúng ta cùng nghị lãm:

Bức họa của thuở hồng hoang có nét, vẻ như thế này... Các bộ tộc nguyên thủy thường tìm nhau chốn ban sơ bằng những âm thanh của những tiếng hú dài gọi nhau. Về lâu sau, tiếng gọi của bộ tộc Phục Hy phát triển thành tiếng Tù Và, được thiết kế từ sừng trâu. Tiếng gọi của bộ tộc Xi Vưu vốn có tiếng Tù Và đã chế tác bằng vỏ ốc của biển cả. Tiếng gọi của bộ tộc Hoàng Đế lại là tiếng được tạo ra từ khúc tre và gọi là Tiêu Khúc! Ba "âm cụ" này phản ảnh tính riêng biệt của văn hóa bản - sắc - thể của từng vùng miền khi đó. Cũng bởi tính phiêu du mà trong một lần ngang qua xứ Hữu Hùng. Lãng thần Xi Vưu đã trao đổi Tù Và ốc (Tiêu Ốc) với Tiêu Khúc của một dòng luân di trong bộ tộc Hoàng Đế. Cũng chính điều này mà Hoàng Đế phát hiện Xi Vưu xiêu hồn lạc phách trước tiếng đàn Dao Cầm của Tiên Huyền Nữ mà âm mưu bày kế nhốt Tiên Huyền Nữ. Rồi biến tiếng Dao Cầm thành chiến cụ chiêu dụ và hàng phục Xi Vưu trong trận Trác Lộc.

Thường thường..., khi ta mới tiếp cận Kinh Dịch. Luôn luôn, thể dụng đầu tiên được xem xét và ứng dụng phải là Y Học. Đây cũng chính là lĩnh vực duy nhất, mà thế nhân chúng ta ứng dụng được từ Kinh Dịch một cách nghiêm túc nhất, từ chính thể của Kinh Dịch. Chính vì nguyên do này mà ta thấy đến đời Thần Nông. Thần Nông chính là vị thầy thuốc khởi thủy của nhân loại, khi ông tiếp cận Kinh Dịch. Cổ sử còn ký dấu lưu trữ; Thần Nông đi thử thuốc, một ngày đã bị trúng độc 72 lần cả thảy!

Đến khi Hoàng Đế đánh chiếm bộ tộc này. Hoàng đế phát hiện những giá trị của Kinh Dịch đang được bộ tộc Thần Nông khai thác (Ta cũng sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng Hoàng Đế lúc tiếp cận Kinh Dịch cũng lập tức làm ra bộ Hoàng Đế Nội Kinh ngay thôi). Kể từ đó, Hoàng Đế rắp tâm phải chiếm cho bằng được Kinh Dịch của Bộ Tộc Xi Vưu bằng mọi giá. Vì thế Kinh Dịch mới là nguyên nhân chính, khiến cho Hoàng Đế thôn tính Xi Vưu. Thế nhưng, nếu muốn thôn tính được Xi Vưu, đang là một Chiến Thần lẫy lừng khi đó. Hoàng Đế nhất định phải có được những điều kiện mà Hoàng Đế trước đó, đã âm thầm chiếm được từ Bộ tộc Cửu Lê như những gì trình bày tiếp đến là:

Xét riêng về bộ tộc của Tiên huyền Nữ. Nếu như ngày Tạo Hóa tạc cho Xi Vưu bộ Liên Sơn Dịch thì Người lại tác lập cho Tiên Huyền Nữ ở tộc Cửu Lê bộ Quy Tàng Dịch. Chính vì Hoàng Đế chiếm được sách lược Quy Tàng từ Tiên Huyền Nữ, nên mới dám ôm mộng thôn tính Xi Vưu. Ta có thể suy thấy điều này từ những trang sử hiếm hoi ngày đó còn rơi rớt lại như sự việc:

Một trong những sách lược quan trọng mà Hoàng Đế dụng để giao tranh cùng chiến thần Xi Vưu là 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư. Sử sách còn ghi lại là 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư này chính bởi Phong Hậu lập ra. Để Phong Hậu lập được 13 thiên đó, có nguyên nhân từ sách của Hoàng Đế đưa cho! Vậy Hoàng Đế từ đâu mà có được sách ấy?! Và sách ấy là sách gì? Lại ở đâu đó... Dưới lớp bụi dày của thời gian, lẫn khuất trong các dòng sử lẻ loi còn sót lại: Hoàng đế bảo rằng... Sách đó là của Cửu Thiên Huyền nữ tặng cho Hoàng Đế! Luận khảo đến giai đoạn này thì chúng ta không cần phải đặt câu hỏi Cửu Thiên Huyền Nữ là ai nữa rồi vậy. Mọi chứng cứ đã "lạy ông tôi ở bụi này" mất rồi. (Quả! Không hổ danh là con cháu của Tô Hiến Thành).

Cửu Thiên Huyền Nữ chính là Tiên Huyền Nữ, thủ lĩnh của bộ tộc Cửu Lê. Sao lại có chuyện Tiên Huyền Nữ lại đi "tặng" sách của mình cho kẻ thù để thôn tính chồng của mình cho được?! Thật khôi hài. Bởi đây chính là câu nói dối kỳ vĩ nhất trong khởi đầu lịch sử của nhân loại. Tuy nhiên chính câu nói này lại là minh chứng không thể chối cãi được là Kinh Dịch vốn là của dân tộc Việt.

Như ta đã thấy; Kinh Dịch được ứng dụng thành - công - quả nhất, chính là Y học. Sau đến nữa là Quân sự. Ngoài 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư của buổi ban đầu, còn có:

1. Thái ất Thần Kinh.
2. Kỳ môn Độn Giáp.
3. Lục Nhâm Đại Độn.

Và lĩnh vực cuối cùng đó chính là Phong Thủy. Phong Thủy ở đây là Phong Thủy đại cuộc. Là Thiên Đô, là xem thịnh suy của một dân tộc, tồn vong của một quốc gia. Không hề là dạng phong thủy cầu cơm bao giờ cả. Riêng về việc bói toán là phản ảnh đã bế tắc trong khả năng dụng Dịch rồi vậy. Bởi nó phản ảnh ở do sự không hiểu, ắt dẫn đến chiêm..., nghiệm..., suy..., diễn... vân vân và v.v... Tôi khẳng định; Kinh Dịch vốn không phải là sách để bói toán.

Ta xem xét kỹ càng lại cái gọi là "Thuyết Dịch". Trong đó mô tả Phục Hy đóng vai trò như một "quan sát viên". Đã quan sát "vật bị quan sát" là vạn vật trong quá khứ không - thời gian đó như sau:

"... Ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xét thế đất... Gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở vạn vật... Và rồi Người chợt "nhìn thấy" trên lưng của con Long Mã có 55 dấu điểm trắng đen, liền "chép lại"!.

Ta thấy; Phục Hy đã photocoppy nguyên bản gốc có sẵn từ trên lưng của Long Mã chứ không phải tự làm ra như sự "cố nhận" xưa nay. Trong giai đoạn này (sau Hoàng Đế, tính từ Chuyên Húc cho tới đế Nghiêu), ta xét thấy sử vẫn thường hay tả về một tộc ở Phương Cấn hoặc Quỷ Phương. Đó chính là lãnh địa khởi nguồn khi xưa của Nước Xích Quỹ thuộc bộ tộc Xi Vưu. Liên Sơn dịch cũng thể hiện nguyên lý quẻ Cấn làm khởi đầu là vì thế. Sau dần, do chuyển vận lý khí của Càn Khôn, nên mới chuyển đến cung Tốn làm định xứ như hiện nay. Sử của Trung Quốc vẫn còn ghi chép lại sự việc; Trong giai đoạn ấy, có xảy ra việc khắp nơi truyền tai cho nhau rằng; Trời đã giao ấn trời cho bộ tộc đó nắm giữ! Vua Nghiêu đã sai Hy Thúc (một viên quan chuyên đo bóng mặt trời để làm lịch ngày ấy), sang xem xét và Hy Thúc sau đó đã lăn Trống Đồng của Bộ Tộc này về, báo rằng: Họ nói ấn trời được khắc trên này!? Không một ai hiểu trên trống đấy nói lên điều gì cả! Mãi khi Khổng Tử ra đời mới có thể hiểu nổi!!

Cũng trong thời Vua Nghiêu, có xảy ra nạn lụt hồng thủy. Tính từ Hoàng Đế truyền xuống mới có 4 đời. Cho nên Vua Nghiêu biết duy chỉ có dòng Bách Việt của tộc Xi Vưu mới có thể đủ khả năng trị thủy so với hai dòng tộc Hoàng Đế và Phục Hy. Bởi vì Kinh Dịch là di chỉ sách lược vốn là của họ. Vì thế ta mới thấy Vua Nghiêu liền sai ông Cốc, thuộc trong nhóm Bách Việt, đứng ra nhận trọng trách trị thủy là tất yếu. Ông Cốc thất bại, bị phạt chặt chân để răn đe. Liền sai ông Khí là con của ông Cốc, tiếp tục thay cha mà trị thủy. Ông Khí rồi cũng như cha mà lo việc trị thủy không xong. Vua Nghiêu cũng xử phạt bằng hình thức móc mắt.

Giai đoạn này thì ngôi Vua đã được truyền qua đời của Vua Thuấn. Vua Thuấn vốn có gốc từ dòng của bộ tộc Phục Hy. Cho nên dòng của Bộ tộc Hoàng Đế truyền đến đời của Vua Nghiêu là dứt. Vua Thuấn lại tiếp tục sai con của ông Khí là Đại Vũ phải nối đời của ông, cha của mình mà tiếp tục việc trị thủy. Thời điểm này có xảy ra một sự kiện là; Ông Ích, vốn thuộc dòng chính của Tiên Huyền Nữ được truyền di ấn trong nhóm Bách Việt. Biết Đại Vũ tuy là thuộc tộc Bách Việt nhưng do không được giữ di bảo truyền đời nên không thể trị thủy được. Vì tương thân cùng giọt máu đào nên đã tương trợ Đại Vũ mà trị thủy thành công ngày đó.

Nguyên do, ông Ích đã cùng Đại Vũ đã theo dấu Thần Quy để khơi sông về biển. Quy Tàng Dịch là ấn trời đã khắc bức đồ đó trên lưng của Tiên Huyền Nữ mà ra. Trong khi tướng tinh của Tiên Huyền nữ vốn lại là Huyền Vũ (Thần Kim Quy). Dựa theo bức đồ đó mà ông Ích và Đại Vũ dò theo dấu Thần Quy về biển cả (Vu Quy). Cũng nguyên cớ đó mà sử chép; Đại Vũ khi khai sông trị thủy, đã thấy Thần Quy nổi trên sông Lạc mà chép lại bức Hậu Thiên Đồ là từ nguyên cớ này vậy.

Do công trị thủy ngày đó, cho nên Vua Thuấn nhường ngôi kế tục cho Đại Vũ. Đại Vũ vốn lại là một trong nhóm Bách Việt ngày đó từ bộ tộc của Tam Miêu và Cửu Lê. Tuy nhiên do Đại Vũ biết được công này là từ ông Ích mà ra cả thôi. Nên Đại Vũ có ý truyền ngôi kế tục lại cho ông Ích. Thế nhưng con của Đại Vũ là Khải, đã vì cớ đó mà giết ông Ích để chiếm quyền nối ngôi nhà Hạ từ Vua Đại Vũ. Chính sự kiện này mới xảy ra việc ông Tiết, thuộc anh em họ của ông Ích, nổi lên diệt Nhà Hạ mà mở ra Nhà Thương về sau này. Và mãi cho tới khi Vũ Vương mở ra Nhà Chu. Cơ nghiệp này mới trở về với tộc của Hoàng Đế. Bởi Chu Văn Vương vốn là dòng phả hệ thuộc Hoàng Đế.

Chúng ta tạm quay trở lại để xem xét những chi tiết có tính liên quan đến Kinh Dịch.

Ta xét thấy; Trong giai đoạn của Vua Đại Vũ là xem như Kinh Dịch đã được sinh thành trọn vẹn. Bởi cái gốc cội rễ của Tiên Thiên vốn từ cung độ của địa phương Cấn Quỷ. Cho nên sử sách chép Phục Hy nhìn vào thiên tượng đó mà cho rằng: Khí núi tỏa ra không bao giờ dứt, mới đặt tên là Liên Sơn Dịch. Bởi đó thuộc vùng trú xứ thiên số của Xi Vưu mà ra. Và Đại Vũ cũng dựa trên miền định quán địa phận của Tiên Huyền Nữ bao gồm toàn miền thổ Khôn mà cho rằng: Vạn vật vốn sinh ra từ đất và cuối cùng cũng trở về với đất, nên đặt tên cho Hậu Thiên Đồ là Quy Tàng Dịch.

Cho nên ta dễ dàng nhận ra:

Văn Vương mới chỉ có thể sử dụng quẻ bói Tiên Thiên từ thủ pháp "điên đảo" với cỏ Thi từ mộ của Phục Hy mà thôi. Trong giai đoạn Quy Tàng hình thành trong đời Hạ Vũ, nên tiếp tới Nhà Thương là lại đang mò mẫm nghiên cứu cách bói "mu rùa". Ví như họ dùng yếm rùa đốt trên lửa, sau đó nhìn theo vết rạn nứt trên yếm mà chiêm..., nghiệm..., suy..., gây rối loạn thiên hạ mọi sự. Để mong tiên tri dự đoán mọi việc không lấy đâu làm xác định cho được. Cái yếu tố xác xuất của mọi phương pháp bói, đều có xuất phát nguồn từ đây mà ra cả.

Như đã trình bày: Y Học phản ảnh không hề là sự rủi may hay xác xuất. Đó là thuốc để chữa bệnh cứu người một cách thực sự nghiêm túc. Vì thế, chữ " Đức" luôn hiện diện kèm theo để tán dương cho Y Học. Kế đến là quân lược. Những sách lược như; Thái Ất Thần Kinh, Kỳ Môn Độn Giáp, Lục Nhâm Đại Độn v.v... Không phải là nơi để mang sinh mạng của muôn vạn sinh linh ra để trông chờ vào sự rủi may bao giờ cả. Chúng ta cũng không lấy làm ngạc nhiên gì khi thấy Giáp Cốt Văn xuất hiện trong giai đoạn này. Bởi cũng từ những đường nứt từ trong bộ xương - giáp - yếm (giáp cốt) của rùa mà ra. Nó có dạng như chữ tượng hình, từ những vết nứt đó.

Cho nên tôi khẳng định:

Thuyết Kinh Dịch xưa nay mà ta đã được biết từ Chu Dịch, hoàn toàn chỉ là một Giả Lập Thuyết, không đủ nền tảng để đứng vững. Khiến nên xưa nay đã có một số rất đông học giả lẫn sử gia của Trung Quốc nghi ngờ; Kinh Dịch không phải là của người Trung Quốc, là có cơ sở chính đáng.

Như tôi đã có từng nói: Chỉ có duy nhất dân tộc Kinh (Kinh Việt) mới có đủ khả năng "Khảo Kinh" mà thôi. Bởi đây chính là di bảo truyền đời của chính dân tộc này. Dĩ nhiên tôi sẽ trình bày toàn bộ giá trị thật sự của Kinh Dịch còn đang tiềm ẩn ở phía sau đó ra ánh sáng trong nay mai. Để khẳng định chỉ có giống nòi này mới biết và sử dụng được toàn bộ nguyên lý của Kinh Dịch. Những giá trị đó xưa nay vẫn chưa có một ai lĩnh hội nổi. Tôi biết Lão Tử là người duy nhất hiểu chừng 70% Kinh Dịch. Trần Đoàn ước chừng 30%. Kỳ dư, chỉ được nước gây nát loạn Kinh Dịch mà thôi. Một học thuyết của dân tộc Việt Nam đã bị thất lạc từ ngàn xưa. Họ vẫn chưa có thể hiểu nổi Kinh Dịch từ hàng bao ngàn năm qua. Vì thế, tôi có lời khuyên những ai là người Việt đang học lại từ họ; Hãy cẩn thận tuyệt đối với Kinh Dịch. Đã đến lúc quy luật của thiên số, nhất định phải thu hồi Kinh Dịch về với chính chân chủ của nó.

Dĩ nhiên; Hồi sau sẽ rõ...

Và đó cũng là đề tài sẽ được đưa lên bàn phẫu thuật sắp đến trong bài kế tiếp, tính từ Chu Văn Vương. Người đã viết ra Chu Dịch như tên gọi hiện nay.

... Ánh bình minh của Kỷ Nguyên Mới dần ló dạng...


Thanked by 1 Member:

#6 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 22:15


9 - VĂN VƯƠNG ĐỐI VỚI KINH DỊCH.

Đối với bói Dịch, Tây Bá Hầu Cơ Xương là cái tên đứng đầu danh sách trong trang sử sớm. Thành quả đó đã được Nhà Ân khảo nghiệm tại miếu đường và cho nghỉ dưỡng dài hạn tại Dữu Lý... 7 năm. Nghe đâu..., quẻ bói mà Tây Bá Hầu Cơ Xương sở hữu nơi tiền cảnh quá khứ đó chính là quẻ Tiên Thiên... Quái!

Theo phương pháp này thì..., kịch bản hiện tại không tái diễn nữa rồi. Bởi nó chỉ hữu dụng duy nhất là cỏ Thi! Cỏ Thi vốn là một loại cỏ chỉ mọc được ở xung quanh mộ của Phục Hy mà thôi! Vả lại thủ pháp lấy quẻ rất công phu và tốn rất nhiều hơn thời gian! Yêu cầu cao nhất là đòi hỏi người lập quẻ phải trong trạng thái vô thức hoàn toàn và thao tác tựa như người lên đồng hiện nay vậy. Chính vì thế nên quẻ rất linh nghiệm. Do đã bắt được nhịp giao hòa cộng hưởng cùng vũ trụ. (Điều mô tả này, các độc giả cô đồng sẽ dễ hiểu hơn... những ai không phải là cô đồng).

Thật ra trong giai đoạn này thì Cơ Xương chỉ mới được phong Hầu mà thôi. Điều này được thể hiện ở chỗ: Danh xưng Cơ Xương là "Hầu". Do bị giam cầm ở Dữu Lý nên con cả là Ấp Khảo tạm quyền trong nước, được xưng "Bá". Đến khi con thứ Cơ Phát, diệt Vua Trụ thì mới định là "Vương". Biết vậy, tuy nhiên do thói tục, xưa nay xưng tụng là Văn Vương đã quen. Tôi cũng chiếu theo thường lệ ấy mà viết, để mọi người dễ nhận biết. Chứ kỳ thực, Tây Bá Hầu Cơ Xương không hề là Vương bao giờ cả. Bởi trọn đời, ông chỉ nhận mình là chư hầu của Nhà Ân mà thôi. Chỉ khi mất đi, Cơ Phát mới khởi binh phạt Trụ, liền xưng Vũ Vương. Vấn đề là những thế hệ về sau đó biết suy tôn tổ tiên họ.

Khi Văn Vương xé những tờ lịch cuối cùng trong tổng số du di 2.500 tờ thì: Bá Ấp Khảo vội mang hai vật gia bảo truyền đời đi chuộc cha là; Con Vượn Bạch và cây Đàn Giao Cầm! Hai bảo vật này chính là của Hoàng Đế hơn một ngàn năm trăm năm trước, từng dùng để thôn tính chiến thần Xi Vưu! Di bảo truyền đời này khẳng định Văn Vương chính là hậu duệ thuộc bộ tộc Hoàng Đế, không bàn cãi.

Quả! Oan gia ngỏ hẹp!! Do Bá Ấp Khảo không biết Văn Vương đã thêm dây thứ 6 nên vô tình đụng đến dây Sát. Chính tiếng Đàn Dao Cầm này đã gây cho Đát Kỷ ngất ngây, bơ phờ như có vẻ xiêu hồn. Con Vượn Bạch do sống đã ngàn năm, nên nhìn thấy được tướng tinh của Đát Kỷ, nhảy chồm lên hòng chụp Đát Kỷ, khiến Vua Trụ cho là thích khách. Và trong vòng một nốt nhạc, Bá Ấp Khảo cùng Vượn Bạch biến thành thịt băm viên, gửi cho Văn Vương thưởng thức! Ý của Vua Trụ là xem khẩu thực giữa Thánh, Tục, có gì khác?

Trong suốt thời gian nghiên cứu Lịch ròng rã 7 năm ở ngục Dữu lý. Cùng với hạt giống có sẵn là quẻ Tiên Thiên. Văn Vương đã từng du Thiền và bất ngờ bước qua ngưỡng cửa của không gian chiều thứ tư. Văn Vương sững sờ khi phát hiện được Kinh Dịch đang ở bên nước Văn Lang, chính là của dân tộc Việt! Cho nên ta thấy khi vừa được phóng thích. Không bỏ phí một khoảng thời gian nào cả. Ngay lập tức Văn Vương xin vua Trụ cho cất binh đi đánh 2 nước là Mật Tu và nước Sùng để đoái công chuộc tội!?

Ta phải đủ để thấy và biết rằng nước "Sùng" ở đây chính là Sùng Lãm! Tên khai sinh của Lạc Long Quân. Ta phải nhất thiết hiểu rằng: Tư Mã Thiên là một sử gia. Nếu ông ghi thật vào sử thì mang tội bất trung với nước. Nhưng nếu không ghi thì bất chính với trời khi đứng ra viết sử ký. Vì thế Tư Mã Thiên mới viết tránh đi là nước "Sùng" cho trọn vẹn đôi đường. Tùy ai muốn hiểu sao thì hiểu. Ít ra, ông cũng không phải thẹn với lòng mình. Tư Mã Thiên ngày đó không hề biết được rằng: Dấu chỉ mực đó, sẽ là chứng cứ cáo trạng trong tương lai, cuối trang sử muộn...

Dẫu sao đi chăng nữa. Tư Mã Thiên vẫn không hổ danh là Sử Thánh mà người đời đã ban tặng.

Và rồi ngày đó, Văn Vương đã chạm trán với Thánh Gióng trong đời Hùng Vương Thứ 6! Mục đích chính của Văn Vương ngày đó chính là lấy cho bằng được Kinh Dịch. Phải! Chính Văn Vương là kẻ đã cầm quân xâm lược nước Việt và ăn cắp được Kinh Dịch ngày đó. Một người mà mọi người thường suy tôn lên thành bậc Thánh Hiền!?

Thật kinh hoàng.

Sau cơn "Sốc"... Nếu mọi người chưa đủ tỉnh để chấp nhận sự thật "hai năm rõ mười" đó. Tôi tiếp tục đưa ra những nhân chứng, bằng chứng thuyết phục một cách tuyệt đối cho sự kiện này trong tương lai gần. Tôi chỉ biết được một điều chắc chắn rằng: Bao thế hệ của người Việt muôn đời nay, đều biết: Thánh Gióng đã dẹp Giặc Ân, chứ không hề là bất kỳ giặc nào khác cho được. Thiết nghĩ... Tôi không cần phải đóng ngoặc kép cho câu...; Là người Việt, chúng ta không bao giờ được phép quên điều đó.

Sự cố diễn biến sau đó trong lúc đi "khoe quan" 3 ngày. Dĩ nhiên, do e lậu "thiên cơ", Văn Vương đã bảo toàn phi vụ "Chu Mật" đó bằng kế thứ 36; "Dĩ đào vi thượng sách"! Văn Vương đã ruỗi mã truy phong trước những vó ngựa nan truy của Nhà Ân liền ngay phía sau đấy.

Khi về đến nước, sau khi tiếng Dao Cầm tấu khúc "Văn Vương Khóc Ấp Khảo" lắng dịu đi. Văn Vương đã ngày đêm nghiền ngẫm bảo vật vừa cắp đoạt được, hòng hiểu dụng trong nay mai... Và Văn Vương đã làm một việc che giấu cả mọi người là hợp nhất hai cuốn Liên Sơn và Quy Tàng thành một cuốn với tên Chu Dịch. Ý là Dịch của Nhà Chu. Điều này đã che được mắt của biết bao nhà Dịch Học xưa nay. Bởi các nhà Dịch Học truyền đời về sau cứ nghĩ rằng; Hai cuốn đó, đã bị thất lạc trong giai đoạn Nhà Tần đốt sách mất rồi.

Tôi khẳng định: Hai cuốn Liên Sơn và Quy Tàng không hề mất đi đâu được cả! Mà đã được Văn Vương ngày đó khoác phủ lên chiếc áo là Thượng Kinh và Hạ Kinh đang hiện hữu trong Chu Dịch hiện nay. Ta xét thấy; Với khả năng ngày đó của Văn Vương cũng đáng để được gọi là thượng thừa đối với Kinh Dịch nói chung. Bởi đã ra sức hoàn thành cuốn Chu Dịch với Văn Ngôn.

Thế nhưng trong giai đoạn lịch sử đó. Nhân vật mà ta có thể gọi là mẫu "chân nhân bất lậu tướng" chính là Chu Công Đán. Ông đã không cần ai biết đến những kỳ tích như sau: Lưu ý; Chu Công Đán chính là em ruột của Văn Vương chứ không phải như đa số người lầm tưởng... Cái tên Thúc Đán cũng đã minh chứng điều này, miễn tranh cãi. Khi còn nhỏ, Cơ phát ham chơi. Chu Công Đán đã giao cho một thầy giáo mù... đọc kinh sách cho nghe! Và chính Chu Công Đán đã kế tục Văn Vương mà viết Thoán Từ cho Chu Dịch.

Văn Vương không hề hiểu thấu những giá trị thực tại còn tiềm ẩn trong Kinh Dịch cho được. Điều này đã được chính Văn Vương thể hiện ở câu: "Kỳ duy Thánh Nhân hồ"?. Bởi Văn Vương tự biết những việc của mình đã làm, không đủ để được sánh với bậc Thánh. Do những thế hệ sau đó suy tôn mà thôi. Ta thấy do mọi người nghĩ đây là sách của Văn Vương làm ra nên mới có tên là Chu Dịch. Văn Vương đã được mặc định cùng Kinh Dịch nói chung, kể từ khi Nhà Chu định cơ đồ.

Chúng ta đều biết Nhà Chu có tục chia đất cho con cháu trong dòng tộc. Từ đó các hàng vương tôn về sau dĩ nhiên đều có sở hữu Kinh Dịch làm bảo vật truyền đời. Họ ra sức nghiền ngẫm, tùy theo sự hiểu biết của mỗi người. Và điều tất phải đến là mỗi người một sách lược, không ai chịu nghe ai cả. Cái loạn Đông Chu ắt phải đến. Đó là giai đoạn mà sử sách mô tả là "Trăm nhà đua tiếng"! Điều ít ai nhìn thấy là ở chỗ: Do cội rễ Kinh Dịch từ Xi Vưu và Tiên Huyền Nữ trước đó, cho nên mô hình của Bách Việt trước đó được tái lập ở giai đoạn... Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh Trăm trứng, nở trăm con về sau này.

Nên lưu ý: Ta không được lầm lẫn giữa Bách Việt trước đó là sự kết tinh từ Xi Vưu và Tiên Huyền Nữ. Còn Bách Bộc sau này là do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra. Cho nên mọi sử gia lẫn học giả sau này vẫn thường lầm lẫn giữa Bách Việt và Bách Bộc là một. Kỳ thực, họ không đủ biết điều mô phỏng trung thành cho mô hình thiết kế này có chu kỳ cách nhau hơn cả một ngàn năm. Điều đó càng khẳng định gen di truyền từ thuở khai thiên lập địa của giống nòi này. Do Lạc Long Quân vốn thuộc dòng Lạc Việt. Là dòng được di ấn truyền đời từ Xi Vưu trong nhóm Bách Việt. Còn Âu Cơ lại là dòng Âu Việt, có sở hữu gia bảo từ Tiên Huyền Nữ. Và hai bộ tộc này đã kết hợp qua di chỉ đó để hình thành nên liên minh hùng mạnh nhất trong nhóm Bách Việt ngày ấy. Và dòng Âu Lạc ra đời với sự tích trăm trứng nở trăm con kể từ dạo ấy. Và nghiễm nhiên đi thẳng vào lịch sử của dân tộc Việt Nam cho đến tận ngày hôm nay. Ở đây tôi nhấn đoạn qua thời của Kinh Dương Vương Lộc Tục và Long Nữ (Vụ Tiên). Do tính sự kiện cột mốc phản ảnh Bách Việt và Bách Bộc để chỉ ra...:

Bản ứng dụng sao chép sẽ có mô hình "Bách Gia Chư Tử" từ Kinh Dịch là đánh cắp bản quyền của chân thực tại tác giả trước đấy. Về những thực tại của bản quyền trong quá khứ đương thời lúc đó. Lão Tử chính là người nắm rất rõ căn nguyên duy nhất về Kinh Dịch cũng như ai là quyền sở hữu di chúc đó! Và Lão Tử chỉ một mực "Tu Tiên". Mong mỏi được làm một "Tiên Tử" của giống nòi Rồng Tiên này. Lão Tử đã xướng lên học thuyết với tông chỉ: "Vô Vi"!

Điều này có nghĩa là... "Đừng làm gì cả, cứ để cho vận hành theo lẽ tự nhiên..."!. Có biết bao nhiêu kẻ mà cái học chưa đủ để biết tới "Văn U Mặc" bao giờ. Đã "cao ngạo" cất tiếng vọng từ "đáy giếng", cho rằng Lão Tử là tư tưởng yếm thế " ! "..., " !? ".

Ta có thể xem xét thấy tất cả các bằng chứng, còn đậm nét mực trong tác phẩm "Đạo Đức Kinh" của Lão Tử hiện nay. Sẽ là bằng chứng tố cáo đắt giá và hùng hồn nhất cho sự kiện này. Ví dụ đơn cử một trong vô vàn những chứng cứ mắc mỏ nhất là:

"Không gì thâm hơn biển, lòng người thâm hơn. Không gì hiểm hơn hang sâu, lòng người hiểm hơn".

Và sau cùng Lão Tử cũng đành dối trời mà tận trung với nước như câu:

" Ta chấp nhận làm suối khe cho mọi người dò... Ta chấp nhận làm hang sâu cho mọi người tìm...".

Vâng! Đã thế thì ta sẽ dò tìm trong bài kế tiếp với tựa đề; "Lão - Khổng và Kinh Dịch" vậy.

Ta sắp có kịch hay để xem...



10-, KHỔNG - LÃO VỚI KINH DỊCH

Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung, đưa ký ức chúng ta dừng lại tham khảo cận cảnh của nhân vật Tảo Địa Tăng. Một người phu quét lá nơi Phật xứ địa phương; Tàng Kinh Các!

Phân khúc này của Kim Dung (Thiên Long Bát Bộ) là có ý nhắc đến sự nhùng nhằng nội bộ giữa hậu thế của Hoàng Đế và Phục Hy xưa kia. Vì thế sẽ có các nhân vật như Tiêu Phong và Tiêu Viễn Sơn (Tiêu Khúc). Dĩ nhiên Tiêu Viễn Sơn (Cung Cấn) là cha, di dịch tiếp đời sau đến Tiêu Phong (Cung Tốn) là con, không khác được. Và Kim Dung đủ để cười ngạo khắp thiên hạ xưa nay qua tác phẩm Tiếu Ngạo Giang Hồ là hoàn toàn có cơ sở để... cười ngạo.

Bởi Kim Dung đã hợp tấu giữa Tiêu Khúc và Dao Cầm. Một tuyệt kỹ truyền kỳ bị vùi lấp của Ma Đạo (Xích Quỷ). Trong khi những ai xưa nay được tôn là quân Tử Kiếm thì..., độc giả hiểu rồi, tôi miễn bàn đến.

Sở dĩ tôi cho quay chậm cận cảnh của thước phim này bởi: Kim Dung muốn mô phỏng lại nhân vật quét lá nơi Tàng Kinh Các đó chính là hình ảnh của Lão Tử khi xưa!

Ngay lập tức, hồi ức vén bức màn nhung của sân khấu thời Đông Chu. Phía sau "cánh gà"; Lão Tử chính là kẻ giữ Tàng Kinh Thư của Nhà Chu. Một Tảo Địa Tiên mà Kim Dung đã phát hiện! Cao thủ tiềm ẩn trong toàn cõi của "Quần Hùng Chư Tử" ngày đó (Bách Gia Chư Tử).

Phải! Chính lão Tử chứ không hề là một ai khác, kẻ đã giữ Tàng Thư của Nhà Chu. Tất cả những ai còn lại trong giai đoạn đó. Có cho dù là hàng vương tôn tử thất gì gì đó, đều là chi tiết. Sao có thể hiểu biết được bao nhiêu bí ẩn gì, về Kinh Dịch đang tiềm ẩn trong Tàng Thư của Nhà Chu?

Cái loạn Thời Đông Chu là phản ảnh tất yếu từ mầm mống của cái cội rễ "Trăm Nhà Đua Tiếng"... tranh cãi!! Tranh cãi về học thuật của Kinh Dịch, một kỳ thư vốn được liệt vào hàng đầu của Kinh Điển (Quần Kinh Chư Thủ). Họ tỏ ra hiểu biết ( !? ) về một điều mà chưa bao giờ được biết, đó là Thiên Thư. Bởi khả năng của họ chỉ có thể cao lắm là vươn đến Văn U Mặc mà thôi. Thế nhưng, Thiên Thư lại hoàn toàn ở vào một đẳng cấp ta có thể gọi là "thoát đỉnh" tư duy của nhân loại, mọi đương thời.

Như tôi đã có từng lướt qua trong bài viết Hội Long Hoa. Ta nghĩ gì về một thí sinh bước vào trường trời mà lại không biết đọc một chữ nào của sách trời (Thiên Thư) !?. Thiên hạ chúng ta xưa nay thường diễn mãi cảnh bi hài thế đấy. Cận cảnh xã hội hôm nay lại càng gây kinh ngạc hơn khi bói quẻ, bình phẩm về lĩnh vực này. Một lĩnh vực đang còn ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư!?

Không khéo, nhưng mọi sự đã rồi!

Bởi xã hội đương đại của chúng ta đang "nhại diễn" lại "vỡ, bi hài kịch" thời loạn Đông Chu đó khi đụng đến Kinh Dịch! Ta nghĩ gì khi những diễn viên của quá khứ đó đã đạt tới trình độ của Văn U Mặc. Trong khi những vai diễn trong thì hiện tại, hoàn toàn thiếu vắng nền tảng của văn học, kể từ khi đất nước thống nhất (1975)? Bởi Văn Học hiện nay chưa đủ nhiều, để yếu tố giai đoạn phát triển nhân đó mà sinh ra những "cây bút bình luận văn học". Trình tự phát triển đó sẽ có mô hình như sau:

Khi tư duy văn học cắm sâu cội rễ... Ắt sẽ nảy mầm ra các nhà bình luận văn học là tất yếu. Đó chính là yếu tố mà giai đoạn lịch sử cần phải hội đủ.
Lúc các mầm này phát triển xum xuê..., cành nhánh sẽ phân bổ cao thấp qua ánh dương của ngôn từ triết học, để bình luận tác phẩm văn học nào đủ chuẩn, kết tinh thành Triết Học. Và rồi tinh hoa của triết học nở rộ. Đó là lúc để các Triết Gia cất tiếng khóc chào đời cùng thế sự. Việc hiện diện của các triết gia, mới có đủ khả năng để tạo ra triết học cho đời được. Và rồi sự "dậy thì" của tư tưởng triết học phương Tây với ngôn ngữ "Mặc Định" hiện nay. Nhất định phải hợp hôn cùng tư tưởng "trưởng thành" của triết học phương đông là "Văn U Mặc". Tương lai của sự kết tinh đó, mới có thể thai nghén ra nhân tố có thể thâm nhập vùng lãnh thiên của Thiên Thư được. Do những tư duy, ngôn ngữ U Mặc trước đây chưa có thể lĩnh hội toàn diện Thiên Thư. Bởi thiếu nền tảng của tư duy, ngôn ngữ Mặc Định của phương Tây. Bằng không, nhân loại chúng ta đã hiện diện trước vùng đất của địa đàng rồi.

Những diễn viên hôm nay, đang diễn lại vở bi hài của hôm qua đối với Kinh Dịch, có dạng như... "thoát đỉnh bi hài" rồi vậy. Vì thế, ta nên cẩn thận lời một tí khi bình phẩm, hoặc nhất là chê bai Kinh Dịch.

Thôi chết! Tôi lạc đề tài một cách nhất thiết rồi! Ta cùng quay lại nhé:

Ta sẽ dễ dàng nhận thấy; Cả một đời, Lão Tử đã quét biết bao lớp bụi thời gian, che phủ lấp những giá trị thực tại tiềm ẩn phía sau Kinh Dịch trong tàng thư của Nhà Chu. Những tâm tư uẩn khúc đó, Lão Tử đã dùng uẩn ngữ, mặc định trong Đạo Đức Kinh; Kỳ vọng gửi đến miền ánh sáng của tư duy vùng viễn lai nào đó...?, một cách miên du...

Tôi khẳng định tọa độ địa phương đó, có tên page này.

Để có thể xem xét một người, ta dựa trên 3 yếu tố căn bản:

1. Tư tưởng.
2. Lời nói.
3. Việc làm.

Yếu tố thứ nhất đã thể hiện trong Đạo Đức Kinh. Sách thì có sẵn, tuy nhiên để hiểu được nó thì cả là một vấn đề nan giải xưa nay. Cho dù có là một học giả đi chăng nữa, nhất định từ biết tới hiểu không có thể san bằng trong một sớm một chiều cho được. Chính yếu tố đó gây cho tác phẩm có một giá trị như ma lực, trường tồn với thời gian. Khiến nên biết bao thế hệ vẫn cạn mực chứ chưa có thể bàn luận cạn ý được. Thế nên tác phẩm vẫn cứ mãi sống... Chờ đợi giai đoạn của tư tưởng thế hệ tương lai nữa, cứ thế...

Điều kiện thứ hai được xem đến là: Tạm đơn cử như hai chữ "Vô Vi" thôi. Cái giá trị này, đã 2500 năm qua rồi. Vẫn thể hiện tuyệt đối tính Vô Vi! Đối với bất kỳ giai đoạn phát triển nào mà nhân loại chúng ta đã từng trải qua. Dĩ nhiên thoảng hoặc một, hai thời điểm bất kỳ. Bất chợt lóe lên một ánh đom đóm le lói nào đó giữa đêm trường sâu thẳm của tư duy chung. Ngay lập tức nhân vật đó đặc tả điều vô vi này thể hiện một cách... "vô vi tính" !?. Có thể điển hình: Trần Đoàn! Một kẻ đến cuối đời, phải trốn vào rừng, làm bạn với Quỷ Núi và cải hiệu là; Đồ Nam!

Vấn đề xem xét cuối cùng đòi hỏi:

Ta thấy Lão Tử chỉ nằng nặc một mực Tu Tiên cho bằng được! Bất kỳ ai đó, một khi biết và chợt hốt ngộ được giá trị của Kinh Dịch. Họ thường phản ảnh là một con tàu tư duy, chìm đắm trong biển cả hoang mang. Họ chỉ âm thầm, lẵng lặng vận dụng với tất cả khả năng có thể mà Định Mệnh đã đặt để cho họ. Những người này thường hướng theo một quan điểm duy nhất đó là; Đạo - Đức. Với tất cả kỳ vọng trong thời kỳ cuối của tương lai; Có giảm án được phần nào đó trước tòa công luận, cho những gì mà giống nòi xưa đã từng nặng gieo. Và với một tinh thần bất biến tuyệt đối cho lập trường: Kinh Dịch không hề là sách để bói toán như thiên hạ làm loạn xưa nay. Dĩ nhiên, lĩnh vực Bói Dịch nói chung, chúng ta không đào đâu ra bóng dáng của họ lai vãng, dù chỉ một dấu chân tình cờ bước qua.

Tất nhiên, giữa biết bao quần hào tranh tiếng khi ấy, trong mắt họ: Lão Tử chỉ là một kẻ quét rác nơi tàng kinh các mà thôi! Thế nhưng, hễ "hữu xạ, tự nhiên hương". Cho nên ta nhận thấy có trang sử hiếm, mô tả chi tiết cảnh Khổng Tử cầu kiến Lão Tử ngay sau khi rơi vào hoàn cảnh. Trong thoáng mờ nhân ảnh của thời điểm đó; Hồ như đâu đó, không xác định được như có như không... Một "dị cuồng", nghêu ngao trong hơi gió vài ba lời rồ dại, mà khai ngộ cho Khổng Tử! Kẻ đó, trong đáy mắt của thế nhân, cho mãi tận hôm nay, vẫn kinh mạn với cách gọi: "Kẻ Cuồng Nước Sở; Tiếp Dư"...!? Kim Dung không đủ để nhìn ra còn có kẻ không màng quét cả bụi đời nữa rồi.

Xem ra; Ẩn giữa chốn núi rừng là Đại Ẩn. Ẩn giữa triều đình thuộc Tiểu Ần. Thế ẩn giữa chợ đời ắt hẳn là hạng Trung Ẩn rồi vậy. Xem ra hạng trung ẩn cỡ như Tiếp Dư, chỉ có thể đếm không kín lòng bàn tay xưa nay. Tuy nhiên nếu để so sánh những kẻ trung ẩn, dỡ rồ dại, dỡ thấu cơ trời thời loạn ấy. Hai tộc Hoàng Đế lẫn Phục Hy tuyệt không theo kịp tộc Xi Vưu rồi. Tôi có thể điển hình trong giới hạn lịch sử gần, cho người người dễ biết như: Tâm Trai Như Ý Thiền (Nguyễn Gia Thiều), rồi... Kẻ Khùng Bán Khoai vùng Bửu Sơn chẳng hạn. Tuyệt đối Kẻ Cuồng Tiếp Dư không theo cho kịp rồi. Đó là tác giả chưa có thể nhắc đến một ngọn đuốc điên rực rỡ ( ! ), vừa tắt lịm quanh rẻo thời đâu đây...

Như tác giả từng đã có bứt mây đâu đó trong một vài bài trước, vẫn chưa thấy hiện tượng động rừng (!?), cho tới lúc gỏ hai chấm xuống dòng:

... Sau khi được Kẻ Cuồng Nước Sở làm cho tỉnh ngộ. Khổng Tử đã vội quay về mở trường dạy học. Song song với việc mày mò Dao Cầm để cho ra đời Kinh Nhạc, Khổng Tử cũng lục lọi, chế tác Kinh Dịch! Thế nhưng, Kinh Dịch nguyên bản gốc của Chiến Thần Xi Vưu khi xưa với 5 loại binh khí hóa thân từ Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Nay lại được Khổng Tử gọt dũa ra Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín! Ta thấy Lão Tử đã sở hữu hai thành tố Đạo - Đức mất đi rồi. Tất nhiên Khổng Tử phải rơi vào hố khiếm khuyết đấy là không tránh khỏi. Những việc làm đó đã phản ảnh như sau:

Đương thời, Khổng Tử thường mang Quẻ Dịch ra bói..., rồi cùng bàn luận chung với học trò. Ta thấy duy nhất có Tử Lộ là xuất sắc hơn tất cả. Bởi Tử Lộ luôn tỏ ra nhởn nhơ, và cũng luôn luôn có luận giải giá trị nhất! Khả năng Khổng Tử không thể theo kịp Tử Lộ rất nhiều và rất nhiều sự việc khác nữa. Đó là những việc nội bộ riêng của Đạo Giáo, tôi không tiện nhiều chuyện, khi không liên can đến đề tài đang viết. Chỉ nhắc chung lưu ý rằng: Không phải ngẫu nhiên mà Tử Lộ lại có đủ tâm tư mà thiết kế nên "Thuyết Chính Danh" thành một công trình đi vào sử sách như thế.

Khả năng đã không kịp theo học trò, chưa kể đến bao kỳ nhân, dị sĩ đang tiềm ẩn trong đương thời ở bên ngoài. Vậy mà Khổng Tử đã vội cầm bút viết Thập Dực cho Kinh Dịch!? Điều này có nghĩa là Khổng Tử đã "vẽ" thêm cho "hổ mười cánh" nữa!! Tôi đã rất lấy làm ngạc nhiên vô cùng! Bởi một con người như Khổng Tử sao lại có thể, trong nhất thời lại đi vẽ rắn thêm chân làm vậy cho được!? Giá như ngày đó, Khổng Tử chịu yên phận trong phạm vi học thuyết Nhân Đạo của mình thì hay biết mấy. Đằng này Khổng Tử đã lấn sân sang Thiên Đạo, vốn là lãnh địa của Lão Tử đã dày công canh tác và khai thác trọn một đời rồi. Những thành quả mà Lão Tử đã gặt hái được từ Kinh Dịch, ta cũng đã từng được biết qua cả rồi. Đặc biệt, Lão Tử không hề dám thêm bớt một câu gì cho Kinh Dịch cả. Bởi Lão Tử có biết và hiểu về kỳ thư này, cả trong quá khứ lẫn hiện tại.

Ta xét thấy trong thời gian soạn Thập Dực. Khổng Tử luôn treo bút ngừng viết, mỗi khi thấy có hiện tượng như Quạ kêu, Nhện sa trước mặt. Qua bốn ngày sau mới trai giới, xông hương mà cầm bút viết lại. Điều đó phản ảnh cho ta biết là Khổng Tử đã rơi vào mê tín mất đi rồi vậy. Không như những kẻ mông muội về sau, ca tụng là Khổng Tử thành tâm khi soạn Thập Dực, nên mới có những hành động như thế!

Thế rồi, trong một ngày. Khổng Tử ngồi khảy đàn Dao Cầm giải khuây... Bất chợt Nhan Hồi đi vào và đàn đứt dây...! ... !!. Đó là khúc nhạc tả cảnh Mèo bắt Chuột "!?". Khổng Tử đã chạm đúng vào dây thứ 6 của Dao Cầm!!.

Ta thấy khi Khổng Tử cuống cuồng lục Kinh Dịch đến ba lần, khiến đứt cả lề và luôn miệng thốt lên: Trời không cho ta sống thêm vài năm nữa để học Dịch?! Ta cũng nên biết: Kinh Dịch vốn được kết lề bằng da dê đấy. Khổng Tử lục Kinh Dịch đến hoảng loạn như thế để làm gì!? Tôi đã từng giải thích việc làm đó cùng độc giả rồi. Vì khi ta bước vào thế giới Kinh Dịch một cách nghiêm túc nhất. Đó hẳn là Y Học. Nhất định là Khổng Tử tìm thuốc chữa, cho kịp kỳ hạn 100 ngày rồi vậy.

Trước khi chết 3 ngày. Thiên hạ nghĩ rằng Khổng Tử đã phát rồ !? Bởi Khổng Tử cứ chống gậy lập cập đi tới, đi lui trước sân mà miệng cứ lẫm bẫm mãi câu: "Có tội với người thì chuộc được. Có tội với trời thì làm sao chuộc được" ?. Kỳ thực! Khổng tử vẫn thể hiện một tư duy sáng suốt nhất cho tới khi trút hơi thở cuối cùng, chứ không phát rồ như mọi người lầm tưởng khi đấy. Bởi trước khi chết, người ta luôn bất chợt thấu thiên cơ. Điều đó người Việt thường gọi là "thoát dương".

Khổng tử chết không nhắm mắt, bởi chưa kịp phi tang Thập Dực với Kinh Dịch, như đã từng kịp làm, đối với Kinh Nhạc của Dao Cầm. Khổng Tử chỉ kịp trăn trối lại (không biết với ai cho được) rằng:

"Chẳng lẻ cây bách tùng đổ sao? Chẳng lẻ trời hại người hiền sao?". "Có tội với người thì còn chuộc được. Có tội với trời thì làm sao chuộc đây?". Đã 2500 năm qua, tiếng vọng thảm thương đó vẫn rền bên tai. Thế nhân muôn kiếp qua, vẫn thản nhiên và..., ca tụng !?

Những điều bí ẩn đấy đã được ghi vào cuốn lịch sử của cõi trời, đó chính là; Thiên Thư.

Kể từ ngày "Tảo Địa Tiên" bỏ quét bụi chốn Tàng Kinh Thư của Nhà Chu. Lão Tử đã trốn tận chốn thâm u của rừng sâu núi thẫm. Tiếp tục "quét bụi chốn tiên bồng". Lúc này là dùng phất trần, thay cho chổi mà quét bụi tiên, giữa cõi rừng hoang rồi. Sự kiện lẫn những việc làm của Khổng Tử vẫn nhuốm đến tai.

Chán quá! Lão Tử thốt lên: "Thôi! Ta thấy không có thể nói cùng thiên hạ được rồi. Ta về trời vậy". Và sau đó, Lão Tử đã cưỡi Trâu Xanh cùng về trời. Bởi Trâu chính là linh vật tổ của họ mà. Đâu có thể cưỡi bất kỳ linh vật nào khác cho được.

Khi hai cánh cửa ngỏ của địa phương Bách Gia khép. Tư tưởng Đông Chu đại loạn. Tần Thủy Hoàng đã từng thốt lên như thế này:

Thiên hạ đại loạn, mỗi người một sách, không ai chịu nghe ai cả. Cứ đánh nhau triền miên, gây cảnh đổ nát, tang thương hàng trăm năm mà không ai thắng ai cả. Khiến nhà nhà li tán, cha mất con, vợ xa chồng, ruộng bỏ hoang. Nhưng đó là những kẻ ác. Mà nếu dẹp được kẻ ác, ta phải ác hơn mới có thể dẹp được. Ắt khó tránh khỏi mang tiếng thị phi với đời sau rồi. Ta bất đắc dĩ mới phải khởi binh để dẹp loạn mà thôi. Nếu ta không làm, thì ai làm?

Thế thì ta phải dò xem trong thời Nhà Tần, số phận Kinh Dịch ra sao trong bài tiếp theo vậy.

Đúng là một... Lạc thư


Thanked by 1 Member:

#7 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5104 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 22:27

Xét ở Việt Nam, xuất sắc và tiêu biểu có thể liệt kệ ở đây là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đồ Chiểu có vẻ kém hơn vài phần trong Lục Vân Tiên. Tuy nhiên ông cũng thể hiện được qua Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp.
Tất cả họ đều sử dụng lối hành văn gần với Văn U Mặc.

Ngựa Tiêu Sương khởỉ ở Ngọ Môn : Sơ hào, Thiên Phong Cấu . Vọng niệm sanh . Thiên Lôi Vô Vọng cỡỉ Tiêu Sương .

#8 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 22:42


11 - KINH DỊCH THỜI TẦN THỦY HOÀNG.

Tần Thủy Hoàng Đốt Sách Chôn Nho.

Đó là bảng cáo trạng văn hóa xuyên thiên kỷ dành cho Tần Thủy Hoàng. Đã có biết bao thế hệ tri thức, đồng ký tên đè lên bảng cáo trạng này hàng ngàn năm qua và, ngày càng chất chồng thêm lên. Bụi thời gian luôn phủ lấp và xóa nhòa mọi sự thật. Điều này có nghĩa là sự thật vẫn tồn tại. Sự thật sẽ được khai quật theo quy luật của tạo hóa vào thời điểm mà thời gian định số. Cho dù phải chìm sâu dưới đáy trầm tích ngàn năm, sự thật vẫn hóa thạch, quyết tích lũy!. Và chờ thời điểm đó...

Trải qua biết bao thế cuộc dâu bể đổi thay... Nào ai biết trong ba đào, vạn con sóng nào bồi, muôn con sóng nào lở, trong cùng một cách vỗ!?

Đó chẳng qua là chu kỳ thời vận cả thôi. Trong chu kỳ mà thời vận đó có tiềm ẩn thế sự trong khoảng không - thời gian nhất thời, đóng vai trò quyết định. Tùy theo thời vận đó mà mệnh thế phải định số rằng Hoàng Mệnh thiên kim hay Bạc Mệnh phế liệu.

Điển hình:

Như tôi đã từng có phát biểu rằng trong nhóm "Trăm Nhà Đua Tiếng... tranh cãi" đó... Nếu Khổng Tử nêu cao quan điểm "Nhân Chi Sơ Tánh Bản Thiện" thì ta cũng đồng thời nghe vang rền bên tai khẩu hiệu; "Nhân Chi Sơ Tánh Bản Ác"! Đó là một trong chín mươi chín quan điểm tranh cãi đồng thời trong nhóm bách gia với tên gọi: Tuân Tử.

Chỉ thương cho những thế hệ đương thời... dân đen (chắc chắn là hạng cháu chắt của mạng bạc phế liệu rồi). Không thể phân biệt đâu là lời vàng, đâu là lời rác mà rửa tai không kịp để nghe... Chỉ biết rằng dưới huyệt sâu trong nghĩa địa quá khứ đó; Những học thuyết của Khổng Tử đã bị chôn vùi dưới sách lược của Tuân Tử qua bàn tay của học trò là: Lý Tư.

Ta xem những dòng sơ lược như trên, thay cho lời tuyên bố lễ động thổ; "Khai quật, khảo cổ những di chỉ thời Tần" bị vùi lấp hàng ngàn năm qua như sau:

Sự thật lịch sử đã bị thay đổi rất nhiều, hòng che giấu đi mọi dấu tích liên quan đến Kinh Dịch và dòng Âu Lạc.

Tôi chỉ có thể dò theo dấu tích của áng kỳ thư này trong giai đoạn nhà Tần còn vương dấu là: Khi Tần Thủy Hoàng đốt sách. Vẫn còn để lại một cuốn là Thái Bình Kinh! Như thế, từ đây ta có thể suy ra... Nhất định Thái Bình Kinh chính là cuốn Kinh Dịch hoàn thiện bậc nhất lúc bấy giờ.

Ta thấy nhân vật Từ Phúc vốn có nhân thân là một danh y trong đương thời. Lại được chọn để giao kế hoạch tìm thuốc trường sinh cho Tần Thủy Hoàng. Rõ ràng tư duy của Tần Thủy Hoàng lẫn Từ Phúc đã thâm nhập ở tầng sâu hơn của Kinh dịch đối với mọi tư duy của bất kỳ giai đoạn nào xưa nay. Bởi ta nhận thấy tính từ giai đoạn Xuân Thu, Chiến Quốc cho tới Nhà Tần. Thiên hạ lúc đó chỉ dụng Dịch cho hai lĩnh vực Quân Sự và Y Học là tuyệt đối. Điều đó nói lên tư duy Dịch Học của giai đoạn này đang ở vào một tầm rất cao. Thậm chí cho mãi về sau này, vẫn xem Tần Thủy Hoàng có vấn đề khi nhất quyết đi tìm thuốc trường sinh bằng mọi giá.

Đối với sự kiện này, cho dù thất bại bởi bất kỳ nguyên cớ gì. Tuyệt đối tư duy của chúng ta chỉ có thể gọi là "lạm bàn" về vấn đề này mà thôi. Tôi đã chỉ rõ lối mòn bị rêu phong trong các bài trước đối với giá trị thực tại tiềm ẩn trong Kinh Dịch. Ngưỡng cửa đó là Y Học và Quân Sự. Điều khẳng định này đã được Thần Nông và Hoàng Đế thắp lên nơi đầu nguồn lịch sử và mãi sáng chói tận ngày hôm nay.

Ta xét thấy; Dự Án truy tìm thuốc trường sinh ngày đó đã được chọn giao cho một danh y là Từ Phúc, làm thuyền trưởng. Dĩ nhiên đội quân ngày đó theo áp tải nhất định phải là những dòng tướng lỗi lạc nhất trong quân lực của Nhà Tần lĩnh xướng và tháp tùng. Phong thủy cũng là yếu tố công cụ thứ ba, đã được khai thác từ Kinh Dịch, làm hoa tiêu để định hướng sách lược vượt biển cả. Ví dù thuật bói có đất dụng võ trong ngày đó hay không, tôi cho chỉ là chi tiết. Bởi tính xác xuất của sự rủi may trong "Bốc Tính", khiến không thể đóng vai trò quan trọng trong sự kiện ngày đó được.

Bởi trong thời kỳ đó. Còn có biết bao sự kiện thực tại lịch sử đơn thuần hơn, liên quan đến Kinh Dịch mà chúng ta vẫn chưa có thể nhìn thấy được. Sao chúng ta có thể lạm bàn đến vấn đề thuốc trường sinh ngày đó cho được.

Ví dụ:

Tần Thủy Hoàng vốn chính là một dòng trong nhóm tộc Bách Việt! (cơ hồ có cơn địa chấn với cường độ richter 10+ đâu đây...). Hay tôi có thể mô tả chính xác hơn là sự hòa huyết, kết tinh giữa tộc Hoàng Đế và Tộc Xi Vưu mà ta quen nghe gọi là Hoa Hạ (theo nghĩa Hoa Hạ mà tôi đã luận giải). Vì lẽ đó cho nên mỗi lần xuất chinh khi xưa, ta luôn thấy Tần Thủy Hoàng lập đàn cầu tế duy nhất là Chiến Thần Xi Vưu!

Nơi cột mốc của giai đoạn lịch sử này ghi dấu; Dòng của tộc Hoàng Đế, truyền đến giai đoạn của Tần Thủy Hoàng là dứt nghiệp, tính từ Chu Văn Vương.

Ta xét thấy trong sự kiện biến cố lịch sử thời Tần; Do các nước chống nhau, nên họ mới xây thành cố thủ dọc theo biên giới mỗi nước mà phòng thủ lẫn nhau. Khi Tần Thủy Hoàng gồm thâu một nước thì ngay lập tức nối liền lại mà thành ra Vạn Lý Trường Thành ngày nay. Tự Tần Thủy Hoàng trong khoảng thời gian 20 năm trị vì với biết bao biến cố xảy ra, nhất định không thể hoàn thành công trình này cho được.

Cũng trong giai đoạn đó, nếu xét tương quan nơi địa phương định xứ của dòng Âu Lạc thì: An Dương Vương cũng đã xây Thành Cổ Loa mà phòng thủ. Do Tần Thủy Hoàng biết Kinh Dịch cũng như An Dương Vương vốn cùng dòng Bách Việt. Nên cơn lốc chiến tranh của Tần Thủy Hoàng đã dừng lại phía bên ngoài chân thành Cổ Loa ngày đấy. Nếu không, Thành Cổ loa ngày đó, cũng đã trở thành một phần của Vạn Lý Trường Thành trong biến cố lịch sử khi đó rồi. Cho tới thời điểm của giai đoạn lịch sử này. Tần Thủy Hoàng biết rất rõ; Kinh Dịch vốn thuộc di chỉ của Bách Việt. Dĩ nhiên Tần Thủy hoàng nhất định hiểu được điều không ai đủ để hiểu. Lịch sử đã xác định sự thật năng lực đấy bằng chính Ngôi Đế cũng như Vạn Lý Trường Thành của Tần Thủy Hoàng. Mọi tư duy khác, chỉ xứng đáng là nô lệ và hoàn toàn nằm trong gông cùm, xích xiềng của Tần Thủy Hoàng mà thôi.

Tần Thủy Hoàng ngày đó hoàn toàn không có thể ngờ được rằng. Di ấn truyền đời của Bách Việt đang được dòng Âu Lạc nắm giữ. Y học lại mới chỉ là ngưỡng cửa của Dịch Kinh mà thôi. Tuy khả năng dụng Dịch của Tần Thủy Hoàng ngày đó có thể được xem là đỉnh cao nhất cho tới thời điểm này.

Ví dụ điển hình:

Ba công cụ mà Tần Thủy Hoàng ứng dụng và huy động cho công cuộc truy lùng thuốc trường sinh ngày đó là:

1. Y Học.
2. Quân Lược.
3. Phong Thủy.

Học thuật phong thủy ngày đó để điểm huyệt vị trí có thuốc trường sinh thể hiện: Chuẩn theo bộ sao Thanh Long từ hướng đông trong nhị thập bát tú. Đó là tướng tinh của Xi Vưu. Căn cứ vào giữa Sao Phòng và Sao Vĩ của bộ Thanh Long để điểm ra rốn biển. Lại còn phải nhìn theo "Tượng Trời" từ bộ sao Bắc Đẩu ẩn hiện khóa trời, khi thời khắc lỏng then... Từ đó sắp "Thế Biển" (không phải là thế Đất) mà điểm huyệt... Căn cứ vào hải huyệt này, ta mới có thể tính ra vị trí của Đảo Bồng Lai được.

Khi đã đặt được chân lên miền đất hứa đó. Ta phải nhất định thấu thiên văn, chia sao, tính thời để tiến hành định huyệt Trời. Uyên bác Y Học, thấu suốt Kinh Mạch, bao gồm đặc tính của Lục Phủ Ngũ Tạng mà định huyệt Người. Am tường ẩn thuật của phong thủy địa lý để thiết kế mô hình định huyệt Đất. Sau đó ta mới có thể dò đến được địa phương của huyền thoại mà ta quen gọi là Tiên Cõi.

Lúc này ta cũng chỉ có thể diễn tả là mới đến nơi cần đến thôi. Còn quá trình để thuốc trường sinh nảy nhụy, kết tinh là bất khả thuyết rồi vậy. Điều đó đang còn định xứ trong vùng "Phi Tưởng Xứ Địa Phương". Một thế giới đã từng được nhắc đến ở đâu đó..., trong tám vạn tư thế giới của Pháp Ngôn, mà ta quen nghe gọi là; "Phật Thuyết".

Ta không thể có suy diễn nông cạn trên cuộc trường hành cưỡi sóng, vượt muôn hải lý nan truy đó, mà kết luận vội. Bởi xét thuật phong thủy mà tôi vừa mô tả. Xưa nay các thuật sĩ điểm huyệt đất, dò mạch sông còn chưa xong. Nói chi đến tầm phong thủy đại cuộc mà được từng nghe nói đến điểm hải mạch bao giờ... ?, ... !?...

Bởi những điều đó. Đang còn nằm ở phía bên kia không gian chiều thứ tư mà thôi!

Ta chỉ có thể có quyền hồ nghi rằng: Biết Từ Phúc đã gặp phải những sự kiện gì nơi chân trời sự cố ngày đó? Kinh Kha sao có thể so sánh được với Từ Phúc mà hòng ông ta cao hứng ngâm câu; "Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn", trước mũi thuyền nơi vô định lãnh hải của quá khứ đó ?!

Ta chỉ có thể suy trong giới hạn của thực tại lịch sử khi đó rằng:

Trước khi Tin Hạc nơi Tiên Cõi bay về... Miền quê hương mà Từ Phúc định quán thuở cắt rốn, chôn nhau đó. Đã phải trải qua một cuộc nương dâu lở thành bể rộng mất rồi.

Bởi vùng Trung Nguyên đó đã là cơ đồ của Nhà Hán. Lưu Bang, một thuộc tộc của Phục Hy xưa; Đã giục cương đo vó toàn cõi Trung Nguyên dưới chiếc roi và lưng ngựa mất rồi.

...

Cho dù ngày đó, Từ Phúc có tìm ra Vĩ Lư. Chắc chắn một điều rằng; Cõi bồng Lai ngày đó, không hề có thuốc trường sinh. Tuy nhiên có một sự thật là, ngày đấy Từ Phúc có đặt chân đến Đảo Bồng Lai thật. Đỉnh Non Bồng ngày đó, đã bước ra từ huyền thoại để đi vào hiện thực hôm nay với tên gọi; Phú Sĩ " !! ".

Ở vào giai đoạn của những luận giải này: Từ đây suy ra... Trong cuộc huyền truy phương thuốc trường sinh của quá khứ lịch sử đó. Chắc chắn Từ Phúc hẳn phải mang theo Kinh Phổ làm cẩm nang thao thủ với tên gọi: Thái Bình Kinh.

Như thế: Dấu tích của Lạc Thư, đang còn trôi lạc theo Bóng Hạc ở đâu đó nơi... đỉnh Phú Sĩ. Thời điểm của giai đoạn lịch sử này. Nhà Tần biết rất rõ; Kinh Dịch là di chỉ của Bách Việt, chứ không hề là của bất kỳ một dân tộc nào khác được. Sự thật này chỉ thực sự bị bôi xóa mọi chứng cứ bao gồm cả sử sách, văn hóa, v.v... Kể từ giai đoạn Hán thuộc 1000 năm sau đó mà thôi.

Kết luận:

Những sự thật về Kinh Dịch. Trước cánh cổng của Kỷ Nguyên Mới; Người Việt đã tìm ra nhân chứng sống đắt giá nhất, bao gồm cả vật chứng:

Thái Bình Kinh Dịch...

Và ...

Ta lại phải tiếp tục theo dõi dấu vết của một trường kỳ Lạc Thư, trên bước đường tìm về với Lạc Chủ. Kể từ giai đoạn của Nhà Hán trong bài kế tiếp vậy.

Ta xét xem "Trương Lương Đại Tiên" đã từng làm gì với 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư của Phong Hậu. Và học thuật Thái Ất Thần Kinh từ Khương Tử Nha như sử sách của họ từng hãnh hiện công bố suốt hàng ngàn năm qua?


12 -, NHÀ HÁN - DẤU VẾT KINH DỊCH.

Tiếng Dao Cầm vốn đã hiếm. Tiếng Tiêu Khúc lại càng hiếm hơn!

Tuy nhiên trong nhánh rẽ này của dòng sử. Ta chợt bắt gặp lẻ loi âm thanh của Tiêu Khúc hòa dòng giữa hai đỉnh Kê Minh và Cửu Lý ngày ấy. Kẻ sở hữu tiếng Tiêu Khúc ngày đó không ai khác hơn là Trương Lương. Với tiếng Tiêu ngày đó, Trương Lương đã phá tan quân Sở trong trận chiến cuối cùng và cũng làm gợi ý cho Dao Cầm hòa điệu Thập Diện Mai Phục.

Vì thế Trương Lương mới là nhân vật mà ta cần phải xem xét đến trong bài viết này. Bởi đây chính là Tiêu Khúc của Chiến Thần Xi Vưu đã bị thất lạc trong trận Trác Lộc khi xưa! Từ đầu dây này, ta lần ngược trở về thượng nguồn dòng sử giai đoạn đôi chút với phép quy nạp theo quán tính...

Trang sử được xem lại chính là giai đoạn Tiền Tần! Điều tôi muốn nói đến chính là Chiến Dịch Phì Thủy! Lịch sử trong giai đoạn đó đã mãi ca tụng chiến thắng kinh thiên động địa của chiến dịch Phì Thủy của Tần Kiên. Khiến đã quên đi một chi tiết rất chi li sau chiến dịch. Điều tôi muốn nhắc đến chính là lúc Tạ Huyền phải gắng gượng ôm bệnh tuổi già mà lên xe đi trấn nhậm xứ xa...

Dọc đường, bất chợt có kẻ dường bộ ngư phủ! Cắm sào dưới bến, lên ngồi chắn ngang đường xe đi mà đòi Tạ Huyền xuống xe hỏi chuyện!? Đó chính là Duy Ma Cật. Sử sách ghi lại rằng cả hai ngồi đàm đạo rất lâu. Kỳ thực, chỉ có duy nhất Duy Ma Cật là giảng đạo cho Tạ Huyền khi đấy mà thôi. Đại khái Duy Ma Cật đã có ý chê trách Tạ Huyền đã từng xa đời theo đạo hạnh suốt bao lâu. Nay chỉ vì một chút bã lợi danh mà nhuốm bụi trần. Để rồi cuối đời bị biếm, phải ôm bệnh mà đi trấn nơi đèo heo hút gió.

Chiều tàn, ngôn cạn. Bất chợt Duy Ma Cật nói với Tạ Huyền rằng: Tôi nghe đồn ông thổi Tiêu rất hay! Vậy có thể thổi cho tôi nghe thử một bài chăng? Tạ Huyền chậm rút Tiêu Khúc treo bên lưng; Thổi liền 3 khúc Thượng, Trung, Hạ. Tiếng Tiêu vừa dứt, Tạ Huyền vẫn không nói câu gì. Đứng lên lẳng lặng giũ Tiêu, rồi lên xe đi thẳng.

Duy Ma Cật ngồi chết lặng, mãi khi tiếng nhạn lạc đàn, rơi vội vào hoàng hôn. Duy Ma Cật cũng lẳng lặng không kém Tạ Huyền, lê chân xuống bến, nhổ sào đi mất. Cũng kể từ lúc đó, người ta không bao giờ còn thấy bóng dáng của Duy Ma Cật ở đâu nữa.

Như thế, trong chừng mực giới hạn trăm năm của trang sử này. Tiếng Tiêu Khúc thất lạc đã từng lộ diện tung tích rất kín kẽ. Thậm chí đến đỗi ma không biết, quỷ không hay như thế. Huống hồ chi là những nhân thế bao thời...

Tư duy trở về với Trương Lương. Ta nhận thấy thế cuộc lẫn cơ đồ ngày đó của Lưu Bang, do chính một tay Trương Lương gầy nên chứ không hề là bất kỳ ai khác cho được. Lịch sử có ghi lại rằng: Tài nghệ của Trương Lương ngày đó được trao lại từ bởi Hoàng Thạch Công. Đó chính là cuốn Binh Pháp của Khương Tử Nha, bao gồm Thái Ất Thần Kinh và... 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư của Phong Hậu nữa!! (Tôi chưa kể đến Tiêu Khúc). Nghe đâu, Khương Tử Nha đã học được từ các vị Thần Tiên ở trong núi!

Nay xét cả 3 sách lược này ta thấy:

1. Đối với Bộ Thái Công Binh Pháp đó. Có tất cả là 3 cuốn bao gồm Thượng, Trung, Hạ. Tôi xét thấy:

Cuốn Thượng nói về: Bình Thiên Hạ!
Cuốn Trung nói về : Bình Vương Đế!!
Cuốn Hạ nói về : Bình Đạo!!!

Xưa nay, xét trong tất cả các Binh Pháp của mọi nhà. Thật ra cũng chỉ chép lại từ cuốn Thượng của Khương Tử Nha mà ra cả thôi. Dĩ nhiên họ có gia giảm chút ít đi để gọi là của mình. Trương Lương chỉ có thể lĩnh hội nổi duy nhất cuốn Thượng mà thôi. Cuốn Trung thì tôi ngờ rằng có Lã Bất Vi từng dụng duy nhất. Riêng cuốn Hạ; Bất khả xâm phạm cho bất cứ ai.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



2. Xét đến 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư thì: Quả thật Trương Lương có dụng đến năm ba phần. Bởi nó rắc rối và chi li đến độ không thể lĩnh hội cho được. Tôi có thể số hóa mô hình của một trong mười ba thiên đó ra đây như sau:

a- Mẫu đồ hình Lạc Thư nguyên bản gốc với ma trận 3x3 = 9 cung (hình đính kèm): Tổng các quỹ đạo = 15. Ta quen gọi là Cửu Cung.

b - Trương Lương rút bớt lại từ 13 Thiên Lục pháp Cô Hư như đồ hình ma trận 5x5 = 25 cung: Tổng các quỹ đạo = 65.

c - Mẫu ma trận nguyên gốc của 1 trong 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư từ Phong Hậu với mô hình 9x9 = 81 cung: Tổng các quỹ đạo = 369.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





Qua đồ hình ma trận số hóa mà tôi đã lập và đưa ra tham khảo. Đây chính là "Mẫu" đồ hình của một trong các thiên lục pháp cô hư của Phong Hậu ngày đó.

Ta thấy Trương Lương đã dụng trong ngày đó chỉ là phương pháp Ngũ Hành và Lục Khí phối hợp thôi. Tuy nhiên để hiểu thấu suốt thể tính "luân - chuyển - hóa" trong cô hư lục cõi của Ngũ Hành đã là khó có ai lĩnh hội nổi hiện nay rồi.





3. Đến học thuật cuối cùng là Thái Ất Thần Kinh! Thật ra về Thái Ất Thần Kinh thì chúng ta cũng chỉ có thể nghe nhắc đến là từ Khương Tử Nha mà thôi. Cho mãi đến nay có ai biết được đồ hình đó ra sao mà hòng bàn luận cho được. Tuy nhiên lịch sử Việt Nam cũng đã có ghi chép lại học thuật này gắn liền với Tuyết giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm! Thế nhưng đã bị thất lạc 500 năm qua mất rồi. Và trong giai đoạn hiện tại, ta có thể nhìn thấy và biết qua tác phẩm này trên các nhà sách toàn quốc.


Nhìn chung, chúng ta vẫn bàn luận về học thuật này một cách rất mơ hồ mà thôi. Vậy tôi sẽ phục hồi lại học thuật này và lập ra sau đây để chúng ta cùng bàn luận: (một ví dụ của Thái ất thần kinh, xem hình 1-2-3).

Trước khi tham khảo. Tôi lưu ý: Văn U mặc, Thiên Tượng, Thiên Thư nói chung đều phải biết cách đọc ở nơi không có chữ! Tuy nhiên ta đừng bao giờ lầm lẫn Thiên Thư với Văn U Mặc của tất cả Kinh Điển xưa nay nói chung.

Tôi dẫn ra một dẫn dụ từ đồ hình: Thái Cực Tượng Đồ Của Nước Việt Nam Trong Kỷ Nguyên Mới. Đồ hình mà ta đang bàn luận trong trang này. Một trong vô số "Tượng chữ" vô ngôn mặc định trong đó là:

Đọc theo vạch màu hồng từ Tiết Xử Thử...

Ta kéo tư duy ra biển Đông; Đó là khu vực có Vịnh Cam Ranh. Đang là điểm nóng đương đại. Thế chiến lược này có thể kiểm soát trong tầm thao lược của mình hai Vịnh Thái Lan và Subic trong khu lòng chảo lửa trên biển Đông Nam...

Với tượng đắc thế tam lãnh bao gồm: Lãnh địa, lãnh hải, lãnh thiên...

Cuộc thế này là Kim Cuộc. Là chiến cuộc, tàn cuộc. Năm nay 2017, Chi Dậu thuộc Kim. Thời (mùa, thu) là Kim. Vận; Xét chủ khách đồng Kim. Tháng 8 ÂL Dậu Kim. Gồm tổng các điều này gọi là Tuế Hội.

"Gà..." có gáy sáng hay không? Ta cùng xem xét chung và đếm từng ngày tới...

Tôi mở ra... giới hạn: Từ nay tới 6 năm nữa. Ta cứ xem là lục cõi hoặc lục hư... Luận bàn xem thử... "Thần tính" luân chuyển và vận hành như thế nào trong lục cõi tạm giới hạn đó?

Đó là chỗ vô ngôn mặc định. Có nhìn, ta cũng không thể thấy được là thế. Những gì trình bày ở trên chỉ là chi tiết, đối với đại cuộc hiện nay đang vận chuyển... Trên thực tại bình diện địa cầu đương đại.

.

11 - KINH DỊCH THỜI TẦN THỦY HOÀNG.

Tần Thủy Hoàng Đốt Sách Chôn Nho.

Đó là bảng cáo trạng văn hóa xuyên thiên kỷ dành cho Tần Thủy Hoàng. Đã có biết bao thế hệ tri thức, đồng ký tên đè lên bảng cáo trạng này hàng ngàn năm qua và, ngày càng chất chồng thêm lên. Bụi thời gian luôn phủ lấp và xóa nhòa mọi sự thật. Điều này có nghĩa là sự thật vẫn tồn tại. Sự thật sẽ được khai quật theo quy luật của tạo hóa vào thời điểm mà thời gian định số. Cho dù phải chìm sâu dưới đáy trầm tích ngàn năm, sự thật vẫn hóa thạch, quyết tích lũy!. Và chờ thời điểm đó...

Trải qua biết bao thế cuộc dâu bể đổi thay... Nào ai biết trong ba đào, vạn con sóng nào bồi, muôn con sóng nào lở, trong cùng một cách vỗ!?

Đó chẳng qua là chu kỳ thời vận cả thôi. Trong chu kỳ mà thời vận đó có tiềm ẩn thế sự trong khoảng không - thời gian nhất thời, đóng vai trò quyết định. Tùy theo thời vận đó mà mệnh thế phải định số rằng Hoàng Mệnh thiên kim hay Bạc Mệnh phế liệu.

Điển hình:

Như tôi đã từng có phát biểu rằng trong nhóm "Trăm Nhà Đua Tiếng... tranh cãi" đó... Nếu Khổng Tử nêu cao quan điểm "Nhân Chi Sơ Tánh Bản Thiện" thì ta cũng đồng thời nghe vang rền bên tai khẩu hiệu; "Nhân Chi Sơ Tánh Bản Ác"! Đó là một trong chín mươi chín quan điểm tranh cãi đồng thời trong nhóm bách gia với tên gọi: Tuân Tử.

Chỉ thương cho những thế hệ đương thời... dân đen (chắc chắn là hạng cháu chắt của mạng bạc phế liệu rồi). Không thể phân biệt đâu là lời vàng, đâu là lời rác mà rửa tai không kịp để nghe... Chỉ biết rằng dưới huyệt sâu trong nghĩa địa quá khứ đó; Những học thuyết của Khổng Tử đã bị chôn vùi dưới sách lược của Tuân Tử qua bàn tay của học trò là: Lý Tư.

Ta xem những dòng sơ lược như trên, thay cho lời tuyên bố lễ động thổ; "Khai quật, khảo cổ những di chỉ thời Tần" bị vùi lấp hàng ngàn năm qua như sau:

Sự thật lịch sử đã bị thay đổi rất nhiều, hòng che giấu đi mọi dấu tích liên quan đến Kinh Dịch và dòng Âu Lạc.

Tôi chỉ có thể dò theo dấu tích của áng kỳ thư này trong giai đoạn nhà Tần còn vương dấu là: Khi Tần Thủy Hoàng đốt sách. Vẫn còn để lại một cuốn là Thái Bình Kinh! Như thế, từ đây ta có thể suy ra... Nhất định Thái Bình Kinh chính là cuốn Kinh Dịch hoàn thiện bậc nhất lúc bấy giờ.

Ta thấy nhân vật Từ Phúc vốn có nhân thân là một danh y trong đương thời. Lại được chọn để giao kế hoạch tìm thuốc trường sinh cho Tần Thủy Hoàng. Rõ ràng tư duy của Tần Thủy Hoàng lẫn Từ Phúc đã thâm nhập ở tầng sâu hơn của Kinh dịch đối với mọi tư duy của bất kỳ giai đoạn nào xưa nay. Bởi ta nhận thấy tính từ giai đoạn Xuân Thu, Chiến Quốc cho tới Nhà Tần. Thiên hạ lúc đó chỉ dụng Dịch cho hai lĩnh vực Quân Sự và Y Học là tuyệt đối. Điều đó nói lên tư duy Dịch Học của giai đoạn này đang ở vào một tầm rất cao. Thậm chí cho mãi về sau này, vẫn xem Tần Thủy Hoàng có vấn đề khi nhất quyết đi tìm thuốc trường sinh bằng mọi giá.

Đối với sự kiện này, cho dù thất bại bởi bất kỳ nguyên cớ gì. Tuyệt đối tư duy của chúng ta chỉ có thể gọi là "lạm bàn" về vấn đề này mà thôi. Tôi đã chỉ rõ lối mòn bị rêu phong trong các bài trước đối với giá trị thực tại tiềm ẩn trong Kinh Dịch. Ngưỡng cửa đó là Y Học và Quân Sự. Điều khẳng định này đã được Thần Nông và Hoàng Đế thắp lên nơi đầu nguồn lịch sử và mãi sáng chói tận ngày hôm nay.

Ta xét thấy; Dự Án truy tìm thuốc trường sinh ngày đó đã được chọn giao cho một danh y là Từ Phúc, làm thuyền trưởng. Dĩ nhiên đội quân ngày đó theo áp tải nhất định phải là những dòng tướng lỗi lạc nhất trong quân lực của Nhà Tần lĩnh xướng và tháp tùng. Phong thủy cũng là yếu tố công cụ thứ ba, đã được khai thác từ Kinh Dịch, làm hoa tiêu để định hướng sách lược vượt biển cả. Ví dù thuật bói có đất dụng võ trong ngày đó hay không, tôi cho chỉ là chi tiết. Bởi tính xác xuất của sự rủi may trong "Bốc Tính", khiến không thể đóng vai trò quan trọng trong sự kiện ngày đó được.

Bởi trong thời kỳ đó. Còn có biết bao sự kiện thực tại lịch sử đơn thuần hơn, liên quan đến Kinh Dịch mà chúng ta vẫn chưa có thể nhìn thấy được. Sao chúng ta có thể lạm bàn đến vấn đề thuốc trường sinh ngày đó cho được.

Ví dụ:

Tần Thủy Hoàng vốn chính là một dòng trong nhóm tộc Bách Việt! (cơ hồ có cơn địa chấn với cường độ richter 10+ đâu đây...). Hay tôi có thể mô tả chính xác hơn là sự hòa huyết, kết tinh giữa tộc Hoàng Đế và Tộc Xi Vưu mà ta quen nghe gọi là Hoa Hạ (theo nghĩa Hoa Hạ mà tôi đã luận giải). Vì lẽ đó cho nên mỗi lần xuất chinh khi xưa, ta luôn thấy Tần Thủy Hoàng lập đàn cầu tế duy nhất là Chiến Thần Xi Vưu!

Nơi cột mốc của giai đoạn lịch sử này ghi dấu; Dòng của tộc Hoàng Đế, truyền đến giai đoạn của Tần Thủy Hoàng là dứt nghiệp, tính từ Chu Văn Vương.

Ta xét thấy trong sự kiện biến cố lịch sử thời Tần; Do các nước chống nhau, nên họ mới xây thành cố thủ dọc theo biên giới mỗi nước mà phòng thủ lẫn nhau. Khi Tần Thủy Hoàng gồm thâu một nước thì ngay lập tức nối liền lại mà thành ra Vạn Lý Trường Thành ngày nay. Tự Tần Thủy Hoàng trong khoảng thời gian 20 năm trị vì với biết bao biến cố xảy ra, nhất định không thể hoàn thành công trình này cho được.

Cũng trong giai đoạn đó, nếu xét tương quan nơi địa phương định xứ của dòng Âu Lạc thì: An Dương Vương cũng đã xây Thành Cổ Loa mà phòng thủ. Do Tần Thủy Hoàng biết Kinh Dịch cũng như An Dương Vương vốn cùng dòng Bách Việt. Nên cơn lốc chiến tranh của Tần Thủy Hoàng đã dừng lại phía bên ngoài chân thành Cổ Loa ngày đấy. Nếu không, Thành Cổ loa ngày đó, cũng đã trở thành một phần của Vạn Lý Trường Thành trong biến cố lịch sử khi đó rồi. Cho tới thời điểm của giai đoạn lịch sử này. Tần Thủy Hoàng biết rất rõ; Kinh Dịch vốn thuộc di chỉ của Bách Việt. Dĩ nhiên Tần Thủy hoàng nhất định hiểu được điều không ai đủ để hiểu. Lịch sử đã xác định sự thật năng lực đấy bằng chính Ngôi Đế cũng như Vạn Lý Trường Thành của Tần Thủy Hoàng. Mọi tư duy khác, chỉ xứng đáng là nô lệ và hoàn toàn nằm trong gông cùm, xích xiềng của Tần Thủy Hoàng mà thôi.

Tần Thủy Hoàng ngày đó hoàn toàn không có thể ngờ được rằng. Di ấn truyền đời của Bách Việt đang được dòng Âu Lạc nắm giữ. Y học lại mới chỉ là ngưỡng cửa của Dịch Kinh mà thôi. Tuy khả năng dụng Dịch của Tần Thủy Hoàng ngày đó có thể được xem là đỉnh cao nhất cho tới thời điểm này.

Ví dụ điển hình:

Ba công cụ mà Tần Thủy Hoàng ứng dụng và huy động cho công cuộc truy lùng thuốc trường sinh ngày đó là:

1. Y Học.
2. Quân Lược.
3. Phong Thủy.

Học thuật phong thủy ngày đó để điểm huyệt vị trí có thuốc trường sinh thể hiện: Chuẩn theo bộ sao Thanh Long từ hướng đông trong nhị thập bát tú. Đó là tướng tinh của Xi Vưu. Căn cứ vào giữa Sao Phòng và Sao Vĩ của bộ Thanh Long để điểm ra rốn biển. Lại còn phải nhìn theo "Tượng Trời" từ bộ sao Bắc Đẩu ẩn hiện khóa trời, khi thời khắc lỏng then... Từ đó sắp "Thế Biển" (không phải là thế Đất) mà điểm huyệt... Căn cứ vào hải huyệt này, ta mới có thể tính ra vị trí của Đảo Bồng Lai được.

Khi đã đặt được chân lên miền đất hứa đó. Ta phải nhất định thấu thiên văn, chia sao, tính thời để tiến hành định huyệt Trời. Uyên bác Y Học, thấu suốt Kinh Mạch, bao gồm đặc tính của Lục Phủ Ngũ Tạng mà định huyệt Người. Am tường ẩn thuật của phong thủy địa lý để thiết kế mô hình định huyệt Đất. Sau đó ta mới có thể dò đến được địa phương của huyền thoại mà ta quen gọi là Tiên Cõi.

Lúc này ta cũng chỉ có thể diễn tả là mới đến nơi cần đến thôi. Còn quá trình để thuốc trường sinh nảy nhụy, kết tinh là bất khả thuyết rồi vậy. Điều đó đang còn định xứ trong vùng "Phi Tưởng Xứ Địa Phương". Một thế giới đã từng được nhắc đến ở đâu đó..., trong tám vạn tư thế giới của Pháp Ngôn, mà ta quen nghe gọi là; "Phật Thuyết".

Ta không thể có suy diễn nông cạn trên cuộc trường hành cưỡi sóng, vượt muôn hải lý nan truy đó, mà kết luận vội. Bởi xét thuật phong thủy mà tôi vừa mô tả. Xưa nay các thuật sĩ điểm huyệt đất, dò mạch sông còn chưa xong. Nói chi đến tầm phong thủy đại cuộc mà được từng nghe nói đến điểm hải mạch bao giờ... ?, ... !?...

Bởi những điều đó. Đang còn nằm ở phía bên kia không gian chiều thứ tư mà thôi!

Ta chỉ có thể có quyền hồ nghi rằng: Biết Từ Phúc đã gặp phải những sự kiện gì nơi chân trời sự cố ngày đó? Kinh Kha sao có thể so sánh được với Từ Phúc mà hòng ông ta cao hứng ngâm câu; "Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn", trước mũi thuyền nơi vô định lãnh hải của quá khứ đó ?!

Ta chỉ có thể suy trong giới hạn của thực tại lịch sử khi đó rằng:

Trước khi Tin Hạc nơi Tiên Cõi bay về... Miền quê hương mà Từ Phúc định quán thuở cắt rốn, chôn nhau đó. Đã phải trải qua một cuộc nương dâu lở thành bể rộng mất rồi.

Bởi vùng Trung Nguyên đó đã là cơ đồ của Nhà Hán. Lưu Bang, một thuộc tộc của Phục Hy xưa; Đã giục cương đo vó toàn cõi Trung Nguyên dưới chiếc roi và lưng ngựa mất rồi.

...

Cho dù ngày đó, Từ Phúc có tìm ra Vĩ Lư. Chắc chắn một điều rằng; Cõi bồng Lai ngày đó, không hề có thuốc trường sinh. Tuy nhiên có một sự thật là, ngày đấy Từ Phúc có đặt chân đến Đảo Bồng Lai thật. Đỉnh Non Bồng ngày đó, đã bước ra từ huyền thoại để đi vào hiện thực hôm nay với tên gọi; Phú Sĩ " !! ".

Ở vào giai đoạn của những luận giải này: Từ đây suy ra... Trong cuộc huyền truy phương thuốc trường sinh của quá khứ lịch sử đó. Chắc chắn Từ Phúc hẳn phải mang theo Kinh Phổ làm cẩm nang thao thủ với tên gọi: Thái Bình Kinh.

Như thế: Dấu tích của Lạc Thư, đang còn trôi lạc theo Bóng Hạc ở đâu đó nơi... đỉnh Phú Sĩ. Thời điểm của giai đoạn lịch sử này. Nhà Tần biết rất rõ; Kinh Dịch là di chỉ của Bách Việt, chứ không hề là của bất kỳ một dân tộc nào khác được. Sự thật này chỉ thực sự bị bôi xóa mọi chứng cứ bao gồm cả sử sách, văn hóa, v.v... Kể từ giai đoạn Hán thuộc 1000 năm sau đó mà thôi.

Kết luận:

Những sự thật về Kinh Dịch. Trước cánh cổng của Kỷ Nguyên Mới; Người Việt đã tìm ra nhân chứng sống đắt giá nhất, bao gồm cả vật chứng:

Thái Bình Kinh Dịch...

Và ...

Ta lại phải tiếp tục theo dõi dấu vết của một trường kỳ Lạc Thư, trên bước đường tìm về với Lạc Chủ. Kể từ giai đoạn của Nhà Hán trong bài kế tiếp vậy.

Ta xét xem "Trương Lương Đại Tiên" đã từng làm gì với 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư của Phong Hậu. Và học thuật Thái Ất Thần Kinh từ Khương Tử Nha như sử sách của họ từng hãnh hiện công bố suốt hàng ngàn năm qua?



13 - DÒNG SỬ ĐỤC... 1000 NĂM.

Long Hổ Tranh Châu.

Đó là tên của bộ huyệt mạch phong thủy chính của Dân Tộc Việt từ ngàn xưa nay. Theo Phong Thủy. Nếu xét trong thế cuộc ngàn năm. Hễ cứ năm trăm năm luân chuyển một lần nước trong, năm trăm năm đổi thay một lần nước đục! Phàm, nước trong ắt đời sẽ sinh thánh nhân, nước đục thì đời hôn ám. Từ lý giải này, ta sẽ hiểu ý trong bài "Huyền Thoại và Thực Tại" trước đó. Ắt ta nhớ có gã lái đò trên bến Mịch La từng gõ chèo hát: ..."Nước sông Tương trong thì ta giặt mũ, nước sông Tương đục thì ta rửa chân" là vì thế.

Bởi nguyên do ta thấy trong giai đoạn Nhà Hán. Thuật Phong Thủy ứng dụng từ Kinh Dịch đã lên đến tột đỉnh. Điển hình như Cao Biền cùng Mã Viện. Nhà Hán đã cật lực tiêu hủy toàn bộ văn hóa, sử sách tóm lại những gì liên quan đến dấu tích của Kinh Dịch đối với dân tộc Việt. Họ trấn yểm, cắt toàn bộ Kinh Mạch huyệt đạo của núi sông hòng bôi xóa toàn bộ những gì thực tại của dòng Âu Lạc nói chung.

Theo riêng nguyên lý của Dịch Liên Sơn thì diễn về khí núi. Cái linh khí núi sông ngàn đời chung đúc anh linh mà sinh nhân kiệt. Về Quy Tàng lại bàn đến dòng thủy lưu. Phàm sông có lưu chảy thì nước mới trong, từ đó sẽ sinh phận nữ lưu cho đời. Ao tù nước đọng, nghẽn lưu chuyển, mong gì đến hồi trong mà ngóng... Vận, Thời. Nước có lưu chuyển mới có thể nung đúc cho khí núi tuôn ra được. Núi tắc khí, do sông bị chặn nguồn. Nguồn mạch khắp toàn cõi đục ngàu như thế. Lấy gì mà sinh cho được nhân tài mà gánh non sông? Bi cảnh hiện diện như thế, không biết đau lòng cùng vận nước mà nói cuồng ngông mãi được sao?!

Khi Nhà Hán thu phục được Trung Nguyên. Bao gồm từ bờ bắc sông Dương Tử đổ về Hoàng Hà. Phía bờ Nam Dương Tử đang là khu hoang, vắng bóng người sinh sống, do Lạc Long Quân trước đó đã dời đô về Nghĩa Lĩnh. Đến cuối thời loạn Đông Chu là Sơn Tinh thêm một lần dời đô vào Tản Viên. Thời Tần Thủy Hoàng thì An Dương Vương đã bỏ ngỏ vùng Ngũ Lĩnh. Trong lúc Lưu Bang băng qua Tần Lĩnh trong sự kiện đốt sạn đạo. Lưu Bang đã cho người điều nghiên và phát hiện toàn cõi Ngũ Lĩnh đang bỏ ngỏ! Đến khi Triệu Đà (Nam Hán) cướp ngôi, nghiễm nhiên cả vùng Ngũ Lĩnh thuộc bờ Nam Sông Dương Tử đã vào tay Nhà Hán (Bắc Hán). Cái ranh giới này của người Việt sở dĩ mất đi là do từ Nam - Bắc Hán âm thầm cắt cho nhau trong giai đoạn khuất tất 1000 năm của dòng sử đục, khi Triệu Đà chấp nhận thuần phục Lưu Bang. Triệu Đà đã dùng của dư thừa, cướp được mà giao cho Lưu Bang để giao hòa khi khuất bóng sử đó. Tóm lại: Vùng bờ Nam sông Dương Tử đã bị chiếm đoạt trong giai đoạn 1000 Nhà Hán đô hộ. Tất cả sử sách, mọi dấu vết của Việt tộc đã bị Nhà Hán xóa sạch. Những thế hệ tri thức đương thời bị diệt vong. Dân tộc Việt còn lại chỉ là dân đen, mọi đầu mối cội nguồn đã bị đoạn tuyệt kể từ giai đoạn 1000 năm tăm tối vô bờ này. Mọi linh khí nguồn mạch núi sông, Nhà Hán ra sức trấn yểm cho tuyệt anh linh về sau.

(Nhấn đoạn Lưu ý kèm theo...).

Tính theo từng giai đoạn lịch sử; Vào thời Nghiêu, Thuấn, Đại Vũ nói chung. Tộc Bách Việt tính riêng theo dòng truyền di ấn từ Xi Vưu là Lộc Tục. Nguyên do Lộc Tục biết Đại Vũ vốn thuộc dòng Bách Việt. Do yếu tố ngăn cách một phần từ nạn lụt hồng thủy nên lấy dòng Dương Tử làm định giới. Ta suy thấy ông Ích và Đại Vũ mới theo dấu Thần Quy khai sông ra đến dòng Dương Tử (địa phận dòng cha), là tháo được nước về biển, thoát nạn hồng thủy thời đó. Dĩ nhiên do cùng dòng Bách Việt, vả lại bên kia dòng Dương Tử lại thuộc địa phận của dòng Cha, nên Đại Vũ cũng thống nhất kiểm soát từ bờ Bắc dòng Dương Tử là vì thế.

Phía bờ Nam sông Dương Tử cũng vì thế, nên tầm nhìn chung của các nhà học giả trong giai đoạn gần như: Nguyễn Đăng Thục, Kim Định, Trần Trọng Kim v.v..., có thể với tới. Tuy nhiên các vị chưa đủ để nhìn ở một tầng sâu hơn là:

Trong giai đoạn đương thời Hoàng Đế. Người con cả theo Hoàng Đế chinh chiến chính là Thiếu Hạo. Khi gồm thâu thiên hạ về một mối. Dĩ nhiên Hoàng Đế nhất định phải giao cho Thiếu Hạo cai quản khu vực thuộc địa phận của Xi Vưu. Chính vì điều này cho nên ta mới thấy sau đó Hoàng Đế mới giao ngôi kế tục mình cho người con thứ là Chuyên Húc. Đó là lý do tại sao trong danh sách Ngũ Đế cứ nhập nhằng và không có Thiếu Hạo được.

Từ nguyên do này, ta mới nhìn thấy có manh mối ở thời Nghiêu, nhắc đến thường xuyên sự qua lại của tộc Quỷ Phương hoặc Cấn Quỷ. Đó chính là khu vực cung Cấn, thuộc vùng Ngũ Lĩnh vậy. Như thế, kể từ giai đoạn trị thủy thành công, Đại Vũ chỉ cai quản từ bờ Bắc sông Dương Tử trở về phía Hoàng Hà bao gồm của Tộc Hoàng Đế lẫn Phục Hy. Cũng từ giai đoạn này, Lộc Tục xưng Vương định quốc với tên gọi Xích Quỹ. Vốn là vùng Cấn Quỷ của tộc Xi Vưu từ trước đó. Bởi Động Đình Hồ mà Động Đình Lão Quân ngày đó cư ngụ. Chính là Minh Đường của núi Thái Sơn hình thành.

Như thế; Ta xét thấy làm gì có kịch bản nào cho những nhân vật bao gồm như: Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai có đất diễn trong phân loạn của sử cảnh này?! Người Trung Quốc đã âm mưu tạo ra ngụy cảnh để hòng lấp mạch dòng sử giai đoạn.

Ta xét thấy do Lạc Long Quân về sau đã dời đô một lần về phương đông Nam, khi sinh ra dòng giống Âu Lạc. Lại đến Sơn Tinh thêm một lần dời đô nữa, nên mới khiến ra ranh giới có phần bị bỏ ngỏ. Sự kiện gây nên nỗi cơ đồ chìm đắm bởi từ An Dương Vương. An Dương Vương trước đó vốn lại là dòng 50 con của Mẹ Âu Cơ. Vì thế nên sử mới có chép là cướp ngôi Vua Hùng. Bởi Vua Hùng là dòng 50 con của Cha Lạc Long mà ra cả. Đó là lý do tại sao An Dương Vương lại thờ Thần Kim Quy. Cho nên sự cướp ngôi của An Dương Vương đối với Hùng Vương thuộc về sự kiện nội tộc của Âu Lạc.

Sau nhấn đoạn như trên, ta cùng quay trở lại giai đoạn đang luận giải dở dang khi nãy... Tiếp tục xem xét:

... Nên lúc này Lộc Tục đã rút về khu Động Đình Hồ và dựng nước với hiệu là Kinh Dương Vương. Kiểm soát toàn vùng Ngũ Lĩnh với trung tâm là núi Thái Sơn. Đó cũng là dấu tích các nhà sử học có nhắc đến khu vực bờ Nam sông Dương Tử. Do yếu tố ngăn cách một phần từ nạn lụt hồng thủy nên lấy dòng Dương Tử làm định giới. Sự thật này lịch sử bị bôi xóa từ giai đoạn Nhà Hán, tuy nhiên nó vẫn đi sâu vào văn hóa của người Việt và khắc sâu trên bia miệng, với câu ca dao khẳng định cội nguồn: "Công Cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".


Như tôi đã từng phân tích và chỉ ra cội nguồn khi trước. Khu vực này vốn là của người Trung Hoa (Trung Hòa) vốn là của Hoàng Đế thuộc tộc Mông Cổ khi xưa. Vậy cho nên người Hán nhất định phải nhận rằng Hoàng Đế là của họ. Có như thế, họ sẽ xem như toàn bộ Trung Hoa là của "tổ tiên" người Hán!? Kỳ thật, Tổ Tiên người Hán vốn thuộc Thượng Hoa chứ không phải Trung Hoa. Cho nên ta thấy người Hán đã vơ giặc làm Cha mới mục đích chiếm luôn cả cõi Trung Hoa thuộc về mình.

Đây chính là cái lý do tại sao có một số khá đông học giả cũng như sử gia của Trung Quốc xưa nay cứ nhất quyết tổ của họ không phải là Hoàng Đế. Tuy nhiên người Trung Quốc đã hợp thức hóa được sự thật ngang trái này trong trang sử của họ. Đối với người Việt, người Hán đã bằng bất kỳ giá nào nhất định phải bôi xóa và che giấu toàn bộ thực tại này. Bởi tất cả những gì họ có được, đều là thuộc của bộ tộc Âu Lạc kể từ giai đoạn Lưu Bang trở về cội nguồn.

Cho nên kể từ Nhà Hán, họ ra sức phi tang mọi giá trị chứng cứ bằng bất kỳ giá nào.

Và 1000 năm trong giai đoạn tiếp sau đó. Lịch sử dân tộc Việt, tôi diễn tả là đã trở thành "Dòng Sử Đục" của dân tộc. Một giống nòi oai linh, từng là con cháu của Chiến thần và Tiên Nữ khi xưa. Nhà Hán đã ít nhiều đạt được vọng nghiệp của họ là đồng hóa văn hóa bao gồm cả tư tưởng của giống nòi này. Vì thế cho nên dù tôi có chỉ rõ ra sự thật cội nguồn lịch sử đó. Thì không ít kẻ (lẩn khuất quanh đây...) vẫn cứ còn mê ngủ trong trong đêm trường của tư duy tha hóa ngàu đục. Họ chấp nhận thân phận của Giun ( mị tưởng tư duy, Chẩn Thủy Dẫn), Dế hơn là dòng dõi Thần Tiên!?

Thật quá đau lòng... và lại; "càng thêm đau lòng hơn" ...

Tôi nhắc chừng... Nếu trong kỳ thi Long Hoa Hội là Thuần Ngựa Tiêu Sương thì: Kỳ thi Pháp Hoa Hội chính là đòi hỏi để tìm cho ra những hệ thống sao nào trong Nhị Thập Bát Tú mà Khương Tử Nha hoặc ai; Đã cố ý "Phong Thần" sai lạc trong đó? Tất cả phải cẩn thận trước tòa công luận, nơi thời kỳ cuối. Lưới trời lồng lộng... đã dần hạ...

Ta chỉ xét trong giới hạn chừng 500 năm gần đây thôi. Tính từ lúc Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ rõ tượng trời cho Nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn ngay lập tức lên Yên ngựa trên đỉnh Bạch Mã, thừa lệnh trời (Thừa Thiên) mà mở cõi trời Nam. Xét trong thế cục đấy đến tận hôm nay. Chiến tranh triền miên, chỉ thật sự yên lắng chừng non nữa thế kỷ nay. Đất nước từ Bắc chí Nam, sông bồi lấp, cạn tắc như thế. Thoảng khi có nước chảy thì cũng ngàu đục. Khí núi mong gì mà chung đúc để tuôn trào anh linh. Đất nước mong có anh tài phò vận hay không thì cứ nhìn vào thiên tượng đấy mà suy...

Tạm thời gián đoạn những ý trên vào hồi sau. Ta quay trở lại xem xét từ giai đoạn đầu, khi Nhà Hán gom cơ đồ. Ta thấy dòng tộc Phục Hy bị Hoàng Đế dứt kể từ giai đoạn của Thần Nông. Sau đó thì có được Nghiêu truyền lại cho Thuấn làm đại diện tộc này. Và cho đến giai đoạn Lưu Bang mới lại được gồm thâu lại. Ta thấy đó chính là lý do người Trung Quốc nêu cao tinh thần Nhà Hán.

Ta thấy; Trong giai đoạn nhà Hán, Kinh Dịch đã được phát huy tuyệt đối lĩnh vực Phong Thủy và Quân Sự. Y Học cũng xuất hiện Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh, Đổng Phụng...

Trong giai đoạn Nhà Đường tiếp nối. Nhà Đường vốn lại trọng dụng Phật Giáo cho nên những học thuật của Kinh Dịch không được phát huy. Mãi cho đến cuối đời đường, đầu Nhà Tống: Giai đoạn này bất chợt xuất hiện Trần Đoàn! Kẻ mà tôi cho là sau Lão Tử, có thể nắm và hiểu đến 30% về Kinh Dịch.

Và bài tiếp đến, chúng ta tiếp tục xem xét dấu vết của... Đồ Nam. Hi Di đã làm gì đối với Kinh Dịch? Và ai là khởi xướng xướng Kinh Dịch trong giai đoạn Nhà Tống? Một giai đoạn mà ngày nay thiên hạ cho là "đỉnh cao của bói Dịch!?".

Với tôi thì dây chính là giai đoạn khởi loạn Kinh Dịch.

.



14 - TRẦN ĐOÀN VÀ CHIÊM BỐC THỜI TỐNG

"Truy dấu rồng tranh mồi lữ điếu
Nã kỳ lân đoạt bẫy đồ nam".

Đó là hai câu thơ mà tôi trích lại từ hai bài thi kỳ II trong Hội Pháp Hoa!
Ở đây ta chỉ bàn đến hai chữ cuối là Lữ Điếu và Đồ Nam. Điếu có nghĩa là Ngư Phủ, Đồ thì ám chỉ Tiều Phu. Trong kho tàng văn hóa đông phương toàn ảnh xưa nay: Ta thấy hình tượng của hai nhân vật ngư tiều, đặc biệt luôn tiềm ẩn những giá trị dị thường, xuyên suốt mọi giai đoạn!

Thật đáng trách khi dòng Âu Lạc vốn được kết tinh từ hai môi trường đó mà lại không biết cũng như hiểu gì về hai giá trị tiềm ẩn này. Nhất định đây sẽ là đề tài ẩn tàng đầy lý thú, bất ngờ đối với mọi đương đại tư duy. Như lịch sử dân tộc Việt đã phản ảnh rõ nét bức tranh Tiều Ngư qua hình tượng Xi Vưu (Long) và Tiên Huyền Nữ (Quy)! Dấu âm bản đó đã được hiện rõ qua mô phỏng của Lạc Long Quân với 50% dưới biển, và Âu Cơ với 50% trên rừng!! Để rồi mô hình này cũng được gen di truyền khắc họa rõ nét qua Tuyết Giang Phu Tử (Ngư, kiến trúc sư vạch cõi... thiết kế) và La Sơn Phu Tử (Tiều, kỹ sư định biên... công trình)!!!

Nhìn lại kể từ đầu page này; Ta không khó để nhận thấy tiếng Dao cầm đầu tiên tiềm ẩn bóng Tiều Ngư... Cho đến bài này; Ta nhất định phải làm rõ vai trò Tiều Ngư nào mà lịch sử Trung Quốc đã sao chép bản quyền rất kín kẽ... và tận dụng tốt nhất cho nền văn hóa cũng như sử sách của họ? chúng ta cùng tham khảo:

Trước tiên tôi nhất thiết phải đưa ra một thống nhất chung để tránh những câu hỏi thắc mắc (đôi khi có phần nông nổi vội), sẽ có. Vì như ở Việt Nam trong giai đoạn hiện tại thì ta vẫn chưa thống nhất ngôn ngữ giữa Bắc Hán và Nam Hán trong diễn giải như: Nam gọi Hớn, Bắc gọi Hán. Từ đó ta có thể thấy... Ngươn - Nguyên, võ - vũ, tấn - tiến, bửu - bảo v.v... Và Lữ - Lã vân vân, và v.v...

Cho nên Lữ Điếu chính là ý nhắc đến một Ngư ông họ Lữ (Lã) nào đấy!, trong vô vàn những ngư lão hàng ngàn năm nay, tiềm ẩn và lẫn khuất trong kho tàng sử sách. Ta không khó để nhận ra đó chính là Lữ Vọng! Một ngư ông đã từng câu rồng trong dòng nguồn sử, tại một bến bờ của quá khứ lâu. Riêng kẻ Tiều thứ hai đủ để vẽ thành bức tranh Điếu Đồ của lịch sử cũng như văn hóa Trung Quốc chính là Trần Đoàn. Dựa trên hai đầu mối này ta mới có thể... Truy dấu Rồng, ắt phải tranh mồi Lữ Điếu. Và muốn Nã Kỳ Lân nhất định phải đoạt bẫy của Đồ Nam là vậy. Mọi huyễn cảnh Ngư Tiều khác? Chỉ là cái "bã..., bẩy" của thiên tượng bày ra cùng thế nhân chúng ta, không khác.

Để dẫn mối tư duy vào xem xét nhân vật Trần Đoàn này, có vẻ như ngoằng ngoèo tựa ma trận như thế đấy! (Tôi nói, có Phương Viên Đồ của Trần Đoàn làm chứng). Không khéo, "nhão óc" mà chết đuối trên cạn, như không!

Ta xét thấy Trần Đoàn chính vì biết cũng như hiểu những sự thật bị che dấu phía sau Kinh Dịch. Cho nên cũng như Lão Tử; Trần đoàn không dám làm gì dẫn đến sai đối với lạc kỳ thư này. Cho nên ta thấy ông đã có ý tránh lĩnh vực quân sự và bói Dịch nói chung. Ông biết rất rõ; Không Tử đã lỡ "bôi ma" kinh Dịch trước đó với Thập Dực mất rồi. Trần Đoàn chỉ hy vọng những thế hệ mai sau tích đức, tu nhân qua hai học thuật ứng dụng nhắn gửi lại: Đó chính là Tử Vi và Khảm Dư! Kỳ vọng qua đó mà phần nào tránh điều xấu, tìm điều tốt mà hành sử mọi sự.

Do Tử Vi đã hạn chế tính may rủi đến giới hạn có thể rồi. Và phương pháp đó chỉ xảy ra tính xác xuất tại khả năng tư duy của từng cá nhân mà giới hạn thôi. Từ đó ta thấy Tử Vi tuy là dưới Bốc Dịch theo quan niệm chung, nhưng đạt khả năng tiên đoán cao hơn Bói Dịch là vì thế. Ta xét thấy khả năng của Tử Vi phát huy cả 3 công cụ khai thác bao gồm là Lý - Tượng - Số (Ngôn ngữ thông thường, ngôn ngữ hình học, ngôn ngữ toán học). Trong khi Bói Dịch có thiếu vắng ít nhiều công cụ khai thác của Số (toán học). Chỉ xoay quanh hai công cụ cơ bản làm nền móng xây dựng và thiết kế mọi mô hình là Tượng và Lý. Khó khăn thay! Bởi ta không đủ để biết được; Lý, vốn đã thất lạc từ cội nguồn và hiện nay đong đầy khiếm khuyết. Tượng cũng không khá hơn là bao khi ta không hề biết đến thể loại Văn U Mặc. Nhất là trong tầm phát triển của xã hội Việt Nam trong thì đương đại. Lại càng phải thêm đáng sợ hơn nữa, là những ai đang sở hữu Bói Dịch lại chưa đủ tư duy để ý thức những điều thực tại này. Và đó cũng chính là lỗ hổng, sơ hở "nền tảng" cho những ai không đủ hiểu và công kích Kinh Dịch khai thác. Một cách..., miệt mài... !?.

Dĩ nhiên Trần Đoàn cũng noi theo dấu của Lão Tử mà nhất quyết chỉ "đòi" Tu Tiên mà thôi! Bởi đấy là Đạo. Tôi cũng nhất thiết phải nhắc để lưu ý chung cho những thế hệ "mọi đương thời", bao gồm cả quá khứ - hiện tại - tương lai là: Hai từ Xích Quỹ không có nghĩa là Quỷ Đỏ như những tư duy lạc lối nghĩa xưa nay thường dò dẫm... Mà điều này có nghĩa như; Xích ở đây có nghĩa là Thước (mét, công cụ đo lường nói chung) chứ không có nghĩa là Đỏ. Quỹ đồng nghĩa với sự ám chỉ về một "Quỹ Đạo" vận hành trong mô hình tự nhiên của vũ trụ mà Tạo hóa đã mặc định trong đó.

Vậy Xích Quỹ có nghĩa là nói lên một Quỹ Đạo với một đường lối phát triển theo quy củ (Xích, thước). Tóm lại: Nước Xích Quỹ là một nước có mô hình của sự phát triển đến tương lai theo đường lối mẫu mực trong mô hình thực tại tự nhiên của vũ trụ tiềm ẩn. Ta phải viết rằng Xích Quỹ chứ không phải là Xích Quỷ như sự lầm lạc bao đời nay. Đó vốn là những giá trị thực tại tiềm ẩn, những kỳ vọng của Tạo Hóa đã "chạm khắc" và giao cho giống nòi Tiên Rồng này, từ một trong những ngày đầu tiên Người tạo dựng vũ trụ rồi vậy.

Tuyệt đối phải ghi nhớ điều đó cho bất cứ ai. Nhất là dòng giống này, càng nhất định phải khắc cốt ghi tâm hơn nữa để được thành người. Dĩ nhiên điều đó, không dành cho những tư duy đã bị hủ hóa, những bóng ma xác sống mục rữa (zombie), đã bị bỏ rơi phía bên kia của Kỷ Nguyên Cũ mất rồi. Kỷ Nguyên Mới chỉ dành riêng cho những thế hệ tương lai và những ai với một tư duy ưu tú nhất, để tiến hóa cùng dân tộc Việt. Nền tảng di chỉ đó ta xét thấy từ cội nguồn trong nhóm Bách Việt là Âu Việt và Lạc Việt. Và sự hợp nhất đó đã sinh ra Bách Bộc ( trăm trứng trong một bọc bào thai). Bách Tính của dòng Âu Lạc đó lại được tiềm ẩn trong dòng Kinh Việt. Điều này có nghĩa rõ ràng hơn chính là dân tộc Kinh của người Việt hôm nay. Đích thị dòng Kinh Việt này chính là dòng được mặc khải để phải đứng ra gánh vác cơ đồ cũng như non sông của dân tộc phát triển đến tương lai trong Kỷ nguyên Mới không khác được. Bởi đó chính là quy luật của Tạo Hóa đã định sẵn.

Tôi đã chỉ ra trách nhiệm cũng như đặt gánh non sông lên vai của dân tộc Kinh rồi vậy. Không thể quẳng xuống được đâu. Nhưng đó là cả một sự hãnh diện mà trên bình diện địa cầu đương đại có muốn gánh thay, tuyệt đối cũng không có thể.

"Sự kinh hoàng lẫn sợ hãi đang dần hiện hữu"... bao gồm hoang mang lẫn âu lo, trước những sự vận hành của Thợ Tạo... trong thời khắc đương đại.

Có lẽ bài này đã bất chợt đi quá xa đề tài đang bàn ở trên. Ta quay trở lại tiếp tục theo dõi tung tích của Trần Đoàn vậy:

Biệt danh Hi Di chính là của Triệu Khuông Dẫn đã tặng cho Trần Đoàn, khi mời ông về triều mà không thấy ông giúp hay thi thố gì cho đất nước cả! Bởi Trần Đoàn như tôi đã có từng nói qua là: Trần Đoàn chỉ một mực cứ nằng nặc đòi được Tu Tiên mà thôi! Cực chẳng đã, Triệu Khuông Dẫn cuối cùng đành phải để cho Trần Đoàn trở về với nguyện vọng đó. Ta thấy cuối đời, Trần Đoàn tỏ ngộ cơ trời nên mới mang thân làm Tiều nơi tiên cõi tận chốn thâm sơn cùng cốc. Dĩ nhiên danh hiệu cuối đời đó, Trần Đoàn chỉ dám nhận mình là Đồ Nam mà thôi. Điều này cũng còn có nghĩa là "chỉ mong được là học trò (đồ) của phương Nam mà thôi.

Tuy nhiên Trần Đoàn cũng được ta cảm thông ít nhiều như cha ông hiếm trước đó là Lão Tử. Bởi Trần Đoàn tuyệt không dám chỉnh bàn gì về Kinh Dịch cả. Chỉ có thể tùy theo khả năng lĩnh hội mà để lại cho những thế hệ tương lai noi theo mà xu cát, tị hung qua Tử Vi và Khảm Dư như đã dẫn. Sau đó Trần Đoàn truyền lại cho Mục Tu, tức Mục Bá Trưởng. Mục Bá Trưởng mới truyền tiếp đến Lý Bĩnh Chi, ta quen nghe gọi là Lý chi Tài.
Lý Chi Tài vốn là một viên quan đương thời khi ấy. Do thấy Thiệu Khang Tiết có thiên tư mà lại lang thang khắp chốn, nên mới đưa về nuôi và truyền lại sở học này.

Vậy ta xét thấy tài nghệ của Thiệu Khang Tiết chính là được hưởng " dư khí" hoặc "phúc ấm" từ Trần Đoàn mà ra cả. Tuy nhiên 3 đời là Mục Tu, Lý Bĩnh Chi nữa mới xuống đến được Thiệu Ung.

Thế nhưng, Khốn thay!:

Thiệu Khang Tiết lại không theo tổ nghiệp dày công xây dựng để truyền cho mình với kỳ vọng hướng đạo. Vậy mà Thiệu Khang Tiết lại đốt sách bằng cách không phát huy sở học của tổ nghiệp 3 đời truyền lại. Khang Tiết lại đi lạc bước qua địa phương của Khổng Tử với Thập Dực để phát huy bói Dịch!? Và Thiệu Khang Tiết chính là người đưa Bói Dịch lên đến một đỉnh cao nhất trong giai đoạn Nhà Tống. Nơi mà thiên hạ cho tới ngày hôm nay đều vây quanh ca tụng cho cái gọi là Chiêm Bốc thời Tống đã phát huy chói lọi nơi đỉnh cao của nhân loại...!, ...!!, ...!!!.

Do Thiệu Khang Tiết không đủ để hiểu rằng Khổng Tử trước đó đã có những sai lầm trầm trọng đối với việc san định Kinh Dịch. Càng không đủ khả năng để lĩnh hội những gì mà Trần Đoàn hướng tới và gửi gắm cho mình. Thế nên dẫn đến việc Thiệu Khang Tiết lập ra Mai Hoa Dịch Số, phát kiến gieo quẻ bằng đồng tiền, Vân vân và v.v... hơn nữa! Và; Bói..., chiêm..., nghiệm..., suy..., diễn... loạn hết cả lên. Gây che mờ, phủ lấp tất cả những giá trị thực tại còn đang tiềm ẩn trong Kinh Dịch.

Như thế, ta thấy Thiệu Khang Tiết nên lấy hiệu là Xương Phu mới phải hơn là Nghiêu Phu vậy. Bởi tuy có cùng một dòng của Hoàng Đế đấy, nhưng Văn Vương mới là người khởi xướng Bói Dịch chứ không có phải là Vua Nghiêu cho được. Cùng lắm thì thời Vua Nghiêu cũng chỉ phát huy về Kinh Dịch là Y học và Phong Thủy mà thôi. Toàn cõi không có loạn binh đao nên quân sự không có đất dụng võ để thi thố gì nhiều. Vả lại, Quy Tàng Dịch đã ra đời đâu để mà nói đến việc bói toán cho được? Nhất định "Nghiêu Phu" ắt hẳn là Thiệu Khang Tiết đã nói quá đến những điều mà tư duy của mình chưa có thể với tới cho được. Ngay cả Văn Vương cũng chỉ có thể bói Quẻ Tiên Thiên mà thôi. Thiên hạ còn mãi lặn ngụp mà "mò...ốc..." trong mu rùa lúc đấy làm cáo chứng chung.

Và đó cũng là cái lệ chung cho thói thường trong thiên hạ về sau này dõi theo, và học đòi cho những điều mà mình chưa có thể biết tới hiện nay mà lại..., múa rìu...qua mắt... Tiều Phu vậy !?

Thoát đỉnh Bi hài.


Thanked by 1 Member:

#9 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 22:57


14 - TRẦN ĐOÀN VÀ CHIÊM BỐC THỜI TỐNG

"Truy dấu rồng tranh mồi lữ điếu
Nã kỳ lân đoạt bẫy đồ nam".

Đó là hai câu thơ mà tôi trích lại từ hai bài thi kỳ II trong Hội Pháp Hoa!
Ở đây ta chỉ bàn đến hai chữ cuối là Lữ Điếu và Đồ Nam. Điếu có nghĩa là Ngư Phủ, Đồ thì ám chỉ Tiều Phu. Trong kho tàng văn hóa đông phương toàn ảnh xưa nay: Ta thấy hình tượng của hai nhân vật ngư tiều, đặc biệt luôn tiềm ẩn những giá trị dị thường, xuyên suốt mọi giai đoạn!

Thật đáng trách khi dòng Âu Lạc vốn được kết tinh từ hai môi trường đó mà lại không biết cũng như hiểu gì về hai giá trị tiềm ẩn này. Nhất định đây sẽ là đề tài ẩn tàng đầy lý thú, bất ngờ đối với mọi đương đại tư duy. Như lịch sử dân tộc Việt đã phản ảnh rõ nét bức tranh Tiều Ngư qua hình tượng Xi Vưu (Long) và Tiên Huyền Nữ (Quy)! Dấu âm bản đó đã được hiện rõ qua mô phỏng của Lạc Long Quân với 50% dưới biển, và Âu Cơ với 50% trên rừng!! Để rồi mô hình này cũng được gen di truyền khắc họa rõ nét qua Tuyết Giang Phu Tử (Ngư, kiến trúc sư vạch cõi... thiết kế) và La Sơn Phu Tử (Tiều, kỹ sư định biên... công trình)!!!

Nhìn lại kể từ đầu page này; Ta không khó để nhận thấy tiếng Dao cầm đầu tiên tiềm ẩn bóng Tiều Ngư... Cho đến bài này; Ta nhất định phải làm rõ vai trò Tiều Ngư nào mà lịch sử Trung Quốc đã sao chép bản quyền rất kín kẽ... và tận dụng tốt nhất cho nền văn hóa cũng như sử sách của họ? chúng ta cùng tham khảo:

Trước tiên tôi nhất thiết phải đưa ra một thống nhất chung để tránh những câu hỏi thắc mắc (đôi khi có phần nông nổi vội), sẽ có. Vì như ở Việt Nam trong giai đoạn hiện tại thì ta vẫn chưa thống nhất ngôn ngữ giữa Bắc Hán và Nam Hán trong diễn giải như: Nam gọi Hớn, Bắc gọi Hán. Từ đó ta có thể thấy... Ngươn - Nguyên, võ - vũ, tấn - tiến, bửu - bảo v.v... Và Lữ - Lã vân vân, và v.v...

Cho nên Lữ Điếu chính là ý nhắc đến một Ngư ông họ Lữ (Lã) nào đấy!, trong vô vàn những ngư lão hàng ngàn năm nay, tiềm ẩn và lẫn khuất trong kho tàng sử sách. Ta không khó để nhận ra đó chính là Lữ Vọng! Một ngư ông đã từng câu rồng trong dòng nguồn sử, tại một bến bờ của quá khứ lâu. Riêng kẻ Tiều thứ hai đủ để vẽ thành bức tranh Điếu Đồ của lịch sử cũng như văn hóa Trung Quốc chính là Trần Đoàn. Dựa trên hai đầu mối này ta mới có thể... Truy dấu Rồng, ắt phải tranh mồi Lữ Điếu. Và muốn Nã Kỳ Lân nhất định phải đoạt bẫy của Đồ Nam là vậy. Mọi huyễn cảnh Ngư Tiều khác? Chỉ là cái "bã..., bẩy" của thiên tượng bày ra cùng thế nhân chúng ta, không khác.

Để dẫn mối tư duy vào xem xét nhân vật Trần Đoàn này, có vẻ như ngoằng ngoèo tựa ma trận như thế đấy! (Tôi nói, có Phương Viên Đồ của Trần Đoàn làm chứng). Không khéo, "nhão óc" mà chết đuối trên cạn, như không!

Ta xét thấy Trần Đoàn chính vì biết cũng như hiểu những sự thật bị che dấu phía sau Kinh Dịch. Cho nên cũng như Lão Tử; Trần đoàn không dám làm gì dẫn đến sai đối với lạc kỳ thư này. Cho nên ta thấy ông đã có ý tránh lĩnh vực quân sự và bói Dịch nói chung. Ông biết rất rõ; Không Tử đã lỡ "bôi ma" kinh Dịch trước đó với Thập Dực mất rồi. Trần Đoàn chỉ hy vọng những thế hệ mai sau tích đức, tu nhân qua hai học thuật ứng dụng nhắn gửi lại: Đó chính là Tử Vi và Khảm Dư! Kỳ vọng qua đó mà phần nào tránh điều xấu, tìm điều tốt mà hành sử mọi sự.

Do Tử Vi đã hạn chế tính may rủi đến giới hạn có thể rồi. Và phương pháp đó chỉ xảy ra tính xác xuất tại khả năng tư duy của từng cá nhân mà giới hạn thôi. Từ đó ta thấy Tử Vi tuy là dưới Bốc Dịch theo quan niệm chung, nhưng đạt khả năng tiên đoán cao hơn Bói Dịch là vì thế. Ta xét thấy khả năng của Tử Vi phát huy cả 3 công cụ khai thác bao gồm là Lý - Tượng - Số (Ngôn ngữ thông thường, ngôn ngữ hình học, ngôn ngữ toán học). Trong khi Bói Dịch có thiếu vắng ít nhiều công cụ khai thác của Số (toán học). Chỉ xoay quanh hai công cụ cơ bản làm nền móng xây dựng và thiết kế mọi mô hình là Tượng và Lý. Khó khăn thay! Bởi ta không đủ để biết được; Lý, vốn đã thất lạc từ cội nguồn và hiện nay đong đầy khiếm khuyết. Tượng cũng không khá hơn là bao khi ta không hề biết đến thể loại Văn U Mặc. Nhất là trong tầm phát triển của xã hội Việt Nam trong thì đương đại. Lại càng phải thêm đáng sợ hơn nữa, là những ai đang sở hữu Bói Dịch lại chưa đủ tư duy để ý thức những điều thực tại này. Và đó cũng chính là lỗ hổng, sơ hở "nền tảng" cho những ai không đủ hiểu và công kích Kinh Dịch khai thác. Một cách..., miệt mài... !?.

Dĩ nhiên Trần Đoàn cũng noi theo dấu của Lão Tử mà nhất quyết chỉ "đòi" Tu Tiên mà thôi! Bởi đấy là Đạo. Tôi cũng nhất thiết phải nhắc để lưu ý chung cho những thế hệ "mọi đương thời", bao gồm cả quá khứ - hiện tại - tương lai là: Hai từ Xích Quỹ không có nghĩa là Quỷ Đỏ như những tư duy lạc lối nghĩa xưa nay thường dò dẫm... Mà điều này có nghĩa như; Xích ở đây có nghĩa là Thước (mét, công cụ đo lường nói chung) chứ không có nghĩa là Đỏ. Quỹ đồng nghĩa với sự ám chỉ về một "Quỹ Đạo" vận hành trong mô hình tự nhiên của vũ trụ mà Tạo hóa đã mặc định trong đó.

Vậy Xích Quỹ có nghĩa là nói lên một Quỹ Đạo với một đường lối phát triển theo quy củ (Xích, thước). Tóm lại: Nước Xích Quỹ là một nước có mô hình của sự phát triển đến tương lai theo đường lối mẫu mực trong mô hình thực tại tự nhiên của vũ trụ tiềm ẩn. Ta phải viết rằng Xích Quỹ chứ không phải là Xích Quỷ như sự lầm lạc bao đời nay. Đó vốn là những giá trị thực tại tiềm ẩn, những kỳ vọng của Tạo Hóa đã "chạm khắc" và giao cho giống nòi Tiên Rồng này, từ một trong những ngày đầu tiên Người tạo dựng vũ trụ rồi vậy.

Tuyệt đối phải ghi nhớ điều đó cho bất cứ ai. Nhất là dòng giống này, càng nhất định phải khắc cốt ghi tâm hơn nữa để được thành người. Dĩ nhiên điều đó, không dành cho những tư duy đã bị hủ hóa, những bóng ma xác sống mục rữa (zombie), đã bị bỏ rơi phía bên kia của Kỷ Nguyên Cũ mất rồi. Kỷ Nguyên Mới chỉ dành riêng cho những thế hệ tương lai và những ai với một tư duy ưu tú nhất, để tiến hóa cùng dân tộc Việt. Nền tảng di chỉ đó ta xét thấy từ cội nguồn trong nhóm Bách Việt là Âu Việt và Lạc Việt. Và sự hợp nhất đó đã sinh ra Bách Bộc ( trăm trứng trong một bọc bào thai). Bách Tính của dòng Âu Lạc đó lại được tiềm ẩn trong dòng Kinh Việt. Điều này có nghĩa rõ ràng hơn chính là dân tộc Kinh của người Việt hôm nay. Đích thị dòng Kinh Việt này chính là dòng được mặc khải để phải đứng ra gánh vác cơ đồ cũng như non sông của dân tộc phát triển đến tương lai trong Kỷ nguyên Mới không khác được. Bởi đó chính là quy luật của Tạo Hóa đã định sẵn.

Tôi đã chỉ ra trách nhiệm cũng như đặt gánh non sông lên vai của dân tộc Kinh rồi vậy. Không thể quẳng xuống được đâu. Nhưng đó là cả một sự hãnh diện mà trên bình diện địa cầu đương đại có muốn gánh thay, tuyệt đối cũng không có thể.

"Sự kinh hoàng lẫn sợ hãi đang dần hiện hữu"... bao gồm hoang mang lẫn âu lo, trước những sự vận hành của Thợ Tạo... trong thời khắc đương đại.

Có lẽ bài này đã bất chợt đi quá xa đề tài đang bàn ở trên. Ta quay trở lại tiếp tục theo dõi tung tích của Trần Đoàn vậy:

Biệt danh Hi Di chính là của Triệu Khuông Dẫn đã tặng cho Trần Đoàn, khi mời ông về triều mà không thấy ông giúp hay thi thố gì cho đất nước cả! Bởi Trần Đoàn như tôi đã có từng nói qua là: Trần Đoàn chỉ một mực cứ nằng nặc đòi được Tu Tiên mà thôi! Cực chẳng đã, Triệu Khuông Dẫn cuối cùng đành phải để cho Trần Đoàn trở về với nguyện vọng đó. Ta thấy cuối đời, Trần Đoàn tỏ ngộ cơ trời nên mới mang thân làm Tiều nơi tiên cõi tận chốn thâm sơn cùng cốc. Dĩ nhiên danh hiệu cuối đời đó, Trần Đoàn chỉ dám nhận mình là Đồ Nam mà thôi. Điều này cũng còn có nghĩa là "chỉ mong được là học trò (đồ) của phương Nam mà thôi.

Bình luận của mike: Đạo đức kinh viết

視之不見曰夷。聽之不聞曰希。搏之不得曰微。此三者,不可致詰,故混而為一。其上不皎,其下不昧,繩繩不可名,復歸於無物。是謂無狀之狀,無物之象,是為惚恍。迎之不欠其首,隨之不見其後。《道德經 • 第十四章》

【Dịch】Nhìn mà không thấy, gọi là Di (thuần tuý, tố phác). Nghe mà không thấy, gọi là Hi (âm thanh ít). Nắm mà không được, gọi là Vi (nhỏ bé). Ba điều ấy [ta chỉ có thể lấy tâm mà lĩnh hội chứ] không thể suy cứu đến cùng. Cho nên cả ba hợp lại làm Một (tức là Đạo). Trên nó không sáng. Dưới nó không mờ. Miên man dằng dặc mà không thể đặt tên. Rồi lại trở về chỗ không có gì. Đó là trạng thái của cái không trạng thái. Hình tượng của cái không có vật chất. Nó tinh tế mơ hồ; [ta] đón trước thì không thấy đầu, [ta] theo sau thì không thấy đuôi.


Hàm ý là ông Hi Di chỉ có ăn lộc, nhưng bảo gì cũng không nghe, thấy việc chả buồn làm, gọi là Hi Di.



Tuy nhiên Trần Đoàn cũng được ta cảm thông ít nhiều như cha ông hiếm trước đó là Lão Tử. Bởi Trần Đoàn tuyệt không dám chỉnh bàn gì về Kinh Dịch cả. Chỉ có thể tùy theo khả năng lĩnh hội mà để lại cho những thế hệ tương lai noi theo mà xu cát, tị hung qua Tử Vi và Khảm Dư như đã dẫn. Sau đó Trần Đoàn truyền lại cho Mục Tu, tức Mục Bá Trưởng. Mục Bá Trưởng mới truyền tiếp đến Lý Bĩnh Chi, ta quen nghe gọi là Lý chi Tài.
Lý Chi Tài vốn là một viên quan đương thời khi ấy. Do thấy Thiệu Khang Tiết có thiên tư mà lại lang thang khắp chốn, nên mới đưa về nuôi và truyền lại sở học này.

Vậy ta xét thấy tài nghệ của Thiệu Khang Tiết chính là được hưởng " dư khí" hoặc "phúc ấm" từ Trần Đoàn mà ra cả. Tuy nhiên 3 đời là Mục Tu, Lý Bĩnh Chi nữa mới xuống đến được Thiệu Ung.

Thế nhưng, Khốn thay!:

Thiệu Khang Tiết lại không theo tổ nghiệp dày công xây dựng để truyền cho mình với kỳ vọng hướng đạo. Vậy mà Thiệu Khang Tiết lại đốt sách bằng cách không phát huy sở học của tổ nghiệp 3 đời truyền lại. Khang Tiết lại đi lạc bước qua địa phương của Khổng Tử với Thập Dực để phát huy bói Dịch!? Và Thiệu Khang Tiết chính là người đưa Bói Dịch lên đến một đỉnh cao nhất trong giai đoạn Nhà Tống. Nơi mà thiên hạ cho tới ngày hôm nay đều vây quanh ca tụng cho cái gọi là Chiêm Bốc thời Tống đã phát huy chói lọi nơi đỉnh cao của nhân loại...!, ...!!, ...!!!.

Do Thiệu Khang Tiết không đủ để hiểu rằng Khổng Tử trước đó đã có những sai lầm trầm trọng đối với việc san định Kinh Dịch. Càng không đủ khả năng để lĩnh hội những gì mà Trần Đoàn hướng tới và gửi gắm cho mình. Thế nên dẫn đến việc Thiệu Khang Tiết lập ra Mai Hoa Dịch Số, phát kiến gieo quẻ bằng đồng tiền, Vân vân và v.v... hơn nữa! Và; Bói..., chiêm..., nghiệm..., suy..., diễn... loạn hết cả lên. Gây che mờ, phủ lấp tất cả những giá trị thực tại còn đang tiềm ẩn trong Kinh Dịch.


Bình Luận: Thiệu Khang Tiết truyền lại Mai Hoa Thần Số, không phải là Mai Hoa Dịch Số. Có điều phiên bản mà đại chúng vẫn đọc là Mai Hoa Dịch Số, thiếu mất chương cuối. Đại khái, khi lập quẻ mai hoa thần số thì người ta thay đổi bát quái tự số dựa theo ngũ vận lục khí.


Như thế, ta thấy Thiệu Khang Tiết nên lấy hiệu là Xương Phu mới phải hơn là Nghiêu Phu vậy. Bởi tuy có cùng một dòng của Hoàng Đế đấy, nhưng Văn Vương mới là người khởi xướng Bói Dịch chứ không có phải là Vua Nghiêu cho được. Cùng lắm thì thời Vua Nghiêu cũng chỉ phát huy về Kinh Dịch là Y học và Phong Thủy mà thôi. Toàn cõi không có loạn binh đao nên quân sự không có đất dụng võ để thi thố gì nhiều. Vả lại, Quy Tàng Dịch đã ra đời đâu để mà nói đến việc bói toán cho được? Nhất định "Nghiêu Phu" ắt hẳn là Thiệu Khang Tiết đã nói quá đến những điều mà tư duy của mình chưa có thể với tới cho được. Ngay cả Văn Vương cũng chỉ có thể bói Quẻ Tiên Thiên mà thôi. Thiên hạ còn mãi lặn ngụp mà "mò...ốc..." trong mu rùa lúc đấy làm cáo chứng chung.

Và đó cũng là cái lệ chung cho thói thường trong thiên hạ về sau này dõi theo, và học đòi cho những điều mà mình chưa có thể biết tới hiện nay mà lại..., múa rìu...qua mắt... Tiều Phu vậy !?

Thoát đỉnh Bi hài.



15- , NHÀ NGUYÊN - TỘC HOÀNG ĐẾ QUAY TRỞ LẠI.

Khi Thiệu Khang Tiết khơi nguồn dòng thác Bói Dịch tuôn trào. Dĩ nhiên Thập Dực cùng với học thuyết của Khổng Tử đã đăng đàn, diễu võ dương oai trong giai đoạn Nhà Tống. Những mầm mống gây loạn từng bị Tần Thủy Hoàng thiêu rụi, nay lại có cơ sở để Trình Di (cửa Khổng sân Trình) giương lá cờ đầu tiên phong...


Bình luận của Mike: Nguyễn Bình Khiêm được gọi là trạng trình, vì thời đó không ai đọc hiểu được học thuyết của Trình Di. Vua đọc nhức đầu, hỏi ông ấy, ông ấy chú giải chi tiết, nên được phong là trạng Trình.


Sở dĩ tôi có ý hoặc lời lẽ không mấy nhã nhặn đối với những nhân vật mà thiên hạ xưa nay thờ lạy bởi:

Như ta biết Kinh Dịch vốn là học thuyết được Lão Tử phát huy tinh hoa với tất cả những gì có thể, trong nhóm Bách Gia trước đó. Khổng Tử chỉ khi "lĩnh giáo" Lão Tử thì mới trở về và lao vào nghiên cứu Kinh Dịch, khi bóng tuổi đã xế cuối chân đời. Cho nên ta thấy tư tưởng Đạo Giáo vào thời kỳ cuối, chịu sự nhiễm trường tư tưởng của Đạo Gia tác động khá nhiều rồi. Hiểu một cách khác thì Khổng Tử đã kín đáo sao chép lại tư tưởng của đạo gia, sửa sang, gọt dũa tinh xảo sang làm đạo giáo của mình. Với cách làm đó, theo quan điểm của "Khổng Tử dạy": Phàm (ư hừm...), hễ là bậc quân tử, ắt phải khinh bỉ những việc làm khuất tất đó (trộm cắp quen thói). Ta cũng đừng quên rằng: Trong nhóm Bách Gia đương thời, dù muốn dù không; Đạo Gia và Đạo Chích vẫn được liệt vào một hàng đẳng cấp cao hơn Đạo Giáo là một sự thật khó chối bỏ cho được.

Thiệu Khang Tiết đã vướng vào cái bẫy lối mòn rất kín đáo đấy. Chu Đôn Di cũng như Trình Hạo lại là bạn của Thiệu Khang Tiết, thủ lĩnh cuộc cách mạng khởi xướng Bói Dịch. Dĩ nhiên Trình Di là học trò của Chu Đôn Di, nhất thiết phải dựa vào "nền tảng" đấy để mà giương cao ngọn cờ tiên phong mới được. Lẽ đương nhiên trong địa phương Bói Dịch nói chung. Luôn luôn có một diện tích nhất định để Trình Di canh tác, tán gieo ra làm mẫu mực cho đời sau... dò la tung tích. Lại còn Chu Hi nữa! Chu Hi cũng noi theo dấu của Trình Di nên cũng được xếp ngồi chung chiếu cùng Trình Di trong xứ Dịch mà cùng... Tán, Bốc...

Tiếp đến, còn bao nhiêu "bậc tiên nho", xếp vây quanh mà ca tụng, "đồng bốc" nữa!! Chỉ khổ cho những kẻ nông cạn học đòi bói Dịch, không nhận đâu cho ra là chân giá trị thực hư cho được. Bản thân tôi cũng đã từng nghiên cứu Bói Dịch tới nơi, tới chốn. Tuy nhiên bản thân là nghiên cứu Dịch Học chứ không phải nghiên cứu Dịch Bốc. Thế cho nên nhận ra được đâu là thực hư của toàn diện vấn đề này. Và đó cũng là lý do tại sao tôi lại có những ngôn ngữ dường như khá nặng chung cho những ai lầm lạc như thế. Vội đã khép mi nhìn đời dưới 50% ánh mắt, ra vẻ thấu suốt thiên cơ mà phán bạt mạng. Gây phúc cho tinh thần thì ít, gây họa cho quan điểm thì nhiều. (dĩ nhiên tôi ủng hộ những ai nghiên cứu Dịch Học). Mong các bạn bỏ qua cho ngữ khí có phần khó chịu này vậy. Tuy nhiên, chắc chắn điều đó không phải là hạt sạn trong mâm cơm tinh thần, của văn hóa chung. Mà là vị cay...! Tôi đã từng tiếc rằng: "Phải chi Khổng Tử ngày đó, biết dừng lại ở phạm vi học thuyết Nhân Đạo của mình thì hay biết mấy". Điều này đã làm minh chứng cho chân thành quan điểm của tôi trong những bài viết trước đó rồi vậy.

Được vậy, ta lại tiếp tục... tham khảo:

Cho nên ta không khó mấy để có thể nhận ra Trình Di đã dựa trên nền tảng duy nhất của Quẻ Lý mà lập luận, xây dựng học thuyết của riêng mình. Mà một khi đã khai thác sâu vào đó, ắt cái đuôi của đạo gia phải lòi ra... Đó là Khí! Và rồi ta thấy Chu Hi đã vô tình đề cao Lý và Khí một cách vô tư đến độ chỉ rõ cho mọi người biết rằng: Lý và Khí vốn là triết giáo của Lão Tử dùng để Tu Tiên!! Như người Việt mô tả thì việc làm đó chính là lấy "râu ông này cắm cằm bà nọ" mất đi rồi. Điều có có nghĩa là vẽ mặt diễn hề đó vậy.

Thế cho nên Bốc Dịch trong giai đoạn Nhà Tống, đã che mờ những giá trị thực tại của Kinh Dịch trước đó đã được khai thác dở dang, đối với người Trung Quốc nói chung. Quân sự thì có chiều khá hơn, bởi nhờ vào các sách lược của Binh Pháp đã đủ để lại. Điều tất phải đến là Nhà Tống nhất định phải trả giá đắt. Ta cám cảnh cho Tử Chiêm chỉ trích xu hướng lạc lối của Trình Di không thành, đành cam phận làm Tiểu Ẩn giữa triều mà dỗ hồn bằng Thi Họa... Âu cũng phúc hơn Bao Công ngâm câu "Thương sung thử tước hí" không trọn vẹn, mà phải thuyên chuyển qua Thập Điện đợi chờ kỳ cuối.

Và vó ngựa của Thành Cát Tư Hãn đang sãi nhịp mô phỏng, tìm lại hình bóng của Hoàng Đế khi xưa... Tuy nhiên, trước khi hậu duệ của Hoàng Đế ra vó; Hậu duệ của Chiến Thần Xi Vưu đã phất cờ lau, dấy hiệu tiên phong. Lê Hoàn rạch cõi, định biên. Và lý Công Uẩn đã nương theo nền móng đấy mà ra tay, "cất vó" trước. Để viết nên trang sử giai đoạn với lời tuyên ngôn, đã được trích trong Thiên Thư. Tôi cũng nhắc thêm rằng: Lý Công Uẩn chính là đại diện của 50 người con đã theo Cha xuống biển khi xưa.

Ta có thể thấy được rằng; An Dương Vương xưa kia chính là dòng Mẹ trên non. Do dòng Mẹ soán ngôi nên khiến dẫn đến họa mất nước. Vì lẽ đó cho nên ta thấy trong giai đoạn ấy thuộc Mẫu Hệ. Hễ Mẹ gây nên việc mất nước, nên trời khiến suốt chiều dài của lịch sử khi đó bắt buộc các Bà phải mang thân chinh chiến nơi sa trường để giành lại. Điều này khiến một số sử gia sau này không hiểu tại sao lúc đó: Các đấng tu mi nam tử đâu mất hết cả rồi. Lại để cho các phận nhi nữ quần hồng phải đứng lên như thế!?

Thật xấu hổ thay! Nhưng biết sao được, thế cục đang là Mẫu Hệ kia mà...!!

Và Lý Công Uẩn chính là người đại diện cho dòng Cha có trách nhiệm đứng ra và lấy lại quốc tổ. Thế nên ta mới thấy Rồng trao móng cho Lý Công Uẩn như Rùa đã từng cho móng đối với An Dương Vương khi xưa. Chúng ta cũng đã quen nghe những huyền thoại tiêm nhiễm của Trung Quốc với những việc đại loại như: Lưu Bang đi đâu cũng có mây ngũ sắc che trên đầu! Thế nhưng chúng ta lại không hề biết đến việc Lý Công Uẩn thuở hàn vi, đêm ngủ ở đâu cũng có Rồng xuống ấp cho ngủ! Mỗi sáng khi thức dậy, người ta thấy nơi ngủ của Lý Công Uẩn, còn rơi rụng vảy Rồng đầy khắp sân chùa!! Bởi lý Công Uẩn thường ghé vào Đình hoặc Chùa để ngả lưng mà ngủ qua đêm. Cũng chính vì nguyên do đó mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã ra sức mà phò chân mệnh giải phóng dân tộc, thoát khỏi kiếp xiềng gông đã hàng ngàn năm qua.

Do đó, chính Nhà Tống đã khiến cho những giá trị thực tại của Kinh Dịch càng sai lạc đi ở một tầm xa hơn nữa bởi Bốc Dịch! Điều nay không có nghĩa là tôi cổ xúy cho Tử Vi!! Nguyên do như tôi đã nói rằng Trần Đoàn chỉ có thể lĩnh hội nổi chừng 30% giá trị của Kinh Dịch mà thôi. Và ông đã cố làm bằng hết những khả năng "có thể" đối với Kinh Dịch. Mọi phương pháp bói nói chung; Đã phản ảnh sự bế tắc đối với Kinh Dịch rồi. Từ đó mới thể hiện qua sự Chiêm... Nghiệm... để hy vọng tiên tri sự việc ở tương lai.

Kể cũng lạ thật đấy! Xưa nay việc của quá khứ là những điều đã từng xảy ra, còn chưa biết đầy rẫy những oan trái vùi lấp. Thiên hạ lại cứ đòi mong được tri đến việc của tương lai, đang còn là những sự chưa có xảy ra bao giờ !?

Nhưng để tiên tri thì điều đó cũng có nghĩa thuộc lĩnh vực của Sấm Thư rồi, không hề là của Bốc Thư cho được. Vì Sấm sẽ cho ta tiên tri chính xác sự việc ở tương lai không lệ thuộc tính xác xuất bao giờ cả. Cho nên ta không được lầm lẫn giữa Sấm và Bói. Vấn đề cần phải thấy ở đây là tôi chỉ dẫn ra tỷ lệ ứng dụng Kinh Dịch cho dự đoán có phần "tạm ổn" tính xác xuất giữa Bói Dịch và Tử Vi mà thôi. Tất cả những điều lầm lạc đó, suy cho cùng thì cũng từ Không tử, Thiệu Khang Tiết bày ra cả thôi. Trần Đoàn ít nhiều cũng chịu sự ô nhiễm chung cùng môi trường đó không thoát ra được. Bằng như muốn tiếp tục nghiên cứu về bói, hầu thỏa tính thắc mắc định số của tương lai thì chi bằng: Sử dụng học thuật của Thái Ất Thần Kinh mà tôi vừa phục hồi cũng như đã trình bày ra ở trang này. Bởi Thái Ất Thần Kinh chí ít cũng đã thể hiện là kiêm cả Tử Vi lẫn Bói Dịch trong đó rồi. (Lưu ý; đừng lầm là kiêm cả Kinh Dịch).

Tuy nhiên tôi nhất định cũng phải nhắc chừng: Ta vốn là dòng dõi thuộc tộc Xi Vưu và Tiên Huyền Nữ khi xưa. Kinh Dịch vốn thuộc di chỉ sở hữu là của mình. Nói theo cách xưa nay từng nói là của Quỷ Phương, Cấn Quỷ, Xích Quỷ... Vậy thì dân tộc Việt này, còn sở hữu một một cách bói nữa, đó chính là:

Bói Quỷ !... !?

Một tuyệt kỹ không dành cho thiên hạ lạm bàn đến cho được. Bởi chỉ có phương pháp Bói Quỷ mới có thể sánh ngang Sấm Ngôn mà thôi. Gẫm trong giai đoạn Nhà Tống, ít nhiều đã bị tác động bởi sư kiện Thôi Bối Đồ mà khiến sau đó gây lầm lạc cả lên và cổ xúy cho Bốc Dịch phát triển. Thiên hạ đã không hề đủ để biết rằng; Cùng với thời điểm đó, dân tộc Âu Lạc đã xuất hiện Bói Quỷ trải qua các triều đại mà vẫn chưa một ai có thể phát giác chứ chưa có thể nói đến biết cho được. Tôi nhắc lại: Từ biết đến hiểu, lại phải trãi qua cả một quá trình không có thể san bằng trong một sớm, một chiều cho được.

Tôi có thể chỉ rõ trong cùng một giai đoạn này, Bói Quỷ đã diễn ra với Đinh Bộ Lĩnh, Lý Công Uẩn. Không như Nhà Tống mày mò trong cách Bói Dịch mà làm loạn xã hội chung. Không ngẫu nhiên mà bài thơ trong kỳ thi Pháp Hoa Hội có câu: "Trắng dạ bạc đầu... bình Tống, Chiêm...", (ý mọn) là thế.

Và một khi hậu duệ của Hoàng Đế quay trở lại để thu phục cơ đồ của Tiên Đế về một mối thì ta thấy; Chữ Nguyên ở đây cốt là lấy từ ý tên quẻ đầu tiên của Kinh Dịch là Quẻ Kiền mà làm quốc hiệu - Kiền Nguyên. Nhiều nhà sử học về sau không hiểu cội nguồn phủ lấp lại cứ nghĩ rằng người Mông không lấy văn hóa bản địa lại lệ thuộc vào văn hóa người Hán trong giai đoạn Nhà Nguyên trị vì?! Bởi văn hóa Mông hay Hán cũng đều từ văn hóa của Người Việt bị đánh cắp mà ra cả thôi. Dĩ nhiên điều tuyệt bí này thì chỉ có Người Mông là nắm rõ nhất. Họ biết người Hán cũng lén thừa hưởng lại từ của Hoàng Đế khi xưa mà ra cả. Cho nên Nhà Nguyên nhất định phải thôn tính Âu Lạc hòng xóa đi di họa về sau. Cái di họa đó, người Hán đã hàng ngàn năm qua rồi mà vẫn chưa có thể hóa giải được.

Thật không may cho Hốt Tất Liệt. Quả là Trời bất dung gian đảng.

Bởi Nhà Trần chính là tinh hoa của giống nòi Âu Lạc. Nếu Nhà Lý có đủ khả năng để đọc thấu Thiên Thư đi chăng nữa. Thì Nhà Trần mới đích thực là sở hữu và được Tạo Hóa Mặc Định Thiên Thư. Như tôi đã có từng nói: Kinh Dịch vốn là Văn U Mặc. Thế nhưng ta đừng bao giờ lầm lẫn giữa Lạc Thư với Thiên Thư. Ta nên nhớ Kinh Dịch có nhắc đến Thiên Tượng. Và Thiên Tượng đó chính là chiếc cầu nối đến với Thiên Thư.

Lại phải lưu ý thêm nữa:

Thiên Tượng ở đây không có nghĩa như Tiểu Tượng và Đại Tượng Truyện trong Thập Dực mà Khổng Tử tưởng tượng... vẽ thành ra Cánh cho được. Hai Tiểu - Đại Tượng đó chỉ là hai con Voi Đất, đã được nặn ra thành Tượng... Phỗng! Hoàn toàn không phải là Thiên Tượng thực tại tiềm ẩn của Hóa Công trong Kinh Dịch cho được.

Chỉ tiếc rằng:

Tuy rằng Nhà Trần đã vượt Vũ Môn cả 3 đợt sóng mà Hóa Rồng trong giai đoạn rạng ngời của dòng sử bạc đó. Nhà Trần tuy có biết, nhưng chưa đủ để hiểu những khúc quanh nào của dòng sử. Từng đã bị san lấp mất mạch trong suốt giai đoạn cả ngàn năm trở về quá khứ miên viễn nữa? Cho nên ta thấy Nhà Trần vào niên hiệu Ứng Thiên đã giao cho Lê Văn Hưu truy dấu sử. Cho nên ta thấy Lê Văn Hưu chỉ rà soát bắt đầu từ giai đoạn đầu là Nam Hán Triệu Đà. Bởi Nhà Trần đinh ninh rằng tất cả mọi đầu mối bị bôi xóa nhất định phải xem xét từ giai đoạn này là hợp lý nhất. Thế nhưng Nhà Trần đâu ngờ được rằng còn đầy rẫy oan khốc trở về trước đó cần phải được làm sáng tỏ nữa.

Điều nhận xét của tôi đối với giai đoạn cũng như quan điểm của Nhà Trần có thể điển hình như: Trong bài Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo có dẫn chứng Dự Nhượng... Đó là giai đoạn của thời Xuân Thu. Rõ ràng là tư duy thời Nhà Trần rất cao. Không có lẽ nào với khả năng của Lê Văn Hưu lại không đủ để có thể lặn tận đáy của dòng sử ở tầng sâu hơn nữa để mà khảo sát. Và rồi sử gia kế nhiệm không có còn ai đủ để gánh trọng trách đó ngoài: Phù Tiên ! (tên chính thức của Phan Phu Tiên). Với tất cả khả năng để phù cơ đồ tìm về dòng Tiên Lạc...

Thật cay đắng cho giống nòi; Bởi cái bóng của Khổng Tử, đã che khuất tất cả những lối rẽ, dẫn nhánh dòng sử trở về nguồn cội mất đi rồi...

Thế nhưng chí ít; Nhà Trần cũng kịp thắp sáng đêm trường 1000 năm của giai đoạn dòng sử đục, gửi làm di chúc cho con cháu ở tương lai.

Giặc Minh đã ngay lập tức quay trở lại... Bởi những cáo chứng lịch sử của Nhà Trần lúc đó. Chính là tất cả những gì được gọi là văn hóa bao gồm bộ mặt thật của Người Hán sẽ bị phơi bày và sụp đổ toàn diện.

Một bản tính thâm hiểm với gen gian xảo, "di truyền thiên kỷ" ...

... !, ... !! ...

Nếu như kịch bản Thần Kim Quy trao "Móng" cho An Dương Vương thì phần tiếp theo Long Thần phải cho "Móng" với Lý Công Uẩn để được gọi là trọn vẹn.

Thế cho nên nhất định kịch bản: Thần Kim Quy tất phải giao Kiếm cho Lê Lợi để Bình giặc Minh tiếp theo ngay sau chính là Thiên Ý vậy. Nếu như ai đó?; Có bị lạc mất gốc của móng Rùa nơi ký gửi sử thời An Dương Vương. Tất nhiên kẻ đó không có đủ đầu mối để dò đến thanh Kiếm Thuận Thiên mà Rùa lại trao cho Lê Lợi trong dòng sử của giai đoạn này được.

Và thêm nữa: Thế cuộc đó cũng vừa kết thúc khi "Cụ Rùa" Hồ Gươm vừa ra đi đúng với chu kỳ trọn vẹn trong thời kỳ cuối của Tạo Hóa.

Không hề là ngẫu nhiên bao giờ cả.


Thanked by 1 Member:

#10 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 23:24


16 - DẤU VẾT KINH DỊCH THỜI MINH

Tôi khẳng định với 3 ứng cử viên sáng giá được liệt kê sau đây:

1 . Quân Sự với Lưu Bá Ôn làm đại diện.

2. Y Học có Lý Thời Trân chiếm vị trí một trong Tứ Thần Y.

3. Phong Thủy bao gồm song quái liên thủ; Chu Nguyên Chương và Lưu Bá Ôn.

Với những giá trị thực tại đó, đã từng được các triều đại trước phát huy và duy trì trong quá khứ lịch sử tiềm ẩn rất khéo léo. Những thực tại này của Kinh Dịch, không mấy ai nghiên cứu Dịch Học nói chung, có thể dễ dàng phát hiện cho được. Đơn giản bởi tính Bói Dịch đã che mờ đi những thực tại giá trị này. Đó là điều ta khó phủ nhận cho được.

Tính từ giai đoạn của cột mốc lịch sử này. Ta cứ dò mạch điểm huyệt dòng sử một cách sơ lược xem sao?

a) Như tôi đã chỉ rõ; Cánh cửa đầu tiên khi bước vào thế giới của Dịch Học chính là Y Học. Vậy ta cũng theo trình tự đó mà dò la... manh mối.

Với khả năng kém cỏi tôi không biết có còn "chân nhân bất lậu tướng" nào... Ẩn dật trong giai đoạn của Nhà Chu, lẩn khuất ở đâu đó nơi hẻm rừng xó núi nào nữa hay không? Nếu không, tôi chỉ ra một trong những đại diện của Tứ Thần Y đó chính là: Biển Thước. Thần Y Biển Thước xuất hiện vào thời loạn Chiến Quốc. Vào lúc đỉnh điểm của Kinh Dịch đang phát huy đến độ "; Đạo cùng tắc biến, Đạo cực tắc phản" !

Và thời loạn Chiến Quốc, phản ảnh toàn cục cho ta thấy rõ cái nguyên lý đối xứng gương ở chỗ: Hễ phản chính kiến, ắt biến tư duy. Trong giai đoạn này và kể về sau nữa, ít có ai nhận ra Biển Thước chính là dòng của Bách Việt. Ông đã thể hiện qua tên hiệu là Việt Nhân làm khẳng định! Riêng cái áo nghĩa của tên Biển Thước, hàm ý bên trong là Xích Hải. Đó chính là Xích Hải Việt Nhân vậy (giống Rồng ở miền biển của Người Việt). Tuy nhiên ta thấy, với khả năng dụng Dịch lên đến đỉnh độ đó; Nhà Chu trụ vững cơ đồ đủ một Thế Cuộc 500 năm trọn vẹn. Chính cái loạn Chiến Quốc, phát sinh Bói Dịch từ Khổng Tử, gây nên sự sụp đổ là một đầu mối nghi ngờ để xem xét. Nhất định không có thể bỏ qua cho được.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nhà Hán với 3 công cụ ứng dụng thực tại giá trị của kinh Dịch đó. Đã được Trương Lương phát huy lên đến tột đỉnh. Vì thế Nhà Hán cũng đi trọn 500 năm của một chu trình Thời Vận. Trong giai đoạn này, ta cũng thấy tất cả tinh hoa của Y Học phát tiết mà nở rộ... như tôi đã có dẫn. Và cũng đề cử được cho đời nhân vật Hoa Đà trong Tứ Trụ Y Học. Và lẽ đương nhiên, Nhà Hán có đủ năng lực để trấn yểm nước Việt 1000 năm liền sau đó qua sự thông đồng của Triệu Đà.

c) Nhà Đường tiếp nối nền tảng từ Nhà Hán, cho nên ta thấy cũng có ứng cử viên đắc cử ghế thứ ba trong Tứ Trụ là Tôn Tư Mạc! Do Nhà Đường có yếu kém về thuật Phong Thủy hơn so với Nhà Hán trước đó. Một phần rất lớn là do bị tác động từ quan điểm của Nhà Phật. Nên ta thấy cơ đồ cũng có thể duy trì non... vài ba trăm năm, cũng đủ để được gọi là trường tồn.

d) Với Nhà Minh thì rõ rồi. Bởi giai đoạn lịch sử này cũng tương đối gần, nên ta dễ dàng nhận biết được một cách thuyết phục nhất. Không cần phải liệt kê những sự kiện Quân Sự lẫn Phong Thủy. Ta không thể chối bỏ cho được nhân vật cuối cùng trong tứ trụ chính là Lý Thời Trân vậy.

Tuy nhiên những dẫn chứng điển hình vừa qua. Chúng ta đã bỏ sót qua giai đoạn của Tần Thủy Hoàng! Điểm lại; Về lĩnh vực Quân Sự thì thuyết phục tuyệt đối. Bởi Tần Thủy Hoàng đã gồm thâu lục quốc. Trong khi giai đoạn này đầy rẫy những mưu sĩ cũng như sách lược Binh Pháp xuất hiện khắp các chư hầu đương thời khi đó. Xét đến lĩnh vực Phong Thủy thì Tần Thủy Hoàng đã từng thân chinh mà đi đến biên thùy. Vượt qua sông Dương Tử mà dùng roi đánh phạt địa huyệt của núi Thiên Ấn Sơn phía trước núi Chung Sơn để thị uy. Hy vọng qua đó thì cái khí của thiên tử đủ để trấn áp toàn vùng Ngũ Lĩnh này. Và Y Học thì có Từ Phúc. Một y nhân đã tính đến bào chế thuốc trường sinh rồi chứ không màng đến thuốc đơn thuần nữa!

Cớ sao lại không được liệt trong danh sách Tứ Thần Y !? Điều lý giải có vẻ như là Từ Phúc và Nhà Tần thuộc giải ngoại hạng rồi vậy. Bởi Tần Thủy Hoàng vốn là một trong nhóm Bách Việt ngày ấy. Vả lại, Từ Phúc cũng một đi không trở lại và đang định cõi ngoài biển đông kể từ ngày đó mất rồi. Như tôi đã từng nói tránh về vật chứng và nhân chứng. Thế nhưng ngẫm không ai đủ hiểu đến nhân chứng tiềm ẩn mà tôi gợi ý trong những bài trước. Đó chính là Người Nhật hôm nay.

Tôi khẳng định:

Người Nhật chính là nhân chứng đắt giá nhất, cho người Việt hôm nay về Kinh Dịch chính là của Người Việt. Và ngày đó, Từ Phúc mang theo Thái Bình Kinh. Và Kỳ Thư này vẫn đang hiện diện tại Nước Nhật, kể từ ngày đó cho đến giai đoạn hôm nay.

Thế cho nên ta thấy Chu nguyên Chương, không có thể bỏ qua ý định thôn tính nước "Đại Ngu" cho được rồi. Lẽ đương nhiên ta không phải thắc mắc đối với Nhà Minh khi Chu Nguyên Chương dời đô vượt qua dòng Dương Tử để tọa lạc tại Nam Kinh.

Và Chu nguyên Chương cũng nhất định không chịu thua kém Tần Thủy Hoàng, khi phạt roi núi Ngưu Đầu, cứ ngoảnh theo phương Nam... 100 hèo !?. Để gọi là thị uy "chướng khí". Thế nhưng, Chu nguyên Chương trong ngày đó; Đã không đủ để biết rằng, Kim Ngưu lại chính là linh tổ của họ rồi.

Và cũng kể từ giai đoạn đó; Người Trung Quốc vĩnh viễn chớ có nuôi mộng giục ngựa đo móng lên mảnh đất của Người Việt, thêm nửa móng ngựa nào nữa.

Phải! Vĩnh viễn.

Chúng ta tạm xét lui trở về trước thời điểm khi Nhà Minh thôn tính Người Việt, đang vỗ ngực xưng danh là Đại Ngu. Tôi xin miễn bàn về hai chữ này. Bởi tự nó đã nói lên tất cả rồi. Có lẽ do hai cha con nhà Hồ Quý Ly đã điểm trúng huyệt mảnh đất có thế Long Xà Ẩm Thủy mà đắc chí chăng?! Khốn thay, đó lại không hề là địa mạch của dân tộc Việt bao giờ cả. Tuy thế, hai cha con của Hồ Quý Ly cũng đã cho quân Minh bạt vía bao phen trong giai đoạn đấy.

Và rồi Nhà Minh ngay lập tức tiêu hủy toàn bộ những chứng cứ mà Nhà Trần đã từng khôi phục lại được từ hơn trăm năm trước. Dân tộc Âu Lạc lại phải đắm chìm giữa dòng sử đục thêm trăm năm nữa...

Ta thật khó khăn lắm mới có thể nhìn thấy được trong đêm trường tăm tối đó, có một sự kiện như bóng huỳnh hoặc chập chờn...:

Bởi Nhà Minh biết rất rõ những bí sử đối với Kinh Dịch lẫn giống nòi Âu Lạc. Lại thêm những gì mà nhà Minh chiếm đoạt được từ Nhà Trần cũng như khả năng của hai cha con Hồ Quý Ly và Hồ Nguyên Trừng thể hiện. Khiến nên Nhà Minh đã âm thầm bắt Hồ Quý Ly mà giam trong cấm ngục và dụ dỗ Hồ Nguyên Trừng mà khai thác tuyệt kỹ sở học. Ngày đấy, ta thấy Hồ Quý Ly đã thà ôm tuyệt kỹ mà chết trong ngục, Hồ Nguyên Trừng chưa có thể sở hữu cho được. Thế cho nên Hồ Nguyên Trừng tuy đã thuần phục Nhà Minh, tận hiến cũng không có đủ khả năng để đọc thấu được Kinh Dịch mà hòng thi thố.

Ngay lập tức, Nhà Minh quay trở lại dò la...

Và lần này thì Nhà Minh đã đảo ngược kế hoạch như sau: Trong kế hiểm ngày trước là Nhà Minh đã bỏ cha là Hồ Quý Ly để bắt con là Hồ Nguyên Trừng hòng ấp ủ mầm non tương lai... Và kế hoạch ngày đó đã hoàn toàn phá sản khi Hồ Quý Ly ôm tuyệt kỹ xuống mồ mà chịu tội cùng giống nòi Âu Lạc mất rồi. Lần này mưu độc hơn là họ bắt cha và bỏ con...

Đó là bắt Nguyễn Phi Khanh và bỏ... Nguyễn Trãi !!!

Ô hô ! ... !! ... !!!

Thế mới biết Cơ Trời vốn không phải là nơi để thiên hạ với tới, cho dù có là tưởng tượng hay chỉ là giả thuyết. Đối với Tạo Hóa, con người có tài giỏi đến mấy cũng trở thành trò hề mà thôi. Nói chi đến những thành phần... miễn bàn.

Và rồi việc tất phải đến là Thần Kim Quy trao Gươm cho Lê Lợi để thực thi ý Thuận Thiên đã định.

Ta xét thấy quy luật tiềm ẩn của Kinh Dịch đã thể hiện trong hai giai đoạn như: Nhà Trần ngoài quân sự và phong thủy, y học đã cống hiến Tuệ Tĩnh làm minh chứng. Duy có điều đáng tiếc là Nhà Trần lại đắm chìm vào thuật bói toán bao gồm tử vi từ Trung Quốc sang, nên phải trả giá một cách đáng tiếc cho những lầm lạc đó. Đến Nhà Lê, Nguyễn Trãi đã dụng đến đỉnh của Dịch Thuật cũng như quân sự. Thậm chí Nguyễn Trãi cũng đã dụng đến "Bói Quỷ" để mà dựng cơ đồ của Âu Lạc trong giai đoạn đó. Lĩnh vực Phong Thủy ngay lập tức đóng góp Tả Ao. Y học cũng không chịu thua với sự xuất hiện trong giai đoạn lịch sử nhà Lê với Hải Thượng Lãn Ông, để khẳng định giá trị một cách tuyệt đối của Kinh Dịch.

Cũng chính vì lãnh đòn chí tử từ Nhà Lê mà Nhà Minh dần quỵ. Nhân cơ hội đó, tộc Hoàng Đế dốc binh thôn tính Nhà Minh với ẩn ý danh xưng là Dã Tiên ( !! ), mong phát tín hiệu cùng Nhà Lê. Tộc Nữ Chân cũng đang hiệp công cùng Dã Tiên, khiến Nhà Minh muôn phần bấn loạn "binh pháp". Xét phúc phận của Nhà Minh là do quan điểm của Nhà Lê đã được Nguyễn Trãi thảo trong Bình Ngô Đại Cáo qua ý: "Ta mở đức hiếu sinh, mà hòa hiếu thực lòng...". Nếu không, e rằng ngày đó Nhà Minh đã thành ra "con ma lạc mồ" trong giai đoạn lịch sử này rồi mà chớ ...

Nhưng quả có như thế thật !...

Bởi Thanh, đồng nghĩa với Kim ... Và đó cũng là những gì đang tiếp đến trong bài... chờ nối tiếp...



TRẢ LỜI CÂU HỎI BẠN ĐỌC

( trích câu hỏi của bạn Lâm Ngọc Minh dưới bài Dòng Sử Đục)
Lâm Ngọc Minh
Chuyện kể Thánh Gióng 3 năm không nói, khi bật dậy đòi đánh giặc Ân (Thương??? 1100 TCN). Thánh Gióng đòi ngựa sắt, gậy sắt, giáp sắp (đồ sắt Đông Á khoảng năm 600 TCN)...
Câu chuyện khác: Sở Trang Vương - Tên Hùng Lữ (Hùng Vương???) khoảng năm 600 TCN, sau khi lên ngôi ăn chơi 3 năm ở hậu cung. Sau đó làm nên nghiệp bá. Đã từng "vấn đỉnh" của Chu Vương (cùng hàng VƯƠNG")...
có gợi ý gì cho mọi người không?
Đến thời Hai bà Trưng - đất vẫn đến sông Dương tử, Động Đình hồ, đền Vua Bà khắp nơi...

Trả lời:
Câu hỏi của bạn có vẻ "lạc đề" (lạc khách) và dễ khiến "lạc chủ" đề của page mất. Tuy nhiên tôi vẫn xem xét và có câu trả lời như sau:

1) Thứ nhất; Những ký sự này vốn ở Phía Bên Kia Không Gian Chiều Thứ Tư. Bạn lại hỏi ở bên này của không gian 3 chiều rồi! Cho dù cứ cho là như thế đi chăng nữa. Vấn đề là ta phải hiểu cái ý gì tiềm ẩn phía bên kia của cái áo nghĩa đó mà thôi. Trước hết "Hùng Lữ (Hùng Vương???)"; Không phải cứ thấy họ Hùng, là suy diễn nhận... "bà con" thân thích cho được.

Ranh giới sông Dương Tử vốn đã được Đại Vũ và Lộc Tục phân định rõ ràng từ nạn lụt hồng thủy. Thế nên nước Xích Quỷ ra đời và Lộc Tục mới xưng Vương với hiệu là Kinh Dương Vương được. Đến Văn Vương, sử Việt mới ghi là "xâm lược". Sử ký Tư Mã Thiên cũng phải ghi là đi đánh "Nước Sùng". Và Văn Vương cũng chỉ có thể gọi là xua quân qua nước Văn Lang, rồi rút về. Giai đoạn của Tần Thủy Hoàng cũng thống nhất ranh giới ấy. Cho nên Phù Tô và Mông Điềm đi xây ải xa ngoài biên cương, chính là tại ranh giới của sông Dương Tử đối với Nước Âu Lạc của An Dương Vương.

Nước Sở trong giai đoạn Chiến Quốc đó, hoàn toàn nằm trong giới phận của Nhà Chu. Vì thế Sở Trang Vương chỉ là một dòng trong nhóm Bách Việt, đang định cư tại vùng địa phương của Nhà Chu mà thôi. Tạm như thế này nhé:

Ngày xưa Thánh Gióng dẹp giặc Ân, đòi ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Vậy từ đó suy ra: Hôm nay nhất định phải có Thần Gánh để dẹp giặc Nghĩa rồi vậy! Non sông xưa mới có Gióng, còn thiếu Gánh nữa mới có thể đủ bộ "Gióng Gánh" mà gánh vác cơ đồ tương lai cho dân tộc trọn vẹn được.

Ví dụ: Cứ cho tôi là Thần Gánh đi. Thì tôi cũng nhất định phải đòi đủ 3 yếu tố đó như: Ngựa Sắt của huyền thoại bước ra thực tại là một con ngựa tên Mersedes hoặc tên Chuyên Cơ chẳng hạn. Giáp Sắt hóa thân ở một địa vị xã hội nhất định, để mọi đàm tiếu ( ... ) bất khả xâm phạm. Và cuối cùng Roi Sắt chính là (Như Ý Kim Cô Bổng, hai đầu nạm vàng) biểu hiện ở: Nguồn kinh phí để thực thi. Nhất định: "Vai mang túi bạc kè kè, nói ... người nghe ầm ầm". Có thế, mới mong dẹp tan "Giặc Nghĩa" hôm nay được.

2) Câu chuyện Sở Trang Vương. Đã từng "vấn đỉnh" của Chu Vương (cùng hàng VƯƠNG")... có gợi ý gì cho mọi người không?

Theo "yêu cầu" của bạn Lâm Ngọc Minh, tôi có gợi ý như thế này:

Khi ta đọc sách, ta phải đủ để biết và hiểu được tác giả đó là ai? Và họ viết gì? Họ viết gì thì viết, còn tư duy của ta nữa. Đó là chưa nói đến ta không đủ để hiểu ý gì tiềm ẩn trong tác phẩm, mà tác giả đã gửi gắm trong đó nữa. Không khéo, ta tích lũy Thau mà cứ ngỡ là Vàng. Lỡ có mang ra thi thố thì nguy to...

Về câu chuyện này thì tôi không quan tâm đến, vả lại cũng không phải dòng đề tài trên page này. Tuy nhiên, tôi cũng chép lại câu chuyện "vấn đỉnh" để mọi người cùng tham khảo và tham gia... Theo như ý của câu hỏi bạn Lâm Ngọc Minh;

"Mùa xuân năm 606 trước công nguyên Sở Trang Vương dẫn quân thảo phạt nước Lục Hồn của người Nhung. đến sông Lạc trong địa phận triều Chu dàn binh thị uy. Chu Định Vương sai đại phu Vương Tôn Mãn đi uý lạo Sở Trang Vương. Sở Trang Vương hỏi về 9 chiếc đỉnh lớn nhỏ nặng nhẹ như thế nào. Vương Tôn Mãn đáp rằng:

- Sự lớn nhỏ nặng nhẹ của đỉnh là ở tại đức chứ không phải ở tại bản thân chiếc đỉnh. Trước đây, triều Hạ khi có đức, đã đem các vật ở phương xa vẽ thành đồ tượng, bảo 9 châu tiến cống thanh đồng, đúc thành 9 đỉnh, đồng thời đem đồ tượng đúc lên trên thân đỉnh. Cho nên mọi thứ đều có trên đỉnh, khiến bách tính biết được thần vật và ác vật. Nhân đó bách tính tiến vào sông hồ ao đầm hay rừng núi không gặp phải quỷ quái li mị võng lượng. Hạ Kiệt hôn loạn, đỉnh dời đến nhà Thương, trước sau 600 năm. Trụ Vương nhà Thương bạo ngược, đỉnh lại dời đến nhà Chu. Đức hạnh nếu quả mĩ thiện quang minh, thì đỉnh tuy nhỏ cũng rất nặng; nếu gian tà hôn loạn, đỉnh tuy lớn cũng rất nhẹ. Trời ban phúc cho người có đức sáng đều có kì hạn. Chu Thành Vương đem 9 đỉnh đặt tại Giáp Nhục, kết quả chiêm bốc là truyền thế 30 đời, hưởng quốc 700 năm. Đó là mệnh trời. Đức hạnh triều Chu tuy có suy giảm, nhưng mệnh trời chưa thay đổi. Đỉnh nặng hay nhẹ không thể hỏi đến.
Sở Trang Vương nghe mấy lời của Vương Tôn Mãn, biết nhà Chu vẫn còn có ảnh hưởng đối với các chư hầu, nên không dám khinh suất đánh nhà Chu, đã dẫn quân quay về.
Thời cổ, đỉnh tượng trưng cho quyền lực quốc gia. Sở Trang Vương hỏi đỉnh là có ý muốn thay thế nhà Chu. Thành ngữ “vấn đỉnh trung nguyên” bắt nguồn từ đây".

---------------------

Qua như câu chuyện ở trên. Để khai thác toàn diện, ta nhất định dụng đến 3 công cụ như tôi đã từng nói qua như : Lý - Tượng - Số.

Trước hết ta bàn ở Lý.

Tổng ý theo như ở trên thì; Ta nhận thấy Vua Đại Vũ xuất phát từ việc trị thủy thành công mà đã tiến hành bày ra để cúng tế trời đất, thần linh. Bởi đỉnh vốn là cái vạc dùng để nấu thức ăn dâng lên, cúng tế mà ra. Từ đó, khắp chín châu đều phải dâng lên cái đỉnh của tộc mình mà tạ ơn thần linh. Và Đại Vũ sẽ thay mặt muôn dân mà đứng ra tế cáo chung. Tùy theo thần linh của mỗi tộc mà khắc họa lên đỉnh, tất cả là 9 đỉnh thể hiện của 9 châu vào lúc đấy cả thảy. Từ Cửu Đỉnh hình thành từ giai đoạn cột mốc của sự kiện lịch sử trị thủy này. Và Đại Vũ cũng tùy theo linh vật tổ của mỗi bộ tộc khắc trên đỉnh ấy, để mà điều hành cũng như phân công sự việc cụ thể. Cũng tùy theo bản tính của linh vật nào mà tùy thời, vận mà tộc ấy trong năm phải mang lễ vật đến tiến cống tạ lễ. Cứ thế mà luân chuyển trọn năm, bất di bất dịch. Không theo tùy ý của bất kể ai, cho dù kẻ đó có là Thiên Tử. Quy luật này cốt là dựa trên nguyên tắc của 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư của Phong Hậu ngày trước lập ra. Không phải ngẫu nhiên hay tùy ý suy diễn mà bày biện cho được.

Từ đó suy ra... Ta thấy hai linh vật Long và Quy của tộc Bách Việt mới đủ khả năng đi sông hồ, ao đầm, núi rừng mà không bị quỷ quái, li mị... xâm hại được. Còn lại các tộc khác thì tùy theo tượng vật tổ mà phân công. Ví dụ như Trâu (tộc Thần Nông) thì phân công cày ruộng, Gấu (tộc Hoàng Đế) thì phân công đi rừng, làm rẫy v.v...

Vì thế, chỉ có bậc Vương mới có uy quyền giữ đỉnh chung. Các chư hầu nhất định hàng năm phải tiến cống lễ vật mà dâng lên. Đó là Văn Hóa thuở sơ khai của thời Nhà Hạ. Cho nên ta thấy khi triều đại dứt, thì Cửu Đỉnh sẽ được chuyển đến cho triều đại mới. Vì thế mới có hiện tượng dời từ Nhà Hạ, Thương, Chu v.v... Và cũng kể từ giai đoạn này, Cửu Đỉnh là để ám chỉ đến ngôi Vương, bởi Vương mới có quyền giữ Đỉnh để tế cáo trời đất mà thôi. Các chư Hầu cũng nhất loạt theo lệ tục đó mà thờ lạy. Thuật ngữ hưởng Lộc Đỉnh hoặc Đỉnh Lộc cũng ám chỉ là dựa trên nguyên tắc này mà nói đến hưởng ơn Vua.

Từ đó ta mới hiểu được câu: "Nhất ngôn cử đỉnh". Ý là nói đến việc "Cử Đỉnh" là việc đoạt Vương, tranh Đế mà ra. Thiên hạ về sau suy không thấu nguồn gốc, cứ nghĩ rằng... nhấc cái đỉnh lên (cử đỉnh...), ý là để nói người khỏe mạnh (...đi quanh sân rồi... để xuống!) "!?". Rõ là lạc gốc thì tai họa như thế đấy.

Cho nên ta xét thấy:

Triều đại nào Đức đầy thì khó có ai có thể dời nổi Đỉnh đi nơi nào khác cho được. Khi triều đại tha hóa, Đức mỏng, ắt chư hầu chinh phạt mà dời đi một cách dễ dàng. Đó cũng là hàm ý mà Vương Tôn Mãn đã nói với Sở Trang Vương trong câu chuyện này. Cái Đỉnh nặng hay nhẹ, cốt là ở ý này vậy. Bởi trước đó, Sở Trang Vương đã không biết cách đặt câu hỏi nặng nhẹ... nông sâu.

Thế nhưng nếu ta xem xét ở một tầng sâu hơn nữa của tư duy thì thấy được rằng:

Sở Trang Vương ngày đó đã bị Vương Tôn Mãn hù dọa mà vỡ mật, chết khiếp đi rồi. Bởi Vương Tôn Mãn đã dựa vào Bốc Dịch của Văn Vương mà uy hiếp! Rằng quẻ bói; "...Kết quả chiêm bốc là truyền thế 30 đời, hưởng quốc 700 năm"... !! Khiến Sở Trang Vương bị lung lạc tinh thần. Rồi lẳng lặng mà rút quân! Ta cũng nên phải biết, Quẻ chiêm bốc "định đỉnh" ngày trước tại Giáp Nhục, chính bởi Chu Công Đán lập quẻ chứ không hề là bất kỳ ai khác.

Ta xét thấy trong ngày đó, Bốc Dịch đã gây ảnh hưởng lên tư tưởng của giai đoạn lịch sử này từ Quẻ Tiên Thiên cũng như Chu Dịch của Văn Vương mà ra cả. Điều đó nhất định do bởi sự mê tín là nòng cốt của mọi sự. Thứ đến mới là đức độ, nghĩa, nhân, lễ... mà mọi người đang cố gìn giữ. Bằng như ngày đó Sở Trang Vương làm loạn, ắt cũng dời được đỉnh ra khỏi Giáp Nhục một cách dễ dàng. Đó là tôi căn cứ luận vào câu nói của Vương Tôn Mãn... "Tuy đức độ nhà Chu có suy giảm...". Điều này có nghĩa là; Cái Đỉnh hiện nay đã nhẹ lắm rồi, do đức đã quá mỏng, không đủ đầy.

Và chính cái bia miệng truyền đời về quẻ Bốc Dịch của Văn Vương trước đó, đã nghiễm nhiên khiến cho chư hầu ra sức gìn giữ cho cơ đồ của Nhà Chu thọ hơn nữa và..., thêm lâu.

Đó là toàn ý về Lý, khi tôi bàn đến câu chuyện Vấn Đỉnh ở trên. Tiếp đến là Tượng:

Bởi giai đoạn này thì Khổng Tử chưa ra đời, cho nên ta chỉ có thể dựa trên những Tượng và Lý của Văn Vương và Chu Công Đán mà bàn thôi. Tuyệt đối những quan điểm bao gồm của... Khổng Tử, Khang Tiết, Trình Di hay Chu Hy là không có thể lạm bàn vào đây làm luận giải cho được.

Cho nên trước hết ta thấy khi Sở Trang Vương nhân tiện gặp sông Lạc Thủy. Sở Trang Vương liền nhớ đến chuyện ngày xưa, khi Đại Vũ trị thủy và bắt gặp Lạc Thư tại đây. Cửu Đỉnh cũng chào đời kể từ sau sự kiện đó. Chính "cái Tượng" này, khiến Sở Trang Vương đóng quân lại và "có ý" hỏi Chu Định Vương về Cửu Đỉnh! Kể, Sở Trang Vương cũng uống dư "mật gấu" trong giai đoạn đó rồi vậy. Và sự kiện "Vấn Đỉnh" như trên, đã được lịch sử tích lũy lại, làm "sự tích" cho đến hôm nay.

Tượng Dịch thể hiện tiếp theo ở: Sở Trang Vương chính là một tộc Việt trong nhóm Bách Việt ngày đó. Dĩ nhiên Vương biết rất rõ cái Đỉnh này vốn là của dòng Bách Việt mà ra cả thôi. Tượng phương Nam chính là ở quẻ Ly. Phàm Quẻ Đỉnh lại là quẻ biến thứ 3 từ Bát Thuần Ly mà ra. Là Tượng của Bách Việt.

Nhân vì Tượng đó mà Sở Trang Vương đã ghé lại, "Vấn Đỉnh" Chu Định Vương mà thăm dò... Không may cho Sở Trang Vương trong ngày đó là: Khả năng về Dịch Học thì thiếu, trong khi Dịch Bốc lại có thừa. Bởi Tượng của Quẻ Đỉnh, lại ở "kỳ biến" của Hào thứ 3 trong quẻ Đỉnh có "ngôn tượng" rằng: "Tai Vạc đổi ... Thửa lấp đi... Mỡ con chim trĩ không ăn..."

Điều này có tiềm ẩn ý là: Vạc đã có thể đổi chủ được rồi vậy. Thời thế đã che lấp hết cả rồi. Mỡ của con Chim Trĩ đấy, Nhưng Sở Trang Vương không dám ăn bởi: Tiến lên một bước là Hào Tư.

Hào thứ 4 của Quẻ Đỉnh có ngôn Tượng: "Vạc gẫy chân...! Đổ đồ ăn của ông !! Thuở tội giết kín (hình ốc), hung !!!

Và chính điều này đã khiến cho Sở trang Vương còn lung lay tư tưởng, ra chiều chưa vững... Mà chùng tay chăng ?!. Cái sơ suất của Sở Trang Vương là không xem xét kỹ càng Hào 3 còn có câu tiềm ẩn như sau: "Tai Vạc đã đổi... Mất thửa nghĩ vậy". Và đảo ngôn tượng: Thửa tội giết kín theo cái lý điên đảo của Dịch Thể. Ắt Sở Trang Vương đã có thể "Cử Đỉnh" ngay sau khi "Vấn Ngôn" trong sự kiện lịch sử ngày đó, trước sự minh chứng của dòng Lạc Thủy rồi.

Tóm lại: Cơ đồ ngày đó có thể nói rằng đang nằm gọn trong tay của Sở Trang Vương. Cũng bởi do đã đặt hết cơ đồ vào quẻ Chiêm Bốc mà ra nông nổi cả.

Thế nhưng, nếu như trong ngày đó Sở Trang Vương Chiêm, gẫm kỷ hơn cái Tượng của Chính Mệnh của mình thì có lẻ đã khác. (Lưu ý; Ở đây tôi không bàn đến quẻ Biến. Tôi dành điều đó cho các bạn khác chiêm nghiệm mà tự đắc ý. Chắc chắn còn rất nhiều điều lý thú đang chờ khai thác).

Bởi tên của Sở Trang Vương chính là Lữ !!!

Cũng đồng thời là Quẻ Biến ở thời kỳ thứ hai trước khi tới Quẻ Đỉnh của chính Tượng Thuần Ly ! Đó, chính là Thiên Tượng mặc định. Bởi Tượng của Quẻ Lữ vốn lại là Lữ Hành. Ứng với tình thế lúc đấy của Sở Trang Vương. Ý của quẻ Lữ thể hiện là: "Hanh thông, tuy nhỏ nhưng cứ đi, chính bền sẽ tốt vậy". Bởi Tượng Hào biến kỳ 2 có giải nghĩa rõ ràng rằng: "Gặp phải thằng nhỏ đầy tớ chính bền...". Quả Tượng ứng không may là Sở Trang Vương đã gặp phải "thằng nhỏ đầy tớ" Vương Tôn Mãn, bền lòng, trung chính rồi vậy.

Và Hào đắc ngôi của Quẻ Lữ, Hào 5, ngôn Tượng đã trách Sở Trang Vương bắn hụt con Chim Trĩ rồi vậy. Từ Tượng Quẻ Lữ này nên mới có Tượng Quẻ Đỉnh tiếp theo sau đó là: "Mỡ của con Chim Trĩ đấy, Nhưng Sở Trang Vương đã không dám ăn" !!

Và cuối cùng, Ngôn Tượng của Quẽ Lữ kết luận tiếc than rằng: "Lấy việc của kẻ hành Lữ ở trên, Thời của cái nghĩa cháy mất rồi, mất Trâu dễ dàng ! Trọn chẳng nghe vậy !!...

Đó là công cụ khai thác thứ hai cho câu chuyện trên, bao gồm Lý và Tượng. Và công cụ thứ 3 là Số.

Tôi e rằng rất khó để tôi có thể trình bày ra đây rồi vậy. Tôi cũng thường nói với bạn bè rằng: Mọi người không biết là họ thường hỏi về những điều mà; Khi tôi lý giải, thì không đủ để lĩnh hội nổi. Bởi Tôi cũng từng nói trong page này là; Bói Dịch có thiếu vắng nền tảng của Số ít nhiều, từ đó nên mới xảy ra việc thiếu tính chính xác hơn Tử Vi là vì thế.

Bởi muốn trình bày được cục diện nào trong 72 thế cục thì bắt buộc ta phải lập đồ hình. Xét Thái Ất Thần Kinh thì chưa có ai lĩnh hội nổi rồi. Vậy ta sẽ lập Kỳ Môn Độn Giáp mà bàn tiếp vậy. Bởi tôi nghe đâu... Hiện nay có rất nhiều người "có vẻ" như là rất am hiểu về Kỳ Môn Độn Giáp! Vậy ta dùng cái mà đã có rất nhiều người hiểu biết, để bàn luận tiếp nhé.

Như tôi có nói; Đề tài này vốn không phải là của page này. Nó rất dễ làm lạc đề. Tuy nhiên, nếu bạn Lâm Ngọc Minh muốn tiếp tục nghi ngờ... Xin nhường bạn lập Thế Cục của Tượng Số từ điều dễ hiểu hơn là Kỳ Môn Độn Giáp ra đây. Tôi sẽ tiếp tục luận giải công cụ Số cùng mọi người vậy.

Tôi lưu ý: Tôi sẽ chỉ định bằng toán học, và giải tại sao vận số Nhà Chu phải nằm trong vòng của 720 năm, không khác.

Đồng thời; Cũng tránh những ai cứ theo như cách nói của bạn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

là "nặc ảnh tị hình" ( bạn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

phải dùng câu đó ở đây mới không lộn địa chỉ). Không khéo ai đó cứ coppy ở đâu đó, rồi lại vội mang ra đây thì... mệt cho tôi lắm đây. Bởi như bài này là một điển hình vậy.

... Vẫn còn rơi lại câu hỏi cuối của bạn Lâm Ngọc Minh, tôi kết thúc như sau:

3) Như tôi "đã có viết"; An Dương Vương bỏ ngỏ khu vực Ngũ Lĩnh. Vậy khi Hai Bà nổi lên đánh, liên tiếp hạ 65 thành trì. Dĩ nhiên toàn vùng phải được đánh dẹp. Nhất định Đền Thờ của Hai Bà phải hiện diện tại những nơi đã từng diễn ra chiến địa khi ấy thôi.

.

TRẢ LỜI CÂU HỎI BẠN ĐỌC

( trích câu hỏi của bạn Lâm Ngọc Minh dưới bài Dòng Sử Đục)
Lâm Ngọc Minh
Chuyện kể Thánh Gióng 3 năm không nói, khi bật dậy đòi đánh giặc Ân (Thương??? 1100 TCN). Thánh Gióng đòi ngựa sắt, gậy sắt, giáp sắp (đồ sắt Đông Á khoảng năm 600 TCN)...
Câu chuyện khác: Sở Trang Vương - Tên Hùng Lữ (Hùng Vương???) khoảng năm 600 TCN, sau khi lên ngôi ăn chơi 3 năm ở hậu cung. Sau đó làm nên nghiệp bá. Đã từng "vấn đỉnh" của Chu Vương (cùng hàng VƯƠNG")...
có gợi ý gì cho mọi người không?
Đến thời Hai bà Trưng - đất vẫn đến sông Dương tử, Động Đình hồ, đền Vua Bà khắp nơi...

Trả lời:
Câu hỏi của bạn có vẻ "lạc đề" (lạc khách) và dễ khiến "lạc chủ" đề của page mất. Tuy nhiên tôi vẫn xem xét và có câu trả lời như sau:

1) Thứ nhất; Những ký sự này vốn ở Phía Bên Kia Không Gian Chiều Thứ Tư. Bạn lại hỏi ở bên này của không gian 3 chiều rồi! Cho dù cứ cho là như thế đi chăng nữa. Vấn đề là ta phải hiểu cái ý gì tiềm ẩn phía bên kia của cái áo nghĩa đó mà thôi. Trước hết "Hùng Lữ (Hùng Vương???)"; Không phải cứ thấy họ Hùng, là suy diễn nhận... "bà con" thân thích cho được.

Ranh giới sông Dương Tử vốn đã được Đại Vũ và Lộc Tục phân định rõ ràng từ nạn lụt hồng thủy. Thế nên nước Xích Quỷ ra đời và Lộc Tục mới xưng Vương với hiệu là Kinh Dương Vương được. Đến Văn Vương, sử Việt mới ghi là "xâm lược". Sử ký Tư Mã Thiên cũng phải ghi là đi đánh "Nước Sùng". Và Văn Vương cũng chỉ có thể gọi là xua quân qua nước Văn Lang, rồi rút về. Giai đoạn của Tần Thủy Hoàng cũng thống nhất ranh giới ấy. Cho nên Phù Tô và Mông Điềm đi xây ải xa ngoài biên cương, chính là tại ranh giới của sông Dương Tử đối với Nước Âu Lạc của An Dương Vương.

Nước Sở trong giai đoạn Chiến Quốc đó, hoàn toàn nằm trong giới phận của Nhà Chu. Vì thế Sở Trang Vương chỉ là một dòng trong nhóm Bách Việt, đang định cư tại vùng địa phương của Nhà Chu mà thôi. Tạm như thế này nhé:

Ngày xưa Thánh Gióng dẹp giặc Ân, đòi ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Vậy từ đó suy ra: Hôm nay nhất định phải có Thần Gánh để dẹp giặc Nghĩa rồi vậy! Non sông xưa mới có Gióng, còn thiếu Gánh nữa mới có thể đủ bộ "Gióng Gánh" mà gánh vác cơ đồ tương lai cho dân tộc trọn vẹn được.

Ví dụ: Cứ cho tôi là Thần Gánh đi. Thì tôi cũng nhất định phải đòi đủ 3 yếu tố đó như: Ngựa Sắt của huyền thoại bước ra thực tại là một con ngựa tên Mersedes hoặc tên Chuyên Cơ chẳng hạn. Giáp Sắt hóa thân ở một địa vị xã hội nhất định, để mọi đàm tiếu ( ... ) bất khả xâm phạm. Và cuối cùng Roi Sắt chính là (Như Ý Kim Cô Bổng, hai đầu nạm vàng) biểu hiện ở: Nguồn kinh phí để thực thi. Nhất định: "Vai mang túi bạc kè kè, nói ... người nghe ầm ầm". Có thế, mới mong dẹp tan "Giặc Nghĩa" hôm nay được.

2) Câu chuyện Sở Trang Vương. Đã từng "vấn đỉnh" của Chu Vương (cùng hàng VƯƠNG")... có gợi ý gì cho mọi người không?

Theo "yêu cầu" của bạn Lâm Ngọc Minh, tôi có gợi ý như thế này:

Khi ta đọc sách, ta phải đủ để biết và hiểu được tác giả đó là ai? Và họ viết gì? Họ viết gì thì viết, còn tư duy của ta nữa. Đó là chưa nói đến ta không đủ để hiểu ý gì tiềm ẩn trong tác phẩm, mà tác giả đã gửi gắm trong đó nữa. Không khéo, ta tích lũy Thau mà cứ ngỡ là Vàng. Lỡ có mang ra thi thố thì nguy to...

Về câu chuyện này thì tôi không quan tâm đến, vả lại cũng không phải dòng đề tài trên page này. Tuy nhiên, tôi cũng chép lại câu chuyện "vấn đỉnh" để mọi người cùng tham khảo và tham gia... Theo như ý của câu hỏi bạn Lâm Ngọc Minh;

"Mùa xuân năm 606 trước công nguyên Sở Trang Vương dẫn quân thảo phạt nước Lục Hồn của người Nhung. đến sông Lạc trong địa phận triều Chu dàn binh thị uy. Chu Định Vương sai đại phu Vương Tôn Mãn đi uý lạo Sở Trang Vương. Sở Trang Vương hỏi về 9 chiếc đỉnh lớn nhỏ nặng nhẹ như thế nào. Vương Tôn Mãn đáp rằng:

- Sự lớn nhỏ nặng nhẹ của đỉnh là ở tại đức chứ không phải ở tại bản thân chiếc đỉnh. Trước đây, triều Hạ khi có đức, đã đem các vật ở phương xa vẽ thành đồ tượng, bảo 9 châu tiến cống thanh đồng, đúc thành 9 đỉnh, đồng thời đem đồ tượng đúc lên trên thân đỉnh. Cho nên mọi thứ đều có trên đỉnh, khiến bách tính biết được thần vật và ác vật. Nhân đó bách tính tiến vào sông hồ ao đầm hay rừng núi không gặp phải quỷ quái li mị võng lượng. Hạ Kiệt hôn loạn, đỉnh dời đến nhà Thương, trước sau 600 năm. Trụ Vương nhà Thương bạo ngược, đỉnh lại dời đến nhà Chu. Đức hạnh nếu quả mĩ thiện quang minh, thì đỉnh tuy nhỏ cũng rất nặng; nếu gian tà hôn loạn, đỉnh tuy lớn cũng rất nhẹ. Trời ban phúc cho người có đức sáng đều có kì hạn. Chu Thành Vương đem 9 đỉnh đặt tại Giáp Nhục, kết quả chiêm bốc là truyền thế 30 đời, hưởng quốc 700 năm. Đó là mệnh trời. Đức hạnh triều Chu tuy có suy giảm, nhưng mệnh trời chưa thay đổi. Đỉnh nặng hay nhẹ không thể hỏi đến.
Sở Trang Vương nghe mấy lời của Vương Tôn Mãn, biết nhà Chu vẫn còn có ảnh hưởng đối với các chư hầu, nên không dám khinh suất đánh nhà Chu, đã dẫn quân quay về.
Thời cổ, đỉnh tượng trưng cho quyền lực quốc gia. Sở Trang Vương hỏi đỉnh là có ý muốn thay thế nhà Chu. Thành ngữ “vấn đỉnh trung nguyên” bắt nguồn từ đây".

---------------------

Qua như câu chuyện ở trên. Để khai thác toàn diện, ta nhất định dụng đến 3 công cụ như tôi đã từng nói qua như : Lý - Tượng - Số.

Trước hết ta bàn ở Lý.

Tổng ý theo như ở trên thì; Ta nhận thấy Vua Đại Vũ xuất phát từ việc trị thủy thành công mà đã tiến hành bày ra để cúng tế trời đất, thần linh. Bởi đỉnh vốn là cái vạc dùng để nấu thức ăn dâng lên, cúng tế mà ra. Từ đó, khắp chín châu đều phải dâng lên cái đỉnh của tộc mình mà tạ ơn thần linh. Và Đại Vũ sẽ thay mặt muôn dân mà đứng ra tế cáo chung. Tùy theo thần linh của mỗi tộc mà khắc họa lên đỉnh, tất cả là 9 đỉnh thể hiện của 9 châu vào lúc đấy cả thảy. Từ Cửu Đỉnh hình thành từ giai đoạn cột mốc của sự kiện lịch sử trị thủy này. Và Đại Vũ cũng tùy theo linh vật tổ của mỗi bộ tộc khắc trên đỉnh ấy, để mà điều hành cũng như phân công sự việc cụ thể. Cũng tùy theo bản tính của linh vật nào mà tùy thời, vận mà tộc ấy trong năm phải mang lễ vật đến tiến cống tạ lễ. Cứ thế mà luân chuyển trọn năm, bất di bất dịch. Không theo tùy ý của bất kể ai, cho dù kẻ đó có là Thiên Tử. Quy luật này cốt là dựa trên nguyên tắc của 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư của Phong Hậu ngày trước lập ra. Không phải ngẫu nhiên hay tùy ý suy diễn mà bày biện cho được.

Từ đó suy ra... Ta thấy hai linh vật Long và Quy của tộc Bách Việt mới đủ khả năng đi sông hồ, ao đầm, núi rừng mà không bị quỷ quái, li mị... xâm hại được. Còn lại các tộc khác thì tùy theo tượng vật tổ mà phân công. Ví dụ như Trâu (tộc Thần Nông) thì phân công cày ruộng, Gấu (tộc Hoàng Đế) thì phân công đi rừng, làm rẫy v.v...

Vì thế, chỉ có bậc Vương mới có uy quyền giữ đỉnh chung. Các chư hầu nhất định hàng năm phải tiến cống lễ vật mà dâng lên. Đó là Văn Hóa thuở sơ khai của thời Nhà Hạ. Cho nên ta thấy khi triều đại dứt, thì Cửu Đỉnh sẽ được chuyển đến cho triều đại mới. Vì thế mới có hiện tượng dời từ Nhà Hạ, Thương, Chu v.v... Và cũng kể từ giai đoạn này, Cửu Đỉnh là để ám chỉ đến ngôi Vương, bởi Vương mới có quyền giữ Đỉnh để tế cáo trời đất mà thôi. Các chư Hầu cũng nhất loạt theo lệ tục đó mà thờ lạy. Thuật ngữ hưởng Lộc Đỉnh hoặc Đỉnh Lộc cũng ám chỉ là dựa trên nguyên tắc này mà nói đến hưởng ơn Vua.

Từ đó ta mới hiểu được câu: "Nhất ngôn cử đỉnh". Ý là nói đến việc "Cử Đỉnh" là việc đoạt Vương, tranh Đế mà ra. Thiên hạ về sau suy không thấu nguồn gốc, cứ nghĩ rằng... nhấc cái đỉnh lên (cử đỉnh...), ý là để nói người khỏe mạnh (...đi quanh sân rồi... để xuống!) "!?". Rõ là lạc gốc thì tai họa như thế đấy.

Cho nên ta xét thấy:

Triều đại nào Đức đầy thì khó có ai có thể dời nổi Đỉnh đi nơi nào khác cho được. Khi triều đại tha hóa, Đức mỏng, ắt chư hầu chinh phạt mà dời đi một cách dễ dàng. Đó cũng là hàm ý mà Vương Tôn Mãn đã nói với Sở Trang Vương trong câu chuyện này. Cái Đỉnh nặng hay nhẹ, cốt là ở ý này vậy. Bởi trước đó, Sở Trang Vương đã không biết cách đặt câu hỏi nặng nhẹ... nông sâu.

Thế nhưng nếu ta xem xét ở một tầng sâu hơn nữa của tư duy thì thấy được rằng:

Sở Trang Vương ngày đó đã bị Vương Tôn Mãn hù dọa mà vỡ mật, chết khiếp đi rồi. Bởi Vương Tôn Mãn đã dựa vào Bốc Dịch của Văn Vương mà uy hiếp! Rằng quẻ bói; "...Kết quả chiêm bốc là truyền thế 30 đời, hưởng quốc 700 năm"... !! Khiến Sở Trang Vương bị lung lạc tinh thần. Rồi lẳng lặng mà rút quân! Ta cũng nên phải biết, Quẻ chiêm bốc "định đỉnh" ngày trước tại Giáp Nhục, chính bởi Chu Công Đán lập quẻ chứ không hề là bất kỳ ai khác.

Ta xét thấy trong ngày đó, Bốc Dịch đã gây ảnh hưởng lên tư tưởng của giai đoạn lịch sử này từ Quẻ Tiên Thiên cũng như Chu Dịch của Văn Vương mà ra cả. Điều đó nhất định do bởi sự mê tín là nòng cốt của mọi sự. Thứ đến mới là đức độ, nghĩa, nhân, lễ... mà mọi người đang cố gìn giữ. Bằng như ngày đó Sở Trang Vương làm loạn, ắt cũng dời được đỉnh ra khỏi Giáp Nhục một cách dễ dàng. Đó là tôi căn cứ luận vào câu nói của Vương Tôn Mãn... "Tuy đức độ nhà Chu có suy giảm...". Điều này có nghĩa là; Cái Đỉnh hiện nay đã nhẹ lắm rồi, do đức đã quá mỏng, không đủ đầy.

Và chính cái bia miệng truyền đời về quẻ Bốc Dịch của Văn Vương trước đó, đã nghiễm nhiên khiến cho chư hầu ra sức gìn giữ cho cơ đồ của Nhà Chu thọ hơn nữa và..., thêm lâu.

Đó là toàn ý về Lý, khi tôi bàn đến câu chuyện Vấn Đỉnh ở trên. Tiếp đến là Tượng:

Bởi giai đoạn này thì Khổng Tử chưa ra đời, cho nên ta chỉ có thể dựa trên những Tượng và Lý của Văn Vương và Chu Công Đán mà bàn thôi. Tuyệt đối những quan điểm bao gồm của... Khổng Tử, Khang Tiết, Trình Di hay Chu Hy là không có thể lạm bàn vào đây làm luận giải cho được.

Cho nên trước hết ta thấy khi Sở Trang Vương nhân tiện gặp sông Lạc Thủy. Sở Trang Vương liền nhớ đến chuyện ngày xưa, khi Đại Vũ trị thủy và bắt gặp Lạc Thư tại đây. Cửu Đỉnh cũng chào đời kể từ sau sự kiện đó. Chính "cái Tượng" này, khiến Sở Trang Vương đóng quân lại và "có ý" hỏi Chu Định Vương về Cửu Đỉnh! Kể, Sở Trang Vương cũng uống dư "mật gấu" trong giai đoạn đó rồi vậy. Và sự kiện "Vấn Đỉnh" như trên, đã được lịch sử tích lũy lại, làm "sự tích" cho đến hôm nay.

Tượng Dịch thể hiện tiếp theo ở: Sở Trang Vương chính là một tộc Việt trong nhóm Bách Việt ngày đó. Dĩ nhiên Vương biết rất rõ cái Đỉnh này vốn là của dòng Bách Việt mà ra cả thôi. Tượng phương Nam chính là ở quẻ Ly. Phàm Quẻ Đỉnh lại là quẻ biến thứ 3 từ Bát Thuần Ly mà ra. Là Tượng của Bách Việt.

Nhân vì Tượng đó mà Sở Trang Vương đã ghé lại, "Vấn Đỉnh" Chu Định Vương mà thăm dò... Không may cho Sở Trang Vương trong ngày đó là: Khả năng về Dịch Học thì thiếu, trong khi Dịch Bốc lại có thừa. Bởi Tượng của Quẻ Đỉnh, lại ở "kỳ biến" của Hào thứ 3 trong quẻ Đỉnh có "ngôn tượng" rằng: "Tai Vạc đổi ... Thửa lấp đi... Mỡ con chim trĩ không ăn..."

Điều này có tiềm ẩn ý là: Vạc đã có thể đổi chủ được rồi vậy. Thời thế đã che lấp hết cả rồi. Mỡ của con Chim Trĩ đấy, Nhưng Sở Trang Vương không dám ăn bởi: Tiến lên một bước là Hào Tư.

Hào thứ 4 của Quẻ Đỉnh có ngôn Tượng: "Vạc gẫy chân...! Đổ đồ ăn của ông !! Thuở tội giết kín (hình ốc), hung !!!

Và chính điều này đã khiến cho Sở trang Vương còn lung lay tư tưởng, ra chiều chưa vững... Mà chùng tay chăng ?!. Cái sơ suất của Sở Trang Vương là không xem xét kỹ càng Hào 3 còn có câu tiềm ẩn như sau: "Tai Vạc đã đổi... Mất thửa nghĩ vậy". Và đảo ngôn tượng: Thửa tội giết kín theo cái lý điên đảo của Dịch Thể. Ắt Sở Trang Vương đã có thể "Cử Đỉnh" ngay sau khi "Vấn Ngôn" trong sự kiện lịch sử ngày đó, trước sự minh chứng của dòng Lạc Thủy rồi.

Tóm lại: Cơ đồ ngày đó có thể nói rằng đang nằm gọn trong tay của Sở Trang Vương. Cũng bởi do đã đặt hết cơ đồ vào quẻ Chiêm Bốc mà ra nông nổi cả.

Thế nhưng, nếu như trong ngày đó Sở Trang Vương Chiêm, gẫm kỷ hơn cái Tượng của Chính Mệnh của mình thì có lẻ đã khác. (Lưu ý; Ở đây tôi không bàn đến quẻ Biến. Tôi dành điều đó cho các bạn khác chiêm nghiệm mà tự đắc ý. Chắc chắn còn rất nhiều điều lý thú đang chờ khai thác).

Bởi tên của Sở Trang Vương chính là Lữ !!!

Cũng đồng thời là Quẻ Biến ở thời kỳ thứ hai trước khi tới Quẻ Đỉnh của chính Tượng Thuần Ly ! Đó, chính là Thiên Tượng mặc định. Bởi Tượng của Quẻ Lữ vốn lại là Lữ Hành. Ứng với tình thế lúc đấy của Sở Trang Vương. Ý của quẻ Lữ thể hiện là: "Hanh thông, tuy nhỏ nhưng cứ đi, chính bền sẽ tốt vậy". Bởi Tượng Hào biến kỳ 2 có giải nghĩa rõ ràng rằng: "Gặp phải thằng nhỏ đầy tớ chính bền...". Quả Tượng ứng không may là Sở Trang Vương đã gặp phải "thằng nhỏ đầy tớ" Vương Tôn Mãn, bền lòng, trung chính rồi vậy.

Và Hào đắc ngôi của Quẻ Lữ, Hào 5, ngôn Tượng đã trách Sở Trang Vương bắn hụt con Chim Trĩ rồi vậy. Từ Tượng Quẻ Lữ này nên mới có Tượng Quẻ Đỉnh tiếp theo sau đó là: "Mỡ của con Chim Trĩ đấy, Nhưng Sở Trang Vương đã không dám ăn" !!

Và cuối cùng, Ngôn Tượng của Quẽ Lữ kết luận tiếc than rằng: "Lấy việc của kẻ hành Lữ ở trên, Thời của cái nghĩa cháy mất rồi, mất Trâu dễ dàng ! Trọn chẳng nghe vậy !!...

Đó là công cụ khai thác thứ hai cho câu chuyện trên, bao gồm Lý và Tượng. Và công cụ thứ 3 là Số.

Tôi e rằng rất khó để tôi có thể trình bày ra đây rồi vậy. Tôi cũng thường nói với bạn bè rằng: Mọi người không biết là họ thường hỏi về những điều mà; Khi tôi lý giải, thì không đủ để lĩnh hội nổi. Bởi Tôi cũng từng nói trong page này là; Bói Dịch có thiếu vắng nền tảng của Số ít nhiều, từ đó nên mới xảy ra việc thiếu tính chính xác hơn Tử Vi là vì thế.

Bởi muốn trình bày được cục diện nào trong 72 thế cục thì bắt buộc ta phải lập đồ hình. Xét Thái Ất Thần Kinh thì chưa có ai lĩnh hội nổi rồi. Vậy ta sẽ lập Kỳ Môn Độn Giáp mà bàn tiếp vậy. Bởi tôi nghe đâu... Hiện nay có rất nhiều người "có vẻ" như là rất am hiểu về Kỳ Môn Độn Giáp! Vậy ta dùng cái mà đã có rất nhiều người hiểu biết, để bàn luận tiếp nhé.

Như tôi có nói; Đề tài này vốn không phải là của page này. Nó rất dễ làm lạc đề. Tuy nhiên, nếu bạn Lâm Ngọc Minh muốn tiếp tục nghi ngờ... Xin nhường bạn lập Thế Cục của Tượng Số từ điều dễ hiểu hơn là Kỳ Môn Độn Giáp ra đây. Tôi sẽ tiếp tục luận giải công cụ Số cùng mọi người vậy.

Tôi lưu ý: Tôi sẽ chỉ định bằng toán học, và giải tại sao vận số Nhà Chu phải nằm trong vòng của 720 năm, không khác.

Đồng thời; Cũng tránh những ai cứ theo như cách nói của bạn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

là "nặc ảnh tị hình" ( bạn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

phải dùng câu đó ở đây mới không lộn địa chỉ). Không khéo ai đó cứ coppy ở đâu đó, rồi lại vội mang ra đây thì... mệt cho tôi lắm đây. Bởi như bài này là một điển hình vậy.

... Vẫn còn rơi lại câu hỏi cuối của bạn Lâm Ngọc Minh, tôi kết thúc như sau:

3) Như tôi "đã có viết"; An Dương Vương bỏ ngỏ khu vực Ngũ Lĩnh. Vậy khi Hai Bà nổi lên đánh, liên tiếp hạ 65 thành trì. Dĩ nhiên toàn vùng phải được đánh dẹp. Nhất định Đền Thờ của Hai Bà phải hiện diện tại những nơi đã từng diễn ra chiến địa khi ấy thôi.



17 - Lạc Thư tìm về Lạc Việt.

Ba vạn sáu nghìn ngày...

Là câu diễn tả thế cuộc trong cõi trăm năm của một đời người, và kẻ sĩ nhất định hiện diện đúng thời điểm, hầu lăm gánh non sông. Cho nên ta thấy chu kỳ của một Vận bao gồm 360 năm với hai Thế, tùy thời thịnh suy đắp đổi.

Và 3.600 năm là một Hội đất trời chu lưu vừa đủ. Đủ để cho mọi sự trôi lạc từ suối nguồn sơn khê về tới biển cả. Như dụ ngôn của Nhà Phật về con Rùa mù, tìm phải đoạn cây mục, trên một khúc của dòng sử nào đó. Đang trôi xuôi bề biển cả...

Nếu ta lấy thời gian giới hạn phạm vi đo lường trong khuôn sử 4000 năm để xem xét thì; Dòng sử mà con thuyền dân tộc Âu Lạc đang neo bến, chính là vùng địa phương mà Nhà Lê đang định xứ trong cuộc hành trình 3600 năm. Địa danh Hợp Phố, thêm một lần nữa bước ra từ huyền thoại và tụ hội tại địa phương của Nhà Mạc với Tuyết Giang Phu Tử.

Ta thấy Nhà Minh lúc đương thời là Minh Thế Tông đang phục hồi Dịch Kinh với nhóm Thiệu Nguyên Tiết và Đào Trọng Văn hòng ủ mưu..., rình rập, dòm ngó...

Thế nhưng... Xứ Việt bên ấy, có một Ngư Ông đang ngồi lẳng lặng "buông cần trúc...", trên dòng Tuyết Giang...!? Mà phát khiếp!

... Lại thêm..., còn hai học trò theo hầu là Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dư nữa !! (Nguyễn Dữ). Nhà Minh đành bỏ quên Giấc Nam Kha đi vậy. Đành chấp nhận ru dỗ với hai từ "Gia Tĩnh" mà nhắc nhở chớ có manh động, mà chuốc...

Bởi Thiên Cơ rất khôn lường. Những thế hệ con, cháu, chắt, chút, chít... Hì hục mài mực loang cả bến sử khi ấy mà công kích Nhà Mạc cho ra vẻ sĩ khí dân tộc !? Họ đều không đủ để nhìn thấy rằng: Nguyễn Bỉnh Khiêm đang phò Nhà Mạc đấy. Cái nguồn vốn đầu tư bằng quỹ đất vào Phương Bắc trong quá khứ từ đâu thì ta chưa rõ? Thế nhưng...; Cái lãi ròng từ lợi nhuận của Phương Nam ở tương lai đây thì..., miễn bàn.

Cái dự án với tiêu đề: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Đã đi thẳng vào huyền thoại và yên vị tại một nơi trang trọng nhất trong kho tàng lịch sử văn hóa của dân tộc Việt hàng trăm năm qua. Và..., mãi về sau nữa... Mãi mãi nữa...

Cho nên nhất định; Minh - Mẫn - Đế, nghị tông...!, rồi ra hoài tông...!! Đành ôm khối hoài mộng mà về với Hoàng Tuyền cùng nguyên tổ của mình vậy thôi.

Vấn đề mà ta cần phải xét tiếp là Nhà Thanh. Nỗ Nhĩ Cáp Xích vốn thuộc nước Đại Kim khi xưa. Bao gồm cả Nam - Bắc Triều hiện nay. Có nguồn gốc Người Mãn thuộc bộ tộc Nữ Chân chứ không phải là Người Hán thuộc bộ tộc Phục Hy! Trong cội nguồn lịch sử thuở tạo thiên lập địa. Cứ tạm xem là thời Phục Hy - Hoàng Đế - Xi Vưu. Thì bộ tộc Nữ Chân này vốn có mối ràng buộc cận huyết với bộ tộc Cửu Lê của Tiên Huyền Nữ.

Có một cách duy nhất để có thể tìm ra mối ràng buộc này thì chỉ có: Nhất định phải hồi phục tiếng Dao Cầm và Tiêu Khúc, mới có thể xác định được minh bạch mà thôi. Thời điểm đó chính là lúc Kinh Dịch hoàn toàn trở về với dân tộc Việt Nam. Và một trong những giá trị thất lạc của Kinh Dịch chính là phục hồi lại những điệu nhạc của Dao Cầm.

Trong quá khứ lịch sử của giống nòi; Thạch Sanh đã từng dùng tiếng Dao Cầm mà bãi binh 18 chư hầu làm khẳng định. Như tôi đã từng phát biểu: Tất cả huyền thoại sẽ bước ra thực tại trong một sớm một chiều... Ở vào thời điểm của một tương lai gần... và rất gần...

Vấn đề nhất định cần phải được đưa ra tòa công luận, trước vành móng ngựa (Tiêu Sương) trong thời kỳ cuối là: Tại sao những thực tại oan khốc mà người Trung Quốc vùi lấp chân lý ngàn xưa nay: Người Mông Cổ và Đại Kim biết rất rõ, nhưng họ vẫn có ý tiếp tục che lấp mong chiếm đoạt, mỗi khi có cơ hội đưa chân lý thực tại đó ra ánh sáng ?!

Tạm thời ta xếp những hồ sơ nghi vấn đó chung trong ký mã "Tham Vọng", chờ hạ hồi phân giải.

Điều mà tôi muốn nhắc đến chính là lúc Nhà Thanh không biết Càn cao Khôn rộng bao nhiêu trong thế giới Dịch Kinh mà dám cả gan đưa tay với thử. Thật không may cho Tôn Sĩ Nghị trong thời điểm của lịch sử đó. Trong giai đoạn này của lịch sử Việt. Kinh Dịch đang thể hiện thế Long Hổ Tranh Châu giữa sự hóa thân của Quang Trung và Gia Long. Điều mà trước khi ra roi mở cõi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng nhắc khéo họ Nguyễn, kẻo mà phải cảnh: " Hổ chiến Giao tranh tiếu lưỡng thù" rồi vậy.

Bất hạnh thay cho Nhà Thanh! Tôn Sĩ Nghị đã dẫn quân vào giữa hai đỉnh thác đang tuôn trào của dòng sử Việt. Và Tôn Sĩ Nghị đã làm nền cho Thiên Anh Hùng ca sử Việt ngày đó thêm hoàng tráng hơn mà thôi.

Bởi nhà Thanh hoàn toàn không thể nào ngờ được dân tộc Việt đang hiện diện như có như không một Cuồng Ẩn. Một Tiều Phu vẫn từng thường ngày hái củi ở La Sơn! Phải, Bởi kẻ cuồng ẩn đó bất chợt "tỉnh queo"... Và chống gậy đi..., lược trận cùng Quang Trung, trước quân Thanh, khi đã 65 tuổi !! Ấy là tôi chưa kể đến trong xó rừng còn có hai kẻ chán đời và đồng thời cũng là huynh đệ đồng môn của La Sơn Phu Tử là Như Ý Thiền và Tố Như nữa !!!

Một trong hai kẻ đó, đã từng phát biểu một câu xanh rờn sử sách: Tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như !?"... Chỉ biết rằng, âm thanh của câu nói đó, đã vang vọng và rền khắp trên toàn miền thế giới đương đại hôm nay. Hạ hồi sẽ rõ...

Thật đau lòng biết mấy, khi: Những thế hệ hiện nay... Vốn mù lòa văn hóa cội nguồn, què quặt tư duy giống nòi Việt tộc, ăn mày ngôn ngữ thừa thẹo..., đầy ô nhiễm. Rồi cuồng ngữ cùng trong nhà mà ra dại chợ với thiên hạ năm châu. Bởi đầy rẫy trên toàn miền địa cầu hiện nay. Những kẻ đứng đầu cũa những quốc gia tiến tiến nhất, văn hóa nhất. Vẫn thuộc nằm lòng, rồi nhắc chừng với Người Việt về Thơ Kiều của Nguyễn Du.

Đau lắm thay! (có vị cay...).

Kẻ còn lại, khóc mãi giữa núi rừng hoang vắng một mình là:

"Khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào.
Miếng tình nghẹn lắm biết làm sao.
Muốn kêu một tiếng cho to lắm.
Rằng... Ối ai ơi! Nó thế nào...".

Ôi! Sao mà cảm giác..., giống như nuốt trái cấm nơi vườn địa đàng, từ thuở nhân loại mới chào đời làm vậy!?

Quá nghẹn..., vướng... (thêm vị đắng).

Tôi nhất định phải dành riêng ra một trang bỏ trống! Để ta cùng gậm nhấm nỗi lòng của dân tộc chỗ... không có chữ nhé:

Ta cùng... Mặc Tưởng...

..., ..., ...

...Trong Thiên Thư có chép rằng:

Khi xưa, lúc Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay với mỗi người 50 người con dẫn theo...

50 người con theo Cha xuống biển, chính là những ai đã làm nên dòng lịch sử của 3.600 năm qua đó. Riêng 50 người con theo Mẹ lên non; Không phải bất kỳ ai khác hơn chính là... Vùng đất mà chúng ta ngày nay gọi là Chiêm Thành đấy !?

Thật kinh hoàng chung, cho mọi tư duy nhân loại của mọi đương đại.

Và Thiên Ý chỉ định: Nhất định giống nòi này phải nhìn nhận nhau lại trước khi Kỷ Nguyên Mới mở cửa. Và giai đoạn của 1975, đánh dấu hoàn tất ý chỉ đó. Mọi tư duy của nhân loại nói chung, bất khả lạm bàn. Thế cho nên; Cho dù trong giai đoạn của thời điểm lịch sử đó. Tất cả toàn cầu có đứng ra ngăn cản. Cũng sẽ là bất khả dĩ cho việc tiếp tục ngăn cách giống nòi Người Việt hôm nay, tìm về từ cội nguồn lưu lạc mãi ngàn xưa qua.

Hãy cẩn thận lời một cách tuyệt đối, với sự kiện thuộc về thiên cơ này. Kẻo nơi thời kỳ cuối lại phải gậm nhấm câu: "Họa tòng khẩu xuất, bệnh tòng khẩu nhập", cũng đã là muộn rồi vậy.

Cho nên ta mới xét thấy có một sự chí lý nơi quá khứ lịch sử khi: Cao Biền vốn là một kỳ nhân về thuật phong thủy xưa nay. Điều này ta nhất định phải công nhận, không thể đã phá một cách mê muội cho được. Cao Biền đã không thể nào hiểu nổi; Tại sao không điểm ra được "Đuôi Rồng" của dân tộc Việt, trong giai đoạn của dòng sử đục khi đó, để mà trấn yểm cho xong ?!

Bởi Thiên Cơ ngày đó khiến nơi địa phương của dòng Cha đã tan hoang. Nhất định Đuôi Rồng phải ẩn tàng bên định xứ của quê Mẹ là Chân Lạp. Cao Biền hoàn toàn không có thể nào ngờ cho được Chân Lạp ngày đó, chính là dòng của Âu Cơ đã dẫn 50 con đi định cõi khi xưa mà ra.

Vì thế: Người Trung Quốc! Xem chừng lại, về hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Bởi điều đó, tổ tiên người Việt đã từng có nhắc rõ trong quá khứ lịch sử rồi:

"Tiệt Nhiên Định Phận Tại Thiên Thư".

Chớ có gieo thêm bất kỳ một hạt giống tham vọng gì thêm, trước mùa gặt của Tạo Hóa nữa.


18 - ĐIỂM HUYỆT, NỐI MẠCH SỬ

Miền quá khứ địa phương cội nguồn của dân tộc Việt, chính là "Lỗ Đen" của lịch sử!

Mọi giá trị thông tin về giống nòi của Người Việt bất khả phản hồi, cho dù chỉ là một vài tín hiệu của sóng xác xuất...!? Mặc dù đã có biết bao thế hệ con cháu, đã phủ sóng trên khắp toàn miền quá khứ, trong suốt bao ngàn năm qua hòng dò tìm... cội nguồn.

Với khoảng cách 4000 năm của thời gian thì cũng chỉ có thể đến được vùng chân trời sự kiện của Lạc Long Quân và Âu Cơ mà thôi! Thế nhưng cũng có một số khá đông nhóm tư duy kiệt xuất của giống nòi, khảo sát vượt qua giới hạn của chân trời sự kiện đó! Tuy nhiên mọi nỗ lực đáng trân trọng ấy, cũng đành phải dừng lại tại chân trời sự cố mang tên Lộc Tục nơi địa phương Xích Quỹ mà thôi. Bởi phía bên kia vùng biến cố địa phương là Lỗ Đen rồi vậy. Vùng bất tưởng xứ địa phương.

Do mật độ vật chất dày đặc ở độ... bị nén toàn bộ thông tin bao gồm ánh sáng chìm khuất tận..., một nơi nào đó vốn là tâm của cái gọi là lỗ đen này. Ngay cả như ông hoàng của nền khoa học vật lý hiện đại là Hawking. Cũng chỉ có thể suy diễn đến vùng ngoài rìa của chân trời sự cố này mà thôi. Nhưng chí ít, điều đó cũng cho nhân loại chúng ta được một kỳ vọng...; Chắc chắn phía bên kia của miền biến cố địa phương của lỗ đen, có tích trữ thông tin, bao gồm các sự kiện !!

Và theo như nguyên tắc của nền khoa học vật lý. Ta có hai nguyên tắc:

1. Nếu có mô hình, thì ta dựa trên mô hình đó mà lập lý thuyết.

2. Hoặc nếu không có mô hình thì ta lập giả thuyết, và dựa trên giả thuyết đó để xây dựng mô hình.

Và Giả Thuyết đó, được thiết kế như sau:

Nụ hoa hàm tiếu...! Thi nhau nở rộ khắp chốn Tiên Bồng... Buổi bình minh thanh khiết chưa nhuốm bụi trần từ quá khứ thuở hồng hoang. Cùng rọi muôn tia nắng lấp lánh, dường tô điểm thêm cho những hạt sương mai, kết chuỗi ngọc, giăng khắp lục cõi, mừng đôi Thần Tiên kết duyên trường cửu.

Đó chính là khung cảnh nơi quá khứ của 7.000 năm trước của cội nguồn sử Việt. Khi Thần Xi Vưu kết duyên cùng Tiên Huyền Nữ! Hai đấng Thần Tiên đã sinh ra dòng Bách Việt.

Ta cũng nên phải biết rằng: Lúc đương thời thuở nguyên thủy khi đấy. Khắp trong lục cõi đã suy tôn lãnh tụ Xi Vưu của bộ tộc Tam Miêu là Thần Chiến Tranh. Đồng thời vị Tiên Nữ đứng đầu của bộ tộc Cửu Lê cũng được gọi với tên là Cửu Thiên Huyền Nữ.

Tên Bách Việt sở dĩ được đặt cho con cháu là; Gốc dựa theo tên gọi của một chiến cụ của Thần Xi Vưu để khẳng định thuộc giống nòi của Thần Chiến Tranh, là chiếc búa! Bởi theo tiếng gọi thời điểm đó thì "búa, rìu" cũng có nghĩa là "việt hay diệc" mà ra vậy (búa của thần sấm, Thần Thor). Từ cớ đó, cho nên về sau này; Hễ cứ mỗi khi có vị quân sư hoặc tướng lĩnh nào đó, muốn đăng đàn bái tướng. Nhất định đều phải có nghi lễ cấp "búa việt" và phát "cờ mao" để mà điều binh khiển tướng. Bởi "cờ mao" cũng lại là một biểu tượng khác của Tiên Huyền Nữ.

Thế cho nên ta mới thấy có sự cố là: Nếu các vị nào mà chưa làm lễ đăng đàn bái tướng. Chưa có búa việt và cờ mao tượng trưng thì... Chả có ma nào chịu nghe cả! Bởi căn cứ vào dấu hiệu gì...? Để khẳng định là con cháu của Chiến Thần, mà đòi điều binh khiển tướng cho được! Và cũng chả vị nào dại gì mà chưa cầm được búa việt và cờ mao, mà lại đi đưa đầu ra. Chỉ tổ khiến cho thiên hạ nó... biếm!

Đấy cũng là một minh chứng cho khả năng của Thần Chiến Tranh Xi Vưu khi xưa, là một sự thật khó có thể chối cãi cho được.

Và rồi trong những tháng năm sau đó trên bước ngao du khắp lục cõi. Thường khi đôi Thần Tiên này ra vào Tòa Bắc Đẩu mà cùng hòa khúc Tiêu Dao nơi Tam Quang. Ta cũng nên phải biết rằng; Phía bên trong của Tòa Bắc Đẩu còn có Tòa Hiên Viên nữa. Và đó chính là nơi mà Thần Hoàng Đế ngự. Và Hoàng Đế cùng các vị Thần khi đó, cũng thường xuyên nghe những điệu hòa tấu Cầm Tiêu của Chiến Thần và Tiên Nữ mà ngưỡng mộ.

Sẽ là cõi thần tiên mãi cho đến tận hôm nay, nếu như ngày đó không xảy ra một sự cố là: Trong một lần mà Thần Hoàng Đế ngao du sơn thủy. Bất chợt Thần Hoàng Đế nghe có vẳng tiếng Dao Cầm từ bộ tộc của Thần Nông...!? Như ta đã từng được biết qua trong các bài trước là: Thần Nông chính là sự hóa thân của Thần Kim Cang. Một vị Thần Nhạc Công nơi thiên xứ của Hoàng Đế ngày trước...

Mọi sự có nguyên cớ như sau:

Vợ của Hoàng Đế lại chính là một trong những thủ lĩnh của bộ tộc Nữ Chân! (Nữ Thận, Thiên Kim). Còn một mối nguồn khuất tất trong bóng sử ở đây nữa là: Cây đàn Dao Cầm cũng như Tiêu Khúc lại có nguồn gốc xuất xứ tại bộ tộc Nữ Chân này.

Ta lại phải lục tung những dây mơ rễ má của khu vực khuất tất này như: Nước "Thiên Kim" của bộ tộc Nữ Chân này vốn là cận lân với nước "Đông Di" của bộ tộc Tam Miêu khi đó. Và Thần Xi Vưu đã từng trao đổi Tiêu Ốc của tộc mình với Tiêu Khúc của tộc Nữ Chân khi xưa mà ra. Bởi những tuyệt kỹ của Dịch Liên Sơn mới khiến cho tiếng Tiêu Khúc gây nên cảnh rung động đến Quỷ phải phát Khốc!

Rồi lại nữa; Vợ của Hoàng Đế vốn lại là Kim Mẫu, và bà đã tặng cây đàn Dao Cầm lại cho Tiên Huyền Nữ của tộc Cửu Lê. Bởi bà biết chỉ có tuyệt kỹ của Quy Tàng Dịch, thuộc bảo vật của Tiên Huyền Nữ, mới tấu lên nổi những âm thanh mà gây cho Thần cũng nhuốm Sầu.

Cũng chính hai nhạc cụ này có nguồn gốc như thế. Nên mới Thần đưa lối, Tiên dẫn đường mà nên xe tơ kết tóc về sau, giữa Thần Xi Vưu và Tiên Huyền Nữ. Mà trước đấy, Thần Kim Cang lại là Thần Nhạc Công từ dưới trướng của Kim Mẫu mà ra. Chẳng may là Thần Kim Cang đã nghe theo có kẻ khuất tất khác nữa! (!?). Đã lén trộm cây Dao Cầm từ tộc này mà đi mất khi trước rồi.

Như tôi đã có nói; Rằng để làm trắng đen sự việc khuất mờ nhân ảnh này thì: Duy nhất, ta nhất định phải phục hồi tiếng Dao Cầm và Tiêu Khúc mà thôi. Và điều này tất phải đến trong một buổi bình minh của tương lai gần. Và ta cũng không phải lấy làm ngạc nhiên gì. Khi thấy tộc Nữ Chân luôn nêu cao biểu tượng của Bát Quái trên quốc kỳ như một lời tuyên thệ. Và họ cũng miệt mài công kích tộc Thần Nông, từ hàng ngàn năm qua mỗi khi có thể.

Thế cho nên đó cũng chính là một trong những lý do mà khiến cho Hoàng Đế tấn công tộc của Thần Nông. Khi người phát hiện tiếng Dao Cầm từ bộ tộc này trong lúc tình cờ viễn du ngang qua.

Và ta không biết Hoàng Đế tra hỏi sao đó, không thấy sử sách nào ghi lại. Tuy nhiên cũng có sách "khéo chép!" là: phục Hy đã nhìn thấy 5 ngôi sao sa xuống cây Ngô Đồng và Chim Phụng đậu xuống. Nên mới theo đó mà làm ra cây Dao Cầm! Tuy nhiên điều này đâu có thể che mắt Hoàng Đế cho được. Bởi Kim Mẫu chính là vợ của Hoàng Đế kia mà! Hoàng Đế "biết tỏng", là cây Dao Cầm này chỉ được làm từ gỗ của cây Xích Tùng ngàn năm nơi cung Diêu Trì mà thôi. Thế quái nào mà lại làm từ gỗ của cây Ngô Đồng cho được!? Tuy nhiên, trong địa hạt của con cháu Thần Nông khi ấy. Còn vô vàn những giá trị vô giá hiện diện rải rác khắp nơi một cách dở dang, đâu có thể qua mắt của Hoàng Đế cho được. Nhất là y thuật. Và điều này đã bị tố cáo sau đó chính là vật chứng; Hoàng Đế Nội Kinh vậy.

Rồi người ta lại không thể biết Hoàng Đế truy khảo ra sao tiếp nữa. Vẫn không có dòng sử nào ghi! Trang sách nào chép!! Chỉ duy nhất lại có "chép khéo nữa" là: Phục Hy "chép lại" (lại chép!!), ở trên... lưng của con Long Mã. Khi nó xuống tắm trên sông Hoàng Hà khi xưa...

Cũng kể từ đó, Hoàng Đế ôm mộng phải chiếm cho bằng được Kinh Dịch của Chiến Thần và Tiên Nữ bằng bất kỳ giá nào. Và ngay sau khi về đến, Hoàng Đế đã nhờ qua Kim Mẫu mà "mượn khéo" cho bằng được Quy tàng Dịch từ tay của Tiên Huyền Nữ. Cũng bởi đáp lễ từ cây Dao Cầm trước đó mà Tiên Huyền Nữ đã vô tình đưa kỳ thư này lọt vào tay của Hoàng Đế. Hoàng Đế liền giao cho Thần tướng Phong Hậu nghiên cứu mà lập ra 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư. Dựa trên sách lược này làm nền tảng mà Hoàng Đế có cơ sở cũng như niềm tin để khởi chiến cùng Thần Chiến Tranh Xi Vưu.

Ta cũng phải biết rằng; Trước đó Hoàng Đế đã hạ độc Tiên Huyền Nữ từ những vị thuốc đã lấy từ bộ tộc Thần Nông về. Trong đó dĩ nhiên phải có những loại thuốc độc mà ngày trước Thần Nông khi thử thuốc đã bị trúng độc 72 lần. Khiến nên Tiên Huyền Nữ mất khả năng phép thuật và bị giam bên trong của xe Chỉ Nam. Phía bên ngoài Hiên Xa, Hoàng Đế còn xích con Vượn Bạch để ngày đêm canh giữ nữa. Đồng thời, Hoàng Đế cũng thêm dây thứ 6 vào Dao Cầm, để làm chiến cụ, hòng chiêu dụ Xi Vưu.

Tuy nhiên như sử sách đã chép lại thì: Hoàng Đế cũng không thể nào đánh lại với Chiến Thần Xi Vưu cho được. Duy chỉ có tiếng Dao Cầm là làm cho Xi Vưu nhớ đến vợ con mà khiến nên bủn rủn tay chân mà không có lòng dạ nào đánh nổi được nữa. Và rồi trong trận Trác Lộc thì Hoàng Đế đã lừa được Xi Vưu nhờ tiếng đàn Dao Cầm đấy.

Sau khi gồm thâu thiên hạ về một mối. Dĩ nhiên, nơi Tuyệt Bí mà Hoàng Đế từng dứt Xi Vưu khi xưa trong trận Trác Lộc. Cũng sẽ được khai quật ra trước ánh sáng của Kỷ Nguyên Mới.

Và mạch đề tài của bài viết này, tạm thời dừng lại ở giai đoạn thứ nhất của chu kỳ thời gian khi mà Thiếu Hạo được chia cho vùng Đông Di và Thiên Kim để cai trị. Xem như đây là phần được chia, sau thắng lợi cùng Hoàng Đế, từ những ngày ngược xuôi chinh chiến trong quá khứ.

Vì thế cho nên ta thấy Chuyên Húc là người con thứ mới nghiễm nhiên nối quyền Hoàng Đế để trị vì bao gồm cả tộc Phục Hy. Và rồi người kế tiếp nối dõi là Đế Khốc. Ta lưu ý; Đế Khốc chứ không phải là Cốc như đại đa số mọi người lầm tưởng xưa nay.

Thế rồi sự kiện nạn lụt hồng thủy xảy ra... Chia cắt tất cả mọi sự liên lạc qua lại trong giai đoạn lịch sử này. Ta có thể xem nạn lụt hồng thủy xảy ra ở vào cuối thời Đế Khốc và đầu thời Đế Nghiêu.

Thần Hà Bá đang dâng nước dòng Dương Tử mà chia cắt thiên hạ lúc đấy một cách tuyệt đối. Trải suốt thời của Nghiêu lẫn Thuấn, mãi lo đối phó với nạn lụt này đang chưa xong. Lấy hơi đâu để mà quan tâm đến Thiếu Hạo đang có xảy ra biến cố gì ở phía bên kia địa phương của dòng Dương Tử nữa hay không?

Ta xác định chắc chắn là có. Bởi căn cứ qua những dòng sử còn rơi rớt lại trong giai đoạn này là: Trong thời của Đế Nghiêu, thiên hạ vẫn truyền rộ tai nhau về một bộ tộc ở phương Cấn Quỷ có bộ pháp nhanh nhẹn và dõng mãnh vô cùng! Rồi như sự việc Hy Thúc, theo lệnh của Đế Nghiêu mà sang..., lăn Trống Đồng về!! Lại còn việc họ cử người qua tặng con Rùa nữa chứ. Kinh Dịch của Văn Vương khi biên soạn cũng có chép rõ ràng cả đấy!!!

Vậy là có khi Thiếu Hạo đã mãi rong chơi, ngao du cùng với Thần Hà Bá theo dòng Dương Tử trong giai đoạn đó mất rồi cũng nên...

Và giai đoạn này cũng thể hiện là một Huyệt Mạch quan trọng. Đánh dấu sự ra đời của Nước Xích Quỷ với hiệu là Kinh Dương Vương bởi Lộc Tục.

Một ngọn thác thứ nhất mà dòng sử Việt của giống nòi Tiên Rồng đã vượt qua. Dòng thác thứ hai sẽ được khảo sát nơi Long Đàm mà giống nòi này xây Tổ Rồng. Ta chờ đợi cùng tour du lãm ở bài ký sự sau vậy...

.



19 - LONG ĐÀM HÙNG SỬ

Vì đâu nên cớ biển nổi ba đào... Trời cao dậy sóng... !?

Trận lụt hồng thủy như một lời cảnh cáo, gửi tới muôn loài dưới gầm trời. Bởi Công Tạo đã bị tiêu hủy do tham vọng từ Hoàng Đế, đối với Chiến Thần Xi Vưu chăng?!

Hơn 5.000 năm qua, có mấy ai đã bất chợt suy đến sự kiện hồng thủy ngày ấy do nguyên cớ từ đâu không?

Tạo Hóa đã dày công tạo tác sự sinh trưởng và dưỡng dục muôn loài vạn vật, và giao cho giống nòi Thần Tiên gìn giữ mà duy trì điều tiết. Ví như: Bức đồ Quy Tàng mà Hóa Công đã chạm trên lưng của Tiên Huyền Nữ đó, phản ảnh quy luật: Mạch nguồn dòng thủy lưu từ sơn khê, khơi nguồn nhựa sống, tưới khắp lục cõi mà dưỡng nuôi vạn vật. Rồi cuốn tất cả cặn bã ra sông mà đổ về biển cả. Bức đồ Liên Sơn được tạo tác trên lưng của Chiến Thần Xi Vưu với ý chỉ; Từ nước biển bốc lên hóa khí, tỏa khắp cõi lục hư mà dục trưởng muôn loài, điều tiết vạn sự. Rồi lại luân hóa trở về nguồn cội cho trọn vẹn một chu kỳ luân hồi vậy.

Tạo Hóa không có thể gửi gắm thiên ý sai lầm bao giờ cả. Chỉ có tham vọng của loài người. Khiến nên đất bằng phải dậy sóng. Bởi vắng bóng Thần Xi Vưu để điều tiết khí hậu mà gây nên nỗi biển dâu ngày đấy.

Hoàng Đế không còn đủ số để sống đến ngày đó mà nhìn thấy hậu quả con cháu phải mang, bởi nguyên nhân mà Hoàng Đế đã trót gieo ngày trước.

Với những đôi mắt trần tục của loài người dưới khắp gầm trời. Không bao giờ đủ để thấy được rằng: Việc làm đầu tiên của Tạo Hóa trong trận lụt hồng thủy đó là dâng nước dòng Dương Tử, định phận lại ranh giới của giống nòi Rồng Tiên từ phía bờ Nam! Bỏ mặc phía bờ Bắc của dòng Dương Tử phải chịu đắm chìm trong cơn thịnh nộ của ba đào...

Ta thấy suốt thời kỳ Đế Khốc và Đế Nghiêu của tộc Hoàng Đế, không tài nào trị thủy nổi. Bèn tìm dòng dõi của Thần Kim Cang là Thuấn. Với hy vọng; Hậu duệ của Thần Nhạc Công, sẽ dùng cây Đàn Dao Cầm mà điều tiết thủy lưu, cứu vãn tình thế. Và ngôi Vua cũng như Nga Hoàng với Nữ Anh, được xem như là lễ vật dâng lên cho Thuấn vui lòng mà cảm - hứng - khởi tiếng đàn.

Thế nhưng, Thuấn đã làm phụ lòng kỳ vọng của hậu duệ Hoàng Đế mất rồi. Bởi Khúc Nam Phong không đủ để điều khí tiết của trời cao hòa điệu lại. Dìu sao nổi cơn thịnh nộ của thủy triều tại biển cả dịu nhịp ba đào. Trong lần Vua thuấn cùng đi kinh lý qua vùng Lĩnh Nam! Nào ai biết được nguyên do gì mà Vua Thuấn chết ở đấy?!

Phải chăng?... Vua Thuấn đã âm thầm tế lễ mà tạ tội cùng đất trời khi ấy !! Bởi sông Tương, là nơi hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh tìm chồng rồi "cùng chết một lượt"...!? Lại là dòng cuối để đổ vào Hồ Động Đình !? Lại nữa rằng: Sông Tương (sông Tiêu) chính là dòng thủy mạch ôm lấy cánh đồng Tương, đất Tương Dạ, nối liền với Núi Thên Đài Sơn trong dãy Quế Lâm. Là vị trí cũng như nơi mà Thuấn cùng hai bà từng đến để tế lễ tạ tội cùng Thần Linh đất trời. Thiên Đài Sơn cũng là nơi mà Lộc Tục đăng đàn xưng vương, lập quốc khi xưa. Khu vực này vốn là ở về phía Nam của Động Đình Hồ.

Thế cho nên việc duy nhất có thể trị thủy, chính là của dòng Bách Việt mà thôi. Và Đại Vũ đã thể hiện chính xác điều đó đối với thiên hạ dưới gầm trời khi đấy. Như tôi đã có giới thiệu trong các bài trước; Đại Vũ chính là giống nòi của dòng Bách Việt. Và Đại Vũ cũng đã thống nhất lấy dòng Dương Tử, để định giới với Lộc Tục. Cùng thể theo Thiên Ý khi đấy mà lấy tượng trời, sắp thế đất mà phân ranh. Kể từ sự kiện cũng như giai đoạn cột mốc của lịch sử đương thời thủy nạn. Có Núi Thái Sơn, Sông Nguồn (Dương Tử), ghi sử sách, tạc bia miệng làm chứng khi đấy. Có Trời cao, Bể rộng lưu câu "Thệ Hải Minh Sơn" vào Thiên Thư, gửi Kinh Dịch làm bằng ngày sau.

Bởi cớ đó; Lộc Tục mới có thể danh chính ngôn thuận mà Định Quốc với quốc hiệu là Xích Quỹ. Xưng Vương trên danh hiệu là Kinh Dương Vương tại vùng Ngũ Lĩnh với Kinh Đô là Cửu Linh. Bởi trước đó, Lộc Tục đã định cư tại Động Đình Hồ, vốn là Minh Đường của vùng Ngũ Lĩnh rồi vậy.

Nước Xích Quỹ là một quốc gia hoàn toàn độc lập trong giai đoạn của lịch sử khi đấy. Và, kiểm soát toàn vùng, miền..., thuộc về phía bờ nam của sông Dương Tử. Hồ Động Đình chính là đất Kinh (Kinh Đô) khi đấy, nên cũng được gọi là Kinh Việt. Lại còn địa phận của Hồ Phiên Dương, tiếp giáp với Hồ Động Đình, vốn là dòng Thường Việt cư ngụ. Cũng được gọi là đất Dương Việt. Thế nên Lộc Tục mới xưng hiệu là Kinh Dương Vương.

Thực chất cội rễ của giai đoạn lịch sử này là: Hiệu Kinh Dương Vương ý là nói đến sự liên minh của hai dòng Kinh Việt nơi Hồ Động Đình và dòng Dương Việt của Hồ Phiên Dương mà ra. Và hai dòng này mới kết thông gia với Lạc Long (Kinh Việt) và Âu cơ (Dương Việt, Thường Việt) mà sinh ra giống nòi Âu Lạc. "Đóng quách" cái kịch bản "Nghi Lai" vốn là "Vô Minh" đi cho rảnh nợ trót vay tư tưởng dị lai, ghép mầm (vấn đề này tôi sẽ chỉ rõ chân tướng sự việc sau).

Trang sử nối tiếp biên niên sử của giai đoạn này. Đã bị "xé mất", hầu phi tang những ghi chép về một sự kiện có tình tiết như sau:

Sự kiện Khải con của Đại Vũ, cãi lệnh cha mà giết ông Ích để tiếp tục giữ ngôi Nhà Hạ. Ông Tiết mới nổi loạn và dẫn đến việc lập ra Nhà Thương. Nhóm của Ông Ích và Tiết chính là dòng Thường Việt. Bởi sau đó con cháu xảy ra ra mê muội trong việc săn lùng Thần Quy để nghiên cứu việc Bói Mai Rùa, cũng như Văn Giáp Cốt. Khiến nên cơ trời đã khiến một nhóm Thường Việt cầm di ấn mà vượt qua dòng Dương Tử, định cư nơi Hồ Phiên Dương cận Hồ Động Đình. Từ đó mới gọi là Dương Việt là ý nói đến dòng người Việt ở đất Dương, đối với dòng người Việt ở đất Kinh của Hồ Động Đình mà ra.

Khi Nhà Thương phát hiện, liền tổ chức những cuộc tấn công vượt qua sông Dương Tử để truy lùng lại di ấn. Lúc này hai dòng Kinh Việt và Dương Việt đã liên minh và chống lại Nhà Thương. Bởi nguyên cớ đấy cho nên Lạc Long và Âu Cơ mới mang theo di ấn, tách ra khỏi khu vực Ngũ Lĩnh, dò theo di chỉ của bức đồ Liên Sơn, nương khí mạch mà tìm về vùng Nghĩa Lĩnh. Chính tại nơi đây là "Tổ Rồng" của giống nòi Thần Tiên, trong những tháng năm di nghiệp định cơ. Ông Bà đã hạ sinh ra trăm trứng cùng một bào thai để làm nên nòi giống Âu Lạc hiện nay. Dĩ nhiên giống nòi đó hôm nay có các bạn độc giả bao gồm cả tôi. Những người đang cùng tham khảo những luận giải của cội nguồn trên page này. (Rất cùng hãnh diện và tự hào chung. Khi thế hệ của chúng ta hôm nay, đang hiện diện đúng vào thời điểm, trăm năm cần có mặt này).

Và vùng Nghĩa Lĩnh chính là ngọn Hồng Lĩnh bao gồm cả đất Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Nghệ An ngày nay. Tại đây, do ý "Thiên Cơ" nên ngay sau đó, ông bà mới chia mỗi người 50 con mà đi mở cõi theo Thiên Ý khải định.

Lạc Long Quân liền dẫn 50 con ra Phong Châu mà lập ra nước Văn Lang, hoành mâu nơi biên ải cùng bức đồ Liên Sơn. Còn Âu Cơ ngày đó, mang 50 con dò nguồn mạch Hồng Lĩnh, theo hướng Nam mà vượt qua Ngọn Bạch Mã, lập ra nước Chiêm Thành mà lo hậu thuẫn với bức đồ Quy Tàng. Ngày ấy, nước Chiêm Thành còn được gọi là nước "Chiêm Bà" là do nguyên cớ ấy mà ra.

Thế cho nên, các nhà khảo cổ sau này vẫn cứ mãi ngạc nhiên không hiểu sao gen di truyền của khu vực này vẫn có hệ Mông Cổ, Thường Việt!? Bởi từ nguyên do này cũng như khi trước hòa huyết với Hoa Trung (Trung Hòa, Mông Cổ) là Hoa Hạ (Hạ Hòa, Miêu Việt, một trong Tam Miêu) như tôi đã dẫn mà ra.

Cho nên khi Cao Biền dò ra Đầu Rồng chính là khu vực Ba Vì gần Núi Tản Viên. Rồi sau đó mới đến khu vực Hồng Lĩnh thuộc Lưng Rồng mà không có thể tìm ra được Đuôi Rồng là vì thế. Bởi ngày đó Cao Biền cho rằng ngọn Hồng Lĩnh là ngọn cuối cùng trong giới phận của Âu Lạc rồi. Phía bên kia là thuộc nước Chiêm Thành. Mã Viện cứ ngỡ chỉ có rải rác nhóm Thường Việt tan tác từ giai đoạn Nhà Tần xâm lược đánh phá, chạy men theo đường biển, tới tị nạn mà thôi. Và Mã Viện gọi đó là Lâm Ấp, không màng để mắt tới.

Thật ra nếu ta tính huyệt toàn cõi đã hình thành như hiện nay thì sẽ thấy như sau: Núi Ba Vì, thuộc khu vực Tản Viên, chính là Đầu Rồng. Núi Ngũ Hành, thuộc khu vực Bạch Mã (đèo Hải Vân), thuộc Lưng Rồng. Và Núi... vùng Thất Sơn, thuộc Đuôi Rồng nằm trọn đất nước hiện nay. Chính vì khi xưa khi Cao Biền điểm huyệt... Đuôi Rồng đã ẩn tàng ở phía bên kia dòng sông Cửu Long mất rồi vậy. (Thế Cuộc đương thời khi đó thì Long Thế đang quay đầu để Đương Cuộc ải Bắc. Còn Thế Cuộc đương đại là đang quay đầu vào Nam thủ "Tàng Thế" mà đương Đại Cuộc ở Biển Đông...).

Cũng nguyên do Cột Đồng ngày trước, Mã Viện đã trấn tại khu vực Hồng Lĩnh thuộc Nghệ An nên tuyệt khí. Vì thế nên dân Nghệ an và Hà Tĩnh xưa nay rất gian khổ và khó khăn muôn bề vậy. Nhưng bên Thanh Hóa không chịu nhiều ảnh hưởng. Thế nên Linh khí tại vùng này mới có thể sinh xuất nhiều anh tài cho nước Việt xưa nay là vì thế. Bởi nơi đây chính là vùng đầu tiên mà Lạc Long Quân có ý dời đến; Nghĩa Lĩnh.

Ranh giới thì Cao Biền cùng Mã Viện căn cứ vào dòng Sông Lam. Và gọi vùng này là Tượng Lâm. Hầu như tất cả các nhà sử học xưa nay đều suy diễn lầm lẫn rằng: Căn cứ vào số ít dân Thường Việt sinh sống tại Lâm Ấp khi đấy cùng với tên Tượng Lâm. Họ liên tưởng đến vùng Lâm Ấp của Tượng Quận khi xưa mà dòng Thường Việt định cư. Bởi gặp loạn Tần Thủy Hoàng mà tan tác và chạy theo đường biển đến định cư tại đây. Từ đó mới ngỡ là Lâm Ấp và Tượng Lâm từ Lâm Ấp của Tượng Quận mà ra.

Kể ra thì các tư duy dò tìm cội nguồn của các sử gia Việt cũng kiệt xuất thật đấy. Thế nhưng vấn đề thuộc thiên cơ, e rằng bất khả suy diễn cho được rồi vậy.

Bởi Tượng Lâm mà ngày đó Cao Biền và Mã Viện gọi tên, ý là ở:

Theo thuật Phong Thủy nơi đỉnh cao thì Tượng Số mà ngày đó Cao Biền tính toán thì sự quy - tàng - ẩn là ở Quẻ Địa Trạch Lâm! Nên gọi là Tượng Lâm vậy. Bởi xét Quẻ Lâm vốn đóng tại cung Khôn. Đó là đất của Quy Tàng. Đồng thời cũng là Tử Địa trong Cửa Tử của Bát Môn. Xét trong phạm vi Tử Địa của Thuần Khôn. Thao lược trong 3 bước, thì bước thứ 2 là Quẻ Địa Lôi Phục. Có nghĩa là "Sấm" sét đang ẩn tàng trong lòng đất (Địa)! Bước thứ 3 bao hàm tượng Huyệt Mạch (Trạch) đang tiềm ẩn dưới lòng đất (Địa) tại vị trí này!! Đó là toàn ý của Tượng quẻ Địa Trạch Lâm tàng ẩn trong đó.

Dĩ nhiên đó chính là huyệt mạch nhất định phải trấn "Cột Đồng" để ngăn chặn bước biến hóa thứ 4 là Địa Thiên Thái vậy. Vì theo Lý thì Số 4 là số Thành. Và từ đó dẫn đến việc Mã Viện cũng như Cao Biền cho rằng; Phía địa phương bên kia dòng Sông Lam, chỉ là khu Lâm Ấp, chưa có thể nở "trứng rồng" cho được. Không đáng nằm trong tầm mắt, chỉ việc trấn áp tại vị trí này là tuyệt khí. Đó, chỉ là "Nước Chàm" ( !? ). Phàm, bậc quân tử: Quyết, tay không nhúng Chàm vậy. "... !?". Hi!... Bởi; "Trứng Rồng lại nở ra Rồng. Liu Điu lại nở ra dòng Liu Điu" mà thôi.

Tượng trời vì thế cũng tạc tượng Vọng Phu trông chồng đến hóa đá, tính từ Thanh Hóa, Nghệ An..., dọc theo miền trung, hầu như đều khắp trên toàn vùng Chiêm Bà khi xưa...! Dĩ nhiên, nàng Tô Thị cũng lặn lội ra tới tận biên ải ở Lạng Sơn mà trông chồng...!! Kể cũng đau xót cho sự chia lìa ngàn năm lắm vậy. Suốt mấy ngàn năm, tượng đá vẫn... ngóng trông... nơi Thiên Lý "!?". Cho dù có phải hóa thạch.

------------------



20 - Ý CHỈ THỜI HÙNG VƯƠNG

Có những sử gia mà ngày hôm nay; Chúng ta nhất định phải xem xét lại tư cách cũng như hành vi...

Bởi họ đã làm cho những sự thật lịch sử của dân tộc Việt bị che lấp! Khiến nên từ đó, biết bao thế hệ muôn đời sau bị lạc gốc cội nguồn... !!

Trong lịch trình của dòng sử Việt. Con thuyền dân tộc đã có những thời điểm thả trôi theo số phận... Phải chăng ý thức hệ của nòi giống, đã dần quen bị đánh rơi đâu đó trong vũng lầy lịch sử của quá khứ từng trải? Khiến nên có những di bảo tổ tiên bị trộm, cướp... Những chân lý sự thật bị bôi xóa... Đến nỗi hôm nay, ta vẫn không dám tin những điều đó là sự thật, vốn là của mình !? Cho dù tất cả sự thật có phơi bày ra trước mắt!

Rất đỗi đau thương...

Thế nhưng, những thế hệ hôm nay nhất định phải nén đau thương. Để đưa con thuyền Âu Lạc, vượt qua lượn sóng cuối cùng trước Cửa Vũ. Cơn sóng dữ đang lớn dần trước cửa ngõ dân tộc Việt ở biển đông... Tôi khẳng định; Phía bên kia của lượn sóng cuối cùng đó. Chính là miền đất hứa; Địa Đàng. Và đó cũng là địa phương ở phía bên kia, của không gian chiều thứ tư!

Yêu cầu đòi hỏi để vượt qua ngưỡng cửa đó. Ắt phải là những tư duy tiên phong, đạt tiêu chí của quy luật tiến hóa (ưu tú nhất). Cho nên ta nhất định sàng lọc những tư tưởng đã mang mầm vi rút văn hóa ô nhiễm, nhục rữa. Để đưa con thuyền dân tộc Việt hôm nay, lướt vào Kỷ Nguyên Mới.

Và ta cùng tiến hành sàng lọc với sử lịch như sau:

Khi Lạc Long Quân dẫn 50 con ra định đô ở Phong Châu, cùng đương đầu nơi biên ải. Quốc hiệu Văn Lang, có ý là nói đến dòng của 50 người con theo Cha mà ra. Văn Hóa cội nguồn của người Việt đó. Đã được khắc thành "Hoa Văn" trên Trống Đồng, để làm di chỉ cho ngàn sau nhận diện là dòng Cha, thuộc Phụ Hệ. Bằng như theo Mẹ, thì chạm "Hoa Thị" mà làm bằng chứng Mẫu Hệ để noi theo tôn ti trật tự ấy vận hành. Từ đó nên hễ dân tộc Việt, nếu thuộc Nam thì cứ lấy chữ Văn (hoa văn, của văn lang) làm tên lót mà định dõi theo. Bằng như là Nữ tất phải lấy chữ Thị (hoa thị) để thị hiện là đầu dòng vậy.

Nếu Lộc Tục là Kinh Dương Vương, thì Sùng Lãm phát triển tiếp đến để nối, dõi... theo. Nhất định phải là Lạc Long Quân chứ không thể khác cho được. Phàm, nếu "Kinh" là Vương thì "Lạc" cũng là Quân vậy. Ý ở một Kinh một Lạc mà định vị tiếp nối cho giống nòi dọc ngang, thỏa chí tang bồng khắp cõi. Chân lý của Đạo gửi gắm mà tiềm ẩn trong giống nòi này là: Đạo, nhất thiết phải vận hành từ Kinh qua Lạc (nguyên lý) thì mới có thể gọi là đủ Đắc.

Từ đó, ta xác định được Nước Văn Lang là 50 con theo cha Lạc Long, chứ không phải là 50 con theo mẹ Âu Cơ như lịch sử xưa nay vẫn lầm lẫn. Vì thế cho nên các vị Vua Hùng tiếp theo mới lấy họ cha là Lạc Long mà gọi Lạc Hầu, Lạc Tướng, Lạc Bộ (bộ lạc) v.v...

Lại nữa; "Búa Sấm" (Việt Sấm hoặc Sấm Việt) mới dùng để Đáng Trống Sấm (Trống Đồng) của văn hóa Việt Tộc. Đồng thời cũng là chiến cụ của Thần Chiến Tranh và theo đó mà khẳng định giống nòi vốn là theo "Sấm Việt". Cho thế hệ giống nòi mãi ngàn sau, nhìn vào di chỉ cội nguồn ấy mà xác định và hãnh diện, tìm về. Thế nên giá trị của chữ "Việt". Vốn là giá trị từ thời cổ, vẫn đứng vững cùng thời gian. Và đi thẳng vào thời đại và vẫn hiện diện cùng thời đại văn minh hôm nay là Việt Nam. Tất cả mọi cổ ngữ trong giai đoạn đó, đều không vượt qua nổi sự đạo thải của Tiến hóa của ngày hôm qua.

Ta cũng nên phải được biết thêm rằng:

Sử sách còn chép lại; Mỗi Bộ Lạc đều đúc riêng một Trống Đồng của tộc mình. Lúc thời bình, cất một cái "Đình" chung để thờ Trống. Chữ "Đình" có nghĩa là đình chỉ, đứng yên... Đình cũng đồng nghĩa với Định (chỉ định). Cho nên Đình thờ Trống Đồng cũng có nghĩa là nơi "Định Trống" của những bộ tộc chung trong nước Văn Lang.

Nên ta xét thấy Đại Vũ vốn là dòng Bách Việt, cho nên cũng theo đó mà bày ra "Định Đỉnh" theo văn hóa của Người Việt mà ra cả thôi. Đình thờ Trống Đồng thuở đó của dân tộc Việt rất hiển oai linh. Bởi thỉnh thoảng, tiếng gầm như sấm của Trống Đồng, phát ra từ trong Đình, thường rền vang khắp bộ lạc.

Sử còn chép lại; Khi Mã Viện sai người vào Đình lấy Trống để đúc cột đồng. Vẫn cứ thấy có tướng tinh của Trống như khí sương. Khi thì Rồng, lúc là Hổ, từ phía sau Trống nhào ra chụp. Khiến giặc Hán rất kinh khiếp. Chỉ tìm cách mua chuộc người dân Việt nào tha hóa, để lén vào lấy ra mà thôi.

Riêng những lúc xung trận; Một Lạc Tướng dõng mãnh thường đánh Trống Đồng để trên xe, đẩy phía trước đoàn quân. Âm thanh của tiếng Trống sấm gầm rền vang. Từ trong tang Trống, sương khí hiện lên hình của một Mãnh Long thủ thế vồ mồi, chụp xuống uy hiếp tinh thần quân địch. Khiến quân địch vỡ mật, khiếp đảm mà mất hết nhuệ khí.

Về sau, khi các Bộ Lạc xảy ra chiến tranh nội tộc. Nếu thắng tộc khác, họ lại lấy Trống của Tộc kia, đúc nhồi thêm vào Trống của tộc mình để thể hiện và thị uy công nghiệp. Cho nên cũng tùy theo Trống Đồng lớn hay nhỏ mà theo đó xét thực lực và khẳng định quyền uy của từng bộ tộc nữa. Từ đó nên ta lại phát hiện; Câu chuyện "Vấn Đỉnh" mà Vương Tôn Mãng ngày đó nói đến. Ngoài yếu tố nặng nhẹ của Đức, nhất định còn phải xét đến lớn nhỏ của uy quyền nữa mới đủ.

Dĩ nhiên, bởi "hàng nhái" nên thiếu chất lượng văn hóa nền tảng của bản sắc gốc rồi vậy (Madein China mà).

Lại còn vô vàn những giá trị tiềm ẩn văn hóa cội nghồn bị thất lạc như: Vốn dòng mẹ của dân tộc Việt chính là Cửu Thiên Huyền Nữ. Cho nên câu nói thờ "Cửu Huyền" của người Việt. Chính là ở câu gọi tắt từ Cửu Thiên Huyền Nữ mà ra cả thôi. Và di chỉ văn hóa đó mới thể hiện với Kinh Đô đầu tiên thời lộc Tục phải lấy tên là "Cửu Linh".

Thời Hùng Vương phát triển cũng theo nguyên lý đó mà có 9 sự tích cả thảy! Và luân chuyển 9 Âm, 9 Dương thành 18 đời Vua Hùng là dứt. Các Vua Hùng lại bố trí các Lạc Bộ theo hệ thống của Cửu Cung. Thế nên Sơn Tinh mới mang lễ vật hỏi cưới Mỵ Nương là: Voi chín ngà, Gà chín cựa, Ngựa chín hồng mao vậy. Văn hóa của người Việt luôn luôn tuân giữ theo quy tắc của số 9 đó thành "Cửu Trùng", mãi từ ngàn xưa đến tận bây giờ chưa sai lạc.

Tôi có thể điển hình như: Thành Cổ Loa cũng được xây theo hình chín vòng trôn ốc. Dòng tộc cũng nhất định phải đủ chín dòng. Rồi nền tảng Văn Hóa đó đi thẳng vào Thơ ca với câu: "Chiều chiều ra đứng cửa sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều". Để nhắc đến quê hương cội nguồn của quê mẹ, đã chìm khuất nơi xa... mờ..., của những tháng ngày đã qua.

Thậm chí, trong thời cuộc hiện nay. Điều đó đã hóa thiên tượng nơi dòng Cửu Long. Khiến nên người dân miền tây nam bộ: Những cụ già, vẫn được con cháu gọi kính cẩn và thân thương bằng hai tiếng... "Ông Cửu" !?

Và... những giá trị di chỉ văn hóa đấy... Còn vô cùng những dẫn chứng như thế hiện nay trên toàn miền đất nước Việt Nam đương thời. Thậm chí tôi có thể dẫn chứng đến... Lạc đề của trang này mất luôn cũng chưa có thể dứt ra cho được. (Khổ lắm, nói mãi...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

).

Còn bàn về danh xưng của Hùng Vương là ý ở:

Tính từ thời của Xi Vưu và Hoàng Đế thì; Thực chất Hoàng Đế tên là Hữu Hùng. Hữu Hùng ở đây có nghĩa... "đích thị là Gấu"!. Do Linh Vật tổ của bộ tộc này chính là con Gấu mà ra. Khi đánh thắng Thần Nông và Xi Vưu thì mới xưng là Hoàng Đế. Bởi đã nhất thống cả thiên hạ về một mối. Ta thấy trong Sử Ký của Tư Mã Thiên vẫn có nhắc đến giai đoạn đó là:

Tư Mã Thiên gọi Chiến Thần Xi Vưu là Cổ Thiên Tử Xi Vưu! Và gọi Hoàng Đế với Thần Nông với tên chung là Cộng Công!! Ý tại "Cộng" giữa "Công Nghiệp" của tộc Thần Nông và Hoàng Đế mà ra. Cho nên ta xét và suy từ đây ra sẽ thấy: Trong giai đoạn đó, chỉ có Chiến Thần Xi Vưu mới thực sự là Thiên Tử mà thôi. Sự thật này chính ở Sử Ký của Tư Mã Thiên ghi rõ chứ không phải ta tự đặt để cho được. Cho nên nhân vật Cộng Công trong cổ sử. Chính là để chỉ đến Hữu Hùng và Thần Nông, trước khi xảy ra trận Trác Lộc.

Cho nên tên hiệu mà Lạc Long Quân dùng để gọi là Hùng Vương đó. Chính là để khẳng định lại dòng dõi này mới là Vua (khi xưa) của Gấu (Hữu Hùng, Hoàng Đế), chứ không hề là bất kỳ ai khác cho được. Bởi Hoàng Đế, vốn không phải là Thiên Tử theo Thiên ý đã định, từ thuở tạo dựng vũ trụ ban đầu.

Thế cho nên trong những bài viết trước của page này. Tôi mới diễn tả là Tòa Bắc Đẩu (Sao Gấu, Đại Hùng Tinh), Hoàng Đế ngự phía bên khu tứ mộ so với tam quang là có Tòa Hiên Viên... Là vì thế. Thời Nghiêu cũng khẳng định là... "Ấn Trời" đang ở bên đấy đấy!! (tộc Quỷ Phương). Và ta mới mục kích được cảnh Hy Thúc sang lăn Trống Đồng về! Và bẩm báo rằng: Họ bảo... "Ấn Trời" khắc trong này này "!?". Và Đại Vũ cũng bắt chước lệ đúc Trống Đồng mà đúc ra Cửu Đỉnh! (Lại là chữ "Cửu..." nữa! đầy tang chứng của văn hóa Việt như thế đấy...).

Tóm lại, để kết thúc bài khảo luận dông dài này. Tôi kết luận sơ lược thời Hùng Vương như sau:

Trong 18 đời Vua Hùng, sở dĩ có 9 sự tích là bởi: Trong giai đoạn đó, thời nào có xảy ra sự kiện cần phải tích lũy lại cho mai sau thì gọi là sự tích. Các đời khác vốn không có tích sự gì, nên không đủ để lưu vào sử sách, vậy thôi. Ta gọi đó là kho tàng văn hóa dân tộc. Và dĩ nhiên, hễ đã là kho tàng, ắt phải có giá trị cho mai sau. Và những giá trị tiềm ẩn trong kho tàng văn hóa đó. Tôi sẽ sử dụng và trình ra cùng các bạn có những giá trị gì như sau:

Đời Hùng Vương Thứ 3 là sự tích Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Hai danh xưng "Đồng Tử" và "Tiên Dung", đã đủ để khẳng định đó chính là giống nòi của Thần Tiên rồi vậy. Đồng thời để khẳng định là hậu duệ của Thần Tổ Xi Vưu; Chữ Đồng Tử khi đấy cũng đã thể hiện có phép thuật đầy mình. Chỉ cần cắm cây gậy, đội chiếc nón lên trên là hóa thành cung điện ngay tức khắc. Và cũng trong một đêm, cung điện biến mất. Chữ Đồng Tử và Tiên Dung; Một gậy, một nón... về trời!

Dĩ nhiên, Chữ Đồng Tử nghiễm nhiên yên vị trên chiếc ghế đầu tiên trong Tứ Bất Tử của dân tộc Việt Nam trước hết.

Kế đến, trong đời Hùng Vương thứ 6. Cũng không chịu thua kém với ứng cử viên cho ghế Tứ Bất Tử đó là Thánh Gióng! Phù Đổng Thiên Vương cũng ngay lập tức; Ra roi giục ngựa mà lướt gió lên thiên cõi. Chiếc ghế thứ hai, có chủ.

Thấy chiếc ghế thứ ba chờ mãi vẫn chưa có ai được đề cử! Sơn Tinh sau khi diễn xong vở "Long Hổ Tranh Châu" cùng Thủy Tinh. Gửi lại cho con cháu mai sau biết huyệt mạch chính của dân tộc Việt. Liền cũng cưỡi mây mà kịp đến với chiếc ghế thứ ba đang chờ chủ... tọa.
(Bởi giá trị ý tiềm ẩn ở phía sau cái áo nghĩa này là: Chúa sơn lâm nơi núi rừng vốn là Hổ. tu luyện ngàn năm nên đắc Tinh mà hóa Thần. Và tên hiệu mới gọi là Thần Sơn Tinh. Vua biển cả lại là Rồng. Vẫn một nghĩa như thế, nên cũng được ám chỉ là Thần Thủy Tinh vậy. Và cả hai vị Thần này quyết diễn tích Tranh Mị Nương, quê ở "Phong Châu" mà ra thế: "Long Hổ Tranh Châu". Đó là nền tảng của văn hóa nơi đỉnh cao một cách tuyệt đối của dân tộc Việt từ ngàn xưa. Khó có ai có thể nhìn với tới cho được cả. Tất cả những tư duy nông cạn chớ có lạm bàn mà vọng ngôn đối với nền tảng văn hóa của giống nòi Thần Tiên).

Riêng chiếc ghế thứ tư trong Tứ Bất tử xem ra có phần lúng túng chung cho tất cả các học giả cũng như sử gia nói chung! Khi thì cho là Từ Đạo Hạnh, lúc lại nói rằng Nguyễn Minh Không! Lại còn thêm Trần Hưng Đạo mà không giải thích nguyên do!! Để rồi cuối cùng; Tiên Chúa Liễu Hạnh, yên vị nơi chiếc ghế cuối cùng sau 3 lần ra vào Thiên - Hạ - Giới, dễ như đi chợ!

Thật ra trong mô hình thiết kế nên tòa kiến trúc Tứ Bất Tử trên nền móng văn hóa của dân tộc Việt rất có nhiều sai sót!

Trong giai đoạn thứ nhất; Được tính trong thời kỳ Hùng Vương. Từ Chử Đồng Tử cho đến Sơn Tinh là triều đại cuối cùng. Ta thấy có ngay 3 ghế có chủ an tọa! Vẫn thiếu mất một vị!?

Sau đến, tính từ nhà Lý là do cột mốc thoát cảnh nô lệ mà định chủ quyền. Ta thấy xuất hiện liên tiếp lại có 3 nhân vật như: Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Trần Hưng Đạo làm đại diện! Nhưng vẫn khiếm một ghế!? Cuối cùng phải đợi tận đến Nhà Lê mới có Liễu Hạnh là đủ Đức độ để mà ngồi vào chiếc ghế cuối cùng cho đủ bộ Tứ Thánh.

Thế nhưng nếu xét trở ngược trở về quá khứ của giai đoạn của chu kỳ 2000 năm trước thì xem ra vẫn khiếm khuyết một ghế!? Và các nhà học giả lẫn sử gia tìm mọi cách bổ khuyết thêm... Như những gì tôi vừa trình bày ở trên.

Thật ra trật tự của mô hình văn hóa đó thể hiện sự tiềm ẩn phía sau như:

Trong mô hình Tứ Bất Tử của giai đoạn 2000 năm đầu với 3 vị thời Vua Hùng đó. Ta quên mất còn có Tiên Dung nữa! Bởi ngày đó cả hai vợ chồng. Bao gồm Đồng Tử và Tiên Nữ... người gậy, người nón cùng về trời chứ không riêng gì một Đồng Tử. Đó là hệ logic của văn hóa Tứ Bất Tử trong giai đoạn đầu.

Và ở giai đoạn thứ hai sau công nguyên. Ta có bộ 3 Thánh Tử như tôi vừa nêu bao gồm Đạo Hạnh, Minh Không và Hưng Đạo. Dĩ nhiên sự có mặt của Liễu Hạnh là vừa đẹp và đủ để được gọi là văn hóa nền tảng đối xứng.

Tuy nhiên, để tạo ra yếu tố liên kết nền tảng văn hóa xuyên suốt qua cả hai giai đoạn đó. Cho nên ta mới thấy công trình kiến trúc đó được gọt dũa lại như sau:

Do thời điểm ban đầu cũng đã tương đối bị thời gian xóa mờ đi giá trị trong lịch sử. Hơn nữa, Cột mốc để móc xích thứ hai kết nối thì không ai sáng giá hơn Hưng Đạo Đại Vương; Trần Quốc Tuấn. Và nghiễm nhiên Trần Hưng Đạo được chỉ định để ngồi thay vào chỗ của vị Thánh Tổ Chử Đồng Tử là hợp lệ. (Ấy là nghỉ Hưu, bạn đọc chớ có suy diễn là soán vị mà nguy). Dĩ nhiên, nếu một khi "Đức lang quân" có chống gậy về nghỉ Hưu thì; "Vị nương tử" cũng phải cắp nón theo chồng mà cùng theo về cõi hư vô thôi...

Điều này sẽ làm nổi bật nét bản sắc của bức tranh văn hóa Việt từ cội nguồn là: Văn hóa Thời Vua Hùng không phải gọi là Quan Lang! Mà phải là Quân Lang, hoặc Lang Quân mới đúng. Văn hóa đã bị xóa lạc mất dấu... "cái nón" lá ở chổ này. Ý chỉ là người chồng trong văn hóa Văn Lang. Lang Quân còn có nghĩa là người Nam, con của Lạc Long Quân trong nước Văn Lang mà ra. Thế nên người Nữ là Mỵ Nương. Là "Nương Tử" của "Lang Quân". Và tất nhiên phải "nương" theo chồng mà cùng "đi, về" vậy.

Cho nên văn hóa dân tộc Việt có Tứ Bất Tử bao gồm:

Thánh Gióng ; Phù Đổng Thiên Vương.
Thần Sơn Tinh ; Tản Viên Sơn Vương.
Thánh Trần ; Hưng Đạo Đại Vương.
Tiên chúa ; Liễu Hạnh Tiên Chúa.

Đó chính là toàn cảnh của tòa kiến trúc văn hóa trong lịch sử của Dân Tộc Việt Nam hôm nay.

Nhất định, không bao giờ được suy tôn hoặc tranh cãi thiếu tư duy logic. Từ đó, dễ dẫn đến sai lạc cho những thế hệ mai sau là..., nguy cho văn hóa của dân tộc lắm vậy.

Thế nên người Trung Quốc đã ăn cắp văn hóa từ cội nguộn dân tộc của Người Việt. Họ nhất định phải "xóa dấu nón" văn hóa Việt thời Vua Hùng thành Quan Lang!

Có như thế; Họ mới có thể sử dụng nền tảng văn hóa đấy thành... "Lang Quân và Nương Tử" cho văn hóa của họ mà vẫn: Đảm bảo người Việt không có thể nhận diện cho được.



21 - VĂN LANG CUỘC

Nấu Sử..., Sôi Kinh.

Thành ngữ này cũng lại tiếp tục bị đánh rơi ở đâu đó trong miền ký ức cận thời, đối với những thế hệ đương thời hôm nay! Bởi nếu muốn khảo Kinh, bắt buộc ta phải thông Sử. Thế nhưng những sử liệu "tả pí lù" xưa nay. Có đủ để sôi kinh hay chỉ mãi sống sượng theo thời gian?

Người dân Việt nơi miền địa mạch Cửu Long, có câu đùa "bắn bổng bắn bỏ"..., trúng gì thì trúng là; "Trên sống, dưới khê, tứ bề nhão nhoét"... !?.

Ấy! Vậy mà đau!!

Và..., câu bắn bổng bắn bỏ đó đã "lan can"..., trúng tư duy của dân tộc Việt đang say ngủ. Một giấc ảo mộng triền miên..., không tỉnh thức ?!. Bởi ta đã quen nghe lời ru của Sử Tàu hơn lời ru Sử Thi vốn chỉ được truyền đời từ..., bia miệng người Việt bên cánh võng.

Ta chỉ xét giới hạn tư duy bao gồm ý thức trong phạm vi của không gian chiều thứ tư thôi. Ý thức lẫn tư duy của chúng ta đã hoàn toàn bị bỏ rơi phía bên ngoài thực tại cùng chiều thời gian đó rồi.

Thế cho nên; Thay vì tôi trình bày sự kiện trong một chu kỳ của thời gian đủ là 9.000 năm, đối với giống nòi Việt! Tôi chủ ý giới hạn những ký sự trong trang này vào khoảng 7.000 năm, là vì nguyên cớ đấy. Thế nhưng, có vẻ không được ổn (!?), bởi những phản ảnh... như đã thấy.

Vậy, ta lược sử để đo lường xem xét trong khoảng cách của thời gian là 5.000 năm vậy. Xem ra..., giới hạn này, đại đa số tư duy hiện nay vẫn rất khó xâm nhập cho được. Chỉ có một thiểu số tư duy mới vươn tới miền quá khứ này được thôi. Bởi cái giá vé vào cổng của giai đoạn này khá đắt, so với số vốn tư duy chung của những thế hệ đương đại !!

Cho nên tôi đành lòng phải phân cảnh nơi giai đoạn 4.000 năm của không gian chiều thứ tư mà thôi. Và đó cũng chính là cái tiêu đề của bài viết này vậy. Chúng ta cùng theo "Lược Sử", xem Thế Cục thời Văn Lang tiềm ẩn là Thế nào?;

Ta cứ nhìn vào những triều đại của Trung Quốc tụ khí 5 - 7 trăm năm mà ca tụng! Trong khi ta lại quên mất triều đại Hùng Vương, từng chung đúc khí anh linh mà tồn tại hơn 2.000 năm? Đó là tôi chưa kể đến cái dư khí, lan tỏa trong thời gian thêm..., vài trăm năm có dư, về sau đó nữa.
Quá thất vọng cho bao thế hệ. Chỉ mãi chạy theo cái tạp khí của "Mông - Hán...", mà quên đi cái chính khí của dân tộc Việt. (chữ Hán, phát âm theo giọng Nam nhé. Bởi tôi có viết đúng hay sai chính tả, thì dân Nam vẫn cứ phát âm như vậy thôi).

Những điều này vốn là sự thật, tôi không có thể tả khác đi cho được. Nên khó có thể gọi là đả kích hoặc bôi bác. Ta cứ xem xét sử sách đủ "tam lược, lục thao" sẽ thấy được rằng: Trải các triều đại ngàn xưa nay, người Trung Quốc cứ đi tìm Tiên để mà học Đạo cả đấy thôi. Sử của họ ghi chép đầy ra cả đấy. Ngay cả Khương Tử Nha cũng phải từng về núi mà học phép Tiên, mới có thể làm nên cơ nghiệp lẫy lừng sử sách đấy thôi. Tất cả các quân sư của mọi triều đại trong lịch sử của họ. Có ai học của Người Mông hay Hán ngoài người thuộc dòng Tiên bao giờ đâu.

Vì thế nên ta xét thấy; Tây Bá Hầu Cơ Xương trong ngày đó. Chưa kịp về gặp Tử Nha đã vội xin Nhà Ân cất quân đi đánh "Nước Sùng" rồi. Ấy là bởi Văn Vương trước đó từng bị nghi ngờ vào một án sự mà phải chịu oan 7 năm ở ngục Dữu Lý như sau:

Ta nhớ trong giai đoạn đó là Nhà Thương đang nỗ lực truy đuổi di ấn của Tộc Việt phía bên kia dòng sông Dương Tử. Sau khi hai tộc Dương Việt và Kinh Việt cùng thống nhất suy tôn Lộc Tục lên thống lĩnh với hiệu Kinh Dương Vương như tôi đã từng phân giải. Sự kiện "đọ giáo" giữa Nhà Thương và nhà Nước Xích Quỹ phía hai bên bờ Dương Tử khi đó, chỉ là đòn hỏa mù của tộc Việt mà thôi. Bởi Lạc Long và Âu Cơ đã hoàn thành kế "Kim Thiền Thoát Xác", và đang hiện diện tại Phong Châu với Nước Văn Lang rồi vậy.

Xảy ra bên Nhà Thương có sự việc đời đô đến đất Ân. Nên cũng được gọi là Nhà Ân. Điều này cũng giống như việc người Việt ở đất Dương và đất Kinh khi đấy mà cũng gọi là Dương Việt và Kinh Việt mà thôi.

Trong khi hai bên đang lấy giáo đo từng tấc đất trên dòng Dương Tử để tìm "Ấn Trời" thì bất chợt...;

Nghe đâu...; Tây Bá Hầu Cơ Xương đang sở hữu quẻ bói Tiên Thiên rất linh ứng! Ngay lập tức Nhà Ân phải kiểm tra thực hư ra sao... Và dĩ nhiên, Nhà Ân phải nghi ngờ Cơ Xương chính là tộc của dân Thường Việt và đang giữ di ấn khi đấy. Do không tìm đâu ra được bằng chứng Cơ Xương chính là dân tộc của Bách Việt. Nên Nhà Ân mới "Tạm Giam" 7 năm để tiếp tục truy tìm di ấn.

Cho nên ta mới thấy khi được thả ra... Tây Bá Hầu Cơ Xương mới xin đi đánh Nước Sùng. Cốt là để minh chứng với Nhà Ân rằng; Cơ Xương vốn không phải là người của bộ tộc Thường Việt.

Nếu như ngày đó, Cơ Xương gặp được Khương Tử Nha trước khi cất quân. Tôi cam đoan rằng; Thà Văn Vương quay trở lại ngục Dữu Lý thêm 7 năm nữa, chứ chẳng dại gì mà đi mang thân, bén mảng sang "Nước Sùng" khi đấy. Tuy nhiên, mọi sự đã rồi. Chu Văn Vương đã "Bêu Danh" vào trang Sử Việt, đến muôn ngàn sau cũng không có thể xóa đi cho được rồi vậy.

Khương Tử Nha biết rất rõ. Sự kiện mà Văn Vương bị một đồng tử, tóc còn để chỏm trái đào. Nhổ tre đuổi trối chết ở địa phương bên đấy. Không có gì là lạ hoặc hoang đường đối với Tử Nha cả. Bởi Tử Nha vốn học được phép Tiên cả đời từ bên đấy, đấy mà.

Kể cũng lạ thật! Về chuyện Phong Thần của Khương Tử Nha. Ngày đó, Phép Thuật để trong tay áo, được mang ra thi thố dễ như ta...; Hôm Nay để Tiền trong túi mà mang ra sử dụng vậy! Thế nhưng! Thế hệ hôm nay lại tin vào những chuyện phép thuật đó còn dễ hơn..., chuyện Thánh Gióng đòi ngựa, giáp, roi sắt và nhổ tre đánh giặc trong sử Việt !!..., !?...

Và đương nhiên; Với cơn ác mộng gặp phải trên Nước Văn Lang trong ngày ấy. Chu Văn Vương nhất định phải lấy "kinh nghiệm" đó. Mà làm di chúc, dặn dò lại cho con cháu Nhà Chu rằng; Chớ có ôm mộng trộm đào Tiên, mà phải vạ...

Thế cho nên ta xét thấy suốt trong thời Xuân Thu và Đông Chu. Phong trào vượt sông Dương Tử, du học nơi Tiên Xứ nổi lên như một xu hướng đỉnh cao của thời đại khi đấy. Đồng thời những nhân vật nào đã từng học được Tiên Thuật trong giai đoạn lịch sử khi đấy. Nhất định là khuynh đảo khắp chư hầu lục quốc khi đấy phải ngã nghiêng cơ đồ như chơi vậy. Dĩ nhiên, lịch sử ghi chép không thể khác hơn là: Tất cả những nhân vật đấy đều vào núi học được đạo từ giống người Tiên duy nhất mà thôi.

Lại còn như thế này nữa:

Quan điểm của những nhân vật được xem là hàng tri thức Việt. Họ thường ca tụng không ngớt lời về Tứ Mỹ Đồ của "nhân dân trung hoa"! Thậm chí cứ mỗi lần rượu vào vài ba chung, lại hừng chí "múa bút..." Tranh nhau tán tụng về Chiêu Quân, Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi mà khoe vẻ!

Rồi thêm..., một số càng cố ra vẻ hơn nữa khi; Lôi cả Tô Yến Tuyết, Bao Tự... vào để xem xét, tán tụng hầu tranh ghế Tứ Mỹ Đồ cho bằng được !!

Cũng bày đặt học đòi cho theo kịp những thế hệ tri thức của nước nhà. Tôi cũng tán theo như thế này:

Xem ra trong nhóm Tứ Mỹ Đồ đó thì: Xét sắc đẹp của Chiêu Quân và Tây Thi thì đã đủ để rung động cả Chim, Cá vốn là loài vật vô tri luôn rồi vậy! Huống hồ chi là nói đến loài người, không mờ hết cả mắt sao cho được. Còn về Điêu Thuyền và Dương Quý Phi? Lại khiến đến đỗi Trăng, Hoa vốn lại là vật vô tri vô giác, cũng phải lay động hết cả thảy !!

Khiến nên kẻ ngu thì ra phát dại mà giết cả Cha! (Lữ Bố). Người khôn thì hóa cuồng đến nỗi ôm trăng mà chết!! (Lý Bạch). Còn hai mỹ nữ còn lại; Cũng khiến bậc bá vương phải mang ra đổi chác cơ đồ mà khi được khi mất, tùy theo Thế Cục.

Như thế, ta thấy bốn mỹ nhân trên đây sở dĩ được liệt vào hàng Tứ Mỹ Đồ bởi: Ngoài khả năng nghiêng thành đổ nước ra. Họ còn có thể khiến cho loài vật như Chim - Cá, phải ngẫn ngơ! Rồi gió Trăng, Hoa cỏ cũng có "khuynh hướng"..., ra chiều cảm giác!!

Tuy biết thế, Tôi vẫn chưa đến nỗi mụ mị đi những giá trị của giống nòi Việt tộc, tiềm ẩn trong trang sử của nước nhà như:

Mỵ Nương!

Con Vua Hùng Vương thứ 18. Sắc đẹp của giống dòng Tiên Nữ đó. Đã khiến cho ngay cả những vị Thần Thánh như Sơn Tinh lẫn Thủy Tinh. Phải động lòng mà đánh nhau tơi bời hết cả lên luôn rồi! Những giá trị như Trăng Hoa, Chim Cá đâu đủ để bàn tới, hòng mà đòi so sánh với Thần Tiên cho được?

Phàm những bậc Thần Nhân thì đâu còn lòng Trần Tục để mà lay động cho được nữa. Ấy vậy mà hai vị không cần biết đến thiên hạ chạy loạn, tan tác đến như thế nào mà dừng lại. Chỉ một mực tranh cho bằng được Mỵ Nương mới chịu thôi!!

Nhưng nói thế thôi! Các vị nào có chịu thôi cho đâu!!

Bởi hễ cứ độ vài ba năm lại một lần; Thần Thủy Tinh lại kéo binh tôm, tướng cá... Đục núi, hò reo đòi Mỵ Nương cho bằng được !? Sự kiện trong quá khứ đã xa đó, bất chấp thời Hùng Vương có cùng tồn tại với thời gian hay không. Thần Thủy Tinh vẫn cứ mãi lập đi lập lại cảnh tượng đấy cho tới tận thời đương đại hôm nay... !?.

Khiến cho con cháu rất nên kinh hãi... Và lưu lại vết mực ký sự về sự kiện ngày đó vào trang sử như sau:

" ... Thủy Tinh năm năm dâng nước bể.
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương !
Trần gian đâu có người dai thế ?!.
Cũng bởi Thần yêu nên khác thường !! ".

(Nhược Pháp)


<p> </p>
<p style="margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">22 - AN DƯƠNG VƯƠNG ĐẠI DIỆN DÒNG ÂU CƠ.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tính từ khi Lạc Long Quân và Âu Cơ về tới vùng Nghĩa Lĩnh và hạ sinh được Trăm con trong cùng một bào thai. Kể từ giai đoạn của lịch sử đó, Lạc Long và Âu Cơ đã kẻ một lằn ranh phân định giữa hai định ngữ Bách Việt và Bách Bộc (Bọc trứng, bào thai) của dân tộc Việt nói chung. Ta thấy thuật ngữ &quot;Đồng Bào&quot; (cùng một bào thai) có nguồn gốc xuất phát từ đây. Vì thế, thành ngữ &quot;Đồng Bào&quot;, vốn là thành ngữ duy nhất và chỉ dành riêng cho Dân Tộc cũng như văn hóa của Người Việt, thuộc dòng Âu Lạc mà thôi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Chúng ta hầu như không ai có thể nhận ra được rằng: Bách Bộc của Âu Lạc đã thoát ly với quá khứ cội nguồn của Bách Việt trước đó, tại vùng Nghĩa Lĩnh này. Dĩ nhiên trong số 50 người con được chia đôi ngày đó. Đều có sự hiện diện chung của Kinh Việt và Dương Việt.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Ta có thể nhận ra điều đó trong suốt các thời của Vua Hùng như: An Tiêm, Thạch Sanh, Sơn Tinh... Đều phản ảnh đó là thuộc dòng Âu Việt của Âu Cơ. Tôi gọi tắt là dòng Mẹ.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Và An Dương Vương chính là đại biểu điển hình tiêu biểu cho dòng Âu Cơ. Thế cho nên ta mới thấy sử sách ghi là cướp ngôi. Điều này có nghĩa là dòng Ngoại cướp của dòng Nội mà thôi. Thế cho nên quốc hiệu mới gọi là Âu Lạc. Chữ Âu là dòng đứng trước chữ Lạc để thể hiện điều đó. Và dĩ nhiên hiệu xưng An Dương Vương là ý từ dòng Dương Việt của Âu Cơ, so với Kinh Việt của Lạc Long Quân mà ra.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Thế cho nên Linh vật tổ mà An Dương Vương phải thờ, nhất định phải là Thần Kim Quy. Và chế độ đó theo Mẫu Hệ là tất yếu, không bàn cãi. Và Kinh Đô thay vì Phong Châu của họ Nội, thì phải đổi ra Phong Khê theo họ Ngoại là chính xác tuyệt đối vậy.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Đồng ý An Dương Vương thuộc Thường Việt trước đó. Nên có cùng họ với Thục Đế. Tuy nhiên dòng Thường Việt từ khi định cư ở Hồ Phiên Dương thì đã đổi ra Dương Việt. Và Thục Phán nơi này đã là Âu Lạc Việt rồi vậy. Quốc hiệu cũng như Vương hiệu đã phát biểu lên tất cả rồi. Ta cũng nên dừng lại những tranh cãi một cách thiếu tính thuyết phục về thân thế của An Dương Vương vậy.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Vậy có nghĩa là An Dương Vương vẫn tuyệt đối trung thành với quốc gia dân tộc và giống nòi của mình. Chỉ khác một điều là; Vương đã đưa Mẫu Hệ (Âu Việt), lên làm thuyền trưởng của con thuyền dân tộc Việt, trong giai đoạn của dòng sử này mà thôi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tất nhiên sự kiện Thần Kim Quy, chỉ cách xây Thành Cổ Loa cũng như cho Móng Nỏ đối với An Dương Vương, là điều hiển nhiên rồi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tôi nhắc lại là; Văn U mặc nhất định phải biết cách đọc nơi không có chữ. Trong khi chúng ta còn chưa biết cách đọc như thế. Lại cứ đọc vào ở những nơi có chữ. Lại là dạng ngôn ngữ đơn thuần về sự kiện này. Suy không thấu, rồi cho là chuyện hoang đường, không đáng tin &quot;!?&quot;.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tôi sẽ diễn giải cái ý tiềm ẩn phía sau sự kiện của Thần Kim Quy trong giai đoạn đó như sau:</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Sử chép rằng An Dương Vương đã dò theo dấu chân của Thần Kim Quy mà mô phỏng theo để xây thành. Điều này ám chỉ là &quot;bức đồ&quot; (bản vẽ thiết kế) Quy Tàng Dịch, vốn được chạm ở trên mình của Thần Quy mà ra. Đó chính là mô hình của Bát Quái. Dựa theo Tượng Trời trên đấy mà sắp Thế Đất theo. Đó là nguyên lý nền móng vững vàng của Kinh Dịch hàng ngàn đời nay rồi. Ngay cả những phép tính toán hiện nay bao gồm cả những kiến trúc, thiết kế, xây dựng cũng vẫn đang dựa trên dấu chỉ của Thần Quy cả đấy thôi! Có điều gì để có thể gọi cho được là hoang đường hay không?</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Về việc cho móng để làm lẫy nỏ nữa! Để hiểu được điều tiềm ẩn này. Ta nhất định đòi hỏi phải trang bị và tích lũy một nền tảng kiến thức không hề nhỏ bao giờ cả.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Ví dụ:</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Ta cứ hình dung trong đồ hình của Ma Phương số của Lạc Thư (tham khảo đồ hình trong bài Nhà Hán Với Dấu Vết Kinh Dịch). Trong mô hình Cửu Cung đó cũng chính là nền móng để Thành Cổ Loa được thiết kế theo. Ta xét thấy 4 góc thành ở theo bốn hướng Tây Bắc - Đông Bắc và Tây Nam - Đông Nam.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Theo Lạc Thư thì bốn vị trí này chính là bốn chân của Thần Kim Quy. Ta xét thấy hệ thống số từ dưới lên trên là 2 - 4 - 6 - 8. Tượng trưng cho số móng của Thần Kim Quy. Các &quot;Nỏ Thủ&quot; sẽ được bố trí theo 4 góc xây phía bên trên thành, đúng với hệ thống số đó. Ngoài bốn móng đó ra, còn có một trạm Nỏ Thủ được bố trí ở khu vực trung tâm là số 5. Kiểm soát liên thông cả 4 phương, phối hợp được với cả bốn Hướng.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tiếp đến thì cửa Thành sẽ được mở theo hướng Bắc thuộc cung số 1. Lối vào lại có một cổng ở trung tâm và thông sang bốn phương Đông - Tây - Nam. Như thế ta sẽ thấy được, bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc phía bên trong của Thành Cổ Loa, đều chịu sự khống chế bằng Nỏ Thần từ: Bốn Hướng Tây Bắc - Đông Bắc - Đông Nam - Tây Nam.<br />
Như thế, ta thấy; tất cả 4 vị trí của bốn Phương Bắc - Nam - Đông - Tây bị rơi vào trận đồ của Bát Quái ở chỗ; Nếu dùng <strong>Bát Môn </strong>để xem xét thì sẽ hiện ra thế trận như; Bốn phương đó đều đã bị dồn vào &quot;Cửa Nạn&quot; hết cả rồi. Đó là vị trí của các cửa; Hưu - Thương - Cảnh - Kinh. Đều là &quot;Cửa Dữ&quot;, tuyệt khí và rời khí... Là Địa Võng. Ắt phải lâm vào đại nạn, có mọc cánh cũng không có thể thoát ra cho được. Bởi phía trên là &quot;Nỏ Thần&quot;. Là thiên La.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Nhìn tổng quát, ta thấy: Cứ mỗi khu vực của bốn phương trong thành. Đều chịu sự kiểm soát nhất định từ hai hướng và một phương bởi nỏ thần bố trí phía bên trên. Bốn móng nỏ có thể bắn ra trăm mũi không có gì là sai lạc được cả. (Từ dẫn giải trên đây, ta có nền móng để có thể suy diễn tiếp hệ thống phía bên trong Thành Cổ Loa rồi vậy).</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Nếu như chiến cụ của Chiến Thần Xi Vưu xưa kia có Chiếc Búa và Tiêu Khúc thì: Chiến cụ của Tiên Huyền Nữ lại là Đàn Dao Cầm và Cây Nỏ. Vậy Thần Kim Quy không cho An Dương Vương cái Móng Nỏ thì còn cho cái gì nữa đây?</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Đó là tôi còn chưa bàn đến những bộ phận để cấu thành cây nỏ nữa. Dĩ nhiên, nếu là dòng dõi này, ta nhất định phải biết tất cả những giá trị đó. Ví như những hoa văn chim Việt trên trống đồng. Ta phải đủ biết vào thời của Tiên Huyền Nữ. Bởi Tiên Nữ ở trong Cung Quảng Hàn. Rất lạnh. Nên chiếc áo Tiên Huyền Nữ mặc vốn được kết bằng lông của một loài chim mà ta quen nghe gọi là Chim Việt &quot;!?&quot;.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Ta cũng thường nghe sử sách nhắc đến là Vũ Y hoặc Thiên Y. Do lông Chim rất nhẹ, nên chỉ hơi gió thoảng qua là dường như chiếc áo có điệu múa xao động! Mỗi cử chỉ, mỗi bước chân, chiếc áo như một vũ điệu hòa nhịp theo gót Tiên Nữ vậy. Từ đó Tiên Nữ nơi Cung Hàn mới sỡ hữu Vũ Điệu Nghê Thường &quot;chết người&quot; được.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Từ đó ta mới thấy thời Hùng Vương, con cháu có tục cắm những chiếc lông chim đó trên đầu mà làm mão. Công dụng thứ nhất, chính là để nhận diện ra dấu chỉ của dòng giống Tiên Rồng. Thứ hai làm trang sức. Thứ ba, mỗi khi có binh biến. Giống nòi này chỉ việc đưa tay lên đầu rút lông chim, gắn vào sau đuôi mũi tên. Ngay lập tức, chiếc lông chim đó, sẽ định hướng mục tiêu cho mũi tên của nỏ thần..., &quot;ghim trúng đích&quot;.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tất cả những điều đó. Đã được sử sách suy tôn là; &quot;Cờ Mao&quot;.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Điều này, quân của Mã Viện trong quá khứ đã từng mục kích và còn lưu lại trong sử sách rằng: Họ có thể truyền mũi tên cho nhau bằng cách... bắn đúng vào búi tóc của người ở phía xa khác!</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Điều tượng trưng của loài chim Việt này. Đã khiến nên tất cả đều bị đánh lừa về Linh Vật tổ của người Việt chính là một loài Chim Việt đã lạc mất dấu tích! (Kỳ thực! loài chim đó, vẫn tiềm ẩn quanh đời. Điều đó vốn là Đạo. Vẫn sừng sững trước mắt mà không có thể nhìn thấy cho được!!). Thế rồi đã có không thiếu những tư duy kiệt xuất. Họ cho rằng đó chính là loài Chim Hạc. Bởi ngày trước, Hùng Vương cũng đã chọn đất Bạch Hạc để định đô trong thuở lập quốc!.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Thế rồi cũng không thiếu những kẻ được và tự xem là sĩ. Thi nhau mà &quot;Múa... Bút&quot; vịnh Hoàng Hạc Lâu !! Khiến nên biết bao thế hệ cháu con thi sĩ, thả sức múa bút tán theo mà vịnh, xướng, ca, tụng... Hoàng Hạc... !?.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Ta thấy, duy chỉ có Lý Bạch khi nhìn thấy bài Hoàng Hạc Lâu, Thi Tiên đã vứt bút, trầm mình luôn đi cho rồi...!, ...!?</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Trước khi bỏ đời, Thi Tiên lý Bạch vẫn còn kịp ta thán hai câu:</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc<br />
Thôi Hiệu đề thi tại thượng lầu.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tùy duyên! Ai muốn hiểu sao thì hiểu vậy.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Như tôi đã từng diễn tả qua trong các bài trước. Tần Thủy Hoàng ngay sau khi gồm thâu thiên hạ Nhà Chu. Bởi cũng có dòng máu của Bách Việt khi xưa. Nên Tần Thủy Hoàng thừa biết di ấn vẫn đang còn ở bên kia dòng Dương Tử. Ngay lập tức, Tần Thủy Hoàng tiếp tục xua quân vượt qua dòng Dương Tử, truy dấu di ấn mà mãi từ thời Nhà Thương còn dỡ mộng. Ta phải biết, với thế lực ngày đó của Tần Thủy Hoàng. Vùng Kinh Việt cũng như Dương Việt tại khu vực Ngũ Lĩnh, khó có thể đương cự. Cuối cùng rồi dòng Thường Việt tại Hồ Phiên Dương, cũng chịu bi cảnh chim Việt mất tổ mà phải lạc đàn...</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Thủy Hoàng Đế bèn giao cho Phù Tô và Mông Điềm lãnh trọng trách xây biên ải tại khu vực đó. Đồng thời cũng giao cho Triệu Đà thống lĩnh binh mã, tấn công vào nước Âu Lạc của An Dương Vương.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Trong giai đoạn của trang sử Việt ngày đó; Vó ngựa của Nhà Tần, đã phải cuồng vó ở phía bên ngoài chân Thành Cổ Loa. Bởi phía bên trong Thành Cổ Loa, có Nỏ Thần của dòng Âu Lạc đang trấn giữ. Cho dù trang sử của giai đoạn này có bị che giấu. Nhà Tần không có thể chạm đến chân tường Thành Cổ Loa của Nước Âu Lạc, là một sự thật không thể chối cãi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Nếu lịch sử của người Trung Quốc có nhắc đến Tần Thủy Hoàng? Thì đó sẽ là cả một sự kinh hoàng, hằn sâu trong tâm thức của họ muôn đời nay. Vậy thì những trận chiến giữa Nhà Tần trong giai đoạn đó với Nước Âu Lạc bên chân Thành Cổ Loa? Ắt phải khiến nên những nỗi khiếp đảm, vạn lần hơn nữa cho người Trung Quốc.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Bởi tại thời điểm của luận giải này: Ta thấy Nước Âu Lạc trong giai đoạn của lịch sử khi đấy. Chính là giới hạn duy nhất, buộc Nhà Tần phải chấp nhận dừng vó. Sự kiện này, có nguy cơ sẽ là nét mực bôi đen mọi sự hãnh diện hão về lịch sử cũng như văn hóa của người Trung Quốc trong thời kỳ đấy là một hiện thực.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Dĩ nhiên trang sử của giai đoạn lịch sử này. Nhất định không thể tồn tại cho được. Kể cả Sử Ký của Tư Mã Thiên cũng tránh đả động đến!?. như thế, ta xét thấy Sử Ký của Tư Mã Thiên đã có một khoảng trống lịch sử trong giai đoạn này. Tất nhiên, trong giai đoạn 1000 năm sau đó. Tất cả sử Việt, bằng bất kỳ giá nào; Không thể tồn tại cho được rồi vậy. Và Cổ Loa Thành nhất định phải chịu chung số phận cùng với lịch sử cũng như dân tộc Việt. Bởi di tích đấy, là di chứng lịch sử vốn đong đầy dị ứng đối với người Trung Quốc.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Sự việc lúc này, sẽ được chúng ta xem xét đến một giả thuyết như sau:</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Sự kiện Nhà Tần đang dần bị thôn tính bởi Nhà Hán khi đấy. Khiến nên Triệu Đà tiến thoái lưỡng nan, buộc phải mang binh mà kết giao cùng An Dương Vương. Dĩ nhiên không phải là trá hàng cho được. Bởi ta xét thấy mục đích trá hàng là cho ai? Nhà Tần hay Nhà Hán? Lại càng không phải cho Triệu Đà trong hoàn cảnh khi đấy.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">An Dương Vương dĩ nhiên nhìn thấy rất rõ hoàn cảnh của Triệu Đà rơi vào lúc đó. Và cũng muốn yên bình. Nên cũng kết thông gia mà tỏ chân tình cùng Triệu Đà, không hề nghi ngờ gì cả. Dần rồi Triệu Đà phát hiện và nắm được toàn bộ sách lược trọng yếu của nước Âu Lạc thông qua sự nhẹ dạ, cả tin của Mỵ Châu. Tham vọng chỉ có thể nổi lên và lớn dần trong tâm địa của Triệu Đà về sau này mà thôi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Phải lấy làm rất khó cho tư duy, khi ta có thể xét thấy rằng: Nhà Hán, ngay sau đấy. Cũng tiếp tục photocopy phiên bản Trọng Thủy - Mỵ Châu mà diễn lại trên nước Nữ Chân! Tấn tuồng này vốn đã xãy ra trên sân khấu của Lã Hậu. Khi đạo diễn kiêm diễn viên chính Trần Bình thủ vai. Ta thấy Sử Ký Tư Mã Thiên có chép là: &quot;Kế mà Trần Bình ngày đó thi triển ở nước vương bà là tuyệt mật! Mãi đến hôm nay, không một ai biết được là kế gì cả!?&quot;.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Như ta biết đấy; Trần Bình rất &quot;đẹp trai&quot; !! Đồng thời cũng là tay ăn chơi, trác táng bậc nhất trong thời điểm đấy. Nói ra xấu hổ chết... Bởi, nói làm sao cho được...</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Thế rồi...</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Như những gì mà chúng ta đã biết đấy. Thế nhưng, cái giá mà dân tộc Việt của chúng ta phải trả đã quá đắt. Một cái giá mà ngày nay nhìn lại... hầu như lịch sử trên bình diện địa cầu xưa nay. Duy nhất; Chỉ có dân tộc Do Thái, mới có thể chia sẻ và cảm thông được. Bởi họ cũng đã từng trải qua cái giá nô lệ của 1000 năm đó mà không bị mất gốc! Kể cũng hi hữu thật. Trời có &quot;Mặc định&quot; điều gì chăng !? Hồi sau sẽ rõ. Bởi, không có bất cứ điều gì, mãi bị che giấu được nữa rồi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Đáng buồn hơn. Tại sao người Việt thường chịu chấp nhận người ngoài nhận xuống tận đáy bùn đen, hơn là anh em trong nhà hơn nhau một vài lời nói tỏ bày chính kiến !? Cho dù quan điểm thật chính đáng. Nỗi ưu tư này, đòi hỏi phải chỉ định cho ra nguyên nhân, trước khi bước qua ngưỡng cửa của Kỷ Nguyên Mới. Một nghi án cho vấn đề này bỏ ngỏ: Có phải đó chính là dòng máu &quot;lai căn&quot; từ Hoa Trung và Hoa Thượng, của người Hoa Hạ !? Bởi giống nòi Thần Tiên, vốn không thuộc hệ di truyền đấy cho được.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Chân lý đó. Nhất định phải được thực thi ở thời kỳ cuối trong nay mai...</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Thế rồi... Tôi không thể nhắc đến những nỗi thống khổ, mà dân tộc Việt đã từng phải chịu trong suốt 1000 năm đó ra đây cho được. Những điều đó hoàn toàn nằm ngoài sự tưởng tượng hiện nay của hầu hết chúng ta.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tôi chỉ có thể nhắn nhủ được rằng:</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Cái lý của Dịch Kinh đã chỉ rất rõ là: Mô hình trật tự tự nhiên của vũ trụ vốn là Tham Thiên Lưỡng Địa. Điều đó có nghĩa là 3 Dương và 2 Âm. Từ tượng trời mà suy ra; Người đàn ông, nhất định phải là trụ cột trong gia đình, cáng đáng trọng trách mà dìu dắt vợ con trong suốt cuộc hành trình đi về cội nguồn. Bất kỳ mô hình vận hành nào phản ảnh đối lập với quy luật đó. Ắt phải trả với một giá rất đắt.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Điển hình như thời kỳ của An Dương Vương là một bằng chứng khó có thể chối bỏ cho được. Thế nên trong suốt 1000 năm của giai đoạn đó. Thiên ý buộc các bà nhất định phải đứng ra mà giành lấy cơ đồ đã đánh mất về lại cho dân tộc. Và đó cũng là thời kỳ Mẫu Hệ của lịch sử dân tộc Việt.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Những hiện tượng mà lịch sử phải trả giá đắt như điển hình vừa nêu trên đây. Tôi sẽ tiếp tục chỉ ra trong từng giai đoạn về sau mà dân tộc Việt tiếp tục vô tình dẫm phải dấu chân của mô hình Mẫu Hệ. Tạo hóa vốn đã định phận nữ nhi là chân yếu, tay mềm. Nhất định phải nương theo quy luật chứ không phải mang thân gồng gánh cơ đồ cho được. Tất nhiên, nếu có muốn chia sẻ trọng trách. Hãy nương theo mà phụ thêm vậy.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Và đó, cũng chính là ý tưởng của Tạo Hóa. Không khác.</p>
<p style="margin-top: 6px; display: inline; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">.</p>
<body id="cke_pastebin" style="position: absolute; top: 7.99716px; width: 1px; height: 1px; overflow: hidden; left: -1000px;">
<p style="margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">22 - AN DƯƠNG VƯƠNG ĐẠI DIỆN DÒNG ÂU CƠ.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tính từ khi Lạc Long Quân và Âu Cơ về tới vùng Nghĩa Lĩnh và hạ sinh được Trăm con trong cùng một bào thai. Kể từ giai đoạn của lịch sử đó, Lạc Long và Âu Cơ đã kẻ một lằn ranh phân định giữa hai định ngữ Bách Việt và Bách Bộc (Bọc trứng, bào thai) của dân tộc Việt nói chung. Ta thấy thuật ngữ &quot;Đồng Bào&quot; (cùng một bào thai) có nguồn gốc xuất phát từ đây. Vì thế, thành ngữ &quot;Đồng Bào&quot;, vốn là thành ngữ duy nhất và chỉ dành riêng cho Dân Tộc cũng như văn hóa của Người Việt, thuộc dòng Âu Lạc mà thôi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Chúng ta hầu như không ai có thể nhận ra được rằng: Bách Bộc của Âu Lạc đã thoát ly với quá khứ cội nguồn của Bách Việt trước đó, tại vùng Nghĩa Lĩnh này. Dĩ nhiên trong số 50 người con được chia đôi ngày đó. Đều có sự hiện diện chung của Kinh Việt và Dương Việt.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Ta có thể nhận ra điều đó trong suốt các thời của Vua Hùng như: An Tiêm, Thạch Sanh, Sơn Tinh... Đều phản ảnh đó là thuộc dòng Âu Việt của Âu Cơ. Tôi gọi tắt là dòng Mẹ.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Và An Dương Vương chính là đại biểu điển hình tiêu biểu cho dòng Âu Cơ. Thế cho nên ta mới thấy sử sách ghi là cướp ngôi. Điều này có nghĩa là dòng Ngoại cướp của dòng Nội mà thôi. Thế cho nên quốc hiệu mới gọi là Âu Lạc. Chữ Âu là dòng đứng trước chữ Lạc để thể hiện điều đó. Và dĩ nhiên hiệu xưng An Dương Vương là ý từ dòng Dương Việt của Âu Cơ, so với Kinh Việt của Lạc Long Quân mà ra.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Thế cho nên Linh vật tổ mà An Dương Vương phải thờ, nhất định phải là Thần Kim Quy. Và chế độ đó theo Mẫu Hệ là tất yếu, không bàn cãi. Và Kinh Đô thay vì Phong Châu của họ Nội, thì phải đổi ra Phong Khê theo họ Ngoại là chính xác tuyệt đối vậy.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Đồng ý An Dương Vương thuộc Thường Việt trước đó. Nên có cùng họ với Thục Đế. Tuy nhiên dòng Thường Việt từ khi định cư ở Hồ Phiên Dương thì đã đổi ra Dương Việt. Và Thục Phán nơi này đã là Âu Lạc Việt rồi vậy. Quốc hiệu cũng như Vương hiệu đã phát biểu lên tất cả rồi. Ta cũng nên dừng lại những tranh cãi một cách thiếu tính thuyết phục về thân thế của An Dương Vương vậy.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Vậy có nghĩa là An Dương Vương vẫn tuyệt đối trung thành với quốc gia dân tộc và giống nòi của mình. Chỉ khác một điều là; Vương đã đưa Mẫu Hệ (Âu Việt), lên làm thuyền trưởng của con thuyền dân tộc Việt, trong giai đoạn của dòng sử này mà thôi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tất nhiên sự kiện Thần Kim Quy, chỉ cách xây Thành Cổ Loa cũng như cho Móng Nỏ đối với An Dương Vương, là điều hiển nhiên rồi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tôi nhắc lại là; Văn U mặc nhất định phải biết cách đọc nơi không có chữ. Trong khi chúng ta còn chưa biết cách đọc như thế. Lại cứ đọc vào ở những nơi có chữ. Lại là dạng ngôn ngữ đơn thuần về sự kiện này. Suy không thấu, rồi cho là chuyện hoang đường, không đáng tin &quot;!?&quot;.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tôi sẽ diễn giải cái ý tiềm ẩn phía sau sự kiện của Thần Kim Quy trong giai đoạn đó như sau:</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Sử chép rằng An Dương Vương đã dò theo dấu chân của Thần Kim Quy mà mô phỏng theo để xây thành. Điều này ám chỉ là &quot;bức đồ&quot; (bản vẽ thiết kế) Quy Tàng Dịch, vốn được chạm ở trên mình của Thần Quy mà ra. Đó chính là mô hình của Bát Quái. Dựa theo Tượng Trời trên đấy mà sắp Thế Đất theo. Đó là nguyên lý nền móng vững vàng của Kinh Dịch hàng ngàn đời nay rồi. Ngay cả những phép tính toán hiện nay bao gồm cả những kiến trúc, thiết kế, xây dựng cũng vẫn đang dựa trên dấu chỉ của Thần Quy cả đấy thôi! Có điều gì để có thể gọi cho được là hoang đường hay không?</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Về việc cho móng để làm lẫy nỏ nữa! Để hiểu được điều tiềm ẩn này. Ta nhất định đòi hỏi phải trang bị và tích lũy một nền tảng kiến thức không hề nhỏ bao giờ cả.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Ví dụ:</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Ta cứ hình dung trong đồ hình của Ma Phương số của Lạc Thư (tham khảo đồ hình trong bài Nhà Hán Với Dấu Vết Kinh Dịch). Trong mô hình Cửu Cung đó cũng chính là nền móng để Thành Cổ Loa được thiết kế theo. Ta xét thấy 4 góc thành ở theo bốn hướng Tây Bắc - Đông Bắc và Tây Nam - Đông Nam.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Theo Lạc Thư thì bốn vị trí này chính là bốn chân của Thần Kim Quy. Ta xét thấy hệ thống số từ dưới lên trên là 2 - 4 - 6 - 8. Tượng trưng cho số móng của Thần Kim Quy. Các &quot;Nỏ Thủ&quot; sẽ được bố trí theo 4 góc xây phía bên trên thành, đúng với hệ thống số đó. Ngoài bốn móng đó ra, còn có một trạm Nỏ Thủ được bố trí ở khu vực trung tâm là số 5. Kiểm soát liên thông cả 4 phương, phối hợp được với cả bốn Hướng.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tiếp đến thì cửa Thành sẽ được mở theo hướng Bắc thuộc cung số 1. Lối vào lại có một cổng ở trung tâm và thông sang bốn phương Đông - Tây - Nam. Như thế ta sẽ thấy được, bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc phía bên trong của Thành Cổ Loa, đều chịu sự khống chế bằng Nỏ Thần từ: Bốn Hướng Tây Bắc - Đông Bắc - Đông Nam - Tây Nam.<br />
Như thế, ta thấy; tất cả 4 vị trí của bốn Phương Bắc - Nam - Đông - Tây bị rơi vào trận đồ của Bát Quái ở chỗ; Nếu dùng Bát Môn để xem xét thì sẽ hiện ra thế trận như; Bốn phương đó đều đã bị dồn vào &quot;Cửa Nạn&quot; hết cả rồi. Đó là vị trí của các cửa; Hưu - Thương - Cảnh - Kinh. Đều là &quot;Cửa Dữ&quot;, tuyệt khí và rời khí... Là Địa Võng. Ắt phải lâm vào đại nạn, có mọc cánh cũng không có thể thoát ra cho được. Bởi phía trên là &quot;Nỏ Thần&quot;. Là thiên La.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Nhìn tổng quát, ta thấy: Cứ mỗi khu vực của bốn phương trong thành. Đều chịu sự kiểm soát nhất định từ hai hướng và một phương bởi nỏ thần bố trí phía bên trên. Bốn móng nỏ có thể bắn ra trăm mũi không có gì là sai lạc được cả. (Từ dẫn giải trên đây, ta có nền móng để có thể suy diễn tiếp hệ thống phía bên trong Thành Cổ Loa rồi vậy).</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Nếu như chiến cụ của Chiến Thần Xi Vưu xưa kia có Chiếc Búa và Tiêu Khúc thì: Chiến cụ của Tiên Huyền Nữ lại là Đàn Dao Cầm và Cây Nỏ. Vậy Thần Kim Quy không cho An Dương Vương cái Móng Nỏ thì còn cho cái gì nữa đây?</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Đó là tôi còn chưa bàn đến những bộ phận để cấu thành cây nỏ nữa. Dĩ nhiên, nếu là dòng dõi này, ta nhất định phải biết tất cả những giá trị đó. Ví như những hoa văn chim Việt trên trống đồng. Ta phải đủ biết vào thời của Tiên Huyền Nữ. Bởi Tiên Nữ ở trong Cung Quảng Hàn. Rất lạnh. Nên chiếc áo Tiên Huyền Nữ mặc vốn được kết bằng lông của một loài chim mà ta quen nghe gọi là Chim Việt &quot;!?&quot;.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Ta cũng thường nghe sử sách nhắc đến là Vũ Y hoặc Thiên Y. Do lông Chim rất nhẹ, nên chỉ hơi gió thoảng qua là dường như chiếc áo có điệu múa xao động! Mỗi cử chỉ, mỗi bước chân, chiếc áo như một vũ điệu hòa nhịp theo gót Tiên Nữ vậy. Từ đó Tiên Nữ nơi Cung Hàn mới sỡ hữu Vũ Điệu Nghê Thường &quot;chết người&quot; được.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Từ đó ta mới thấy thời Hùng Vương, con cháu có tục cắm những chiếc lông chim đó trên đầu mà làm mão. Công dụng thứ nhất, chính là để nhận diện ra dấu chỉ của dòng giống Tiên Rồng. Thứ hai làm trang sức. Thứ ba, mỗi khi có binh biến. Giống nòi này chỉ việc đưa tay lên đầu rút lông chim, gắn vào sau đuôi mũi tên. Ngay lập tức, chiếc lông chim đó, sẽ định hướng mục tiêu cho mũi tên của nỏ thần..., &quot;ghim trúng đích&quot;.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tất cả những điều đó. Đã được sử sách suy tôn là; &quot;Cờ Mao&quot;.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Điều này, quân của Mã Viện trong quá khứ đã từng mục kích và còn lưu lại trong sử sách rằng: Họ có thể truyền mũi tên cho nhau bằng cách... bắn đúng vào búi tóc của người ở phía xa khác!</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Điều tượng trưng của loài chim Việt này. Đã khiến nên tất cả đều bị đánh lừa về Linh Vật tổ của người Việt chính là một loài Chim Việt đã lạc mất dấu tích! (Kỳ thực! loài chim đó, vẫn tiềm ẩn quanh đời. Điều đó vốn là Đạo. Vẫn sừng sững trước mắt mà không có thể nhìn thấy cho được!!). Thế rồi đã có không thiếu những tư duy kiệt xuất. Họ cho rằng đó chính là loài Chim Hạc. Bởi ngày trước, Hùng Vương cũng đã chọn đất Bạch Hạc để định đô trong thuở lập quốc!.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Thế rồi cũng không thiếu những kẻ được và tự xem là sĩ. Thi nhau mà &quot;Múa... Bút&quot; vịnh Hoàng Hạc Lâu !! Khiến nên biết bao thế hệ cháu con thi sĩ, thả sức múa bút tán theo mà vịnh, xướng, ca, tụng... Hoàng Hạc... !?.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Ta thấy, duy chỉ có Lý Bạch khi nhìn thấy bài Hoàng Hạc Lâu, Thi Tiên đã vứt bút, trầm mình luôn đi cho rồi...!, ...!?</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Trước khi bỏ đời, Thi Tiên lý Bạch vẫn còn kịp ta thán hai câu:</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc<br />
Thôi Hiệu đề thi tại thượng lầu.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tùy duyên! Ai muốn hiểu sao thì hiểu vậy.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Như tôi đã từng diễn tả qua trong các bài trước. Tần Thủy Hoàng ngay sau khi gồm thâu thiên hạ Nhà Chu. Bởi cũng có dòng máu của Bách Việt khi xưa. Nên Tần Thủy Hoàng thừa biết di ấn vẫn đang còn ở bên kia dòng Dương Tử. Ngay lập tức, Tần Thủy Hoàng tiếp tục xua quân vượt qua dòng Dương Tử, truy dấu di ấn mà mãi từ thời Nhà Thương còn dỡ mộng. Ta phải biết, với thế lực ngày đó của Tần Thủy Hoàng. Vùng Kinh Việt cũng như Dương Việt tại khu vực Ngũ Lĩnh, khó có thể đương cự. Cuối cùng rồi dòng Thường Việt tại Hồ Phiên Dương, cũng chịu bi cảnh chim Việt mất tổ mà phải lạc đàn...</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Thủy Hoàng Đế bèn giao cho Phù Tô và Mông Điềm lãnh trọng trách xây biên ải tại khu vực đó. Đồng thời cũng giao cho Triệu Đà thống lĩnh binh mã, tấn công vào nước Âu Lạc của An Dương Vương.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Trong giai đoạn của trang sử Việt ngày đó; Vó ngựa của Nhà Tần, đã phải cuồng vó ở phía bên ngoài chân Thành Cổ Loa. Bởi phía bên trong Thành Cổ Loa, có Nỏ Thần của dòng Âu Lạc đang trấn giữ. Cho dù trang sử của giai đoạn này có bị che giấu. Nhà Tần không có thể chạm đến chân tường Thành Cổ Loa của Nước Âu Lạc, là một sự thật không thể chối cãi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Nếu lịch sử của người Trung Quốc có nhắc đến Tần Thủy Hoàng? Thì đó sẽ là cả một sự kinh hoàng, hằn sâu trong tâm thức của họ muôn đời nay. Vậy thì những trận chiến giữa Nhà Tần trong giai đoạn đó với Nước Âu Lạc bên chân Thành Cổ Loa? Ắt phải khiến nên những nỗi khiếp đảm, vạn lần hơn nữa cho người Trung Quốc.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Bởi tại thời điểm của luận giải này: Ta thấy Nước Âu Lạc trong giai đoạn của lịch sử khi đấy. Chính là giới hạn duy nhất, buộc Nhà Tần phải chấp nhận dừng vó. Sự kiện này, có nguy cơ sẽ là nét mực bôi đen mọi sự hãnh diện hão về lịch sử cũng như văn hóa của người Trung Quốc trong thời kỳ đấy là một hiện thực.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Dĩ nhiên trang sử của giai đoạn lịch sử này. Nhất định không thể tồn tại cho được. Kể cả Sử Ký của Tư Mã Thiên cũng tránh đả động đến!?. như thế, ta xét thấy Sử Ký của Tư Mã Thiên đã có một khoảng trống lịch sử trong giai đoạn này. Tất nhiên, trong giai đoạn 1000 năm sau đó. Tất cả sử Việt, bằng bất kỳ giá nào; Không thể tồn tại cho được rồi vậy. Và Cổ Loa Thành nhất định phải chịu chung số phận cùng với lịch sử cũng như dân tộc Việt. Bởi di tích đấy, là di chứng lịch sử vốn đong đầy dị ứng đối với người Trung Quốc.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Sự việc lúc này, sẽ được chúng ta xem xét đến một giả thuyết như sau:</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Sự kiện Nhà Tần đang dần bị thôn tính bởi Nhà Hán khi đấy. Khiến nên Triệu Đà tiến thoái lưỡng nan, buộc phải mang binh mà kết giao cùng An Dương Vương. Dĩ nhiên không phải là trá hàng cho được. Bởi ta xét thấy mục đích trá hàng là cho ai? Nhà Tần hay Nhà Hán? Lại càng không phải cho Triệu Đà trong hoàn cảnh khi đấy.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">An Dương Vương dĩ nhiên nhìn thấy rất rõ hoàn cảnh của Triệu Đà rơi vào lúc đó. Và cũng muốn yên bình. Nên cũng kết thông gia mà tỏ chân tình cùng Triệu Đà, không hề nghi ngờ gì cả. Dần rồi Triệu Đà phát hiện và nắm được toàn bộ sách lược trọng yếu của nước Âu Lạc thông qua sự nhẹ dạ, cả tin của Mỵ Châu. Tham vọng chỉ có thể nổi lên và lớn dần trong tâm địa của Triệu Đà về sau này mà thôi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Phải lấy làm rất khó cho tư duy, khi ta có thể xét thấy rằng: Nhà Hán, ngay sau đấy. Cũng tiếp tục photocopy phiên bản Trọng Thủy - Mỵ Châu mà diễn lại trên nước Nữ Chân! Tấn tuồng này vốn đã xãy ra trên sân khấu của Lã Hậu. Khi đạo diễn kiêm diễn viên chính Trần Bình thủ vai. Ta thấy Sử Ký Tư Mã Thiên có chép là: &quot;Kế mà Trần Bình ngày đó thi triển ở nước vương bà là tuyệt mật! Mãi đến hôm nay, không một ai biết được là kế gì cả!?&quot;.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Như ta biết đấy; Trần Bình rất &quot;đẹp trai&quot; !! Đồng thời cũng là tay ăn chơi, trác táng bậc nhất trong thời điểm đấy. Nói ra xấu hổ chết... Bởi, nói làm sao cho được...</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Thế rồi...</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Như những gì mà chúng ta đã biết đấy. Thế nhưng, cái giá mà dân tộc Việt của chúng ta phải trả đã quá đắt. Một cái giá mà ngày nay nhìn lại... hầu như lịch sử trên bình diện địa cầu xưa nay. Duy nhất; Chỉ có dân tộc Do Thái, mới có thể chia sẻ và cảm thông được. Bởi họ cũng đã từng trải qua cái giá nô lệ của 1000 năm đó mà không bị mất gốc! Kể cũng hi hữu thật. Trời có &quot;Mặc định&quot; điều gì chăng !? Hồi sau sẽ rõ. Bởi, không có bất cứ điều gì, mãi bị che giấu được nữa rồi.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Đáng buồn hơn. Tại sao người Việt thường chịu chấp nhận người ngoài nhận xuống tận đáy bùn đen, hơn là anh em trong nhà hơn nhau một vài lời nói tỏ bày chính kiến !? Cho dù quan điểm thật chính đáng. Nỗi ưu tư này, đòi hỏi phải chỉ định cho ra nguyên nhân, trước khi bước qua ngưỡng cửa của Kỷ Nguyên Mới. Một nghi án cho vấn đề này bỏ ngỏ: Có phải đó chính là dòng máu &quot;lai căn&quot; từ Hoa Trung và Hoa Thượng, của người Hoa Hạ !? Bởi giống nòi Thần Tiên, vốn không thuộc hệ di truyền đấy cho được.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Chân lý đó. Nhất định phải được thực thi ở thời kỳ cuối trong nay mai...</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Thế rồi... Tôi không thể nhắc đến những nỗi thống khổ, mà dân tộc Việt đã từng phải chịu trong suốt 1000 năm đó ra đây cho được. Những điều đó hoàn toàn nằm ngoài sự tưởng tượng hiện nay của hầu hết chúng ta.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Tôi chỉ có thể nhắn nhủ được rằng:</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Cái lý của Dịch Kinh đã chỉ rất rõ là: Mô hình trật tự tự nhiên của vũ trụ vốn là Tham Thiên Lưỡng Địa. Điều đó có nghĩa là 3 Dương và 2 Âm. Từ tượng trời mà suy ra; Người đàn ông, nhất định phải là trụ cột trong gia đình, cáng đáng trọng trách mà dìu dắt vợ con trong suốt cuộc hành trình đi về cội nguồn. Bất kỳ mô hình vận hành nào phản ảnh đối lập với quy luật đó. Ắt phải trả với một giá rất đắt.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Điển hình như thời kỳ của An Dương Vương là một bằng chứng khó có thể chối bỏ cho được. Thế nên trong suốt 1000 năm của giai đoạn đó. Thiên ý buộc các bà nhất định phải đứng ra mà giành lấy cơ đồ đã đánh mất về lại cho dân tộc. Và đó cũng là thời kỳ Mẫu Hệ của lịch sử dân tộc Việt.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Những hiện tượng mà lịch sử phải trả giá đắt như điển hình vừa nêu trên đây. Tôi sẽ tiếp tục chỉ ra trong từng giai đoạn về sau mà dân tộc Việt tiếp tục vô tình dẫm phải dấu chân của mô hình Mẫu Hệ. Tạo hóa vốn đã định phận nữ nhi là chân yếu, tay mềm. Nhất định phải nương theo quy luật chứ không phải mang thân gồng gánh cơ đồ cho được. Tất nhiên, nếu có muốn chia sẻ trọng trách. Hãy nương theo mà phụ thêm vậy.</p>
<p style="margin-top: 6px; margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">Và đó, cũng chính là ý tưởng của Tạo Hóa. Không khác.</p>
<p style="margin-top: 6px; display: inline; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);">.</p>
</body>


Thanked by 1 Member:

#11 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 07/04/2018 - 23:36


23 - VŨNG LẦY LỊCH SỬ.

Theo phép tính Tam Nguyên Cửu Vận.

Ta xem lại đồ hình "điểm vận", kèm theo Thái Cực Tượng Đồ VN. Theo đó, ta sẽ thấy mỗi Vận trong phép chuyển Vận đó là 20 năm x 3 vận = 60 năm là một Nguyên. Từ đó ta áp dụng vào Thế Vận trong giai đoạn 1000 năm khi Nhà Hán đô hộ, tính từ Triệu Đà.

Nếu ta có theo dõi những bài viết trên trang này từ đầu. Ta dễ dàng nhận thấy 1000 năm đó đã bao gồm 2 cuộc bể dâu. Như vậy chia ra Thế Cuộc nô lệ 500 năm ban đầu đó thì Vận hành thuộc về Âm Thế. Và Thế Cuộc của giai đoạn 500 năm về sau thì, Vận hành là Dương Thế!

Từ nhận định đó, cho ta thấy được rằng: Lý Vận thứ nhất, chuyển tương đương 200 năm thì xảy ra sự kiện khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Vận thứ hai, cũng 200 năm dành cho sự nổi dậy của Bà Triệu!! và 200 năm của Vận cuối là Lý Bí (Bôn). (Chính xác thì Thế vận là 180 năm. Do năm nhuận, cách tính rất phức tạp. Tôi chỉ đưa ra ước lượng để ta dễ tham khảo thôi).

Tôi cũng đính chính với quan niệm của các sử gia như sau: Tên của Lý Nam Đế là Lý Bí hoặc Lý Bôn, không có nghĩa là Trái Bí, Trái Bầu hay Hoa Thiên Lý như các vị trước nay suy diễn như thế cho được "!?" Mà tên này chính là tên của Quẻ Dịch. Đó là tên Quẻ Sơn Hỏa Bôn. Hoặc Sơn Hỏa Bí mà ra. Theo Dịch Lý thì Bôn hay Bí đều cùng nghĩa như nhau. Ai muốn xem và xét nghĩa theo Bôn hoặc Bí đều được, không sai. Điều này có "Dịch Nghĩa"..., Bôn là cái Thời còn phải bôn ba chưa định. Bí thì lại tiềm ẩn ý..., Vận còn bế tắc, chưa hanh thông.

Tôi cũng cần phải lưu ý thêm rằng: Kinh Dịch vốn là nền tảng của Văn Hóa từ muôn năm qua cho đến tận hôm nay là điều không phải bàn cãi nữa. Vì thế ngay từ thuở sơ khai của thời kỳ cổ đại. Những bậc vương tử, tri thức nói chung. Họ luôn đặt tên con cái theo nền tảng của Kinh Dịch để thể hiện Văn Hóa như:

Thứ nhất; Họ thường đặt tên con theo Thập Thiên Can, ta có thể thấy như các vua từ giai đoạn của Nhà Thương (Thường Việt). Thứ hai, thì đặt theo Thập Nhị Địa Chi. Và thứ ba là theo Ngũ Hành. Duy nhất dòng Bách Việt đại đa số lại lấy tên của các Quẻ Dịch mà đặt tên! Ta có thể tra xét lại quá khứ lịch sử từ giai đoạn của Xi Vưu đã đều thấy điều đó trong Văn Hóa người Bách Việt rồi vậy! Điều này càng khẳng định thêm cho quan điểm Kinh Dịch vốn là văn hóa của dân tộc Việt vậy.

Bằng bất kỳ giá nào; Tôi cũng phải lấy được Kinh Dịch về lại cho dân tộc Việt hôm nay. Bởi đó chính là di chỉ của giống nòi này. Kinh Dịch còn đầy rẫy những giá trị tiềm ẩn trong đó, mà nhân loại trong tương lai, cần phải sử dụng cho những mục đích phát triển chung. Kinh Dịch vốn là một Kỳ Thư, Di Bảo của dân tộc Việt đã mặc định là "Lạc Thư" bị trôi lạc, vùi lấp. Nên phải chịu cảnh để cho thiên hạ gây nát loạn xưa nay.

Thế cho nên trong giai đoạn của Lý Nam Đế, Lý Bí hay Lý Bôn chính là văn Hóa tiềm ẩn của Kinh Dịch. Tiếp đến là Triệu Quang Phục cũng không ngoại lệ. Đó gọi là tượng trời, dựa theo đó để... Chiêm Tượng. Và đó cũng chính là đọc chỗ không chữ, rất gần với Thiên Thư rồi vậy.

Thiên Thư vốn là Sách Trời, nơi tôi vừa diễn giải chính là chiếc cầu nối với Sách Người (Nhân Thư), mà xưa nay ta quen gọi là Lịch Sử. Và chiếc cầu nối giữa sách người và sách trời chính là tất cả những Kinh Điển, bao gồm cả Kinh... của các Tôn Giáo nói chung.

Như tôi đã mô tả giá trị Kinh Dịch tiềm ẩn trong thời An Dương Vương với Thành Cổ loa thì miễn bàn rồi. Vậy các nhà Dịch Học nói chung, nghĩ gì về những cái tên như: "Thi Sách" !, Triệu Thị "Trinh" !!, Lý "Bí, Bôn" !!!, Quang "Phục" !?. Những giá trị của Kinh Dịch tiềm ẩn liên tiếp trong các thời kỳ xảy ra những sự kiện như thế? Tôi sẽ chứng minh những giá trị này, xuyên suốt lịch sử Việt cho mãi đến tận ngày hôm nay.

Thế mới có thể gọi là; "Nấu Sử Sôi Kinh" cho được vậy.

Chúng ta quay trở lại đề tài đang dở dang, tiếp tục nối mạch lại như:

... Như những gì mà ta đã thấy; Bởi An Dương Vương đại diện cho dòng mẹ, làm mất nước vào tay Nhà Hán. Cho nên trong suốt giai đoạn mà nương dâu lở thành bể rộng đó. Các bà phải có trách nhiệm nổi dậy là tất yếu đối với Dịch lý. Tuy nhiên ta thấy; Trời sinh ra, vốn đã định số là phận nữ nhi rồi. Thế cho nên không có thể cáng đáng trọng trách, mà mang cơ đồ lại cho dân tộc được rồi vậy.

Và Vận Thế đến giai đoạn của Lý Bí chính là Dương Vận! Nói cách khác thì đó chính là dòng của Cha. Điều này ta có thể nhận thấy rất rõ khi Rồng đã cho móng Triệu Quang Phục như... Rùa từng có cho móng đối với An Dương Vương khi xưa vậy.

Đáng tiếc thay cho Triệu Việt Vương ngày đó. Vương đã không nhìn ra được là mô hình lịch sử đang "lập lại", chu kỳ vận hành của mô hình trật tự tự nhiên của vũ trụ. Và Vương lại dẫm đúng vào vết xe cũ, khi vừa vượt qua khỏi khu "đầm lầy" Dạ Trạch. Nơi mà Long Thần đã cõng Vương thoát ra khỏi vũng lầy lịch sử khi đấy.

Ta phải đủ để lĩnh hội được rằng: Cái linh khí của dân tộc Việt tại khu Đầm Dạ Trạch mà ngày đó Triệu Việt Vương được phù trợ (Quang Phục). Lại chính là cái hồn thiên dân tộc từ cái Đầm Nhất Dạ khi xưa mà Chử Đồng Tử từng định cư! Thế cho nên ta mới nghe như mơ hồ về một truyền thuyết rằng Chử Đồng Tử đã trao móng Rồng cho Triệu Quang Phục trong những trang sử đính kèm. Cái ý tiềm ẩn này, những thế hệ ngàn sau không có thể suy tới cho thấu được. Đó là một sự thật mà ta không có thể viện đến bất kỳ một cứu cánh nào mà thoát ra khỏi sự thật lịch sử đó cho được. Bởi vì đó là chuyện của Thần Tiên. Ta cũng quen gọi một cách chưa suy gẫm thấu đáo là: Thần Thoại !!

Chiếc xuồng độc mộc của Triệu Quang Phục bị sa lầy trong vũng lầy Lịch sử khi đó ở đoạn; Triệu Việt Vương đã gả Cảo Nương cho Nhã Lang, vốn là con của Lý Phật Tử..., "ở rể" !?

Than ôi! ...Bi kịch của quá khứ, lại tái diễn với dân tộc Việt nữa rồi..."!?".

Về việc này thì: Ngũ Hổ Tướng của anh em nhà họ Trương nhìn thấy rất rõ. Nhưng tiếc thay; Trương Hống và Trương Hát đành ôm nỗi thất vọng đong đầy uất ức đối với Triệu Việt Vương khi can gián không thành. Để đến nỗi sau khi chết, cả hai vị Trương Hống và Trương Hát đã tụ khí anh linh, không chịu tan mà hiển thần, tiếp tục phò trợ non sông Việt về sau.


Ta có thể nhận thấy hồn thiêng của hai vị bàng bạc theo núi sông từ Tam Giang (3), lên Lục Đầu (6) và hiện nay thành Cửu Long (9) "!?". Đó chính là linh khí ngàn đời của dân tộc, chung đúc anh linh mà thành nên hiện tượng như thế cả. (3 - 6 - 9, vận trù của thế tam nguyên. Ta có thể dựa theo đó mà lập ra Thế Cục từ Kỳ Môn Độn Giáp. Từ đó..., mới Lộ Diện cho ta Nhận Diện được Cục Diện nào hiện nay đang diễn ra... trên Bình Diện... thời thế đương đại hầu chiêm, nghiệm... mà có thể nói về Thế Cuộc...).

Khí hồn thiêng của núi sông đó, từ Tam Giang, Như Nguyệt, Lục Đầu, Bạch Đằng cũng cùng một khí chung đúc mà nên những chiến công lừng lẩy sử sách muôn đời. Đặc biệt đã hiển oai linh mà nộ khí trong những trận đánh xảy ra trên sông Như Nguyệt về sau này của Dân tộc Việt, bao gồm Nhà Tiền Lê và Nhà Lý (nơi có đền của hai vị Thần này). Kể, anh linh của dân tộc Việt; Sống làm Tướng, tuy không thỏa chí bình sinh, nên uất khí không tan. Thác cũng quyết thành Thần mà phò sông núi Nước Nam cùng giống nòi vậy.

Ta xét thấy phiên bản của giai đoạn lịch sử này, mô phỏng trung thành với bản gốc của 500 năm trước. Cho nên cuối cùng rồi Lý Phật Tử cũng mang đất nước mà giao cho Nhà Tùy như Triệu Đà đã từng làm trong quá khứ!

Xét ở vào chu kỳ Dương Thế của 500 năm tiếp theo sau. Ta vẫn thấy quy luật vận hành cũng đúng với từng thời điểm cũng như sự kiện xảy ra như: Mai Thúc Loan, Ngô Quyền, khởi đầu cho Đinh Bộ Lĩnh tiếp theo. Và cuối cùng là Lý Công Uẩn! Ta nhận thấy Ngô Quyền đã thoát ra khỏi vũng lầy khi đó bằng cách: Quyền Vương quyết bày trận trên sông Bạch Đằng để vẫy vùng cho thỏa chí cõi bờ, chứ không chấp nhận bám mãi "ao làng" đầm lầy nữa.

Ở đây ta chỉ xem xét đến những vấn đề của những sử liệu bị vùi lấp dưới hố sâu của quá khứ. Khi dòng sử dân tộc phải chảy qua những gập ghềnh trong thác lũ...

Vì thế trận chiến trên sông Như Nguyệt, được ta soi tư duy vào giữa đêm trường tại thời điểm... Lý Thường Kiệt đang kình trận. Sở dĩ ta lướt qua diễn biến tiền cảnh sông Như Nguyệt thời Tiền Lê là bởi: Khí thiêng khi ấy đã cùng Lê Đại Hành lan tỏa đến tận sông Bạch Đằng, nên những thế hệ sau khó nhận ra rõ ràng oai linh cho được.

Ta phải biết; Trước khi ánh trăng rằm nhập hồn, hiển danh trên mặt sông... Như Nguyệt mà nộ khí thiêng ngàn năm, soi sáng sử thiêng. Lý Thường Kiệt đã giăng xong thiên la và đang trầm tư trên võng... địa...

Trên bờ sông Như Nguyệt ngày đó? Lại chính là địa phương mà hồn thiêng oai linh của Dân tộc Việt đang tụ xứ!: Đình thờ nhị vị Thần Linh của dân tộc; Trương Hống, Trương Hát !! Ngôn ngữ của nhân loại đã tỏ ra bất lực khi mô tả về diễn biến gì đã xảy ra phía bên trong ngôi đình này ngay trong đêm đó!? Ta chỉ có thể nghe truyền lại rằng: Trong một đêm nghĩ kế phá Giặc Tống. Sáng ngày, Lý Thường Kiệt khi bước ra sân đình, tóc đã hóa bạc trắng mái đầu... !?.

Và cũng trong đêm đó...; Ba quân nghe sĩ khí chất ngất âm ba của bài thơ Nam Quốc Sơn Hà, rền vang trên sông Như Nguyệt. Khí thiêng của sông núi tỏa mờ, giăng phủ khắp mặt sông Như Nguyệt. Che giấu linh ảnh của một Tàng Long đang chờ thời khắc..., đưa giặc Tống đi vào ác mộng của dòng Sử Thiêng...

Điểm dòng sử mạch...

Như thế, Ta xem xét lại trong suốt 500 năm của cuộc thế vào thời vận cuối này của lịch sử. Thật rất khó để cho ta có thể điểm đúng Thế Sử của giai đoạn này cho được. Trước hết, ta phải nhận định rõ hoàn cảnh mà dân tộc đang phải rơi vào trong suốt 1000 năm khi đó đã. Người Việt chỉ là thân phận nô lệ, hoàn toàn không có quyền để được học hành. Hoàn toàn không đủ được phép ghi chép bất cứ điều gì vào sách chứ chưa nói gì đến chép sử. Cho nên lịch sử của dân tộc Việt đang rơi vào cái thế mà tôi gọi là "Thế Sử" !

Chính vì thế cho nên lịch sử của dân tộc Việt là; "Thế Sử" khi đó buộc phải ghi vào..."Bia Miệng" !, mà truyền đời lại cùng "Thế Hệ" mai sau. Và hôm nay, ta nhất thiết cũng phải căn cứ vào cái Hệ của Thế đó, để sàng lọc ra những giá trị phủ lấp mà Xử Thế.

Quả thật, không hề có một mảy may đơn giản nào cho vấn đề này bao giờ cả. Bởi ta biết những truyền thuyết được truyền miệng, kể lại đó. Vốn có tính mơ hồ, đại dị, thêm thắt, một cách vô tội vạ của bao đời chồng chất ! Khiến nên cái tính hoang đường luôn đong đầy và khỏa lấp hết tư duy mọi đương đại của chúng ta.

Tưởng; Để có được một khối óc sàng lọc ra được những chân giá trị lịch sử tiềm ẩn trong đó, hoàn toàn là việc không tưởng. Tuy nhiên những công việc đó, rồi cũng đến lúc mà giai đoạn lịch sử, nhất định sẽ sản sinh cho giống nòi. Chúng ta nhất định phải ý thức được điều này cho bằng được vậy. Và đó cũng chính là bản tính của lịch sử rất đặc biệt của riêng dân tộc Việt mà thôi.

Vậy tôi sẽ điểm ra những cột mốc của giai đoạn mà dòng sử của dân tộc mang tính tiềm ẩn đó như sau:

Cột mốc thứ nhất, có tiềm ẩn những giá trị mang tính "Bảo Tàng" của dân tộc Việt là giai đoạn "thời điểm": Đinh Tiên Hoàng! Bởi những giá trị lịch sử của giai đoạn này vừa thoắt bước vào hiện thực, lại thoắt đi vào huyền thoại mà chưa một ai có thể nhận ra được chân giá trị gì tiềm ẩn trong thời gian đó cả !?

Về những giá trị này mà ở vào thời điểm hiện tại của hôm nay. Tôi vẫn chưa có thể trình bày ra ở đây cho được (!?). Mà những giá trị này vẫn đang còn chờ những yếu tố mà lịch sử đòi hỏi phải hội đủ ở trong thì của tương lai gần nữa.

Và cột mốc thứ hai đó là Nhà Lý. Đồng thời giai đoạn nối tiếp thứ ba nối liền theo chính là Nhà Trần.

Thuật ngữ " đốt cháy giai đoạn" mà tôi vừa ghi ra ở đây? Hoàn toàn chỉ là dòng chữ xuất hiện cho có mà thôi. Chính vì thế, nên tôi nhất định ghi hai chữ sau khi gõ phím enter là:

"Gián đoạn"...

... Và chờ bài kế tiếp vậy.


Thanked by 2 Members:

#12 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 00:07


24 -, 500 NĂM - VÓ NGỰA TRỜI NAM

Giữa "Sử Tiên và Kinh Thánh" !?

Xem ra..., đủ để được gọi là một cặp "Long Hổ Tranh Đạo" rồi vậy !?

Bởi nếu Lý Công Uẩn đập tan gông cùm ngàn năm nô lệ, giải phóng dân tộc Việt. Vượt qua Sông Hồng, dời đô về vùng trời định; Thăng Long. Thì Moise cũng phá bỏ xiềng xích ngàn năm lưu đày, cứu thoát dân tộc Do Thái. Vượt qua Biển Đỏ, di dân tới miền đất hứa Canan "!...!?...".

Nhưng xét xem vì cớ gì mà phải chịu cảnh nô lệ ngàn năm như thế?!

Xem nào...; Có phải vì sự kiện dân tộc Việt đã bỏ thời Hùng Vương (sự kiện An Dương Vương) rồi thờ Thần Kim Quy, xây Thành Cổ Loa mà bị án 1000 năm nô lệ chăng!? Vì ta thấy dân Do Thái bởi cớ bỏ Chúa mà thờ Thần Bò, và xây Tháp Bebel nên phải bị phạt 1000 năm nô lệ đó !?

Đâu có phải vì thế, mà ta vội cho rằng; Sử Tiên là phiên bản của Kinh Thánh, hay Kinh Thánh là phiên bản của Sử Tiên cho được. Thế ra..., chẳng hóa nông cạn lắm sao?.

Không khéo, rồi một tư duy nào đó, suy không thấu. Vội xem xét giai đoạn của thời gian xảy ra sự kiện trước hoặc sau. Chụp quan điểm: Sử Tiên vốn là "phiên bản" của Kinh Thánh mà ra cả thôi. Và kết luận một câu làm "xanh mặt" cả thiên hạ là: Không hề có Nhà Lý bao giờ cả. Và Nhà Tống cũng chưa bao giờ xâm chiếm Nhà Lý. Vì có Lý Công Uẩn bao giờ đâu để mà xâm chiếm "!!".

Lại còn suy diễn đến việc xóa giai đoạn lịch sử này ra khỏi lịch sử của dân tộc nữa !? Thật là cả một tai họa trầm trọng cho những thế hệ muôn đời sau rồi vậy.

Sự việc lúc này, buộc tôi lại phải chép lại hai câu thơ mà Thi Tiên từng ta thán Thôi Hiệu về bài Hoàng Hạc Lâu, hầu ta cùng chiêm... nghiệm:

"Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc.
Thôi Hiệu đề thi tại thượng lầu".

Quả! Rất thi vị...

Tuy nhiên, tôi không nhất thiết phải mượn danh hiệu Thi Tiên như Lý Bạch mà làm gì. Bởi tôi chính là giống nòi của dòng Rồng Tiên rồi vậy. Và cũng chẳng "bẻ bút" mà vứt đi, khiến ngàn đời sau vẫn cứ mãi ca tụng về Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu một cách..., đầy tai hại như suốt bấy lâu nay vậy.

Quả thật; Lý tính ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư là... "gây sốc", triền miên! Thế nhưng, yêu cầu được đặt ra là đòi hỏi ta phải nhanh chóng "thích nghi" với trạng thái sốc đấy. Để còn tiếp tục du hành sâu hơn vào bên trong của thế giới nhiều chiều này đang chờ đón. Bởi đó chính là sự thật, và bản tính của sự thật là luôn gây sốc với tư duy của chúng ta nói chung. (dĩ nhiên, bao gồm cả tôi).

Sau một tour thưởng lãm, giới thiệu qua những sự việc như trên. Ta cùng quay trở lại, tiếp tục theo dõi dòng sử với con thuyền dân tộc, đang rẽ vào dòng cuối, nơi cận bến đương thời:

Cũng cùng một quy luật của mô hình trật tự tự nhiên trong vũ trụ vận hành là: Tính từ Thời điểm thoát kiếp lầm than là Nhà Lý trở về đây cũng tương đương 1000 năm nữa. Ta vẫn thấy 500 năm đầu được tính là Dương Thế. Và 500 năm sau thì vận hành theo lý của Âm Thế.

Điều này được ta xác định Vận Thế thuộc âm cuộc khi; Thần Kim Quy đến lúc nhất định phải "Trao Gươm" cho Lê Lợi ! Và cơ đồ của Nhà Lê, ta xét thấy đứng vững đủ một Vận là 360 năm trọn. Trước khi có thể bàn đến việc Thời Vận bắt buộc Rồng phải "Trao Gươm" theo đúng quy luật của Tạo Hóa. Ta nhất thiết phải hiểu rõ từng diễn biến của giai đoạn lịch sử của 500 năm vừa qua đã.

Bởi đối với Tạo Hóa, ta phải đủ khả năng thì mới có thể xứng đáng nhận được ý chỉ của Thanh Gươm đó mà thôi. Đối với con người, thì ta có thể lọc lừa, bày kế, lòn lách đủ mọi phương cách để mà đoạt được điều mình mong cầu. Thế nhưng, đối với Tạo Hóa là tuyệt đối không có thể, và Người cũng không bao giờ trao lầm cho được.

Như thế giai đoạn lịch sử mà ta bắt buộc phải xem xét đến chính là từ "Chúa Tiên" Nguyễn Hoàng rồi vậy. Trước khi ta dõi theo vó ngựa của Chúa Nguyễn vào Nam. Ta nhất thiết phải xem xét lại cội nguồn, kẻo mà lạc gốc trong suốt quá trình trôi dạt theo những diễn biến cùng Thế cuộc sắp đến.

Ta xét thấy; Tất cả các nhân vật trong "Bi Kịch Sử Thiêng" của Thế Cuộc 500 năm sắp đến. Hầu như đại đa số đều có xuất phát nguồn tại vùng "Tổ Rồng" khi xưa mà dòng giống Âu Lạc chôn nhau cắt rốn; Vùng Nghĩa Lĩnh !!

Nếu ta xét theo quan điểm đã được hình thành trên nền tảng của page này thì; Đó chính là vùng đất của mẹ Âu Cơ với 50 người con lưu lạc bên đấy từ cội nguồn loạn lạc khi xưa. Thế nhưng quan điểm hình thành trong giai đoạn này giữa đôi bên lại xem là kẻ thù không đội trời chung cho được !!! Bởi yếu tố thời gian bao ngàn năm qua đã xóa biệt mọi tung tích của giống nòi mất rồi.

Tuyệt đại đa số người dân Việt đã bị cái Đèo Ngang, Hoành chắn mà che khuất cái nhìn của họ mất đi rồi. Trong giai đoạn đó và mãi về sau này. Tầm "nhìn xa..." của Nguyễn Bỉnh Khiêm, mãi tận bóng dáng của Bạch Mã trên đỉnh Đỉnh Hải Vân cơ! Và cũng chỉ có mỗi Nguyễn Hoàng, mới đủ có thể "trông rộng..." đến cái Yên Ngựa đó cho được mà thôi. Trong Thiên Thư lại ghi rằng; Cái Tượng Trời đấy là "Thừa Thiên" !! (Thừa lệnh Trời mà nối cõi chứ không phải mở cõi đâu đấy !)... "!?".

Thôi chết!...

Xét yếu tố thứ nhất là do tham vọng, điều tiếp đến thì bởi thủ đoạn mà phải ra cảnh "nồi da xáo thịt", cùng với biết bao "đoạn trường"..., diễn ra trong giai đoạn lịch sử đó của giống nòi rồi vậy! Có phải bởi cấu tạo gen của người Việt đã có dòng máu dã man của Hoa Trung, và di truyền máu nham hiểm của Hoa Thượng mà... Khiến nên cái gen Hoa Hạ, gây ra nông nỗi cho trang sử dân tộc trong chương cuối của giai đoạn lịch sử này !?.

Thế rồi giống nòi của Chiêm Bà, bao gồm 50 người con ngày ấy. Từng phải cắt ruột, chia tay bởi cảnh loạn lạc vì binh biến thuở xưa nơi Nghĩa Lĩnh. Chưa mong được ngày hội tụ trăm con, sau bao ngàn năm trôi lạc. Đã thành cơn lũ đổ tràn ngập dòng suối oan hồn nơi Cầu Nại Hà mất rồi...

Ai oán, oan khốc, bi thương..., với biết bao hồn thiêng quyện cùng khí anh linh tỏa mờ và phủ lấp toàn miền cố đô... Hàng trăm năm qua, cái khí u uất, trầm lắng..., làm ngưng đọng cả đất trời, sông núi của xứ Huế. Dĩ nhiên cái khí thiêng ai oán đấy, đã chung đúc nên những câu hò, vần thơ, điệu nhạc của xứ Huế mới não nuột và rất đỗi thê lương... làm vậy.

(Ta nhớ đấy! Các thi sĩ, nhạc sĩ chớ có đối đầu mà tranh với những người con của vùng địa phương này về lĩnh vực nghệ thuật này đấy. Tôi cam đoan; Nếu ta đến Huế và thử bơi xuồng trên sông Hương vào những đêm trăng lạnh một lần xem? Cái khí thiêng u uất của núi sông đó. Nhất định nhận chìm hồn của bất kỳ kẻ viễn khách nào trong chơi vơi, rồi chìm đắm, trầm lắng tận đáy của dòng suy tư ngay tức khắc !? ).

Những oan khốc sánh tày Thiên Cơ này. Dân tộc Việt Nam hôm nay; Nhất định phải lập đàn với hy vọng giải oan bớt phần nào đó, cho biết bao vong linh còn chịu oan khốc của giống nòi hàng trăm năm qua nơi đất cố đô. Rồi mới có thể gọi là tích đức để đủ bước qua ngưỡng cửa của Kỷ Nguyên Mới cho được.

Và trong thế cuộc biển dâu khi đấy. Ta thấy Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ... Tôi có thể bóc trần ẩn tượng của Thiên Cơ này như sau:

Một "Ánh... đuốc", một "Huệ... lửa", thi nhau phô diễn hào quang mà diễn thế "Long Hổ Tranh Châu". Rọi sáng long đàm hổ huyệt của giống nòi Thần Tiên ngàn năm. Và cũng để kết thúc giai đoạn thác ghềnh ngàn năm mà dòng sử thiêng phải chảy qua..., trong trường cảnh bối rối lạc dòng.

Ngay cả trong giai đoạn này, ta nhất thiết phải dò ra căn nguyên nguồn cội của giống nòi như sau:

Như ta đã biết rằng; Kể từ khi Lê Lợi xưng vương, định quốc tính đi. Thì Nhà Lê khi đó phản ảnh thuộc là giai đoạn của Mẫu Hệ, là dòng Âu Cơ trong nhóm 50 con theo Cha khi xưa mà ra. Sự phức tạp có tính trầm trọng vô cùng cho tư duy chung của chúng ta là; Ta nhất định dò cho ra dấu vết của dòng Cha, hòa dòng lẫn lộn trong giai đoạn này đang tiềm ẩn trong dòng sử của dân tộc Việt khi đấy.

Tôi chỉ định; Đó chính là dòng của Chúa Nguyễn. Dòng này có cội rễ xuất phát nguồn ở khu vực thuộc địa phương Tổ Rồng tại xứ Gia Miêu !? Cái căn nguyên đó đã nói lên về cội nguồn vốn là Tam Miêu của Chiến Thần Xi Vưu khi xưa rồi vậy. Thế cho nên ngay sau khi Nguyễn Ánh định cơ đồ lập tức xưng hiệu là Gia Long, không thể khác.

Và bởi vậy cho nên Thế..., ra là:

Thiên Cơ định số; Tiên Chúa Nguyễn Hoàng từ chỗ Thừa Thiên, lên Yên Ngựa của Bạch Mã nơi đỉnh Hoành, Tung vó mở cõi... Xét khắp lục cõi của nhà Chúa thì dòng thứ 6 là Nguyễn Phúc Chu tất thành hình Lục Cõi trời Nam của dòng Sử Thiêng khi đó vậy "!?". Ta thấy đối với Sử Tiên thì Kinh Thánh cũng mô tả rằng: Chúa hoàn tất vũ trụ cũng chỉ trong 6 ngày mà thôi !!

Thế cho nên cũng cùng một trật tự như thế cho nên:

Nguyễn Hữu Cảnh. Thiên Cơ lại định ý trong cái tên "Hữu Cảnh" mà khiến nên ông nhất định phải thấy địa thế của xứ Sài Côn "Ứng Cảnh", đắc thiên ý mà lập thành tên Gia Định. Ta thấy dấu thiên cơ tiềm ẩn từ Xứ Gia Miêu, đến địa phương Gia Định, và cuối cùng là định quốc với Gia Long rồi vậy.

Đừng quên rằng, những khảo luận này thuộc tầm vóc của điều mà ta quen gọi là Thiên Cơ. Hoặc tôi cũng có thể diễn đạt một cách khác đi là Thiên Thư vậy.

Ta cũng phải xác định cho được một định vị địa phương khi đó nữa là:

Cái địa thế " Trạch Đắc Long Xà Địa Khả Cư" mà ngày đó cha ông "Hữu Cảnh" tức ngôn là Gia Định đó. Chính là vùng định xứ địa phương của Chân Lạp. Là nơi tụ xứ của một trong những dòng 50 con của Âu Việt hòa huyết với dân địa phương. Và lịch sử đương thời khi đó gọi nhóm này là người Man Côn ( hoặc Côn Man).

Họ vốn là dân lãng du tứ xứ và tụ xứ tại đại phương gọi là Sài Côn của người Man Côn gọi chung là thuật ngữ chỉ chung cho nhóm người này. Bởi theo cửa biển dẫn vào sông trên bến Sài Côn. Vốn là phương tiện đắc thế Hải Lộ cho những kẻ lãng du thuộc hải phận vùng trũng Đông Nam Á tụ xứ mà giao thương. Dĩ nhiên trong đó có mặt dân phiêu lãng Chà Và (Mã Lai) góp khí sắc mà cùng tụ khí cho vùng này vậy.

Và ta cũng phải thêm một lần nữa, dừng lại những tranh cãi về xuất xứ của cái tên Sài Gòn này nhé. (Sài Côn... Sài Gòn. Mệt với cách phát âm của mấy ông Tây, ông Tàu lắm...).

Và ta cũng xét thấy ở chiều sâu hơn nữa của Thiên Cơ phản ảnh rằng:

Trong giai đoạn cuối của thời kỳ thứ 6, mô phỏng mô hình thuở Tạo Hóa gây hình để định xứ địa phương "Hữu Cảnh" này. Nơi toàn vùng của Chiêm Bà (Âu Cơ và 50 con) xảy ra hợp thế với Vua "Bà Tranh" (!) nhắm chừng không xong... Hóa thành Vua "Bà Tử" (!!) phải kết thúc ý thiên cơ. Và rồi Bà Yêm hoàn tất giao ước để đủ gọi với hai chữ "Phúc Chu" là Chúa vậy!!!

Tất nhiên; Ngày thứ 7 là Chúa nghỉ ngơi.

Và lại càng phải tất nhiên phải mô phỏng một cách tuyệt đối trung thành với quy luật cũng như mô hình thiên cơ đó; Chúa Nguyễn đời Thứ 7 cũng có tên là:

Chúa "Phúc Trú" !,... !!, ... !!!, ...!?,....

Thật là cả một cuộc phiêu lưu đầy kỳ thú... Ở: Phía Bên Kia Không Gian Chiều Thứ Tư vậy.



25 - NẶC ẢNH TỊ HÌNH...!

Là dòng sử liệu, trong trang sử đính kèm...

Ở đây, tôi không bàn ở một tầng sâu hơn của vấn đề này. Chúng ta chỉ tham khảo qua bề mặt của sự kiện để đủ có một tầm nhìn toàn cảnh về cõi trời Nam khi Nhà Nguyễn mở cõi. Mọi việc sắp đến, còn đang ở trong thì tương lai bất khả diễn đối với giới hạn thời gian phát triển của thì hiện tại.

Ta còn nhớ trong thời kỳ 1000 năm chịu sự đô hộ của Nhà Hán khi xưa. Lúc Mã Viện dò Long mạch để trấn Cột Đồng. Và khu vực phía bên kia của Tượng Lâm là dòng sông Lam, vốn được gọi là Khu Lâm Ấp như tôi đã dẫn. Đó là vùng đất của nước Chiêm Bà!

Nhà Hán trong giai đoạn này thường xuyên bị vị Thủ Lĩnh của Khu Lâm Ấp là Khu Liên chống cự rất quyết liệt! Ta phải được biết rằng cháu nội của Khu Liên chính là Phạm Hùng!! Vua của nước Chiêm Bà được đặt phía bên kia của ngọn Bạch Mã vốn được gọi là Khu Túc. Từ Liên của Khu Liên có nghĩa là liên kết với Khu Túc là tay chân "anh em" một nhà mà ra!

Từ danh xưng Phạm Hùng lấy ý gốc ở Hùng Vương và Phạm có nghĩa với mô phạm. Tiềm ẩn đồng nghĩa với Xích Quỹ (Một xích, thước, quy củ mẫu mực theo một quỹ đạo phát triển). Điều này chính là di chỉ để giống nòi ngày sau nhìn ra nhau từ trăm con của Âu Cơ và Lạc Long, thất lạc.

Thế rồi trong tình hình chưa đủ yên cho sự bảo tồn giống nòi mà Âu Cơ đã cố duy trì mai sau. Vua Phạm Hùng lại giao cho một dòng con tiếp tục mở hướng sâu hơn nữa về Phương Nam, vốn là tượng của Chiến Thần Xi Vưu khi xưa. Và người con đó không ai khác hơn chính là Phạm Mạn.

Phạm Mạn ngày đó nhắm hướng Cổng Trời Nam mà đưa giống nòi tiếp tục vượt qua khu vực hiểm trở bậc nhất lúc bấy giờ chính là Đèo Phụng Hoàng. Nơi giáp ranh giữa Khánh Hòa và Đắc Lắc ngày nay. Và Người nương theo dãy núi Trường Sơn, đối lập với dòng sông Trường Giang (Dương Tử) mà vượt qua khu vực Tây Nguyên cuối cùng mà bỏ lại thiên tượng Núi Ông và Núi Bà nơi Langbiang sau lưng. Lại dò theo nguồn mạch thủy khê của Núi Ông và Núi Bà mà xuôi đến cửa biển Sài Rạp (Soài Rạp).

Và đó cũng chính là Nước của Phù Nam khi xưa với Vua kế tục Phạm Mạn là Phạm Kinh Sinh!! Ta thấy "Tổ Tiên" với 50 con của dòng Âu Cơ ngày đó; Cũng đã để di chỉ cho dòng "Tổ Rồng" Lạc Long nhận diện mai sau ở ý:

Nước Phù Nam có nghĩa là; Gìn giữ (Phò) nòi giống dân Nam mà ra cả thôi. Vua thì là Phạm Kinh Sinh có tiềm ẩn ý là dòng Kinh Việt theo cùng nhóm 50 con của Dương Việt bên mẹ Âu Cơ vậy. Và Kinh Đô là "Đặc Mục" với ý; quan sát, nhìn dõi theo mà Chiêm Tượng trời mà nhận nòi giống về sau. Đó cũng chính là lý do tại sao trong thời Nhà Đường. Có phái người qua bàn kế phối hợp để đánh Chiêm Thành mà Nước Phù Nam từ chối một cách tuyệt đối vậy.

Ta phải biết; Nước Phù Nam ngày đó, do tính thuận tiện của Hải Lộ vào cửa Sài Rạp dẫn đến xứ Sài Côn (Sài Gòn). Cho nên các nơi trong toàn khu vực Đông Nam thường tụ xứ đến. Văn hóa nước Phù Nam ảnh hưởng rất lớn với Kinh Vê Đa bên Ấn Độ bởi Kiều Trần Như (anh em Kiều Trần Như thời Phật Thích Ca) từng mang sang đây! Nước Ấn Độ cũng từng xâm chiếm Phù Nam từ dấu chân của Kiều Trần Như đã từng sang truyền đạo và chấp chính tại đây khi xưa!

Bởi nguyên do đó mà ta thấy văn hóa của toàn khu vực Đông Nam Á đều có mặt tại Nước Phù Nam này vậy. Điều đặc biệt nhất là khi nhóm người theo Kiều Trần Như đã hòa huyết với cư dân khu vực Đông Nam á này. Thế cho nên ta mới thấy văn hóa Naga hiện diện đều khắp vùng trũng trong khu vực. Cho nên lịch sử của Campuchia có ghi lại sự tích của Thần CamPu lấy Thần Naga mà thành ra nước Campuchia ngày nay. Cốt là ám chỉ đến sự kiện này vậy.

Thế rồi trong giai đoạn mà Triệu Việt Vương nơi dòng Cha bên Nước Vạn Xuân bị Lý Phật Tử truy sát đến cửa biển Đại Ác nơi cửa sông Đáy là Người bị tuyệt diệt. Đồng thời bên này với nước Phù Nam của dòng Mẹ cũng mô phỏng sự bị xóa mất cơ đồ cùng một giai đoạn !!

Và Nước Chân Lạp ra đời.

Nước Chân Lạp khi xưa vốn là một nước thuộc chư hầu của nước Phù Nam. Bản sắc của người dân vốn là các du dân khắp toàn vùng, tụ xứ mà thành. (Ta vẫn nhận ra điều đó tại Sài Gòn hiện nay). Bởi tính phong thủy của vùng này chung đúc mà nên như thế. Cũng chính bởi cái bản sắc đa tạp đó mà Chân Lạp nhanh chóng bị chia rẽ thành nhiều thế lực. Và một trong những thế lực đấy hình thành Thủy Chân Lạp.

Thế nên ta thấy khi Nhà Nguyễn mở cõi vào khu vực này. Giai đoạn mà ta cần xem xét đến chính là giai đoạn thứ 6 của quy luật định hình. Đó chính là Chúa Nguyễn Phúc Chu.

Tuy nhiên, trong giai đoạn Chúa Nguyễn đời thứ 4 là Chúa Hiền. Trịnh - Nguyễn lại tiếp tục đánh nhau triền miên. Một nhóm người Việt (Mân Việt) bèn di cư tị nạn qua tận vùng Sài Mô (Bà Rịa - Vũng Tàu) của Chân Lạp định cư. Vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân truy đuổi đánh giết tận cùng. Chúa Hiền bèn cử binh can thiệp và bắt được Nặc Ông Chân mang về giam vài năm rồi tha cho về. Với điều kiện để cho dân Việt yên ổn sinh sống.

Vài năm sau nữa. Hai thế lực của Chân Lạp tranh giành nội bộ lại đánh nhau giữa Nặc Ông Đài và Nặc Ông Nộn. Nặc Ông Đài chạy sang cầu nước Xiêm La về đánh. Nặc Ông Nộn vội qua cầu Chúa Hiền ứng cứu. Chúa Hiền truy đuổi Nặc Ông Đài tận Nam Vang, rồi trốn và chết ở trong rừng. Chúa Hiền lại giao cho Nặc Ông Thu là con của Nặc Ông Đài đứng ở Nam Vang, và Nặc Ông Nộn cai quản vùng Sài Côn cùng với dân Man Côn (Mân Việt).

Đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu, Nặc Ông Thu lại Nổi loạn. Nguyễn Hữu Hào cầm binh đánh sang tận nước Cao Miên, Bắt được Vua Nặc Ông Thu giải về Sài Côn. Kể từ đây mới định yên được thế lực tại Cao Miên cứ nổi lên quấy phá suốt bao lâu nay.

Liền sau đó, Nguyễn Hữu Cảnh tấn công Nước Chiêm Thành. Bắt được vị Vua cuối cùng của Nước Chiêm Bà là Bà Tranh giải về Phú Xuân: Trong lúc Nguyễn Hữu Cảnh lập Thành Gia Định ở xứ Sài Côn thì con của Bà Tranh là Bà Tử nổi loạn không xong cũng chịu đầu hàng. Đến con là "Bà Yêm", chấp nhận thuần phục Chúa Nguyễn Phúc Chu vĩnh viễn.

Ta nhắc đến việc khi Nặc Ông Thu, vua của Cao Miên ở Sài Côn phát bệnh chết thì tiếp đời Nặc Ông Non, rồi cũng mất theo. Đến đời con tiếp theo là Nặc Ông yêm...

Lịch sử có sự lầm lẫn ở đây là: Nặc Ông Yêm vốn là con của Nặc Ông Nộn tại Sài Côn. Còn con của dòng Nặc Ông Thu là Nặc Ông Tha. Trong lúc Nặc Ông Thu bị giam giữ bên này thì Nặc Ông Thâm (Cậu) nổi lên. Thế cho nên ta mới thấy Nặc Ông Thâm và Nặc Ông Yêm đánh nhau qua lại triền miên tại khu vực cũng như giai đoạn lịch sử này.

Cao Miên khi đấy không có Vua. Nên Nặc Ông Yêm được trả về và chỉ định cai quản tại vùng đất Thủy Chân Lạp, sau sự kiện Chúa Nguyễn đánh đuổi Nặc Ông Tha, kế tục Nặc Ông Thâm đã chạy sang tận Xiêm La.

Qua đến đời Nhà Chúa Thứ 7 là Nguyễn Phúc Trú, là nghỉ ngơi...

Thế nhưng trong lúc "Chúa Nghỉ"... Có một nhóm thế lực của Chân Lạp lại kết bè nổi loạn cùng nhóm người gốc của Ai Lao và giết hết tất cả Người Việt tại xứ Bà Nam. Sau đó tấn công vào thành Gia Định. Chúa Nguyễn Phúc Trú liền cử binh vào đánh tan quân Chân Lạp. Cho nên Vua Chân Lạp là Nặc Ông Tha, thuộc dòng của Nặc Ông Thu, hoảng sợ, liền giao kẻ dấy loạn ra mà cầu cống.

Sang đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, Quân Chân Lạp lại nổi loạn truy giết người Côn Man triền miên. Chúa Khoát cử Thống Suất Nguyễn Cư Trinh vào dẹp loạn. Nguyễn Cư Trinh đánh tan quân Chân Lạp. Vua Chân Lạp lúc đấy là Nặc Ông Nguyên chạy đến nhờ lực lượng của đô đốc Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên can thiệp và xin nộp đất triều cống.

Sau khi Nặc Ông Nguyên mất, Vua Nặc Ông Nhuận tiếp tục nối ngôi, rồi lại truyền cho con là Nặc Ông Tôn. Xảy khi đó thì Nặc Hinh nổi loạn trong nước Chân Lạp. Nặc Ông Tôn lại cầu cứu Thống Suất nguyễn Cư Trinh dẹp loạn giúp. Khi Nguyễn Cư Trinh đánh tan quân của Nặc Hinh thì giao cho Mạc Thiên Tứ đưa Nặc Tôn về Cao Miên. Nặc Tôn lại cắt đất giao cho Chúa Nguyễn đến tận vùng Sài Mạt (Tây Ninh) để tạ ơn.

Kể trong giai đoạn của Chúa Nguyễn Phúc Khoát, xem như toàn vùng Chân Lạp đã định xong.

Tuy nhiên, Ta xét thấy trong dòng họ Nặc của Chân Lạp cứ nổi loạn mà nằng nặc quấy phá triền miên không dứt, gây rối loạn cả trang sử khi đấy. Nó rối mù sử liệu, điển hình như nhưng những rắc rối mô tả ở những dòng trên vậy. Những rối ren lịch sử này che lấp luôn cả một tình tiết khó ai nhận thấy trong giai đoạn đó như sau:

Đó chính là nhân vật Nặc Ông Yêm! Sử liệu cũng quen gọi là Nặc Yêm. Như ta thấy; Nặc Yêm vốn là con của Nặc Nộn định cư tại Sài Côn dưới sự bảo trợ trực tiếp từ Nhà Nguyễn. Và thế lực này mới "Nặc Danh" giữa "Nặc Yêm" với Vị Vua "Bà Yêm" của Nước Chiêm Bà đã thuần phục trước đấy mà gây loạn. Ta gọi chung là "Nặc Ảnh" để ám chỉ đến sự kiện lịch sử này.

Và Nặc Yêm mới "Tị Hình" theo danh nghĩa của Bà Yêm mà kích động nổi loạn chống phá về sau cho tham vọng đen tối đó. Thế nhưng họ đã quên rằng:

Khi xưa, lãnh thổ này thuộc về nước Phù Nam của họ Phạm dòng Âu Lạc, mà họ đã từng cướp đoạt. Nước Phù Nam khi xưa đã từng bị sự chia xé của các nước Gupta (ấn độ), Java (Indo...) Chà và (Mã Lai) Ai Lao, Cao Miên.

Thế nhưng...

Mọi người trong giai đoạn này lại càng không thể biết được rằng; Ngoài cuộc bể dâu của hơn 500 năm về trước nữa. Nước Phù Nam đã từng diễn ra vở kịch "Nặc Ảnh Tị Hình" của thiên cơ rồi vậy! Và giai đoạn Nặc Yêm và Bà Yêm đó, chẳng qua là mô phỏng mà diễn lại vở kịch của quá khứ mà thôi. Và ta thấy sự ràng buộc nhập nhằng giữa vua Bà Yêm của Nước Chiêm Bà cùng với Vua Nặc Yêm của Nước Chân Lạp: Càng tố cáo nguồn gốc của giống nòi Âu Cơ khi xưa trong lúc loạn lạc trong toàn xứ mà ra cả thôi.

Điều này cũng giống như kịch bản của Bách Việt 6000 năm trước được tái diễn ra Bách Bộc của 4000 năm sau. Hoặc là tích Trọng Thủy - Mỵ Châu của thời Triệu Đà và An Dương Vương cùng với phiên bản sau 500 năm là Nhã Lang - Cảo Nương trong kỳ lý Phật Tử và Triệu Quang Phục vậy.

Tóm lại:

Đó chính là giai đoạn vương triều Maurya (Ấn độ) đang chinh phục các lân bang. Và Kiều Trần Như, một nhân vật trong phái Kỳ Na Giáo đã từng tị nạn sang Phù Nam. Kiều Trần Như đã từng "Nặc Ảnh" Phật Thích Ca để mà "Tị Hình" đứng đầu trên nước Phù Nam trong cội nguồn của quá khứ đầy huyền mị khi đó!

Và vùng địa phương của xứ Phù Nam đó, khi đương thời tại thế; Phật từng có nhắc đến là " Vùng Trời Phạm Thiên Vương đó vậy !!,...!!!.

Quả Thật! Tôi không thể đưa các bạn du hành sâu thêm được nữa rồi vậy. Bởi như các bạn đã thấy đấy; Tôi không thể diễn đạt điều này khác hơn hai chữ:

"Điên loạn".

Tôi bắt buộc phải lập lại câu: " Bởi vì đó chính là những gì còn đang ở... "Phía Bên Kia Không Gian Chiều Thứ Tư" đó vậy.

Mọi hướng du hành tới ngưỡng cửa này đều nhất định phải:

Dừng Lại!

Và ta phải chấp nhận quay trở lại với câu đầu dòng của bài viết này: "Là dòng sử liệu, trong trang sử đính kèm..." vậy.

Thế nhưng: Ta vẫn thổn thức..., Ít ra bài viết kỳ này cũng cho ta có được một tầm nhìn toàn ảnh về quá khứ miên viễn của giống nòi Việt tộc. Nơi mà Mẹ Âu Cơ đã từng dẫn 50 con đi mở cõi trong vô vàn gian khổ, không thua gì 50 con của dòng Cha Lạc Long bên nước Văn Lang.

Và dòng 50 con theo mẹ ngày ấy lên non. Cũng lại phải cam chịu số phận xóa mất lịch sử cội nguồn như dòng của Cha vậy "!?".

Tạo Hóa đang che giấu điều gì đối với giống nòi thần Tiên này nói riêng và cả cộng đồng nhân loại nói chung như thế !? Bởi ta vẫn xét thấy quy luật số 9 vẫn theo trật tự mà phản ảnh qua 9 đời của Chúa Nguyễn một cách rất dị huyền, không sai lạc!?
Vậy ta nhất thiết phải xem xét tận chu trình của 9.000 năm mới có hy vọng tìm ra toàn diện sự thật cho được. Bởi đó chính là một chu trình vận hành được đủ gọi là "Khởi đầu và Kết thúc".

Và đó cũng là nguyên nhân mà tôi gọi dòng sử thiêng của Dân Tộc Việt là:

"SỬ TIÊN".

Cũng không có gì gọi là cường điệu.




26 - LONG HỔ TRANH CHÂU!

Cuối cùng rồi cái nạn "Dương Cửu" cũng đã đến với Nhà Chúa Nguyễn!

Ta nhớ sử sách truyền lại là Nguyễn Bỉnh Khiêm sở hữu học thuật của Thái Ất Thần Kinh. Theo như Thái Ất Thần Kinh thì hạn Dương Cửu là rất phải đáng sợ nhất!

Khi thấu hiểu một phần nào đó của "máy Tạo", ta không khỏi sững sờ trước những quy luật trật tự lạ lùng của Thiên Cơ! Ví như trong quy luật của 9 cung. Thập Can thì có 10, nên phải độn Giáp cho hợp với 9 cung. Từ đó, Vận hành chuyển đến số 9 là hết kỳ hạn.

Cho nên ta chiêm thấy các đời Chúa Nguyễn. Đời Chúa Thứ 9 thì có hai Chúa (độn) cùng thời! Đó là Chúa Nguyễn Phúc Thuần và Chúa Nguyễn Phúc Dương !! Lại xét thấy... Nếu xét "Thuần Dương" cũng vốn là 9! Đó là kỳ hạn "Dương Cửu" rồi vậy. Cho nên đời Chúa thứ 9 là dứt "cơ đồ" !!

Điều đó ta quen nghe gọi là Định Mệnh. Hoặc "Mệnh Số An Bài" vậy.

Thế rồi... Thời thế xuất hiện Tây Sơn Tam Kiệt.

Không lấy gì làm khó khăn cho mấy. Khi ta thấy Trịnh - Nguyễn phân tranh gần trọn một Thế Cuộc 180 năm, bất phân thắng bại. Cả hai bên không thể khuynh đảo được gì nhau phía hai bờ Sông Ranh (là ranh giới chứ không phải "Gianh" như ta ghi hiện nay. Do người ở tại Hà Nội phát âm từ Ranh thành ra Gianh). Bởi "võ công" của hai bên đang ngang tài ngang sức như nhau. Trong khi đó, ta thấy trải suốt 9 đời Chúa Nguyễn vẫy vùng dọc ngang khắp cõi trời Nam khi ấy. Qua các nước trong vùng, bắt Vua của họ dễ như lấy đồ trong túi, không ngần ngại.

Ấy vậy mà...

Nếu như Nhà Nguyễn "trải chiếu" mở cõi khắp trời Nam nhanh bao nhiêu. Thì ba anh em Nhà Tây Sơn "cuốn chiếu" với tốc độ chóng mặt bấy nhiêu, gấp bội phần hơn thế! Họ ra Bắc Vào Nam mà trong mắt của họ chẳng nhìn thấy cái giới hạn của dòng Sông Ranh ở đâu nữa cả!!

Dường như trong giai đoạn này của sử sách. Câu thành ngữ "Khôn nhà dại chợ" của người Việt chưa ra đời hay sao ấy!? Bởi không chỉ riêng trong nhà đâu. Mà kể cả hai "kẻ chợ" lân bang là Xiêm La và Đại Thanh ở hai đầu đất nước. Cùng nhau sang đây mà mở hội rối nước, tranh nhau đua bơi..., phơi bụng trắng cả hai dòng sông Tiền và sông Hồng, cho quân của Tây Sơn đứng hai bên bờ thả sức mà hò reo!!
Nếu như trang sử của dân tộc Việt trong giai đoạn đó đã đóng đinh bảng vàng Tây Sơn Tam Kiệt ở giữa để ánh dương soi sáng ngàn sau. Thì bên hữu thuộc hướng Nam, đóng đinh dòng chữ "Rước voi dày mả tổ" với Nguyễn Ánh! Đồng thời phía tả cũng ghim đinh về hướng Bắc với câu "Cõng rắn cắn gà nhà" cho Lê Chiêu Thống!!

Thế nhưng... Bi kịch lịch sử cũng đang diễn kín nơi nội các đương thời khi đấy với vở...

... Ba anh em nhà Tây Sơn không phải là người Việt! Mà là người Chiêm Thành!! Mục đích của họ là nổi dậy và quyết lấy nước về lại cho Chiêm Thành. Quan điểm của những thế hệ đương thời khi đó là vận nước của người Việt đang trong hồi nước sôi lửa bỏng... "...!?...".

Thật kinh hoàng !...

Thế cho nên ta mới thấy Nhà Nguyễn gọi họ là Giặc Tây Sơn! Ví như ta thấy sử sách còn chép lại về tướng mạo của Quang Trung như: "Mắt sáng như ánh sao. Tóc quăn sát da đầu, da đen như đồng luyện. Tiếng nói như chuông, đi như rồng, bước như hổ". Vậy xét... Không có người Việt nào mà tóc quăn sát da đầu và da đen như đồng luyện rồi vậy. Mà đó đích thị là tướng mạo của người Chiêm Thành.

Nhân bởi cớ Trương Phúc Loan lộng quyền mà gây rối loạn. Ba anh em nhà Tây Sơn mới dựa vào cơ hội đó mà đứng lên dấy nghĩa. Khi đó Nguyễn Ánh mới được 15 tuổi. Lạ một điều là Nguyễn Huệ đã vây Nguyễn Ánh vào cửa tử không biết bao nhiêu lần, mà Nguyễn Ánh vẫn thoát ra được một cách rất là lạ lùng!?

Ta nhất định phải xem xét giai đoạn lịch sử này như sau:

Sức mạnh của ba anh em nhà Tây Sơn lúc đó tựa hồ như ba ngọn thác lũ. Cuốn tất cả mọi chướng ngại cũng như dặm bằng mọi đồi núi dưới vó ngựa của những người anh hùng áo vải.

Trước khi theo dõi những diễn biến sắp đến trong giai đoạn này. Ta thống nhất trên quan điểm vốn đã là đất của Bà Âu Cơ khi xưa mở cõi. Và cho đến tận thời điểm của giai đoạn này, vẫn chưa có ai thấu hiểu điều đó. Cho nên quan điểm của đôi bên đang xem nhau như là kẻ thù. Thế cho nên:

Xét trong hoàn cảnh lịch sử mà Nguyễn Ánh khi đấy đã rơi vào... Công nghiệp của các đấng Tiên Chúa suốt 9 đời mở mang. Có nguy cơ mất trắng trong đời của Nguyễn Ánh là một sự thật hiển hiện ngay trước mắt. Thế cho nên bằng mọi giá, Nguyễn Ánh cũng phải vay vốn từ những nguồn vốn đầu tư từ các nguồn quỹ phía bên ngoài. Hy vọng qua đó sẽ tiếp tục đầu tư vào mà thu hồi lại tài sản của Tổ Tiên đã mất. Không có thể chấp nhận đứng đó khoanh tay, mà nhìn cơ đồ của giống nòi mất đi cho được. Nguyễn Ánh vốn là chân mệnh của bậc Đế Vương. Đâu phải cái nhìn nông cạn dưới góc độ của những thế hệ con cháu là hàng "ngu trung". Dĩ nhiên phía bên địa phương của vùng Tổ Rồng, cũng không thể có phương sách nào khả dĩ hơn thế. Đó chẳng qua là... "Vì Thời Thế, Thế Thời Phải Thế" cả mà thôi.

Bởi nơi tầng sâu của ý thức giống nòi. Ta thấy được nguyên do mà Nguyễn Hữu Chỉnh ngay lập tức "trở giáo", một khi Nguyễn Huệ giao cho đứng trấn nhậm ngoài đó. Thậm chí khi Vũ Văn Nhậm diệt xong Nguyễn Hữu Chỉnh cũng lập tức quay lưng đối định cùng Tây Sơn.

Như thế, ta xét thấy ngay Nguyễn Hữu Chỉnh cũng "không phải dạng vừa..." bởi. Đã che được ánh mắt của Nguyễn Huệ mà thi thố một kế sách như sau: Nguyễn Hữu Chỉnh đã thuyết phục được Nguyễn Huệ điều binh ra Bắc. Sau khi mượn voi dặm tan xứ đàng ngoài xong. Nguyễn Hữu Chỉnh đắc ý, an tọa nơi cõi ngoài mà đối địch cùng Nguyễn Huệ. Kể ra..., thì "Hữu Chỉnh"... rồi xạ, cũng chính xác một ná hai chim rồi vậy. Nhưng khốn thay! Nguyễn Huệ đang là "Hùm Xám của Phương Đông" lúc đương thời khi đấy đấy. Thế cho nên cả Nguyễn Hữu Chỉnh lẫn Vũ Văn Nhậm chỉ có thể thay nhau tô đậm thêm chiến công của Vua Quang Trung lẫy lừng hơn thôi.

Thế nhưng..., dưới biết bao lớp sự kiện liên tiếp chất phủ kín những điều mật nhẹm của giai đoạn lịch sử đầy bi tráng này. Ta không thể nào nhìn thấy cho được về một sự thật sánh tày Thiên Cơ của giống nòi Thần Tiên nữa!

Tôi nhắc lại một sự kiện mà hầu như đã che mắt tất cả thiên hạ, mà tôi đã có từng nhắc đến trong các bài trước là:

Trong cơn binh biến, ly loạn tang tóc khi đấy. Ta nhớ lại..., cũng có 3 kẻ họ Nguyễn, bỏ đời loạn ly. Rủ nhau chạy tuốt vào rừng mà khóc cùng vận nước ở trong đấy! Nguyễn Thiếp, Nguyễn Gia Thiều và Nguyễn Du!

Dĩ nhiên, với ánh mắt hiển thần của Nguyễn Huệ. Thì 3 kẻ Cuồng Ẩn kia đâu có thể giả dại để diễn tích Tôn Tẩn qua ải, trước mắt Nguyễn Huệ cho được. Thế cho nên ta mới thấy huynh đệ đồng môn Tam Ẩn khi đó, từng phải trình diện anh em nhà Tam Kiệt trong thoáng qua một vài dòng sử kịp lưu.

Và đồng thời cũng chỉ chừng bất nhiêu thôi. Ta cũng không thể nào có thể ngờ cho được rằng: Trong lúc đấy, còn có mặt của Nguyễn Hữu Chỉnh nữa!

Và cũng lại Ma không biết, Quỷ không hay đến sự kiện tiếp theo sau khi Nguyễn Huệ dẹp tan Chúa Trịnh thì; Nguyễn Hữu Chỉnh cũng lập tức làm mai mối giữa Nguyễn Huệ và Ngọc Hân chỉ trong vòng 3 ngày "!!!".

Nguyễn Hữu Chỉnh đã "trúng thuốc" của La Sơn Phu Tử ?! Nghi án này sẽ được tôi làm rõ ở những dòng sắp đến, như những gì sau hai chấm xuống dòng:

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyên Thiếp lấy hiệu là La Sơn Phu Tử để đối đầu sánh với Tuyết Giang Phu Tử để làm "hợm" đâu. Tuy nhiên ta thấy trong lúc La Sơn phu Tử đang "làm giá" đôi lần với Vua Quang Trung (đã xưng Vương) thì ngay lập tức: Khua gậy, chống đi theo Vua Quang Trung mà lược trận, khi nghe Quân Thanh bén mảng mò sang lúc đấy!

Thế nhưng; Với kế hoạch đánh Quân Thanh chỉ là "chuyện nhỏ" đối với La Sơn Phu Tử mà thôi! Kế hoạch "Kinh Thiên Động Địa" hơn nữa, mà ta có nghe cũng không dám tin là sự thật của La Sơn Phu Tử, trong tầng đáy của sử liệu sâu kín nhất đó là:

Ngọc Hân Công Chúa trong ngày đó. Đã phải gánh vác trọng trách của cả quốc gia và dân tộc theo làm của hồi môn với bên Chồng là:

Mỹ Nhân Kế !, ...!!, ...!?.

Thật kinh hoàng! Không! Chỉ là sự báng bổ Sử Thiêng mà thôi. Là sự điên loạn. Hoang tưởng... Trò hề... Để rồi khi cảm xúc lắng xuống thì...:

Tuy nhiên, đó lại là sự thật. Một sự thật đã sánh tày thiên cơ suốt hàng trăm năm qua, trầm lắng tận đáy dòng sử của dân tộc Việt.

Mưu Thần (của nòi Thần Tiên), Chước Quỷ (của giống Xích Quỹ) của La Sơn Phu Tử ngày đó. Đã khiến cho Thần chuyển ra... u Sầu, Quỷ phát đến... bật Khóc! Khiến nhị môn đệ Nguyễn Gia Thiều phải chạy tận thâm sơn. Cứ khóc mãi cho oan khốc của giống nòi, vang dội cả núi rừng lúc đương thời. Tâm Trai khóc cạn khô cả thân xác... ve. Khóc cho xứng danh "Như Ý Thiền". Khóc để lấy nước mắt, tưới cho gốc sử... héo hon đến muôn đời sau, mà chẳng màng ai biết đến để làm gì nữa...

Vua Quang Trung nghe tiếng khóc dội vẵng đến bên tai. Không hiểu nguồn cơn, có ra đến, cải dạng vào tận rừng hoang tìm Gia Thiều. Vừa nhìn thấy mặt Vua Quang Trung... Tâm Trai hóa ra..., khóc rồ dại hơn nữa !!!

Bởi vì... "Muốn kêu một tiếng cho to lắm... Rằng..., Ối ai ơi! Nó thế nào".

..., ..., ...

Thế rồi..., Ta thấy ba anh em Nhà Tây Sơn "tự nhiên" xích mích, rồi chia rẽ... "!?". Không biết, Ngọc Hân có tỉ tê gì bên tai Vua lúc đêm vắng hay không nữa? Nhưng đấy là chuyện nơi chốn phòng the. Ta không nên suy diễn đến chốn đấy được đâu các bạn đọc ạ.

Thái Đức Nguyễn Nhạc, chỉ còn biết thoái vị. Và xin được "Quy Nhơn", chỉ làm Tây Sơn Vương. Cố ôm lấy riêng vùng đất Tổ Tiên của Chiêm Thành mà khóc một mình, đối với sức mạnh của Vua Quang Trung khi đấy mà thôi. Bởi nơi đó chính là Thành Đồ Bàn. Kinh Đô của nước Chiêm Thành xưa kia. Để rồi cuối cùng thì Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc, đã vì uất ức mà phải chết trong tủi nghẹn...

Khi Nguyễn Ánh kéo quân Pháp về tới. Vua Quang Trung còn dõng dạc tuyên bố: "Có xá gì lũ Mắt xanh như mắt rắn, mũi Đỏ như quả cà chua. Để quả nhân đánh cho một trận là biết mặt". Ta có thể mường tượng lúc đó: Vua Quang Trung đang thâu giữ tất cả các Đai Vô Địch bao gồm WBA, WBC, WBF, kể cả IBF lẫn IBO..., trên toàn vùng khi đấy. Không một kẻ nào dám cả gan thượng đài mà tranh đai cùng Vua Quang Trung cả.

Thế nhưng... Như những gì mà chúng ta đã biết đấy.

Ngọc Hân Công Chúa đã vì quốc gia dân tộc. Trên hết nữa là vì bảo tồn giống nòi mà đã xuống tay..., hạ độc Vua Quang Trung...

Bởi vì; Không ai có thể mang sự tồn vong của cả quốc gia và dân tộc ra. Để mà đánh đổi cũng như trông cậy vào sự rủi may như một canh bạc bao giờ cả. Mặc dù Ngọc Hân rất một lòng thương yêu Chồng của mình. Nhưng giữa cán cân của lý trí. Đặt ở bên kia của đĩa cân, vốn là Quốc Gia và cả Dân Tộc. Ngọc Hân nhất định phải hy sinh và chỉ được chọn có mỗi... một, mà thôi. Tôi cam đoan; Ly rượu độc mà Vua Quang trung đã uống từ tay của Ngọc Hân ngày đó. Có hơn phân nửa, là nước mắt của Công chúa Ngọc Hân rồi. Chiếc thuyền nan của kẻ anh hùng, ắt phải chìm đắm giữa muôn dòng sóng lệ của gái thuyền quyên rồi vậy.

Ta có thể thấy rõ điều này qua bài Ai Tư Vãn. Tôi xin chép lại một vài dòng làm điển hình như sau:

"Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.
Trông mái Đông; Lá buồm xuôi ngược.
Thấy mênh mông những nước cùng mây!
Đông rồi thì lại trông Tây;
Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà!
Trông Nam; Thấy Nhạn sa lác đác!
Trông Bắc; Thấy nhàn nhạt màu sương!
Nọ trông trời đất bốn phương.
Cõi Tiên khơi thẳm biết đường nào đi!
Cậy ai có phép gì tới đó, dâng vật thường xin ngỏ lòng trung:
Này gương là của Hán cung,
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.".

Và cũng chính vì Vua Quang Trung là người Chiêm Thành. Nên ta mới thấy Vua Gia Long đã tìm mọi cách tiêu hủy thân xác một cách tuyệt diệt. Với một mục đích duy nhất là: Để tránh mai sai anh linh của Vua Quang Trung lại ngậm đúng Long Mạch mà đầu thai. Tất nguy cho cơ đồ ngàn năm lắm thay.

Bởi hơn ai hết. Vua Gia Long biết rất rõ về nguyên lý của bộ mạch:

"LONG HỔ TRANH CHÂU".

Thế nhưng... Cho đến mãi tận ngày hôm nay. Không một ai biết được: Vua Quang Trung chính là dòng 50 con, đã từng theo chân Mẹ khi xưa đi mở cõi cả...

Hãy khóc cùng giống nòi... Dù có là một giọt nước mắt muộn, của thế hệ hôm nay.



27 - AI VÃN CHUNG Với AI TƯ VÃN !!

Thiết nghĩ...

Đã đến lúc thế hệ của chúng ta hôm nay, nhất định phải làm sáng tỏ những oan khốc tồn đọng trong quá khứ của lịch sử dân tộc. Qua đó, phần nào để nỗi thổn thức vơi nhẹ thân Thần Quy. Đã cõng "Bia..." biết bao thế hệ, dường đã oằn lưng cùng năm tháng... mỏi mòn.

Gió mưa, bụi nắng... như hòa chính khí ngàn năm mà thổi hồn lên thân Thần Quy cùng bia đá. Tượng vẫn trưng, trơ mãi ra mà song hành với thời gian... cô tủi !

Thế nên trong phạm vi của bài viết này. Tôi sẽ cố gắng làm sáng tỏ giá trị của thể loại văn u mặc mà tôi thường nhắc đến. Mong rằng qua đó, chúng ta cùng chiêm và nghiệm tượng trời! Hy vọng những bài viết sắp đến, chúng ta cùng nắm sâu hơn ý tứ trong đó. Bởi những giá trị của những bài viết trong nay mai, sẽ ở vào một tầng sâu hơn nữa, rất khó mà nắm bắt cho được.

Tôi cũng xin đính chính lại rằng: Qua những bài viết vừa rồi, một số bạn đọc nghĩ rằng tôi có vẻ như ( !? ), đã làm tổn thương đến lòng tự trọng chung. Kỳ thực, không hề có ý như thế bao giờ cả. Để chứng minh điều đó. Trong bài này tôi sẽ cùng các bạn bàn đến cách đọc văn u mặc.

Bởi trong bài Long Hổ Tranh Châu vừa rồi. Tôi có trích đoạn bài Ai Tư Vãn của Công Chúa Ngọc Hân. Tôi xét thấy đây cũng là một thể loại văn u mặc, tương đối dễ thâm nhập. Vậy chúng ta cùng nhau tham khảo về cách đọc cũng như những giá trị tiềm ẩn trong đó. Hầu khai thác kho tàng văn hóa của dân tộc Việt vẫn còn vẹn toàn trinh nguyên!

Nhân đây tôi cũng sẽ chứng minh rằng: Bài Ai Tư Vãn đã có tuổi thọ hơn 200 năm qua rồi. Những giá trị cũng như nỗi lòng u uất còn tiềm ẩn trong đó, mà chưa được thời gian giải bày cho vơi. Mong rằng qua đây, chúng ta sẽ dần quen và đọc được văn u mặc ở một cấp độ cao hơn nữa. Lúc đó ta mới hiểu được: Biển học vốn vô bờ vậy. Tuy nhiên, ta vẫn còn có được những chiếc phao ngôn ngữ riêng, làm cứu cánh mỗi khi chết đuối trong mớ ngôn ngữ vụng trộm của thói thường.

Chúng ta cùng tham khảo lại trích đoạn của bài Ai Tư Vãn, mà ta vừa biết cũng như đã từng biết qua trước đây:

"Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.
Trông mái Đông; Lá buồm xuôi ngược.
Thấy mênh mông những nước cùng mây!
Đông rồi thì lại trông Tây;
Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà!
Trông Nam; Thấy Nhạn sa lác đác!
Trông Bắc; Thấy nhàn nhạt màu sương!
Nọ trông trời đất bốn phương.
Cõi Tiên khơi thẳm biết đường nào đi!
Cậy ai có phép gì tới đó, dâng vật thường xin ngỏ lòng trung
Này gương là của Hán cung,
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.".

Đoạn trích trên đây... Đang diễn tả lại trạng thái cũng như tâm trạng của một "Thích Khách", vừa hoàn thành sứ mệnh trọng đại mà quốc gia và dân tộc giao phó. Cho nên...; "Dạ thường quanh quất, (âu lo) mắt thường ngóng trông" (viện binh) vậy.

Bởi xưa nay ta không xem và xét bài Ai Tư Vãn dưới góc độ của một "Thích Khách Mỹ Nhân". Thế cho nên ta không hề nhìn ra được những ý tứ như:

"Trông mái Đông; Lá buồm xuôi ngược.
Thấy mênh mông những nước cùng mây...!"

Bởi tình cảnh mà ngày đó Ngọc Hân đang rơi vào rất hiểm nghèo. Nguy cơ bại lộ tung tích, gây tan theo tro bụi những dị công bất kỳ lúc nào. Nên ta thấy Ngọc Hân mắt thường ngóng trông... "Trông mái Đông": Ý tứ ẩn phía bên trong của cái áo nghĩa đó, chính là ở tận mãi... ngoài Biển Đông rồi vậy! Và "Lá buồm xuôi ngược"... !?.

Ta xét thấy Ngọc Hân không dùng từ cánh buồm. Vì cánh buồm là nói đến một yếu tố đầy đủ, một lực lượng hùng hậu rồi. Lá buồm mới đặc tả được sự lẻ loi tơi tả. Vậy, đó nếu không phải là lá buồm Nguyễn Ánh, từng bị Vua Quang Trung xoay cho tơi tả, thì còn là của ai ở đây cho được nữa?

Bởi ta biết Nguyễn Ánh trong thời điểm của giai đoạn này. Đang mãi ngược xuôi ngoài biển đông, để mà tìm mọi phương sách, phục hồi đất nước lại. Ngọc Hân đang khắc khoải ngóng chờ viện binh, mong về cho kịp thời điểm ngàn năm một thuở khi đấy.

Thế nhưng..., Ngọc Hân chỉ "Thấy mênh mông những nước cùng mây...!" mà thôi !?.

Và rồi...

"Đông rồi thì lại trông Tây;
Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà!".

Ngọc Hân trong lúc trông viện binh đến mỏi mòn... Vẫn còn phải trông chừng những diễn biến ở hướng Tây nữa! Điều tiềm ẩn ở đây là Tây Sơn. Đối lập với biển Đông là Nguyễn Ánh mà thoát ra ý nghĩa đó.

Tuy nhiên, tình hình lúc này làm Ngọc Hân càng thêm "quanh quất trong lòng" bởi: Cả khu vực của xứ Tây Sơn đang còn mải lo than khóc, lịm ngất, vật vưỡng với cái chết của Vua Quang trung. Tướng sĩ, binh mã chỉ lo tang lễ, nghi thức rườm rà mà chểnh mảng việc quân phòng. Thời khắc của cơ hội, e sẽ trôi qua mất...

Tâm trạng của Ngọc Hân như ngồi trên lửa, được thể hiện ở câu:

"Trông Nam; Thấy Nhạn sa lác đác!".

Trong khi lực lượng viện binh chưa thấy tăm hơi. Lại trông đến những thế lực manh mún còn lại ở phương Nam của Nguyễn Ánh. Hy vọng may ra có thể tận dụng được thời cơ. Tuy nhiên, Tin Nhạn không thấy báo vui, chỉ toàn gieo tin xấu? Vì những nhóm nhạn lạc đó, đang bị những đoàn thợ săn của Vua Quang Trung, tỉa cánh dần... Cứ đều đều thi thoảng, nối nhau mà lác đác... rụng rơi.

Còn nhìn về hướng Bắc, nơi Vua Lê và Chúa Trịnh lúc đấy... Ngọc Hân thấy toàn cõi, chỉ có một màn sương phủ khuất kỳ vọng mà thôi. Bởi Lê Chiêu Thống, đang lưu vong và định xứ ở nơi đất khách luôn rồi. Điều này diễn tả ở:

"Trông Bắc; Thấy nhàn nhạt màu sương!".

Để rồi... lại:

"Nọ trông trời đất bốn phương.
Cõi Tiên khơi thẳm biết đường nào đi!
Cậy ai có phép gì tới đó, dâng vật thường xin ngỏ lòng trung"

Điều này có nghĩa là:

Ngọc Hân sau khi trông khắp Đông, Tây, Nam, Bắc. Ngóng hết bốn phương tám hướng cả rồi. Dường có vẻ nhuốm muộn các nẻo! Ngọc Hân chỉ còn biết trông cậy vào nẻo "Nọ" !! Là Trời Đất mà thôi. Trông đến Cõi Tiên tận cao lĩnh, ngóng nơi Phủ Rồng mãi khơi thẳm...

Dù biết rằng những cội nguồn đó, ở tận mãi xứ sở Thần Tiên xa mờ... nơi quá khứ. Ngọc Hân vẫn mong...;

... "Cậy ai có phép gì tới đó, dâng vật thường xin ngỏ lòng trung". "!?"

"Này gương là của Hán cung,
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.".

Vâng! "Cái Gương nô lệ" (ngoại bang) ngàn năm của Nhà Hán mà "người xưa" (!?), đã "soi kỹ" cho Ngọc Hân trước lúc "theo chồng về nơi xứ xa...". Vẫn "đòi ngày..." vậy.

Tóm lại:

Những nỗi lòng tâm tư của chỉ riêng Ngọc Hân than vãn (Ai Tư Vãn) + ... ai oán (Nghĩa Phu Thê). Được tôi lược ý như sau:

Tấm lòng trung quân ái quốc của Ngọc Hân, buộc Công Chúa phải "xẻ tim" mà dâng cho núi sông của dân tộc Việt. Điều đó được thể hiện ở sự trong ngóng kể cả Nguyễn Ánh chứ không riêng gì Nhà Lê hay Chúa Trịnh nữa. Miễn không phải là ngoại bang Chiêm Thành lúc đấy.

Thêm một giọt mực nữa, nhỏ xuống..., lưu đọng, nhòe đẫm trang sử của giai đoạn này. Khóc cho dòng sử dân tộc Việt, vốn mãi đong đầy oan khốc.

Thế nhưng, Tạo Hóa đã đưa ngọn thác bi ai lên cao trào đến đỉnh điểm khi:

Một trong hai người con của Vua Quang Trung và Công Chúa Ngọc Hân khi đó... Đang đối diện trước thảm cảnh mà mình bắt buộc phải mục kích. Và phải chọn một trong hai định hướng tư duy là:

Nếu bênh Cha, ắt là cướp nước của Mẹ! Bằng như theo Mẹ, thì lại hóa ra chiếm đoạt nước của Cha!! Thế nhưng, Mẹ Cha còn xuống tay "hạ độc" lẫn nhau nữa !!... ?! Và rồi... Hoàng Tử đã chọn con đường thứ ba là... Ôm cả khối oan khiên đó mà bỏ tất cả tham vọng của thói tục lụy, ở lại cùng với thiên hạ mà ra đi... Ẩn Tu!

Đó chính là Hoàng Tử Nguyễn Quang Đức.

Nghe đâu...; Về sau đó: ...

Vùng Tây An, bất chợt xuất hiện một kẻ "Cuồng Thế"... !? Hồ như tựa dở dại ! Tựa dở dường Tiên Cốt !!: Xuất thế !!!

Kẻ Cuồng Thế này chỉ lang thang, ngược xuôi khắp chợ đời mà ca kệ, khóc răn, về đạo lý, nhân tình thế thái cùng bụi đời tục lụy...

Cũng nghe đâu... Thiên hạ nơi địa phương xứ đó, truyền tai nhau về những giai thoại của một "Kẻ Khùng Bán Khoai" !!. Nhưng cũng có một vài tư duy có vẻ khá hơn thì gọi là "Sư **** bán khoai" !!!.

Và lại còn nghe... nữa rằng: Có một nhóm "kẻ sĩ ... nhiều chuyện"! Mách nhỏ cho nhau nghe về những tác phẩm có tên gọi: "Sấm Kệ của Sư **** Bán Khoai" !? Rồi họ tự kết luận với hai câu thơ:

"Tòng Sơn xuất cổ Phật.
Tây An ngộ giác Sư".

Thế rồi cả xứ của vùng địa phương đương thời khi đấy. Họ suy tôn thành: Phật Thầy Tây An.

Riêng tôi thì khẳng định: Đó chính là Hoàng Tử Nguyễn Quang Đức. Con của Vua Quang Trung và Ngọc Hân đó vậy. Và giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời. Tôi cũng đã từng khảo sát qua "Kệ Sấm" bất hủ này trong quá khứ. Và tôi vẫn mãi lưu lại trong tâm tư bốn câu thơ của họ là:

"Chi Lan mọc lẫn với cỏ thường
Không để mũi gần không biết hương.
Hiền ngỏ lỡ sanh đời bạo ngược.
Dù cho Thánh Đức cũng ra thường,".

Âu, đó cũng là hồn thiêng của dân tộc Việt. Tán khí, chuyển về linh mạch của vùng Thất Sơn vậy. Một địa mạch của dòng Bảo Giang (Cửu Long Giang).

Tuy nhiên, những sự kiện tiếp theo của giai đoạn đó, chỉ mới là thời điểm tụ linh khí mà hiển lộ thế thôi. Thiên Cơ vốn lại là điều mà Thiên Hạ muôn thuở, không có thể suy tới cho được bao giờ.

Những sự kiện đó, bổ sung sử liệu cho cuốn "Sử Thánh" của dân tộc Việt; Hiển rõ khí thiêng, muôn đời bất diệt vậy.

Riêng Vua Gia Long. Sau khi đã thu về cơ đồ của Tiên Tổ và định yên trật tự vừa vãng hồi. Ta thấy trong sử liệu có chép lại sự kiện Vua Gia Long xét xử Công Chúa Ngọc Hân...

Thế nhưng những bi cảnh trớ trêu của dòng sử Việt, đâu đã chịu hạ màn trong phân cảnh này cho được! Hóa Công lại Tạo Tác "Diễn Đạo" đến phân cảnh thêm "Tố Như" nhập vai diễn!?

Một đồ đệ của La Sơn Phu Tử... !?

Một Du một Thiếp !!!

Ta đón xem lịch sử của giống nòi Thần Tiên muốn "du thiếp" điều gì trong.... Bài viết sau vậy.

Quả! Đúng là một... "Dị Sử" !. ... !! ... !?.


28 -, 300 NĂM...CHỜ GIỌT NƯỚC MẮT ...!

Khi Vua Quang trung "đột ngột" dừng Cuộc Thế...

Việc làm tốt nhất cho những kẻ còn lại là: Mở cổng thành và chỉ có thể trải chiếu ra tận vó ngựa, để rước Nguyễn Ánh vào nhanh hơn mà thôi. Sau khi đăng cơ, vỗ về muôn dân. Sử sách chép lại sự kiện Vua Gia Long "trả thù" Nhà Tây Sơn một cách tàn khốc và rất quái đản!?

Thật ra đằng sau những việc làm phi đạo đức đó của cả hai bên do bởi:

Cả đôi bên đều biết và hiểu rất rõ về Phong Thủy Đại Cuộc. Theo như giá trị của bộ mạch Long Hổ Tranh Châu thì: Cứ 500 năm thì Long giành được Châu. 500 năm thì Hổ giành được Châu. Nếu ta táng mộ vào Hổ Huyệt thì cháu đời thứ tư sẽ đoạt Bá! Bằng như táng vào Long Đàm ắt cháu đời thứ tư sẽ đồ Vương!!

Bởi vì cái lý đó, cho nên những mồ mả của dòng tộc Chúa Nguyễn hoặc Vua Quang Trung, đều được yên nghỉ và ngọa tại Long Đàm, hoặc phục nơi Hổ Huyệt cả. Tất nhiên những sự việc này đâu có thể che mắt của đôi bên cho được. Họ bằng bất kỳ giá nào cũng phải quật mồ lên mà cắt cho tuyệt khí di họa về sau. Nếu không, e rằng mai sau mạch phát. Tất phải nối đời mà chuốc đại họa.

Thế cho nên ta mới được thấy sử sách ghi chép lại những sự kiện này mà khó có thể hiểu thấu nổi lý do tại sao!? Ta mãi thắc mắc... Sao những bậc Vua Chúa khi đấy, lại có thể trả thù một cách đê hèn, bỉ ổi làm vậy!?. Ta chỉ có thể kết luận chung chung là..., họ trả thù cho hả căm phẫn mà thôi. Và rồi sự suy diễn đa số vướng vào câu gọi là "suy bụng ta ra bụng người" cho những sự việc này. Thế nhưng ta đã "khéo quên" trong kho tàng văn hóa còn có cả câu; "Không thể lấy dạ kẻ tiểu nhân mà dò lòng người quân tử" cho được" nữa!

Và đương nhiên Vua Gia Long cũng xử luôn cả Ngọc Hân Công Chúa... "ra bã" nữa! Bởi những việc làm của Vua Gia Long tàn độc đến..., phải động đến lòng của Thiên Cơ! Và đó chính là yếu tố "mưa gió phải thì", mà khiến nên đến thời kỳ "Ruộng Tiên" (Tiên Điền), nảy mầm Tố Như!!

Ta thấy khi Nguyễn Du tiếp cận Vua Gia Long. Không biết Tiên Sinh rù rì bên tai Vua Gia Long câu "Thần Chú" gì đấy, không biết nữa!? Ta chỉ có thể biết rằng; Về sau đấy, thấy sử sách cứ nghi nghi, hoặc hoặc... Ngọc Hân được Vua Gia Long "sủng ái"!?...

Ừm...! Ờ....!! Không, Ngọc Bình chứ! .... Mà cũng không phải..., "!!, !?...". Các nhà bình sử, suy không ra, phát nhão cả óc. Thôi! Tạm đóng trang án sử này lại, chờ xử án sau vậy... (Chúng ta đang khảo sử kia mà! Tất nhiên, trong đó phải bỏ qua một vài chi tiết để..., đủ được gọi là khoa học)!

Bởi ta thấy; Vua Gia Long bất chợt tỉnh ngộ khi thấu hiểu được việc làm tuyệt mật mà Ngọc Hân âm thầm cáng đáng. Và Công Chúa Ngọc Hân đã chia chẻ cốt tủy của 3 anh em Nhà Tây Sơn cùng thế lực hùng mạnh đó, ra thành manh mún, rời rạc cả. Để rồi cuối cùng...; "Dứt điểm" một "Mãnh Vương", đang là cả một nỗi khiếp hãi, len lỏi vào tận giấc ngủ hằng đêm của mọi đối thủ đương thời khi đấy!!

Quả! Ngọc Hân Công Chúa (dĩ nhiên cái danh này là phải "Oai" hơn Bắc Cung Hoàng Hậu rồi vậy); Đích thị là một "Thích Khách Mỹ Nhân" ngoại hạng, đối với lịch sử thích khách trên bình diện địa cầu kim cổ, cũng không ngoa cho được. Trên thực tế là trang lịch sử của tận hôm nay, vẫn đang hoàn toàn "mơ hồ" về sự kiện này. Lấy gì, và căn cứ vào đâu? Để mà (vị sử gia nào đó...?), dám cả gan ghi vào trang sử của dân tộc cho được !!!

Nếu không, đã chắc gì Vua Gia Long thu hồi được cơ đồ dễ đến vậy. Khả năng cũng như tài nghệ của Vua Quang trung. Dĩ nhiên Vua Gia Long hiểu quá rõ. Thậm chí, Vương có thể hiểu rõ hơn bất kỳ ai khác. Vua Quang Trung đã từng lấn áp, khuynh đảo Vua Gia Long đến độ...; Không có lấy nổi một tấc diện tích nào, để thiết kế cho chỉ vừa đủ một dấu chân trên đất liền nữa cả! Vua Gia Long đã hết năm lần, lại đến bảy lượt; Phải chấp nhận gậm nhấm và thấm thía câu: ..."ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh"..., trong những tháng ngày lang thang ngoài biển cả...

Lịch sử đã dành một trang vàng trân trọng nhất cho công nghiệp của Vua Quang Trung. Và đó là một sự thật không có thể chối bỏ cho mai sau. Ta vẫn thấy Vua Quang trung chưa hề có ý đồ gì riêng cả !? Tuy nhiên; Vấn đề cần phải thấy ở đây là cơ đồ của cả dân tộc và quốc gia bao gồm sự tồn vong của một giống nòi. Không cho phép những thế hệ (hữu trách) đương thời khi đấy, đặt lòng tin như một trò may rủi cho được. Điều mà ta có thể kiễng chân và nhìn thấy ngay trước mắt, trong một tương lai gần khi đó là: Vị Vương tiếp nối...; Không phải là một Quang Trung (sự sáng trung thực) bao giờ cả... Ta cùng chấm xuống dòng nhé.

Và rồi cũng chẳng một ai có thể biết cho được. Tố Như đã rủ rỉ "Pháp Ngôn" gì bên tai Vua Gia Long, để mà còn ghi vào sử sách cho mai sau chiêm nghiệm!? Sử sách chỉ có thể chép được lại rằng: Vua Gia Long đã giao ngôi Vua lại cho con của mình là Minh Mạng. Và Nguyễn Du theo hầu Người mà cùng bỏ đi... tu !!!

Phải chăng, chí kiêu hãnh cũa một kẻ từng tung hoành ngang dọc, đã tổn thương trước việc làm của một người đàn bà tay yếu chân mềm!? Hay nẻo Đạo Lý bất giác hiển lộ, nên đã khiến Vua Gia Long bỏ cả cơ đồ lẫn ngai vàng, mà đi tìm cõi mặc tưởng sám hối riêng mình?! Tôi cam chắc một điều: Ngày đó, Vua Gia Long đã bất giác thấu triệt... Thiên Cơ. Và Người chỉ còn biết tạ tội cùng Trời Đất. Với tất cả kỳ vọng; Giải oan nghiệp cho giống nòi cùng những thế hệ con cháu nơi... Định xứ vùng địa phương tương lai của dân tộc Việt. Chắc chắn như thế.

Bởi điều đó, đã được Tố Như khẳng định:

"Bất tri tam bách dư niên hậu.
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như".

... Ta lại phải làm rõ vấn đề của câu thơ này nữa rồi... Vậy bạn đọc cùng tôi tiến hành khảo cổ, khai quật di chỉ mà Tố Như..., đã chôn giấu kho tàng văn hóa này dưới mảnh "Ruộng Tiên" (Tiên Điền), xem khai thác được điều gì nhé.

Diện tích được khảo sát trong mảnh Ruộng Tiên đó, có kích thước như sau:

"Tây Hồ hoa uyển tận thành khư
Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như"

Và đây là một trong vô vàn dấu tích khai thác (của... ai đó !?), từ kho tàng văn hóa này:

"Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang
Thưởng thức bên song mảnh giấy tàn
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng".

--------------------

Trước hết, ta phải có nhận định tình hình chung như sau: Ta cũng phải biết rằng, thời gian mà Nguyễn Du sáng tác bài thơ này vào khoảng năm 1804. Là thời điểm mà Vua Gia Long đang "Ngây...Say..." trong cơn xử án, trả thù những gì liên can đến Vua Quang Trung rất tàn khốc đang diễn ra...

Xưa nay các nhà khai thác di chỉ kho tàng văn hóa của dân tộc Việt nơi khu vườn thơ của mảnh Ruộng Tiên này. Thường bị vướng vào bức tường "Đoạn Trường Tân Thanh" che khuất tầm nhìn mất cả đi rồi.

Từ đó, hầu hết các vị đi lạc hướng tư duy vào nhân vật Tiểu Thanh tít mãi..., tận bên Tàu rồi...! Ta xét xem...; Nhân vật Tiểu Thanh chỉ là một chiếc phao gượng bám, làm cứu cánh chung trong cơn chết đuối giữa biển cả ngôn từ u mặc của Nguyễn Du mà thôi!!

Bởi ta thấy; Cỡ như nữ "Dị Sĩ" Hồ Xuân Hương còn chưa đủ để Nguyễn Du để mắt tới. Có đâu một Tiểu Thanh nào đó!? Vốn không đủ để đi vào ngôi đền của thi ca lịch sử dân tộc Việt cho được. Bởi ta không đủ để xét đến cái tiềm ẩn ý của Nguyễn Du giữa một Tiểu Thanh với Đại Thanh lúc đương thời rồi vậy !! Và thêm nữa; Tiểu Thanh ở đây có nghĩa là một "âm thanh" ở vào độ "Tế Vi" (Tố Như), uẩn khúc thời thế lịch sử của dân tộc mà ra. (là tiếng nói tinh thần của văn u mặc)

Những thế hệ cháu con về sau, đã vô tình bôi vết mực gây loang ố..., lên thân thể của Tố Như mất rồi. Vậy nay ta cùng gột rửa những bụi thời gian phủ lấp đó ra như sau;

Thơ văn, ngoài những câu cú, vần điệu, điển tích v.v... ra. Ta còn phải xem xét đến vấn đề của đối đáp nữa. Thế nên ta xem xét thấy thể thơ Bát Cú còn được chia ra thành 4 cặp âm dương tương giao nữa! Điều này tựa như một cặp Long - Quy, Sinh - Thành để đủ được gọi là "Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo" vậy.

Và ta thấy sự hòa duyên đó, có kết quả như sau:

Nếu ta xét và phối hợp hai chữ đầu tiên của câu ở trên với hai chữ đầu của câu tiếp liền bên dưới thì ta thấy: Tây Hồ và Độc Điếu !

Ngay lập tức hiện cảnh mở ra... Một ngư ông đang ngồi câu bên bờ Hồ Tây !! Bởi điếu trong Điếu Đồ vốn là Ngư Ông, còn Đồ thì chính là Tiều Phu rồi vậy. Cho nên có câu: " Cổ lai đồ điếu thành công dị, Sự khứ anh hùng ẩm hận đa", ý là vậy.

Từ đó, ta xét tiếp theo mạch này suốt hai câu đầu. Sẽ nhìn thấy được một giá trị tiềm ẩn phía sau đó như: Hình ảnh của một "ngư ông", đang ngồi câu (thời gian) cạnh vườn hoa (hoa uyển) bên bờ hồ tây!

Và ông câu đó cứ mãi "tận thành khư"...!? Điều này có nghĩa là; Ông câu cứ mãi khư khư mà ở nơi thành đấy, không chịu rời bước đi đâu cả! Để mà... còn chờ đợi nơi (song tiền) cửa sổ... "Nhất Chỉ Thư" !

Thường thì ngày nay ta rất quen với dzỗm ngữ "câu giờ". Vậy ông câu trong bài thơ đấy cũng đang ngồi "câu thời... gian" rồi vậy. Và ông không chịu rời đi đâu cả. Bởi vẫn mãi đang chờ một "Chiếu Chỉ Thư" từ Vua Gia Long hồi âm, gửi tới vậy.

Tuy thoạt xem có vẻ như sự an nhàn của một Ngư Tiên, Đạo Cốt thật đấy. Thế nhưng tâm tư của Nguyễn Du đang trầm tư, mà lặng cùng dòng mặc tưởng:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư

Bởi cái nghĩa văn chương xưa nay vốn đã xem tựa như "phấn thổi". Biết có liên lụy gì với thuyết "Mệnh Thần" hay không !? Hầu còn vương, dư lại một chút gì cho những thế hệ mai sau cảm nhận được...

Lại xét, suy đến tận....: "Cổ kim hận sự thiên nan vấn. Phong vận kỳ oan ngã tự cư".

Hơn ai hết. Nguyễn Du biết rằng; Xưa nay, xét lịch sử còn phủ lấp biết bao sự kiện oan khốc, khó có thể hỏi Trời cao để thấu cho được. Trãi qua bao thời kỳ, vận luân hồi hàng ngàn Thế Cuộc. Những điều oan khốc đấy vẫn mãi bế (phong) tắc vận, không giải oan cho được. Nay ta lại "ngã tự cư", tự mang vào mình nữa hay sao?

Để rồi Tố Như chỉ còn biết gửi gắm những nỗi tâm tư sánh tợ Thiên Cơ đó. Vào thì tương lai với những thế hệ mai sau là:

"Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như".

-----------------

Nguyễn Du không cần đến những giọt nước mắt chưa đủ tuổi khóc! Những dư 300 năm kia mà!! Điều này có nghĩa là phải chờ cho đủ Một Vận là 360 năm sau nữa. Lịch sử mới có thể sinh ra được một tư duy trưởng thành, để mà thấu Thiên Cơ cho được.

Kỳ dư, thì đó chỉ là những giọt nước mắt "khóc mướn, thương vay", dựa trên danh nghĩa của Thi Hào để ký sinh danh đời riêng họ mà thôi. Tố Như không mong chờ gì vào những dạng nước mắt như thế bao giờ cả. Những giọt nước mắt non. Dĩ nhiên nó chưa đủ có được chất đậm "Vị Mặn" của Biển cả, và đượm "Mùi Thanh", của chính khí nơi Trời cao. Là hồn thiêng, là anh linh muôn vạn đời của núi sông dân tộc Việt.

Ta bất giác chợt hốt ngộ... rằng:

Đại Thi Hào Nguyễn Du; Chỉ mong chờ vào một giọt nước mắt của một "Đấng Cứu Chuộc" nào đó mà thôi..."!?".

Bởi:

Sử Tiên của dân tộc Việt. Vốn đã quen chịu nhiều oan khốc ngàn đời qua trong quá khứ cội nguồn rồi. Nay lại hòa thêm một nỗi oan khiên nữa, để sánh cùng Kinh Thánh của dân tộc Do Thái !?

Vì:

Nguyễn Du đã bán cơ đồ của "Chúa" Nguyễn với cái giá dư 300 năm. Quy đổi tỉ giá ra tương đương với; 30 đồng vàng mà ngày xưa Juda đã từng có bán Chúa trong quá khứ sâu của lịch sử Thánh Kinh !, ...!!, ...!?.

Và Chúa trong ngày đó cũng đã từng: Dùng nước mắt của mình mà khóc cho Juda !? Một nỗi oan Thiên Cơ!! Đích thị; Nguyễn Du đang mong chờ một giọt nước mắt này rồi vậy.

Hẳn, ta còn nhớ đến dòng sử mô tả lại sự kiện lúc kẻ "Sĩ Ngông" Nguyễn Công Trứ, chặn đường Vua Gia Long mà dâng sớ dọc đường. Ta thấy sử chép rằng: Vua Gia Long đã dừng lại, cầm lấy sớ đọc qua... Rồi Người... trả lại mà không nói điều gì. Nét mặt của Vua Gia Long lộ vẻ buồn bã. Và Người chỉ lẳng lặng nhìn về phía chân trời xa..., mà ưu tư...

Rất khá nhiều sử gia về sau lên án cho cử chỉ đó của Vua Gia Long! Họ cho rằng: Sớ dâng của Nguyễn Công trứ trong ngày đó chỉ nói đến ích lợi chung của người dân. Không có ích lợi cho những thế lực phong kiến của Nhà Nguyễn. Nên Vua Gia Long đã bỏ qua. "!?".

Thế nhưng tất cả họ đều đã quên rằng: Chính Vua Gia Long đã dặn dò với Vua Minh Mạng về sự tiến cử đối với Nguyễn Công Trứ. Bởi lúc đó Vua Gia Long biết và rất đau xót trong tâm vì: Việc Thiên Cơ đối với tương lai vận mệnh của dân tộc Việt đã hiển lộ đối với Vương rồi. Nước vẫn đang có rất nhiều kẻ sĩ tài ba. Thế nhưng cỡ tầm như Nguyễn Công trứ đâu đủ để có thể hiểu thấu điều đấy cho được. Và Người rất ưu tư, buồn bã là bởi cớ như thế đấy.

Và cái nhìn của họ đâu đủ để thấy: Trong thời điểm mà Nguyễn Công Trứ dâng sớ dọc đường đó;

Ở về phía sau lưng của Vua Gia Long, xa xa...

Còn có: Nguyễn Du đang cúi thấp đầu, im lặng và chắp tay; Đứng hầu!

Về hai nhân vật "Du Thiếp" của dân tộc việt trong giai đoạn này. Tôi xin nhường lại cho tư duy của các bạn đọc tự suy diễn... Và nắm bắt tiếp về giống nòi vốn đã là con cháu của "Thần Tiên" nhé.



29 - ĐIỂM LƯỢC CUỐI SỬ

Phàm, Chân Nhân Bất Lậu Tướng!

Như thế, ta xét thấy trong giai đoạn Tranh Bá Đồ Vương giữa Quang Trung và Gia Long thì tướng mạo của Vua Quang Trung là quá hiển lộ rồi vậy. Kể ra thì Vua Quang Trung vừa Hiển Danh lẫn Lậu Tướng trong trang sử của giai đoạn này.

Thế nhưng, Những nhân vật bất lậu tướng thì xét như tôi đã có trình bày qua là:

1. Nguyễn Gia Thiều
2. Nguyễn Thiếp
3. Nguyễn Du

Như ta đã biết, những nhân vật được liệt kê trên đây vốn đều là ẩn sĩ của thời cuộc cả. Giữa lúc thế sự loạn ly, thiên hạ cuồng loạn trong cuộc tranh bá đồ vương, thi nhau lưu danh sử sách. Họ nhìn rất rõ những; "Gót danh lợi bùn pha sắc sạm" đó. Ba kẻ cuồng nhân, vốn chung một dòng máu Lạc này. Đã rũ bỏ tất cả thế sự, mặc ai đắm chìm trong cơn mê loạn. Quyết xa lánh tiếng cười của người đời, rủ nhau vào tận chốn thâm sơn, khóc cùng Quỷ Núi!

Tam cuồng, đã tiềm ẩn sâu trong trang sử đến độ..., những thế hệ của hơn 200 năm về sau đó; Không có thể nhận diện ra chân tướng của họ cho được! Bởi họ đã thể hiện đúng với tinh thần của Đạo là đạt đến cảnh giới vốn gọi là vô sắc vô tướng (bất lậu tướng...) luôn rồi vậy.

Hành tung cũng như công nghiệp của họ. Hầu như những thế hệ cháu con nơi trang sử sau, chẳng mấy ai biết được tới cả! Trong bài điểm lược nơi cuối dòng sử muộn này. Ta cùng dõi theo những hành vi bất lậu tướng đó, thoắt ẩn thoát hiện..., như có, như không, như sau:

Khi Vua Quang Trung kéo quân ra Bắc lần thứ nhất. Ta xét thấy bóng dáng của kẻ Cuồng Ẩn này "như có" lẩn khuất đâu đó giữa hai sự kiện; Nguyễn Hữu Chỉnh "trở giáo" ngoại công và sự việc Ngọc Hân "quy vu" (vu quy) nội kích!

Lần thứ hai thì sự diện kiến ở... "Ngoài Đàng", khi Vua Quang Trung đi bắt Vũ Văn Nhậm... Dị Nhân Lam Hồng sừng sững hiện diện (núi Hồng Lĩnh và sông Lam) mà lại "như không" có một mảy may tăm hơi nào cho Vua Quang Trung nhận được cả!!

Và rồi sau khi khua gậy "khoắng" đục nước Sông Hồng trong lần Vua Quang Trung tam đáo xứ Bắc. Tự nhiên La Sơn Phu Tử chán tàng ẩn và quét lá ở chốn núi rừng tịch mịch rồi hay sao ấy? Người ta bắt đầu thoáng nhìn thấy Lạp Phong Cư Sĩ hiện ẩn và quét bụi tại Sùng Chính Thư Viện, nơi đô hội của Vua Quang Trung !?

Trong thời điểm của khảo luận này.Ta hốt hoảng khi bất chợt so sánh giữa:

Nhân vật Tảo Địa Tăng của Kim Dung, từng quét lá nơi Tàng Kinh Các. Bất chợt..., trở cán chổi mà quét luôn cả đám rác quần hùng lúc nào không hay! Một trong các bài viết trước, chúng ta đã từng luận bàn phiên bản Tảo Địa Tăng này cùng với dị nhân của bản chính Tảo Địa Tiên (Lão Tử), đã từng cũng quét bụi nơi Tàng Kinh Thư của Nhà Chu qua rồi.

Thế nhưng sau đó, nhân vật Tảo Địa Tiên đó đã bỏ chốn phồn hoa của Nhà Chu mà tìm vào tận chốn thâm sơn, cùng cốc mà quét lá nơi Tiên Cõi. Vậy cớ chi mà kẻ Cuồng Ẩn này lại bỏ thú vui quét lá nơi Tiên Cảnh (chính hiệu), mà đi về quét bụi tại Sùng Chính Thư Viện của Vua Quang Trung Như vậy !?

E..., có khi nào bất chợt mà kẻ Cuồng... này, ...trở cán chổi mà Tảo Bình Địa cả xứ Bình Định đi mà chớ!

Ta xét thấy có một đại họa đang tiềm ẩn cho Nhà Tây Sơn trong thời điểm này ở chỗ: Đã có cả 2 gián điệp gạo cội đang tàng long, phục hổ trong nội các, và âm thầm xây tổ ong trong tay áo của Vua Quang Trung... Bởi Lạp Phong Cư Sĩ hàng ngày chỉ đốt đèn giảng sách tại Sùng Chính Thư Viện mà Ngọc Hân Công Chúa thỉnh thoảng ghé qua học, hỏi... "!?".

Và ta thấy một trong những "bài giảng" của Nguyễn Thiếp có bài thơ:

Răn Đời "!!"

Hễ kẻ làm người giữ đạo người
Sang giàu, hèn khó, mặc cơ trời
Tổ con chim chút cây dò vấn
Dạ ngắn lươn cồ thuở nước trôi
Bao quản hình hài vàng dưới suối
Chút mang danh giáo, báu trên đời
Lấy mình làm phép, già đâu dám
Nghĩa nặng ơn sâu phải ngỏ lời

Và dĩ nhiên. Đêm tuy ngắn thật đấy, nhưng gặp phải "lươn cồ" soi mạch thì... Tất có thuở phải trôi cả nước thôi "!!".

Thế rồi khi Ánh dương (Nguyễn Ánh) về đến. Ta thấy Vua Gia Long vội gấp rút mà mời La Sơn Phu Tử phò tá! Nhưng ông đã đuối sức rồi... Và trong năm 1803, sau khi diện kiến Vua Gia Long. La Sơn Phu Tử đã tiến cử tam hiền đệ đồng môn cho Vua Gia Long là Nam Hải Điếu Đồ; Tố như!

Thế cho nên ta mới vừa được mục kích chân giá trị của bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký trên bờ Hồ Tây trong bài trước đó vậy. Dĩ nhiên Ông Câu bên Tây Hồ đó nhất thiết phải "tận thành khư" từ 1803 cho đến 1804 mới có thể tức cảnh để mà vịnh lại bài thơ "Túc Mệnh Thần" cho đời vậy.

Và trên bóng xế đường muộn, dò gậy tìm về "Nguyệt Ao" (nơi ông chôn nhau...), lúc qua Đèo Ngang. La Sơn Phu Tử dừng nơi cuối dốc... đời đèo, tức sự:

Đã trót lên đèo, phải xuống đèo
Tay không mình tưởng đã cheo leo
Thương thay thiên hạ người gồng gánh
Tháng lọn ngày thâu chỉ những trèo!

..., ..., ...

Tóm lược: Hai huynh đệ Du Thiếp đó. Một đã bình Quân Thanh, định Nhà Tây Sơn mà không một ai hay biết hành tung như xuất quỷ nhập thần trong góc khuất trang sử khi đấy! Người còn lại đã dìu Vua Gia Long dừng trả thù, và rời khỏi ngai vàng một cách khiến cho ma phải ghen tị, quỷ cũng hờn dỗi!! Thế nên ta mới thấy Tố Như..., chỉ còn biết mong mỗi giọt nước mắt của 300 năm sau đó mà thôi.

Quả! Một cặp Du Thiếp Dị Nhân của sử Việt nơi cuối dòng...

Rất nên thương cảm cho Gia Thiều, một trong Tam Ẩn từng neo "đời cuồng" nơi bến sử khi đó. Phải chăng; Tâm Trai trong góc sử khi này. Đã vắt kiệt nước mắt mà khóc mãi cho vận nước đến héo khô cả thân "Như Ý Thiền" mà thoát xác trước đó rồi? Bởi giống Ve Sầu, còn có tên gọi khác là... "Thiền" nữa!!

Thế cho nên đời Ve Sầu (Thiền). Cứ phải than khóc nơi rừng hoang suốt cả Thời Hạ Thế! Để..., thoát xác !?

Âu, Bài viết này mong góp được một chút gì đó. Làm thỏa khí hồn thiêng, anh linh của Tổ Tiên giống nòi. Từng đã uất nghẹn suốt bao đời qua, trong trang sử khuất. Thế nhưng các vị lại là Ngọa Hổ, Tàng Long trong trang sử của dân tộc Việt, vốn:

"Chân Nhân" nên "Bất Lậu Tướng" đó thôi.

Và tôi sẽ điểm lược Thế sử trong một Vận 360 năm cuối dòng. Bao gồm thành một chương trong Thiên Thư được "Diễn Dịch..." như sau:

Nếu ta tính từ lúc Chúa Nguyễn Hoàng ra roi mở cõi. Di Dịch theo Dịch Lý, thì vừa trọn một Vận là 360 năm. Tôi sẽ trình bày tất cả chi tiết của Thiên Cơ ẩn tàng trong lịch sử của dân tộc Việt đó ra như sau:

Như tôi đã từng khẳng định: Vị Tổ Tiên của dân Tộc Việt chính là Cửu Thiên Huyền Nữ trong quá khứ miên viễn. Từ đó nên Cửu Huyền vốn có định số là số 9 (như đã dẫn giải trong các bài trước). Vậy xét theo Dịch Lý thì số 9 là Lão Dương. Số 6 là Lão Âm.

Từ đó nên số 9 thuộc Dương số. Là số lẻ, phân bố và hợp với 4 Hướng; Đông bắc - Đông nam - Tây nam - Tây bắc. Còn hệ số 6 thuộc Âm số. Là số chẵn, chia ra cho 4 Phương; Đông - Tây - Nam - Bắc. Do Phương là Vuông, nên phải gọi là 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Còn Viên là tròn, ắt đó là 4 Hướng chớ không gọi sai lạc, lẫn lộn như xưa nay được.

Thế nên số Diễn ra từ 9x4=36. Thuộc diễn thế dương. Và số diễn ra từ 6x4= 24, thuộc diễn thế âm. Vậy dương thế, có số là 9, nhân cho 4 hướng. và âm thế, có số là 6, nhân cho 4 phương. Như thế thì số phận của khắp bốn phương tám hướng, đã "diễn nghĩa" mà "tung hoành" khắp lục cõi rồi vậy.

Thế cho nên từ Diễn số theo Thế dương cuộc thì 36 nhân cho 6 Hào (lục cõi) thì ta có được là 216 hào dương. Các nhà Dịch Học nắm rất rõ điều này. Ta thấy Dịch - Diễn - Thế số đó vừa hợp với 216 năm kể từ khi Nguyễn Hoàng mở cõi đến lúc Nhà Tây Sơn nổi dậy!

Và Diễn từ số theo Thế âm cuộc thì 24 nhân với 6 hào thì ta có được 144 hào âm. Thế số đó đủ thể hiện 144 năm kể từ khi Vua Gia Long lên ngôi cho đến 1945!!

Nếu ta tính trừ ra 24 năm của Nhà Tây Sơn Di Dịch, thì đủ một vận bằng 360 năm. Bằng như ta tính chung thì sẽ có:

Dịch Quẻ có tất cả là 64 quẻ. Ta nhân 64 cho 6 hào thì sẽ được 384 Hào cả thảy. (64x6=384). Và đó chính là số năm mà ta tính cộng gộp luôn cả giai đoạn của Nhà Tây Sơn xảy ra là 24 năm !!!

Di Dịch không quá số 3 là do bởi: Lý Dịch của Tam Tài mà ra cả thôi. Bởi do 4 năm là có một tháng nhuận. Và ta cũng phải biết cách tính tùy theo lý Tam Tài của Thiên - Địa - Nhân mà ra chính xác tuyệt đối vậy. Bởi nếu Vận, Thế hành theo Lý Thiên thì ta tính Thời Kỳ là 62 khởi. Còn Lý Địa thì phải là 63 phát. Vậy Lý Nhân ắt 64 mà hành theo vậy.

Ta phải biết vận thế đang vận hành theo lý nào trong tam lý để mà còn xử lý nữa vậy. Ví dụ tượng Thiên Cơ tiềm ẩn trong ngôn ngữ U Mặc ở chỗ:

Nếu thời cuộc đang vận hành theo nguyên lý của Lý Thiên thì ngôn ngữ u mặc, mặc định là; "Thế Thiên..."!. Bằng như thời cuộc đang vận hành theo nguyên lý của Lý Địa. Vốn là đối lập âm dương giữa trời đất, nên từ đó ngôn ngữ cũng thể hiện câu "Địa Thế"!! (không gọi là Thế Địa được). Và cuối cùng là Lý Nhân. Bởi Nhân vốn là đứng giữa mà dung hòa Thiên Địa cho nên ngôn ngữ u mặc cũng ấn định dung hòa giữa cách gọi: "Thế Nhân hoặc Nhân Thế" đều được!!!

Vậy qua đó, ta thấy Kinh Dịch đã Diễn Dịch... Theo đúng như bản thể vận hành lịch sử và văn hóa lẫn con người của dân tộc Việt. Bao gồm cả... diễn nghĩa thời cuộc để tung hoành khắp đất trời. Tóm lại Kinh Dịch đã thể hiện một cách tiềm ẩn, trên bình diện bản thể của dân tộc Việt Nam.

Và điều này khẳng định: Kinh Dịch chính là của dân tộc Việt Nam không thể sai lạc khác đi cho được. Tôi đã quyết săn tay, vén một ít mây mù để tỏ lộ một chương trong Thiên Thư ra rồi vậy.

Và đó cũng chính là; "Thiên Cơ".

Không một ai có thể nói ngông cuồng đối với Thiên Cơ cho được.

Bởi... Thời khắc cuối... Đã gần kề và đang đưa tay..., gõ cửa Dân Tộc Việt.

.


Thanked by 2 Members:

#13 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 00:36


30 - TỔNG CÁC QUỸ ĐẠO

NHẬP CUỘC

Tour du hành của tư duy chúng ta, tham khảo vào thế giới ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư... đã đến chân trời sự cố rồi vậy!

Như thế, tôi đành phải tạm dừng lại những bài viết về những giá trị tiềm ẩn trong lịch sử của dân tộc Việt lại nơi cột mốc thời gian 1945. Bởi thời điểm này chính là địa phương của chân trời sự kiện trên bình diện địa cầu, cùng hội tụ!

Vả lại; Tôi đã có ý lướt qua 3 khúc ngoặc lịch sử, không khai thác những giá trị vô giá, còn tiềm ẩn trong đêm trường quá khứ Nhà Đinh, Trần, Lê nữa!? Bởi những giá trị này, nhất định phải chờ những yếu tố lịch sử mà giai đoạn hội đủ, mới có thể khai thác và trình bày ra được. (đồ cổ mà, đó là những giá trị vô giá... e, có thể gây nhồi máu cơ tim là một sự thật...).

Như thế; Tôi sẽ xin "đáo hạn" khoản nợ hồn thiêng núi sông này, cùng các bạn đọc và thế hệ dân tộc hôm nay lại..., trong một thời điểm cận tương lai vậy. Điều này có nghĩa là khi ta đã thấy được, và có thể với tới một tương lai "trong tầm tay".

Dĩ nhiên những định hướng tương lai đó, có xuất phát nguồn từ nền tảng của những giá trị thực tại tiềm ẩn trong Lịch Sử dân tộc mà chúng ta vừa tham khảo qua. Bằng không, thì tương lai đó chỉ có thể gần thì ở ngay trước mắt, mà xa thì lại mãi tận chân trời vậy. Riêng những quan điểm của tư duy quá khứ, dù chỉ mới là ngày hôm qua. Điều này có nghĩa là trước khi chúng ta tham khảo những giá trị thực tại tiềm ẩn của lịch sử, đã được khai quật trên trang này. Những tư duy cũng như quan điểm vốn lạc gốc cội nguồn đó. Ắt sẽ trở thành bất định hướng trên toàn miền địa phương tương lai, đang phải đến.

Và những diễn biến tiếp theo, có "mô hình tư duy" như sau:

Đặc điểm của phía bên kia không gian chiều thứ tư là; Ta nhất thiết phải hội đủ mọi góc độ quan sát!

Vì thế; Nếu ta chỉ quan sát một góc độ, thì điều đó có nghĩa là phiến diện. Ta cần phải có mọi góc nhìn toàn diện trên... bình diện vũ trụ! Tuy nhiên, để đạt được yêu cầu đó mà không bị lạc mất tư duy là bởi:

Những bài viết trên trang này từ đầu cho đến thời điểm này. Mục đích của tôi là muốn chúng ta xác định lại một quan điểm cũng như tầm nhìn chính xác đối với mô hình thực tại của lịch sử dân tộc Việt Nam. Dựa từ trên nền tảng này; Chúng ta mới có thể đủ để tiếp tục du hành sâu hơn vào thế giới nhiều chiều đang chờ đón.

Bằng như với quan điểm lẫn tư duy đương đại. Ta chắc chắn sẽ bị lạc lối tư duy và không có một nền tảng nào vững vàng để tham khảo nữa cho được. Thế nhưng, trong các góc độ tham khảo đó. Tôi vẫn dành sẵn từng góc độ cho mỗi cá nhân làm một quan sát viên tham gia. Tùy theo quan điểm của mình, sẽ chọn lấy một định hướng tham khảo làm nền tảng cùng tham gia cuộc du hành này.

Bởi mô hình thực tại vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn vốn là đồng nhất bao gồm trên quan điểm: "Vạn vật đồng nhất với tinh thần tham thông". Vì tư duy nơi đỉnh cao của nền khoa học đương đại, với đại diện ưu tú nhất là: Einstein. Vị bác học của những nhà bác học, từng phát biểu lời định hướng, trước thời điểm con tàu nhân loại nhổ neo để đi vào vùng biển cả của kỷ nguyên mới:

" Chúng ta phải dùng Khoa Học để làm sáng tỏ Tôn Giáo, và dùng Tôn Giáo để kiện toàn Khoa Học".

Đó chính là khẩu hiệu; "Định Hướng" tư duy cho nhân loại nói chung.

Do nơi chân tường sự kiện của giai đoạn 1945. Có quá nhiều sự kiện diễn ra trong khoảng không - thời gian này, hội tụ trên bình diện địa cầu đương đại! Ta nhất thiết phải đồng nhất trong tổng thể các sự kiện đó làm một. Từ điều kiện đó, sẽ cho ta nhìn thấy được một nền tảng duy nhất, làm giá trị độc lập trong toàn thể mô hình vận hành của Tạo Hóa.

Vì thế, trong các bài viết tiếp đến: Tôi sẽ viết đồng bộ nhiều hướng (đề tài) cùng hội tụ. Đã đến lúc ta phải hòa nhập tư duy vào biển cả của tri thức. Điều này có nghĩa là ta thâm nhập vào địa phương của không gian chiều thứ 5, thứ 6 v. v... Ta cứ hình dung; Trong những bài viết đầu tiên của trang này. Tôi có giới thiệu qua không gian chiều thứ 5! Và tất nhiên Hội Long Hoa, Pháp Hoa, Thiên Hoa bao gồm, thuộc không gian chiều thứ 6!!

Trong khi ta cũng đã mục kích những giá trị của không gian chiều thứ tư qua rồi. Đó là những bài viết vừa qua. Ta thấy còn có quá nhiều những sự kiện tiềm ẩn và bị vùi lấp trong đó từ hàng bao ngàn năm qua, khiến ta phải sững sờ, kinh ngạc! Điển hình là chỉ trong chừng mực của giai đoạn lịch sử gần, từ giai đoạn Trịnh Nguyễn phân Tranh đến 1945 thôi.

Từ đó sẽ cho ta mường tượng được những giá trị của quá khứ xa mãi 7000 năm ánh sáng tri thức! Trong khi khoảng cách của không - thời gian quá khứ đó. Bắt buộc ta phải đo lường bằng thiết bị tư duy. Bởi vì; Nếu như ta thiếu vắng trang bị cho mình một "thiết bị tư duy", để... đo lường những giá trị vừa qua đó. Ta phản ảnh bằng một vài lời bình phản đối mang vạ vội.

Quả thật! Sự phức tạp đã trở nên trầm trọng vô cùng rồi vậy. Một khi ta ý thức được những giá trị gì đang chờ đón chúng ta trong những bài viết sắp đến. Nếu ta cảm thấy đề tài nào mà ta đang làm phương tiện du hành vào không - thời gian nhiều chiều này có vẻ gây hoang mang cho tư tưởng. Ta nên chuyển sang phương tiện (đề tài khác) du hành khác để tiếp tục tham khảo nhé. Bằng không nữa, thì ta chấp nhận dừng cuộc thưởng ngoạn vào thế giới đó ngay vậy. Không khéo, ắt có kẻ phải "Tẩu Hỏa Nhập Ma" mà chết đuối trên cạn như không, sẽ có.

Đạo, vốn dành cho tất cả.

Bởi Đạo không hẳn chỉ dành riêng cho những bậc trí thức, bao gồm học giả, triết gia, bác học v.v... Mà là của chung cả nhân loại trong đó còn phải kể đến ông ngư phủ, bác tiều phu, anh nông dân... Kể cả những bộ lạc thiểu số hoang dã, thậm chí còn là của những người mù chữ nữa.

Thế nhưng. Điều quan trọng nhất là; Đạo chỉ có thể được làm sáng tỏ ra, nhất thiết phải từ những tư duy khoa học nơi đỉnh cao của tư duy nhân loại, chứ không hề là những tư duy kém cỏi bao giờ cả. Bằng không, nhân loại chúng ta chỉ làm ô uế bản thể của Đạo và càng khiến cho "lạc đạo" đi mà thôi. Điều này cũng có giá trị gần giống như ta lấy quan điểm của ngôn ngữ đơn thuần mà suy diễn rồi "cắt nghĩa" văn u mặc vậy.

Chúng ta tiếp tục tham khảo:

Như chúng ta đã được biết qua thiên số (thiên cơ) Diễn Dịch tính từ lúc Nguyễn Hoàng khởi Vận cho đến lúc chung Cuộc là 384 năm cả thảy. Đó chính là số Đại Diễn của vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn trong Kinh Dịch bao gồm mệnh vận của dân tộc Việt Nam.

Thế nhưng con thuyền của dân tộc Việt, phải neo bến sử tại bờ sự cố 1945. Bởi giai đoạn này có quá nhiều sự kiện diễn ra ở ngoài "vùng nước" Việt! Vì còn có "nhiều nước" khác, và khác cả khởi nguồn với dòng sử Việt trên bình diện địa cầu đang vận hành nữa!! Cho nên vùng địa phương 1945, không phải là mồ chôn của cuộc chiến chỉ riêng dân tộc Việt Nam mà thôi đâu. Mà đấy lại là nghĩa địa để chôn mọi cuộc chiến tranh trên toàn cầu đương thời khi đó vậy!!!

Cái "chính khí" của dân tộc Việt đương thời, có phần hoang mang trước những "khí tài" quân sự trên bình diện thế cuộc đương đại khi đấy! Cái dòng nước nguồn của dân tộc Việt có vẻ ngập ngừng rồi tắc dòng, trước các cơn thác nước của hơn hai trăm dòng, từ muôn phương trên bình diện địa cầu đang tuông trào, chảy xiết... qua giai đoạn lịch sử toàn cầu này !!

Thú thật, tôi dù không muốn nhưng vẫn phải diễn tả cùng các bạn rằng:

Cái chính khí của dân tộc Việt đang là nhuệ khí khi đó, có vẻ ra chiều nhụt khí dần đi.... Bởi những hỏa khí hỗn tạp đầy rẫy trên khắp thế giới đang nung đúc nguồn hỏa lực ngút trời mây khi đấy! Tuy nhiên thì dù sao đi chăng nữa; Dân tộc Việt Nam cũng phải hoàn thành và kết thúc sự đoàn viên giữa hai dòng Âu Lạc đã từng phải chịu cảnh trôi lạc từ thuở cội nguồn lại. Và ta khó khăn lắm mới có thể xét thấy Dịch lý lại diễn dịch tiếp qua ba lượn sóng cuối nơi Cửa Vũ với dân tộc Việt là 1975.

Điều này như tôi đã có từng diễn giải qua rồi, nay ôn "lược và thao" tác lại như:

Một độ Mông Hạn Ảnh là có 9 năm (vẫn là số 9). Thế cho nên ta xét thấy lượn sóng Vũ Môn thứ nhất mà dân tộc vượt qua như 1945 đến 9 năm sau đó là 1954! Và từ sự kiện 1954 tính tiếp đến 9 năm nữa là cột mốc mà lượn sóng thứ hai phải về đến; 1963!! Để kết thúc đợt sóng Vũ Môn cuối cùng đó là 1963 đủ 9 năm nữa thì về tại địa phương của thời gian 1972!!!

Và Dân Tộc Việt có 3 bước để thu dọn cũng như hoàn tất sự đoàn tụ giống nòi hàng ngàn năm qua nơi định xứ địa phương của thời điểm 1975.

Thế nhưng có điều rất phải đáng buồn cho dân tộc cũng như giống nòi Rồng Tiên này là: Đã đánh mất hoàn toàn cái chính khí, vốn là hồn thiêng của cả nòi giống oai linh mất đi hết rồi !?

Thật hổ thẹn đến vô cùng...

Những ai trôi lạc... Lại vẫn cứ phải tiếp tục chịu cảnh lênh đênh, mà lạc gốc cội nguồn... giống nòi dân tộc! Những ai dừng lại... Hoàn toàn mụ mẫm, lận đận trong trạng thái mất định hướng... cội rễ tổ tiên!! Tất cả đều thả trôi vận mệnh của dân tộc Việt Nam trong trạng thái Mặc Định cùng số phận "!?".

Thế nhưng... Chúng ta đã nhìn thấy các "Số Phần" (thiên cơ, thiên số) đã từng Diễn Dịch đối với Thế Cuộc vận hành cùng vận mệnh của dân tộc Việt Nam rồi đó vậy. Nhất định; Dân Tộc này sẽ diễn nghĩa, dọc ngang khắp lục cõi đương thời, gẫm cũng không phải là ngoa cho được. Cửa ngõ để ra biển cả vẫy vùng chính là... khu vực Biển Đông rồi vậy.

Đã thế, ta cùng xem xét những sự kiện có tính quyết định thời cuộc trong thời điểm 1945 trên toàn cầu khi đó như:

Vùng nghĩa địa điêu tàn nhất thời điểm đương đại trên bình diện địa cầu khi đó để chôn vùi thế cuộc, chính là địa phương Hirosima và Nagazaki! Bởi ta nhận thấy Nước Nhật chính là một trong Tam Cường. Một liên minh để khởi động cuộc Đệ Nhị Thế Chiến trên toàn cầu này! Cái "khí lực" đóng vai trò quan trọng nhất trong thế cuộc lúc đó ta quen nghe gọi là Vũ Khí!

Và ta xem xét thấy Vũ Khí mang tính quyết định tàn cuộc chiến đó có tên Nguyên Tử. Ta truy nguyên nguồn gốc xuất xứ của loại vũ khí nguyên tử này thì phát hiện ra rằng: Cha đẻ của nó chính là Albert Einstein. Một cây đại thụ, được gieo mầm trong nền khoa học vật lý thế giới.

Ta cũng được biết rằng: Tư duy cũng như quan điểm của phương tây nói chung. Họ đều phản ảnh những gì thuộc thực tại. Điều này có nghĩa là Thành Quả. Và hôm nay, nơi thời điểm hiện tại; Tư duy nơi đỉnh cao của các nhà bác học Phương Tây đã giật mình sửng sốt, khi họ chợt phát hiện ra rằng: Họ đã hoàn toàn bị lạc mất nguyên nhân của cội nguồn từ bao giờ rồi!

Thế nên ta thấy, nơi đỉnh cao tư tưởng đó. Người Phương Tây đang có những cuộc... Hành Trình Tìm Về Phương Đông... Trong cuộc khảo sát đó, họ cũng chỉ có thể bắt đầu xuất phát từ Thành Quả để tìm về những giá trị của Nguyên Nhân! Một quá khứ đã thất lạc trong cội nguồn!

Điều mà tôi vừa nêu ra ở dòng trên. Cho chúng ta một niềm tin về những giá trị cội nguồn bị thất lạc của dân tộc Việt, mà ta đã vừa tham khảo qua trên trang này. Như thế, ta có thể cảm nhận thấy được một tia hy vọng vừa lóe sáng ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư này rồi vậy. Điều này củng cố cho một niềm tin rằng: Chúng ta đang đi đúng hướng, và trên hết: Ta đã khai thác được những giá trị thực tại từng thất lạc và tiềm ẩn sâu trong quá khứ của cội nguồn đó rồi vậy.

Tóm lại: Ta đang sở hữu một nền tảng mang đầy kỳ vọng cho một định hướng tương lai của Dân Tộc Việt. Thậm chí cho cả tương lai nhân loại nói chung!!

Dựa trên niềm tin có thực đó. Ta xem xét lại "người quen cũ" cũng như hành tung của "anh bạn" Người Nhật đó ra sao:

Bởi xét trong một chừng mực của một quá khứ vừa đủ lâu: Ngay trong những tài nguyên đã có trên trang này. Ta cũng phát hiện người quen cũ trong giai đoạn Từ Phúc đi tìm thuốc trường sinh! Và không khó khăn cho mấy, khi ta nhớ lại rằng trong thời điểm đó: Từ Phúc có mang theo cuốn "Thái Bình Kinh". Một di bảo của dân Tộc Việt, đã từng thất lạc trong quá khứ cội nguồn và cũng vừa được phục hồi những giá trị tiềm ẩn chung!

Dựa trên những manh mối mà ta có thể phát hiện dấu tích của Kinh Dịch đang hiển hiện trong giai đoạn của năm 1945 đó như sau:

Ta thấy, Ernet Heisenberg. Một trong những cha đẻ của Thuyết Lượng Tử đã từng phát biểu trước cộng đồng thế giới rằng: Nước Nhật đã đóng vai trò rất quan trọng, trong sự phát triển của nền khoa học vật lý hiện đại của thế giới khi đó. Ta xét thấy, bóng dáng của Kinh Dịch thấp thoáng trong tư tưởng cũng như mô hình thiết kế của nền khoa học vật lý đương đại, là một sự thật khó có thể chối cãi cho được.

Tôi có thễ dẫn ra một vài điển hình đơn cử như sau:

Khi Niels Boh (Thuyền Trưởng của Thuyết Lượng Tử) đang phát triển Nguyên Lý Bổ Sung cho Thuyết Lượng Tử. Ông có lục tìm trong Tàng Thư niên giám của nền khoa học vật lý... Bất chợt ông phát hiện di chúc của nhà Toán Học Leibnit có ghi lại rằng: " Nếu tôi được đọc cuốn Kinh Dịch này trước đây. Thì phép toán nhị phân không phải là do tôi lập ra! Bởi trong này đã có sẵn cả rồi" !! Thế là ngay sau đó, khi ta thấy Niels Boh sang thăm Trung Quốc. Nhà bác Học này khi vừa trông thấy hình Thái Cực. Ông đã dùng nó để làm logo, đại diện cho Nguyên Lý Bổ Sung của mình !?

Và hôm nay: Những giá trị của thế giới kỹ thuật số, đang vận hành và mô phỏng lại những hệ thống số của Kinh Dịch không khác!

Thiên Tượng đã mặc định điều này gắn liền với Văn Hóa cũng như dân tộc Việt Nam từ hàng trăm ngàn năm trước rồi. Tôi đã có ý nhắc khéo đến trong những bài trước đó. Thế nhưng các bạn đọc rất khó có thể lĩnh hội như:

"Thương thay thân phận con Rùa.
Xuống đình cõng Hạc, lên chùa đội Bia !?".

Bởi Thần Quy vốn là tượng của Bà Âu Cơ! Đồng thời cũng là tượng của Lạc Thư!! Riêng Linh Vật Hạc vốn lại là tượng của Người Nhật rồi vậy!!! Đây mới thực sự là bóng dáng của Bạch Hạc, từng mất dấu nơi Tiên Cõi khi xưa mà tượng trời có khải định. Hoàn toàn không hề là Hoàng Hạc như Thôi Hiệu đã từng tưởng tượng mà Vịnh Hoàng Hạc Lâu trong quá khứ đầy khôi hài. Nên khiến Thi Tiên phải vứt bút mà trầm mình đi cho rồi. Bởi khắp thiên hạ cứ đua nhau mà ca tụng Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu khi đấy.

Thiên Thư cũng đã từng diễn Thiên Cơ trong quá khứ giữa hai mối ràng buộc này như:

Nước Phù Nam của Bà Âu Cơ khi xưa định xứ. Chính là nơi mà Từ Thức đã từng đi tìm trong quá khứ mà lạc hướng! Điều này được thể hiện ở cái tên gọi nước Nhật trong quá khứ đó chính là Phù Tang vậy !!

Tang ở đây còn có nghĩa là Dâu. Vậy toàn ý tiềm ẩn trong ngôn ngữ này là Phù Dâu! Vậy điều đó có nghĩa Phù Nam chính là Phù Rể không khác được !! Ý Tạo Hóa muốn chỉ định sự hợp hôn nào trong tương lai, mà nhân loại nhất định phải dự lễ... "?!". Và sự kết hợp đó là của dân tộc nào hiện nay, trên toàn miền thế giới đương đại vậy...!?

Tạo Hóa có ý gì cho hai dân tộc này trong cuộc Đệ Tam Thế Chiến phải đến hay không!?

Tôi lại tiếp tục nhiều chuyện mà lại "Lậu Thiên Cơ" nữa rồi vậy.

Nhất định tôi phải xem xét, kiểm điểm và cẩn thận lại lời, trước khi viết tiếp bài khác vậy.

Kẻo lại: "Họa tòng khẩu xuất... ", mà chớ.

.



31 - ĐỊNH THẦN.

Một trong những quan điểm hệ trọng để định hướng mô hình thực tại tương lai của các nhà bác học đương đại là:

Mô hình của huyền thoại, chính là mô hình gần với thực tại nhất! Vì các nhà bác học đã lục tìm mọi ngóc ngách của tháng năm, suốt gần một trăm năm qua rồi. Thế nhưng mô hình thực tại của vũ trụ đó. Vẫn biệt vô âm tín trong địa phương của nền khoa học hiện đại!?

Vậy, tôi kể lại cùng các bạn một trong những truyền thuyết của thời đại như sau:

Nghe đâu..., thiên hạ truyền tai nhau một thuyết (giai thoại) ... rằng:

Nhà triết gia, khoa học; Bertrand Russell đang đứng giảng cho công chúng về thiên văn học trên diễn đài. Nội dung của bài giảng đó, đại thể là nói về trái đất quay xung quanh mặt trời ra sao. Rồi mặt trời lại tiếp tục quay quanh thiên hà như thế nào...

Bỗng nhiên; Có một bà cụ, tóc trắng như bông, đứng dậy và nói rằng:

Này anh bạn trẻ! Anh đang nói chuyện nhảm nhí gì với tôi ở đây vậy? Bởi vì trong thực tế thì trái đất chỉ là một cái đĩa phẳng, tựa trên lưng của "con Rùa" mà thôi (!!).

Nhà khoa học thoáng ngạc nhiên, tuy nhiên ông ta vẫn tươi cười, ra vẻ chiếu cố và hỏi lại bà cụ:

Thế thì theo như cụ, vậy con Rùa đó tựa trên cái gì ạ?

Bà cụ gật gù, tỏ vẻ ra chiều hài lòng với sự thông minh của con cháu lắm. Bà chậm rãi...:

Anh thông minh lắm anh bạn trẻ ạ (!). Thế nhưng anh lại không biết rằng con Rùa đó lại đứng lên trên lưng của con Rùa khác chứ còn sao nữa!? Và cứ thế, con này lại xếp chồng lên con khác, cho đến vô tận vậy (!!).

Và có một thực tế là; Câu chuyện về con Rùa này. Đã ám ảnh tư duy của các nhà bác học và được nhắc lại mãi cho đến tận ngày hôm nay. Bởi họ suy luận...; Nền khoa học của nhân loại đã chắc gì về mô hình thực tại của vũ trụ thực tế hơn mô hình con rùa của bà cụ đó!? Bởi cho đến tận ngày hôm nay, nền khoa học của nhân loại vẫn chưa hề có bất cứ một mô hình thực tại cơ bản nào của vũ trụ cả!!

Và ta có thể thấy qua câu chuyện như trên là: Bóng dáng của Thần Quy, vẫn sừng sững, choáng hết cả tư duy của các nhà bác học một cách rất khó chịu và không thể chối bỏ cho được! Bởi mô hình thực tại của vũ trụ, vốn lại nằm trên lưng của Thần Quy, là một thực tế ( đồ hình Lạc Thư)!! Tinh thần của chúng ta phấn chấn hẳn lên, khi biết một cách rõ ràng rằng; Thế nhưng, Thần Quy lại chính là bản thể, là anh linh của dân tộc Việt Nam rồi vậy.

Thêm một dẫn chứng nữa, trong hàng ngàn dẫn chứng trong gia tài của nền khoa học vật lý hiện đại là:

Nguyên Lý của Thuyết Lượng Tử, khẳng định; Mô hình thực tại của vũ trụ vận hành là "tổng các quỹ đạo"! Từ đó các nhà bác học suy ra...

Vậy điều này có nghĩa là... "Tổng Các Lịch Sử" rồi vậy !!

Và mô hình thực tại của vũ trụ vốn là; Tổng các thành phần của mọi góc độ, tham gia quan sát. Thế cho nên lĩnh vực chuyên môn của các nhà khoa học vật lý... Chỉ là một góc độ trong mô hình vũ trụ đó mà thôi! Và các nhà bác học cũng đã hoàn toàn bế tắc trong lĩnh vực chuyên môn của mình từ gần 100 năm nay rồi. Vậy, hoàn toàn không có bất cứ điều gì gọi là bất hợp lý, khi những lĩnh vực ngoài chuyên môn, tham gia truy tìm một mô hình thực tại vũ trụ tiềm ẩn trong tự nhiên cả. Bởi tất cả chúng ta đều là những thành phần trong một tổng thể nhân loại đang tồn tại và vận hành cùng vũ trụ đó.

Qua hai dẫn chứng như trên. Chúng ta hoàn toàn có đủ tinh thần, tư cách, cũng như vốn liếng để bước vào tour tham khảo cái đề tài được gọi là khoa học này, mà không ngần ngại rồi vậy.

Chúng ta cùng tham gia:

Trước hết, để bắt đầu làm quen dần với lĩnh vực khó nhằn nhất là... khoa học vật lý. Tôi sẽ đưa các bạn tham khảo lướt qua tổng thể mô hình cũng như hoàn cảnh mà nền khoa học hiện đại đang rơi vào. Sau đó, chúng ta sẽ đi sâu vào từng chi tiết và giải phẫu đối tượng này sau. Tôi lưu ý chung:
Nền khoa học của nhân loại đang rơi vào hố sâu của sự bế tắc gần 100 năm qua rồi! Không hề như những quan điểm mà đại đa số các nhà khoa học tại Việt Nam, xem như là "đang tiến như vũ bão" bao giờ cả!!

Và toàn cảnh đó sẽ diễn ra như những gì tôi mô tả sau đây:

Một trong những buổi bình minh đầu tiên của thế kỷ 20. Đó chính là những ngày tháng của năm 1900. Mọi sự việc rắc rối bắt đầu xảy ra từ... chiếc lò sưởi tuôn ra một nhiệt lượng với giá trị... vô hạn, mà Planck phải đương đầu!?

Và rồi năm 1905, Einstein xuất hiện và khuynh đảo tất cả các nhà bác học đương thời với học Thuyết Tương Đối. Thế nhưng phải 10 năm sau đó nữa. Nhà bác học này mới có thể hoàn tất thủ tục làm giấy khai sinh cho đứa con ngỗ nghịch của mình với dòng chữ chứng nhận ghi ngày... tháng... năm 1915!

Năm năm sau...

Bất chợt, trong xứ sở của nền khoa học vật lý đó. Quần hùng lại nghe tiếng khóc chào đời của Thuyết Lượng Tử rất đinh tai và nhức óc..., vô cùng! Nhất là đối với nhà đại bác học Einstein!! Ông không thể nào chấp nhận cũng như có thể nghe tiếng khóc quái dị đó cho được. Đó chính là thời điểm của năm 1920.

Nghe đâu... đứa con Lượng Tử này vốn được chào đời qua những bàn tay đỡ đẻ bao gồm tới 6 "Ông Mụ" tiêu biểu: Max Planck, Niels Bohr, Werner Heisenberg, Erwin Schrodinger, Wolfgang Pauli và Paul Dirac... "!?".

Chúng ta tạm làm quen với với hai học thuyết nơi đỉnh cao của nền khoa học vật lý hiện đại của nhân loại. Tôi sẽ mô tả một cách tổng quát với sự đơn giản nhất đối với hai học thuyết này cùng các bạn. Hy vọng qua đó, ta có được một ý thức cũng như nhận định được tình hình chung.

Theo như thuyết Tương Đối thì diễn tả về những mô hình vĩ mô của vũ trụ, ví như các thiên thể, thiên hà v.v... Riêng Thuyết Lượng Tử thì lại đối lập với những điều vĩ mô đó. Điều này có nghĩa là những mô hình vi mô nhất trong thế giới hiện tại. Ta có thể hình dung ra đó chính là lý tính đối lập của Âm Dương trong Kinh Dịch vậy.

Mọi sự bắt đầu trở nên phức tạp trầm trọng cho tư duy chung của nhân loại chúng ta khi nhà nghiên cứu phóng xạ Ernest Rutherford, dùng hạt eletron để bắn vào một nguyên tử...

Tưởng, tôi cũng phải mô tả sơ lược thành phần cấu tạo của một nguyên tử để các bạn dễ hình dung và nắm bắt sự việc sắp đến như sau:

Thoạt tiên, các hạt trong không gian đang trong trạng thái trôi tự do, lơ lững... đơn lẻ. Khi hạt Proton là hạt vốn mang điện tích dương, trôi đến gần hạt Neutron không mang điện tích. Lực hấp dẫn từ proton sẽ hút lấy hạt neutron lại với nó. Hai hạt này càng gần, thì vận tốc của nó chạy xoắn vào nhau càng nhanh hơn lên. Khi đạt tốc độ vận hành lên đến 60.000km/s và hình thành nên nhân của nguyên tử, không thể tách rời ra được nữa. Lực hút này, ta gọi là lực tương tác mạnh, được tương tác qua hạt Gluon, giữ chặt hai hạt lại với nhau trong nhân.

Sau đó, khi một hạt electron mang điện tích âm, trôi đến vùng mà lực hạt nhân đang ảnh hưởng. Electron sẽ bị lực hút từ nhân đã hình thành trước đó rút vào. Càng vào gần hạt nhân thì electron càng chạy "xung quanh" nhanh hơn. Khi lực hút của nhân rút vào tới một giới hạn nhất định thì lực đẩy của electron kháng cự lại và lực của hạt nhân không thể hút vào được nữa. Lúc này vận tốc của electron chạy xung quanh đó đã đạt lên đến 900 km/s để hình thành một nguyên tử. Lực tương tác này, ta gọi là lực tương tác điện từ và tương tác bởi hạt photon. Nó níu Hạt electron không thể thoát ra được nữa.

Ta có thể hình dung... Kích thước của một nguyên tử nhỏ hơn một trăm triệu lần so với một cen ti! Và kích thước của hạt nhân trong đó, nhỏ hơn mười triệu lần, so với một nguyên tử!! Điều này có nghĩa là khi ta phóng to kích thước của một nguyên tử lên bằng trái đất, thì lúc đó. Kích thước của hạt nhân mới chỉ có thể to bằng những trái cam mà thôi. Đại khái như thế.

Trước khi Rutheford dùng hạt electron phóng xạ, khiến cho nguyên tử vỡ ra để phát hiện cơ cấu đó. Người ta cứ nghĩ rằng hạt nguyên tử là hạt cơ bản, không thể tách rời được nữa.

Đến khi các thí nghiệm tiếp theo sau, phóng xạ vào từng hạt riêng lẻ đó. Cả một thế giới kỳ dị xuất hiện và bắt đầu chi phối tư duy cũng như sự hiểu biết của nhân loại chúng ta nói chung. Thế giới đó, nền khoa học vật lý hiện đại gọi là "thế giới hạ nguyên tử".

Và bối cảnh chung của thế giới hạ nguyên tử này có những diễn biến như:

Để trước khi dùng ngôn ngữ diễn tả về thế giới này, ta nhất thiết phải biết được rằng: Nếu ta tính theo trọng lượng, kích thước như ngôn ngữ đơn thuần thì hạt electron là có khối lượng nhỏ nhất rồi. Và hạt photon có một đặc tính rất kỳ lạ là khi thì là hạt, khi lại là sóng (vô hình)! Vậy ta có thể hình dung ra các hạt hạ nguyên tử hoàn toàn là vô hình hết rồi vậy!?

Ở thế giới hạ nguyên tử này, ta có thể hình dung như ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư rồi vậy! Những giá trị về trọng lượng, khối lượng, trường, lực, xung v.v... đã hoàn toàn xóa nhòa ranh giới giữa chúng mất đi rồi! Điều này ta phải hiểu là khi ta phát biểu...; "trọng lượng", không có nghĩa là phải có một gram nào đó chẳng hạn!! Hoặc như... "khối lượng", không phải nhất định là có một kích thước nào đó nữa rồi !!

Các bạn bắt đầu thấy thế giới hạ nguyên tử này vốn rắc rối và khó hiểu như thế rồi đấy. Thế nhưng những giá trị rắc rối đó, chỉ mới là sự khởi đầu của mọi sự phức tạp trầm trọng vô cùng, đang chờ đợi nhân loại chúng ta ở phía trước như:

Ví dụ: Khi ta phóng xạ vào một hạt electron vỡ ra thành... "vô hình"! Những cái giá trị vỡ ra đó, là một trạng thái như có, như không vậy !? Là có, cũng không phải. Là không, lại cũng không đúng nữa!! Các nhà khoa học chỉ có thể nắm bắt những yếu tố hoặc điều kiện đó bằng những thuật ngữ chuyên môn là "sóng xác xuất"! Các biểu sóng xác xuất đó, cho các nhà chuyên môn nhận ra rằng..., có tất cả là 3 giá trị khác nhau! Và để thảo luận về những giá trị đó, các nhà chuyên môn mới tìm ngôn ngữ để mà đặt tên cho những yếu tố vô hình đó. Họ bắt đầu đặt những cái tên đầu tiên như "Ba Màu".

Thế nhưng quy định, 3 Màu ở đây không có nghĩa là Xanh, Đỏ, Vàng nữa rồi vậy! Bởi nó không - có gì, 3 yếu tố đó vốn vô hình !! Ta có thể mường tượng và hình dung giống như ngôn ngữ của Nhà phật vậy. Thế cho nên các vị mới gọi đó là "ngôn ngữ giả định" của thế giới hạ nguyên tử (có mà không, không mà có).

Thế rồi trong quá trình thảo luận. Có một số các vị hiểu rằng đó không phải là Màu. Không phải là Xanh, Đỏ, Vàng. Trong suốt quá trình tranh luận, bàn bạc. Các vị muốn thể hiện là hiểu điều đó, nên tránh né điều đó bằng cách diễn đạt đại khái như... Lục, Lam, Chàm, Tía chẳng hạn... "!?".

Các nhà chuyên môn biết ngay. Họ bị cái yếu tố của màu sắc đánh lừa thị giác, từ đó khiến nên dẫn đến sự lầm lẫn của tư duy. Không thể nào thảo luận một cách chính xác điều gì cho được cả.

Thế rồi họ lại phải tìm đến một cái tên nào đó khác nữa, để đặt tên lại cho 3 điều kiện đó. Và ta thấy cái tên như "3 Vị" ra đời. Nhưng cũng không ổn cho được. Tuy nó không còn màu sắc để đánh lừa thị giác. Nhưng ba cái tên mới này lại phải vướng vào những sự phân biệt của Vị Giác như...; Chua, Cay, Mặn, Đắng, Ngọt mới chết người đi được!!

Và rồi cái tên cuối cùng được thống nhất đưa ra là "3 Mùi" !. Ta thấy 3 Mùi ở đây đảm bảo đã không còn hình ảnh của màu sắc hay cái chất... gì gì đó nữa rồi vậy. Thế nhưng rắc rối vẫn cứ tiếp tục xảy ra!! Bởi đối tượng 3 Mùi, vẫn khiến cho người ta cảm thấy trong không gian còn có những mùi như Thơm, Hôi, vân vân... !!!

Trong lúc mọi người đang lúng túng đó... Bất chợt, một nhà vật lý là Gell-Mann đề xuất và phát biểu như sau: "Ba quark cho Muster mark"...!

Đó chính là câu nói được trích từ một tác phẩm của nhà văn James Joyse! Đại khái như thế này; Có một nhóm các tay anh chị chơi đánh bài với nhau. Để tránh bên ngoài nhìn ngó, họ quy định chẳng hạn như một trăm đồng, sẽ được gọi là một Quark! Để đảm bảo bên ngoài không ai biết, trừ những người trong cuộc trao đổi với nhau mà thôi. Khi tàn cuộc, thì cứ tùy theo bao nhiêu Quark mà thanh toán với nhau vậy.

Mọi người như đang trong cơn chết đuối mà với phải chiếc phao vậy. Và thế là thuật ngữ "Quark", ra đời.

Thế cho nên ta đã hiểu được từ Quark trong thế giới hạ nguyên tử, có nghĩa như thế nào rồi vậy.

Từ đó, ta thấy những từ mà mọi người thường gọi là Hạt, đối với thế giới hạ nguyên tử là hỏng mất rồi! Chẳng hạn như từ Hạt... Neutrino mà ta thường nghe qua chẳng hạn! Bởi từ "Hạt" nó đã đánh lừa tư duy của chúng ta mất đi rồi. Vì ta cứ "cảm thấy" như nhất thiết phải có một kích thước hay trọng lượng nào đó, dù rất bé..., trong tư duy.

Tóm lại; Đó chính là ngôn ngữ của thế giới hạ nguyên tử, của Thuyết Lượng Tử mà ta quen nghe gọi là "mặc định".

Đại khái như; Up, Down, thậm chí như Virus... Không có nghĩa là như thế bao giờ cả!? Mà đó chỉ là dạng ngôn ngữ "giả định" của Thuyết Lượng Tử mà thôi.

Điều này "gần giống" như văn U Mặc của Phương Đông vậy. Và đó, chính là sở đoản của nền triết học Phương Tây.

Qua những bài viết trước trên trang này. Ta hoàn toàn có được một ý niệm để nắm bắt những diễn giải sắp đến rồi vậy. Đó là một thực tại.

Từ "ý niệm" đó, ta mới có thể nắm bắt được một "khái niệm" về ngôn từ... Rồi dựa trên nền tảng của những "khái niệm" mơ hồ đó, ta mới có thể hình thành đến "quan niệm" cho được. Và bước thứ tư là ta nhất định hình thành "quan điểm" trong tư tưởng cho được.

Hoàn toàn không có bất kỳ một lối đi tắt nào ở đây cả.

Nếu có!? Thì điều đó sẽ phản ảnh một tư duy nghèo nàn và nông nổi là tất yếu. Bởi họ còn không đủ để hiểu được họ đang nói đến điều gì nữa rồi vậy.

Qua bài viết này; Chúng ta có đủ cơ sở cũng như nền tảng để tham luận những gì sắp đến, trong những bài kế tiếp mà không hề ngần ngại.

.
Bình luận:Tôi tin chắc đây phải là bài viết của một người có kiến thức rất sâu về vật lý học. Tất cả những người chỉ đọc sách popbook không thể viết được như thế.



32 - LỐI RẼ.. TRĂM NĂM.

Lục tìm mãi trong mớ tối tăm hỗn độn của ký ức lười nhác của mình. Tôi chỉ có thể gom góp được một vài câu rơi **** và chắp vá lại như sau:

"Nếu một khi ta chưa có thể mô tả sự việc bằng những ngôn từ đơn giản nhất. Thì điều đó càng chứng tỏ ta chưa có thể hiểu về sự việc một cách sâu sắc nhất". Tôi không còn nhớ rõ cho mấy. Nhưng vẫn nhận diện được đó là câu phát biểu của Rutheford. Đồng thời quan điểm của cá nhân tôi, luôn tránh một cách tuyệt đối đến cái học mang tính "tầm chương trích đoạn".

Dựa theo câu phát biểu ở trên vừa nêu ra. Tôi xin được phép trình bày sơ lược qua một điều cơ bản và đơn giản nhất của Thuyết Tương Đối và Thuyết Lượng Tử. Mong qua đó, chúng ta nói chung. Sẽ có đủ ý niệm cơ sở để tham khảo cũng như tham luận vào đề tài này mà không phải ngần ngại gì, cho dù có gặp phải nhà chuyên môn trong lĩnh vực khoa học vật lý này.

Và điều cơ bản lẫn đơn giản nhất của Thuyết Tương Đối là:

Vật bị quan sát trong không gian. Sẽ lệ thuộc vào góc độ, vị trí bao gồm không gian và thời gian của người quan sát, nên không phản ảnh được một mô hình tuyệt đối.

Ví dụ; Ta có thể thực nghiệm để xác minh điều này như những gì sau đây (yêu cầu thực nghiệm cho 2 quan sát viên tham gia quan sát):

Ta cứ tiện tay lục trong túi của mình, tìm một vật nào đó để thử nghiệm quan sát như..., gói thuốc lá chẳng hạn. Sau đó, ta đưa gói thuốc lá đó lên ngang tầm mắt để làm "vật bị quan sát" trong không gian. Và ta đóng vai trò của một "quan sát viên".

Vật bị quan sát đó sẽ phản ảnh cho ta thấy... Một tiết diện với kích thước có chiều cao là 1 cm, và chiều ngang khoảng 5 cm.

Thế nhưng ở vào vị trí quan sát phía không gian bên phải hoặc trái của ta. Vị trí của quan sát viên thứ 2 thì nhận thấy: Vật bị quan sát đó lại mô tả một mô hình khác là: Chiều cao cũng mô tả 1 cm, nhưng chiều ngang lại có đến khoảng 12 cm!

Như thế, nếu góc độ thứ 3 tham gia quan sát... Thì ngay lập tức, vật bị quan sát đó liền phản ảnh thêm một mô hình khác với hai mô hình mà 2 quan sát viên trước đó đã nhìn thấy!

Thế rồi vị trí thứ 4, thứ 5 v.v..., tham gia quan sát... Thì các góc độ quan sát đó đều mô tả hoàn toàn khác nhau về vật bị quan sát đó là một thực tế! Dĩ nhiên sự tranh cãi sẽ xảy ra của mọi vị trí quan sát, là không thể tránh khỏi rồi vậy. Mặc dù không ai mô tả sai với điều mình đã nhận thấy, đối với vật bị quan sát đó.

Từ đây suy ra...

Góc độ quan sát mô hình vũ trụ phía bên trong các phòng thí nghiệm, của các nhà chuyên môn. Hoàn toàn không phải là vị trí quan sát phía bên ngoài các phòng thí nghiệm, ngoài chuyên môn của chúng ta. Các nhà chuyên môn phải tuyệt đối trung thành với điều mà họ quan sát thấy. Thế nhưng, ta cũng không thể mô tả khác hơn về một mô hình của vũ trụ, với góc độ quan sát của mình cho được.

Hiểu được điều cơ bản này, ta sẽ tránh được những cuộc tranh cãi triền miên rồi vậy. Và đó; Cũng chính là điều cơ bản và đơn giản nhất của Thuyết Tương Đối, mà ta hay quen gọi là "nguyên lý".

Các bạn đủ tự tin để tham gia quan sát rồi đấy. Nếu còn ngần ngại...? Tôi sẽ tiếp tục trình bày sự đơn giản cũng như cơ bản nhất của Thuyết Lượng Tử, để bổ sung cho tinh thần của các bạn như sau:

Nguyên Lý "tổng các quỹ đạo trong không gian" của Thuyết Lượng Tử là do Faynman lập ra. Vậy tôi trình bày Nguyên Lý này một cách đơn giản như sau:

Từ nguyên lý đó, các nhà bác học suy ra...; Vậy điều này có nghĩa là tổng các lịch sử rồi vậy! Nếu thế; để muốn hiểu được mô hình thực tại cơ bản của vũ trụ. Đòi hỏi ta phải hiểu đồng bộ tất các các lịch sử của mọi lĩnh vực trên bình diện... Lịch sử, văn hóa, y học, kinh tế, quân sự v.v...., Bao gồm cả khoa học lẫn tôn giáo rồi vậy !!...

"Đó là điều không thể".

Tuy nhiên, thật khó khăn lắm. Tư duy của ta mới xem xét thấy tia sáng cuối đường hầm ở chỗ:

Đã thế thì... Các nhà khoa học trong chuyên môn. Bắt buộc phải chấp nhận rằng; Góc độ chuyên môn, phía bên trong các phòng thí nghiệm. Chỉ có giá trị là một góc độ phiến diện, để mà quan sát mô hình thực tại đồng bộ của vũ trụ cơ bản mà thôi!! Còn thiếu vắng các góc độ quan sát của cả cộng đồng nhân loại chúng ta một cách đồng bộ nữa. Các nhà khoa học càng đi sâu vào chuyên môn, càng vi phạm nguyên lý này của Thuyết Lượng Tử rồi vậy.

Thế nên, chúng ta có quyền tham gia quan sát những kịch bản có những diễn biến đã xảy ra trong lĩnh vực khoa học vật lý đương đại, một cách bàng quan như sau:

Chúng ta quay lại bên chiếc lò sưởi trong buổi bình minh của thế kỷ 20 để mục kích sự việc... như; Những giá trị vô hạn tuôn ra từ chiếc lò sưởi đó. Giống như một dòng sông chắn ngang, trên con đường phát triển của nền khoa học vật lý của nhân loại chúng ta!

Và trong quá khứ đó, nhà bác học Planck bằng mọi giá, ông cũng phải vượt qua. Trong giai đoạn đó, mô hình thực tại của vũ trụ yêu cầu và đòi hỏi nhân loại chúng ta; Phải giải quyết bài toán vô hạn, mà mô hình tự nhiên đã đặt ra từ chiếc lò sưởi này.

Và ta thấy nhà bác học đã xuất sắc vượt qua trở ngại đó, theo cách của Planck! Thế rồi sau đấy, có một số các nhà khoa học khác, cũng tập kết đến điểm hẹn lịch sử này. Và họ cũng đều sang sông theo cách đó!! Thế nhưng, cộng đồng nhân loại chúng ta không phải là các nhà bác học, nên không thể sang sông theo cách của các nhà chuyên môn cho được.

Tuy nhiên, vấn đề mà tôi cần phải mang ra thảo luận ở đây cùng cộng đồng là:

Thế, địa phương ở phía bên kia sông là điều gì!? Tôi nói thật; Địa phương ở phía biên kia sông là... Cả một biển cả mênh mông, mở ra trước mắt của các nhà bác học đã sang dòng sông khi đấy... !!

Thế nhưng..., Tất cả những thiết bị để thiết kế một phương tiện vượt biển!? Đang còn ở lại phía bên này sông, cùng cộng đồng nhân loại chúng ta mất cả rồi !!!

Cho nên, ngày hôm nay. Cộng đồng nhân loại chúng ta nhất định phải sang sông. Bởi hoàn cảnh hiện tại mà nền khoa học vật lý thế giới đang lâm vào, tựa như một con thuyền hoàn toàn vô định hướng giữa biển cả mênh mông của kỷ nguyên mới.

Mọi sự bắt đầu trở nên hoảng loạn cho tư duy của các nhà bác học đương đại bắt đầu lớn dần, kể từ sau khi Lý Thuyết Dây đăng đàn ở diễn đàn khoa học vật lý thế giới năm 2005, trước ngưỡng cửa của kỷ nguyên mới. Bởi Lý Thuyết Dây vốn là tất cả niềm kỳ vọng của các bác học toàn cầu, tập trung mãi từ những năm 1964 của kỷ nguyên cũ lập nên.

Ta cũng phải biết, gần nữa thế kỷ qua. Lý Thuyết Dây đã được ươm mầm và nuôi dưỡng trưởng thành bằng tư duy của tất cả các nhà bác học trên toàn cầu tập trung về. Cuộc đời của Lý Thuyết Dây, kể ra cũng trải đủ "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh", mới có thể đăng đàn và được suy tôn là" Ứng Cử Viên Sáng Giá Nhất", trên vũ đài khoa học vật lý đương đại. Một lý thuyết của tất cả, ta được biết qua với tên viết tắt là "T.O.E" !

Đó là do Lý Thuyết Dây có tham vọng hợp nhất giữa Thuyết Tương Đối và Thuyết Lượng Tử. Lý Thuyết Dây còn có danh hiệu khác nữa là "Bản Giao Hưởng Của Vũ trụ"! Các nhà thiết kế của Lý Thuyết này, nuôi ước mơ... Tấu lên được bản giao hưởng của vũ trụ đó. Tuy nhiên, điều này nhất định còn phải hỏi qua ý kiến của Dao Cầm và Tiêu Khúc trước đã. (...!!).

Bởi các nhà thiết kế của Lý Thuyết Dây, đã se duyên cho hai học thuyết Tương Đối và Lượng Tử bằng những gam màu đen kịt! Họ không biết rằng; Nguyệt Lão vốn lại là người Phương Đông. Và trên tay của ông lão dưới ánh trăng đó. Vốn là những sợi chỉ có gam màu đỏ thắm mà ta quen gọi là "dây tơ hồng"!!. Thế cho nên nhân loại thấy Lý Thuyết Dây cho đến thời điểm này, vẫn hoàn toàn chỉ là những cuộn chỉ rối mà thôi. Bởi cái không gian "Calabi - Yau" đó? Tự nó đã nói lên tất cả rồi.

Tôi hơi nhiều chuyện mà ví von theo cách nói của người Việt Nam như thế này: Khi ra trình làng. Lý Thuyết Dây rất muốn "ngồi chiếu trên". Thế nhưng; Chiếc chiếu ấy, đã có Heisenberg và Chew... "ngả lưng", ngót trăm năm trước mất rồi!!

Mọi người chỉ bất chợt tiu nghỉu, khi vị kiến trúc sư trưởng của Lý Thuyết Dây là Witten tuyên bố:

Tôi không tin Lý Thuyết Dây là lý thuyết của tất cả "!?". Mục đích của diễn đàn khoa học vật lý thế giới năm 2005 chỉ là; Thách thức một lý thuyết của tất cả đã ra đời, phải lên tiếng và đăng đàn! Ông cho biết; Dựa trên những quy luật cũng như sự phát triển theo trật tự của mô hình vũ trụ vận hành. Đã cho thấy, có một lý thuyết của tất cả đã ra đời. Tuy nhiên; Không hiểu vì lý do nào đó mà cho đến nay, nhân loại vẫn chưa có thể biết tới được!? Và ông phát biểu:

"Chắc chắn có một kẻ nổi loạn giống như Einstein, đang tồn tại ở đâu đó phía bên ngoài các phòng thí nghiệm. Song, tiếng nói của anh ta ngày càng khó tiếp cận giới chuyên môn hơn!! Vấn đề là làm sao để tìm cho ra kẻ nổi loạn đang tiềm ẩn ở đâu đó, trên toàn miền thế giới này" !!!.

Thế nhưng, Witten chờ mãi mà vẫn không thấy hồi âm, cho dù chỉ là một vài tín hiệu của sóng xác xuất !? Và rồi..., Witten đành theo đuổi kịch bản cuối cùng của riêng ông với ước mơ là:

Đêm đêm, với ống kính thiên văn hiện đại nhất có thể. Ông dõi vào vũ trụ, tìm xem trong những dải thiên hà... Kỳ vọng vào trong một đêm "tối trời" nào đó; Bất chợt, ông sẽ nhìn thấy được một "Sợi Dây". Còn sót lại sau vụ nổ Big Bang...

Thế nhưng, Witten hoàn toàn không có thể nào ngờ được rằng:

Thuyết Bigbang đó; Hoàn toàn chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, được xây dựng trên nền tảng của những khái niệm còn mơ hồ của nhân loại chúng ta! Bởi nó vốn đã được hoài thai từ một giả thuyết, định xứ tại vùng địa phương không - thời gian 1927 trong quá khứ mà thôi!!!

Thật điên rồ!

Tuy nhiên, cái lý tính điên rồ này. Đã từng được nhà bác học Richard Faynman. Khiến lịch sử của nền khoa học vật lý phải ghi vào niên giám như sau: Mỗi khi có một nhà nghiên cứu nào đó, mang công trình vừa phát minh của mình đến hỏi ý kiến ông. Faynman xem xong và, thường phát biểu rằng: "Chưa đủ. Nhất định cần phải có những ý tưởng thật sự điên rồ hơn nữa, mới có thể thay đổi được toàn bộ cục diện hiện nay được" !?...

Và tôi khẳng định:

Tôi xem Faynman chính là "kẻ cuối cùng của bộ tộc lượng tử". Trong năm 1988, cũng đã đi về cùng với tổ tiên của "Họ Lượng Tử" ở thế giới bên kia mất rồi. Tất cả những ai còn lại, vốn: Không thuộc "phả hệ" ấy. Thế cho nên không ai trong chúng ta hôm nay, hiểu gì về Thuyết Lượng Tử cả. ..."!?".

Đó là một sự thật. Và bản tính của sự thật, luôn "phũ phàng".

Như thế, ta đã nhận diện được Faynman chính là nơi mà thế hệ hôm nay phải xem xét đến. Tôi tạm thời gác lại những việc làm của các nhà chuyên môn đương đại để xem xét sau. Bởi ta phải xem nguồn gốc của sự sai lạc có xuất phát từ nguyên nhân nào trước đã. Tuy nhiên mọi người sẽ vội cho tôi là ngông cuồng. Tôi cũng cảnh báo thêm rằng:

Dự án Nhà Máy Gia Tốc Hạt L.H.C hiện nay. Đã thua cháy túi trong canh bạc rủi may cùng Tạo Hóa mất rồi. Bởi Thuyết Lượng Tử ngay từ trong những ngày chào đời, đã có ý tưởng cờ bạc cùng Tạo Hóa rồi vậy. Việc này, tôi sẽ làm sáng tỏ trong những bài phân tích sắp đến. Còn hiện tại thì giới hạn trong những dòng khảo luận này. Tôi chỉ có thể chỉ ra điều đó để các bạn cùng nhận dạng như: Tinh hoa của Thuyết Lượng Tử chính là hai từ "Xác Xuất" ! Từ đây suy ra... Xác xuất có giá trị tương đương với sự rủi may, là trò cờ bạc.

Chính Niels Bohr, trên vũ đài tranh cãi cùng Einstein trong những năm của thập niên 20, đã sử dụng "bửu bối" này mà công kích Einstein. Và ta cũng từng được nghe câu nói bất hủ của Einstein trong ngày đấy rồi:

"Chúa không chơi trò đổ xúc xắc với nhân loại chúng ta".

Và chúng ta cũng không một ai có thể đủ để nhìn thấy rằng: Một trong những ngày đầu tiên khai sáng Thuyết Lượng Tử. Planck đã dùng những thủ thuật như trò cờ bạc bịp cùng mô hình của Tạo Hóa trong các lý giải bài toán nhiệt lượng từ lò sưởi rồi vậy !? Trong ngày đó, Planck đã "ăn may"! Và Einstein biết rất rõ điều này, tuy nhiên cả hai người vẫn không hiểu nổi là tại sao, lại xảy như thế được!?. Chính điều này đã tạo nên tình bạn gắn kết chặt chẽ giữa hai tính cách hoàn toàn khác biệt đó. Và câu phát biểu như tôi vừa dẫn chứng ở trên của Einstein. Khẳng định điều đó.

Thế rồi, những tín đồ của Thuyết Lượng Tử ở các thế hệ sau đó. Vẫn có quan điểm cờ bạc cùng với mô hình của Tạo Hóa! Thật là cả một đại họa chung cho nhân loại trong một tương gần rồi vậy. Các nhà bác học, đại diện cho tư duy nhân loại của chúng ta hôm nay; Đã và đang thua trắng tay.

Thế nên những mô hình của vũ trụ trong tương lai. Đang được các nhà bác học đương đại vẽ ra hoàn toàn là một vũ trụ tăm tối, hỗn độn cả. Tôi khẳng định: Mô hình thực tại của vũ trụ tương lai của nhân loại chúng ta không hề có mô hình như thế. Đó chính là vũ trụ thuộc về không gian chiều thứ 5. Một vũ trụ không mong muốn.

Điều này tôi có thể chỉ ra như: Tư duy của các nhà khoa học hiện nay, đang mô tả về những vũ trụ tương lai của cái gọi là "Lỗ Đen". Một viễn ảnh hoàn toàn tăm tối, bao gồm với những trí thông minh nhân tạo, điều khiển nhân loại! Thoáng đâu đây, ta có thấy những thế hệ hôm nay đã có biểu hiện của những tư duy được lập trình sẵn. Tư duy máy móc, robot, nhan nhản... khắp nơi.

Tôi khẳng định:

Mãi mãi, những công cụ thiết bị, kể cả những cái gọi là trí thông minh nhân tạo (AI) đó. Chỉ là công cụ để phục vụ con người mà thôi. Bởi những nhà khoa học vốn rất lạ lẫm với điều mà Phật gọi là "Trí Huệ Phật"! Ta cũng bắt gặp Chúa cũng mô tả về ánh sáng tri thức đó là "Chúa Thánh Thần" vậy!! Một thế giới đối lập và tồn tại phía bên ngoài địa phương biên của nền khoa học vật lý hiện đại!!!

Các bạn cố gắng lướt mắt qua những bài viết nhàm chán và đầy khô khốc này. Bởi nó chính là mắc xích quan trọng (không thể thiếu), để nối liền chuỗi dây chuyền sắp đến. Tôi không trình bày, nhất định cũng không được. Bởi đó là đặc tính của khoa học vật lý.

Như thế, trong bài viết tiếp theo. Tôi sẽ cố gắng tổng lược tình hình chung của nền khoa học trong 100 năm cuối lại. Vì trong thế kỷ 20 chính là giai đoạn mà nền khoa học phát triển với tốc độ lạm phát.

Đến nỗi, tất cả bác học trên toàn cầu hiện nay. Không có thể hiểu nổi những lỗi lầm nào, đã từng bị các nhà chuyên môn, bỏ sót qua trong quá khứ lạm phát đó? Vì sự tương lai của cộng đồng nhân loại. Thế hệ chúng ta hôm nay. Nhất định phải thiết lập lại mô hình thực tại cơ bản của vũ trụ tự nhiên trong tương lai.

Dĩ nhiên, chúng ta có niềm tin đó. Vì đã từng tham khảo những gì vừa qua trên trang này. Những giá trị thực tại đã từng bị vùi lấp mãi 7000 năm trong quá khứ. Xá gì chỉ có 100 năm cận khứ hiện tại này.

Tôi xin nhắc lại một câu phát biểu như một "hạo khí" của dân tộc Việt, dò sào ra biển cả, làm kết thúc bài viết này như sau:

"Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Ngàn sau muôn thuở há không ai".
Sào Nam.

.
Bạn đọc tự do chia sẻ.



33 - TRUY TÌM... NGUYÊN NHÂN.

Vừa bước qua ngưỡng cửa của Kỷ Nguyên Mới. Nhân loại chúng ta hôm nay chợt ngỡ ngàng. Khi những thế hệ hôm nay, đang phải đối đầu với một thế giới đầy hỗn loạn cùng một tương lai vô định hướng!?

Hai công cụ hiện đại nhất của nền khoa học chuyển giao từ kỷ nguyên vừa qua là Thuyết Tương Đối và Thuyết Lượng Tử. Đã tỏ ra bất hợp tác cùng sự phát triển cho một tương lai sáng sủa của nhân loại như đã từng được kỳ vọng nơi cuối kỷ nguyên vừa qua!

Như thế, bắt buộc ta phải quay trở về quá khứ đó. Để truy tìm lại những thành phần chi tiết nào, mà các thế hệ trước đã từng bỏ sót qua, đối với hai học thuyết này? Qua đó, nhân loại chúng ta mới có thể vận hành mà phát triển đến tương lai của kỷ nguyên mới cho được. Bởi nhân loại chúng ta đang đứng trước một cận cảnh tương lai bị đào thải, đối với quy luật của vũ trụ đang bỏ rơi khá xa.

Và nơi địa phương của miền quá khứ gần nhất. Ta bắt gặp "kẻ cuối cùng của bộ tộc lượng tử"; Richard Faynman (1988). Vì tương lai của cả nhân loại. Ta nhất định phải níu áo Faynman, đòi hỏi những giá trị thiếu vắng trong di chúc cho tương lai của nền khoa học vật lý! Bởi Faynman chính là kẻ thừa hưởng cũng như nắm quỹ tư duy cuối cùng của tộc họ lương tử. Thế nên ta bắt đầu xem xét từ...:

Như ta đã từng biết là nền khoa học hiện nay không biết được những giá trị của nguyên nhân!? Nghe qua có vẻ rất khôi hài. Nhưng điều này lại hoàn toàn là một sự thật. Điều đó được thể hiện qua sự phản ảnh của Thuyết Big Bang! Bởi những gì mà hiện nay chúng ta đang được biết, chỉ là sự việc của cái gọi là "hậu Big Bang" mà thôi!! Đối với những giá trị gì thuộc "tiền Big Bang", thì chúng ta hoàn toàn không biết gì cả!!!

Cái không - thời gian của sự kiện tiền Big Bang đó. Chỉ là một con zero kếch sù trong tư duy chung của tất cả các nhà bác học đương đại một cách..., "toàn diện"! Và mọi người luôn tránh nhắc đến cái huyệt "yếu điểm" chí tử này. Tất nhiên, tôi cũng vậy. Cho nên tôi "tạm" nhắc đến, cốt là để minh chứng ta bắt đầu xem xét từ thành quả, đi ngược trở về nguyên nhân là hoàn toàn chính xác.

Và đối tượng "thành quả" đầu tiên mà ta phải xem xét đến. Chính là câu phát biểu cuối đời của Faynman như sau:

"Có lẽ..., hai học thuyết nơi đỉnh cao của nền khoa học hiện đại. Chưa cung cấp cho chúng ta được một cái nhìn toàn triệt" ?!...

Với cá nhân tôi thì; Đây chính là câu phát biểu rất phải... "đáng trách", đối với nhà bác học Richard Faynman!

Bởi vì; Trước đó, khi đang ngất ngưỡng nơi đỉnh cao của danh vọng. Faynman thường công kích nhà đại bác học Einstein một cách rất kịch liệt (lúc Einstein đã mất)! Điển hình như câu phát biểu:

Nếu như mọi người nói; Trên thế giới chỉ có không quá 3 người là hiểu nổi Thuyết Tương Đối. Thì tôi khẳng định rằng; Câu phát biểu này, nên dành cho Thuyết Lượng Tử mới đúng hơn!

Tuy nhiên ta xét thấy; Thường thì tất cả những ai bênh vực cho Thuyết Lượng Tử. Luôn lớn tiếng công kích Thuyết Tương Đối, nhưng đến khi cuối đời. Có vẻ như kinh nghiệm cũng như tuổi đời đã "đủ tuổi" để biết Einstein hoàn toàn đúng!! Họ thường phân bua "nhận lỗi" một cách rất kín đáo! Có dạng như câu phát biểu buông xuôi (cuối đời) của Faynman mà tôi vừa nêu ở trên.

Tôi chỉ xem và ghi nhớ Faynman trong nguyên lý "tổng các quỹ đạo trong không gian" là có thể chấp nhận được, tuy chưa có vẻ hoàn hảo cho mấy. Bởi ông vẫn còn bỏ dở dang, đầy thiếu sót trong những công trình của mình, một cách rất "thiếu trách nhiệm", đối với tương lai hậu thế.

Một trong những ví dụ mà tôi dẫn ra như: "Thí nghiệm hai khe" trong ngày đó. Và ta cũng đâu có thể phát biểu một cách mang tính... "đối phó" như thế cho được. Ta xét thấy, hầu như tất cả các nhà khai sáng học Thuyết Lượng Tử. Đều có cùng một bản tính "bỏ dở dang" công việc như thế này cả?! Chẳng lẽ... ông tổ khai sáng Planck từng đã xử sự như thế, cho nên những thế hệ nối tiếp làm nư, mà noi theo gương đó!?

Đã thế, tôi sẽ làm sáng tỏ tất cả vấn đề này cùng những thế hệ hôm nay, ngay sau khi đưa tất cả những thiếu sót đầy rẫy trong bản thân của Thuyết Lượng Tử, ra trước ánh sáng của tri thức.

Tôi khẳng định; Chính những thiếu sót cũng như sự việc bỏ dở của cả hai học thuyết này. Khiến nên những thế hệ tiếp theo sau, không thể nào hợp nhất cho được. Tuy nhiên, Thuyết Tương Đối là có thiếu sót. Nhưng Thuyết Lượng Tử thì bao gồm cả thiếu sót lẫn sai sót mới tai hại. Bởi chúng ta chưa có thể hiểu nổi về hai học thuyết này. Nên không thể biết được những sai sót gì, và nguyên nhân sai sót đó có cội rễ từ đâu. Đó là một thực tế khó có thể chối cãi, cho dù chỉ là tính tự biện. Việc các nhà khoa học cứ tìm cách hợp nhất hai học thuyết này, đã tố cáo cũng như minh chứng cho điều tôi vừa phát biểu.

Đó là tôi chưa nói đến việc Faynman phát triển biểu đồ không - thời gian của Friednman vào những năm 1949 về sau này nữa. Tôi khẳng định; Việc làm này của Faynman. Đã phát quang lối rẽ, dẫn nền khoa học của nhân loại vào một vũ trụ đầy rối loạn, nhanh hơn mà thôi.

Tuy nhiên; Câu "nhận lỗi" của Faynman mà tôi vừa trích dẫn, nêu ra ở những dòng phía trên. Đã đủ ký nhận cho những luận giải này rồi vậy.

Xét..., có thể; Do Faynman là nhân vật trẻ tuổi (25 tuổi), có mặt trong Dự Án Manhattan từ những 1943 cùng Oppenheimer và Einstein để "tạo nên" sự kiện Hirosima và Nagazaki ngày đó. Đã khiến Faynman bị cái uy danh của mình, phủ mờ lý trí (tính khí nông nổi của tuổi trẻ) tiếp liền về sau chăng? Tôi lại càng lấy làm không thể nào hiểu nổi tại sao; Giáo sư Oppenheimer ngày đó lại lấy Kinh Thánh của Đạo Chúa, khi nói đến sự thử nghiệm quả bom thứ nhất, và trích dẫn Kinh Gita của Đạo Hindu cho quả bom thứ hai làm vậy cho bằng được!?

Xét tiếp đến những ai thuộc phả hệ của Tuyết Lượng Tử như... Dirac, Pauli, Boglie (Lous de...Boglie, không phải Maurice de Boglie), không đủ để nhắc đến những sai lầm có tính hệ trọng. Riêng Schrodinger thì an toàn. Bởi ông chính là nhà Lượng Tử duy nhất, bênh vực Einstein cũng như biết được vấn đề có thiếu sót cũng như sai lầm của Thuyết Lượng Tử, so với Thuyết Tương Đối! (qua thí nghiệm "con mèo của Schrodinger").

Như thế, việc chúng ta tiếp tục bàn đến sẽ được tính từ lúc cặp Long Tranh Hổ Đấu, thượng đài trên diễn đàn Copenhagen giữa Thuyết Tương Đối và Thuyết Lượng Tử (1920).

Nhìn chung, ta thấy Einstein đã lấn áp được Bohr và gây lúng túng cho cái được gọi là "xác xuất", qua câu phát biểu mà ta đã biết... Bởi làm gì mà có cái chuyện như...; Mô hình mà vũ trụ của chúng ta đang vận hành như hiện nay. Bất chợt, trong một khoảng thời gian của tương lai nào đó (không xác định được), thình lình biến ra... "khác đi nữa"... !? Không hề có chuyện đó. Bởi điều đó đã nằm ngoài sự tưởng tượng của mọi sự khôi hài.

Thế nhưng; Heisenberg đã tung một chiếc phao cứu sinh, kịp thời cho Bohr trong cơn "chết đuối" có tên gọi là "Nguyên Lý Bất Định". Và ta thấy dựa vào cứu cánh đó mà Heisenberg và Bohr đã khuynh đảo lại Einstein, trên vũ đài tranh cãi gây chấn động cả nhân loại ngày ấy.

Thế là...; Chỉ chực chờ có thế. Tư tưởng của đám đông lập tức hùa lấp tất cả mọi giá trị thực tại mà Einstein đang ra sức bảo vệ trong đơn độc.

Quả! Einstein đã rơi vào tình thế mà tôi có thể tả là: "Mãnh hổ nan địch quần hồ" trong ngày đó đối với ông rồi vậy.

Và ta thấy, sau đó Einstein lao vào nghiên cứu triết học. Ông hy vọng gặt hái thành quả, nuôi hoài bão thống nhất Thuyết Lượng Tử và Thuyết Tương Đối thành một tổng thể. Để rồi cho đến cuối đời, Ông đã phải thốt lên làm vang động cả cánh đồng triết học còn trơ gốc với âm thanh:

“ Ngay cả một học giả có năng khiếu và tính gan dạ nhất, cũng vấp phải khó khăn khi nói về sự thật, vì những thành kiến triết học, trong đó bao gồm sự thật và những điều đã học và tích lũy được từ khoa học”.

Thế giới đương thời lúc đấy, từng suy tôn rằng: Trên thế giới có hai thành phần triết gia. Một bên là Einstein, còn phía bên kia là..., tất cả triết gia trên thế giới..., gộp lại !!

Riêng về phe đồng minh của "giáo phái" Cơ Học Lượng Tử. Các "tín đồ" của Thuyết Lượng Tử, ngày càng gia nhập thành một lực lượng hùng hậu thêm lên không ngừng... !?

Tuy nhiên, chỉ có vị Thuyền Trưởng của con tàu lượng tử là Niels Bohr mới có thể biết rất rõ...; Những cú "nock out" của Einstein ngày đó trên vũ đài, có trọng lượng như thế nào. Điều này được phản ảnh qua Nguyên Lý Bổ Sung của ông. Tất nhiên, hễ có bổ sung là có sai sót rồi vậy. Tóm lại; Niels Bohr..., Thấm đòn!

Thế nhưng, ta xét thấy Heisenberg sau đó đã phát huy Thuyết Lượng Tử thành cơn thác lũ, cuốn trôi tất cả đến tương lai, dựa trên nền tảng của Nguyên Lý Bất Định.

Tưởng, tôi cũng nên mô tả sơ qua về Nguyên Lý Bất Định để các bạn có thể hình dung như sau:

Như tôi đã có nói qua là; Muốn khai thác toàn diện, ta nhất định hội đủ 3 công cụ là: Công cụ ngôn ngữ đơn thuần, công cụ ngôn ngữ toán học và công cụ ngôn ngữ hình học. Thế nhưng ở đây ta chỉ sử dụng có mỗi công cụ ngôn ngữ đơn thuần mà thôi. Vậy các bạn cố gắng hình dung nhé.

Ta hình dung theo biểu đồ của một bó sóng... Ta thường gọi khoảng cách từ A đến B bằng ký tự x . Khi người ta tiến hành đo vận tốc cũng như vị trí của một hạt electron trong khoảng cách cho sẵn đó. Khi ta tiến hành đo vận tốc của electron thì ta nén (ép, rút) khoảng cách đó ngắn (hẹp) lại. Thì lúc này hạt electron "phản ứng" lại bằng cách vận động nhanh hơn! Còn khi ta tiến hành đo vị trí thì lại nới rộng khoảng cách ra. Lúc này thì hạt electron vận hành chậm lại để ta xác định được vị trí.

Cho nên khi ta tiến hành đo vận tốc thì sẽ không đo được vị trí. Bởi lúc đó vận tốc của electron vận hành quá nhanh, khiến ta không thể xác định được vị trí nào trong khoảng cách x đó cả. Và ngược lại, khi ta đo vị trí thì hạt "đứng yên", thì lại không xác định được vận tốc.

Bởi cái bản tính của hạt electron là: Nó chỉ vận động đủ, trong một khoảng không gian vừa đủ cho nó. Nếu ta đưa nó ra một khoảng không gian rộng hơn. Nó sẽ đứng yên trong vị trí của nó, đối với khoảng cách đó (Nó vẫn vận động trong giới hạn không gian của chính nó, phức tạp lắm). Nếu ta nén nó vào một khoảng không gian hẹp hơn, thì nó sẽ phản ứng lại bằng cách vận động nhanh hơn. Như bức bối mà muốn phá vỡ sự giam hãm đó mà quân bình lại không gian cũ của nó vậy. Tóm lại; Nếu ta hiểu rõ những " vũ trạng" này của thế giới nguyên tử. Có nghĩa là hạt electron đã mở cánh cửa để dẫn tham vọng của nhân loại vào với kho "vũ khí" mà gieo mầm chiến tranh rồi vậy.

Đó là Nguyên Lý Bất Định.

Tôi sẽ chỉ rõ những sai lầm trầm trọng của nguyên lý này sau. Hiện tại, trong bài viết này. Chúng ta tiếp tục dõi theo những diễn biến tiếp đến như:

Ta thấy Heisenberg tiếp tục phát huy Cơ Học Lượng Tử với biểu đồ Không - Thời gian của Friedmann để mô tả những trạng thái tương tác của thế giới hạt. Trong thời gian này, cái lý tính "xác xuất", đã thật sự gây trở ngại cho mọi tư duy chung đương thời của tất cả các nhà bác học khi đấy. Bởi họ không thể mô tả chính xác được điều gì đang diễn ra để..., tương tác trong thế giới đấy được cả!?

Thế nên ta thấy năm 1943, Heisenberg đã kết hợp với Chew (kiến trúc sư trưởng) để tránh những khó khăn này bằng cách lập ra biểu đồ của "phản ứng"! Họ không quan tâm tới tương tác nữa. Mà lúc này chỉ quan tâm tới phản ứng của đầu vào và đầu ra mà thôi. Những biểu đồ này, sau đó phát triển dần lên mà ta đã từng nghe qua với cái tên là Ma Trận Phân Tán (Scattering Matrix) như ngày nay.

Kể từ thời điểm này. Tôi đã xem như Heisenberg đã nghiễm nhiên lên thay Nieis Bohr làm thuyền trưởng để lèo lái con tàu Lượng Tử rồi. Bởi Bohr và Einstein cùng rất nhiều những nhà bác học, đã rời khỏi nước Đức kể từ khi Hitler lên thống lĩnh nước Đức năm 1933. Thời gian này, trong nội bộ của nước Đức đã xảy ra biết bao sự kiện bí ẩn, mà mãi tận hôm nay vẫn còn bị lịch sử che lấp. Tôi không tiện nói đến những bí mật tiềm ẩn trong trang sử khuất của nền khoa học vật lý ra đây cho được.

Tôi chỉ có thể lướt khéo qua cùng các bạn rằng: Trong những cuộc họp kín cấp cao đương thời khi đó của nền khoa học vật lý tại Nước Đức. Những vị Lạt Ma của Tây Tạng luôn luôn có mặt. Hoặc như những dự án rò rỉ mà bác sĩ Mengele, mệnh danh là "bác sĩ tử thần" từng duy trì. Thế nhưng đây là những việc nội bộ của Nước Đức khi đó, ta không nên bàn đến.

Như ta đã thấy đấy. Vậy mà Faynman vẫn cứ tiếp tục phát huy biểu đồ Không - Thời Gian của Friedmann, tính từ thời điểm của năm 1949, mãi về sau này cho được!? Trong khi ta thấy vị Thuyền Trưởng đã chuyển hướng biểu đồ của con tàu Cơ Học Lượng Tử từ năm 1943!

Kể từ khi thâm nhập vào thế giới của Ma Trận Phân Tán. Heisenberg bắt đầu nhận ra con Tàu Lượng Tử đã có những lỗ rò rĩ trầm trọng. Thế nhưng, lúc này cả hai cây đại thụ đắt giá nhất của nền khoa học hiện đại là Einstein và Bohr, đã không còn ở nước Đức nữa rồi. Tôi khẳng định, sự ra đi của Einstein trong thời điểm của quá khứ đó. Sẽ là một bài học đắt giá nhất cho lịch sử của nước Đức mãi mãi. Lòng kiêu hãnh của người Đức, đã bị tổn thương trầm trọng và khó lành được vết thương này, trong nhiều thế hệ kế tiếp về sau nữa.

Nhận thấy con tàu lượng tử có biểu hiện đang dần chìm... Kiến trúc sư trưởng Chew, đã nhanh chóng rời tàu! Và ông vội vã mở hướng đột phá vào lĩnh vực Tôn Giáo!? Ta thấy học thuyết mới với tên "Thuyết Dung Thông" của Geofflay Chew ra đời. Ông đã táo bạo hợp nhất giữa Khoa Học và Tôn Giáo!! Bởi Thuyết Ma Trận Phân tán đã đưa tư duy các nhà bác học này đến vùng cận giới của Tôn Giáo!

Thế nhưng những di họa của Thuyết Lượng Tử đang trưởng thành. Đó chính là thời điểm mà những sự phát triển của Cơ Học Lượng Tử đang làm mưa làm bão với những thành quả của mô hình ECD và QCD mang lại. Khiến nên Thuyết Dung Thông đã không được trọng thị.

Đó là một điều rất lấy làm đáng tiếc cho nhân loại nói chung. Bởi ngày đó; Thuyết Dung Thông đã xây dựng trên nền tảng tư tưởng gốc của Ấn Độ Giáo là Kinh Veda, Kinh Hoa Nghiêm (đại thừa) của Đạo Phật, Kinh Dịch của Lão - Khổng "!?".

Thế nhưng, trong lúc này, Vị Thuyền Trưởng của con tàu Lượng Tử là Heisenberg. Đã không có thể nào khiến cho những tín đồ "cuồng tín" của Cơ Học Lượng Tử dừng lại được nữa rồi. Ông càng không thể cất tiếng lên để tuyên bố rằng con tàu Lượng Tử đang đắm cho được. Bởi trong quá khứ, ông đã trót dùng sự sai lầm này mà phủ lấp một giá trị chân lý thực tại mà Einstein ngày đó đang cố bảo vệ trong đơn độc.

Và ta biết: Thuyền Trưởng thường im lặng và chấp nhận..., "chết theo tàu".

Ông đã bỏ mặc cho những thế hệ tương lai của chúng ta hôm nay: Đang phải đối diện trước những mô hình rối loạn, tăm tối, hỗn độn. Và hoàn toàn vô định hướng cho một mô hình tương lai cơ bản khả dĩ!! Bởi Heisenberg đã nhận thấy ông hoàn toàn bất lực cũng như mất hết phương hướng, khi lạc vào thế giới của Ma Trận Phân Tán mất rồi.

Có một điều đáng trách là; Heisenberg lại không dám phát biểu lên hai tiếng sai lầm của ông cùng cộng đồng nhân loại chúng ta. Một dấu chân của Heisenberg còn hằn vương lại nơi lối mòn dẫn đến hố đen hỗn độn, mà sau này Faynman cố tình dẫm vào...

Nơi những dòng cuối của khảo luận này. Chúng ta lại thấy thấp thoáng bóng dáng sự thất lạc di bảo của dân tộc Việt vừa được tìm thấy:

Đó chính là Kinh Dịch và Tiên Đạo !! Một nền móng mà kiến trúc sư trưởng của Ma Trận Phân Tán đã từng thiết kế và xây dựng Thuyết Dung Thông "!?".

Quả! Đúng là Ma Trận... Phân Tán.



34 - LỐI TẮT QUA KHOA HỌC
(Rất Nhiều Chông Gai...)

Trước khi tiếp tục tham khảo bài viết này. Tôi có một đôi lời cùng các bạn đang tham khảo như sau:

Tôi biết đề tài khoa học vật lý là khô khan như... sa mạc vậy! Thế nhưng ta không vượt qua sa mạc này, e rằng con đường tắt có rất nhiều chông gai đang chực chờ..., kể cả tôi!

Bởi vì tôi nhất định làm việc phải làm. Đó là hợp nhất giữa khoa học và tôn giáo. Như thế, nếu ta không ý thức được nền móng của các bài viết sắp đến như thế nào. Ta lại dẫm vào dấu chân cũ ngàn đời nay là... lại lạc gốc rễ từ cội nguồn. Lại tiếp tục trôi tự do... tới tương lai đầy bất trắc.

Có một sự thật ngay trước mắt là những đề tài sắp đến như những Ma Trận đầy huyền ảo, như hư như thực, không biết đâu là huyễn hay thực cảnh nữa vậy. Lúc đó sẽ vấp phải đầy rẫy thành phần ném đá vào trang này là có thực! Người ta sẽ ném vào cái chân lẫn cái hư, rối loạn tất cả.

Lúc đó, tôi buộc phải chỉ dành riêng trang cho những nhà chuyên môn mà thôi. Tôi rất mong điều đó không xảy ra. Bởi tôi ý thức; Mình là một thành phần trong tổng thể của cộng đồng hôm nay. Tuy nhiên quy luật vận hành của mô hình vũ trụ đang thực thi trách nhiệm đào thải nhân loại chúng ta trong... Một tương lai chỉ 6 năm nữa mà thôi.

Và chúng ta tiếp tục theo dõi...

Mắc xích cuối cùng bắt buộc ta phải xem xét nơi cội rễ của nền khoa học hình thành từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên! Điều này có nghĩa là ta đã bỏ qua 5 cuộc bể dâu trong lịch sử của nền khoa học của nhân loại rồi; 2.500 năm. Vì thế nền khoa học đương đại và nhân loại chúng ta đang vận hành ở chu kỳ cuối cùng là thứ 6 để..., hình thành hoặc hủy diệt.

Thế cho nên nhân vật đầu tiên mà tôi giới thiệu là triết gia Hy Lạp Heraclitus!

Ông cho rằng nguyên lý của vũ trụ là sự biến dịch... miên viễn, vận động không ngừng. Sự tĩnh tại chỉ là vọng tưởng. Và ông lấy ngọn lửa làm biểu tượng cho nguyên lý của vũ trụ đó. Mọi biến dịch của vũ trụ đều do sự động và tác động của mọi cặp đối lập. Ông xem mỗi cặp đối lập đó là một nhất thể.

Và mắc xích tiếp đến xuất hiện triết gia Parmenides đồng thời. Ộng đối lập và phản bác rằng không hề có sự biến dịch! Đó chỉ là sự lầm lẫn của giác quan. Nguyên lý của ông là sự tồn tại. Từ quan điểm này mới phát sinh vật chất bất hoại. Và khái niệm bất hoại trở thành khái niệm gốc của tư duy phương Tây. Tư duy khoa học bắt đầu châm rễ tại quan điểm gốc này.

Rồi lại đến Leucippus và Dmokritus dung hợp cả hai quan điểm lại. Vì trộn lẫn hay tách rời chúng ra thì cũng đều tạo nên mọi sự việc trên thế giới. Tuy nhiên sự tồn tại được tạo nên từ những chất liệu bất biến. Từ đây, khái niệm nguyên tử ra đời. Là hạt vật chất nhỏ bé nhất, không thể phân chia. Và giai đoạn này đã vạch ranh giới để phân chia giữa Tâm và Vật một cách rõ nét. Thế là khoa học phát triển..., tuổi thọ cũng đã được 2.500 năm.

Đó là quan điểm của tư duy phương Tây. Thế nhưng mọi người đều quên (hoặc chưa biết) rằng; Đấy là góc nhìn bị giới hạn trong không - thời gian của phương Tây trong thời điểm đó. Bởi cũng cùng một thời điểm đó, tại vùng không - thời gian của phương Đông xuất hiện:

Phật Thích Ca Mâu Ni. Người cho rằng: Sự động của thế gian chỉ là sự "vọng động" (so với "vọng tưởng tĩnh tại" của Heraclitus)! Nguyên lý tĩnh tại phải đạt tới chân lý của nó là sự "chân như" tuyệt đối!!

Rồi lại còn có cả Lão Tử nữa! Ta thấy quan điểm của Lão Tử tựa hồ như dung hòa giữa hai quan điểm đó của Phật Thích Ca và Heraclitus qua tư tưởng "Vô Vi"!!! Điều này có nghĩa là đừng làm gì cả, cứ để cho thuận theo tự nhiên vậy.

Ta xét thấy tư tưởng này chính là tư tưởng của Kinh Dịch! Và tôn giáo mà Lão Tử đang tôn thờ đó, chính là Tiên Đạo!!

Vậy giai đoạn này chính là thời điểm của các tư tưởng này chào đời và tuổi thọ đều đã được 2.500 năm như nhau. Thế nhưng, ta xét thấy Lão Tử đang dựa trên nền tảng tư tưởng của Kinh Dịch mà ra cả thôi! Vậy ta truy nguyên nguồn gốc tư tưởng này ngược trở về quá khứ... Có thể gấp đôi khoảng thời gian tuổi thọ của các tư tưởng kia như 2.500+2.500= 5.000 năm xem sao?

Theo như những gì mà các bạn đã theo dõi trên trang này. Khoảng thời gian này thì tư tưởng của Kinh Dịch đã trưởng thành rồi kia mà! Và đồng thời đó cũng chính là tư tưởng của chính dân tộc Việt.

Thế cho nên nhân loại hôm nay, không thể nào phủ nhận được cái giá trị của mọi cội rễ tư tưởng trên bình diện... Thoát ra ngoài tầm ảnh hưởng của Kinh Dịch từ giống nòi Thần Tiên này cho được.

Và tôi dựa trên nền tảng của Tiên Đạo làm "Điểm Tựa", để thiết kế một mô hình tương lai của vũ trụ trong kỷ nguyên mới như sau:

Dựa theo nguyên lý của Kinh Dịch thì mô hình thực tại tự nhiên tiềm ẩn của vũ trụ thể hiện (Gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy trong vạn vật):

Tư tưởng Dịch Lý có Ngũ Hành. Xét trong người có Ngũ Tạng, Ngoài có 5 giác quan. Bàn tay có 5 ngón. Mùi có 5 mùi, Vị có 5 vị. Màu sắc có 5 Gam, Thế giới có 5 Châu. Vân vân và v.v...

Từ đó suy ra (lấy tượng trời, sắp thế đất)...: Ắt Đạo (Tôn Giáo) phải có 5 mối, và Khoa Học phải hội đủ 5 Học Thuyết. Để đủ được gọi là trật tự tự nhiên của mô hình thực tại tiềm ẩn trong vũ trụ cơ bản, vận hành...

Ta thấy sự việc bắt đầu rắc rối rồi đấy. Vì mô hình có giá trị tư tưởng vô biên đã xuất hiện. Một tư tưởng đang hoài thai và chờ ngày cất tiếng khóc chào đời trong kỷ nguyên mới cùng nhân loại. Thế nhưng mấy ai đã biết được học thuyết này chưa chào đời, hay đã trưởng thành từ bao giờ rồi!?

Và cũng có thể đang còn tiềm ẩn ở đâu đó trên... toàn miền thế giới này như lời nhận định của vị kiến trúc sư trưởng của Lý Thuyết Dây Witten !! Ắt ta đã có trang bị một số ít vốn tri thức, để biết qua câu phát biểu trên diễn đàn khoa học vậy lý năm 2005 rồi!!! Nếu ta không thu nạp tài nguyên thông tin này qua một trong những bài viết trong "sa mạc khô khốc" vừa qua. Ắt đầy hoang mang rồi vậy.

Chắc chắn ta ý thức được số vốn tri thức của ta đang rất không đủ để đầu tư vào khai thác lợi nhuận từ tài nguyên trong tương lai rồi vậy. Tuy nhiên, ta cùng tập trung hùn hạp (huy động vốn) vốn tri thức chung để tiếp tục tham gia nhé. Dĩ nhiên kể từ lúc này, chúng ta đã xem như là người một nhà cả rồi. Bởi vốn tri thức chung đã hình thành từ sự huy động vừa qua.

Chúng ta cùng phiêu lưu:

Khởi đầu, ta đã cảm thấy rắc rối, phức tạp trầm trọng vô cùng rồi. Bởi vì xét trong hàng ngàn giáo phái hiện nay. Ta biết đề cử giáo phái nào để đại diện. Trong khi bất kể người cao hay kẻ thấp, ai ai cũng nhất định khẳng định tôn giáo mà họ đang tôn thờ mới là chân lý!

Dĩ nhiên, tôi chưa quên số phận của nhà văn Salman Rushdie xảy ra trước sự kiện vùng vịnh đầu tiên. Bởi nếu như lịch sử của dân tộc Việt phản ảnh có bao nhiêu sự oan khốc, lạc gốc cội nguồn bị vùi lấp. Thì lịch sử của các tôn giáo khác cũng mô phỏng có bấy nhiêu oan khốc và lầm lạc bị che đậy từ ngàn đời qua! Chính vì điều đó, khiến nên mãi tận hôm nay, nhân loại vẫn chưa có thể thấy được cõi cực lạc hoặc nước thiên đường ở đâu cả. Mặc dù cả Chúa lẫn Phật điều từng hứa điều đấy là đang ở rất gần.

Ta thấy ngay cả như nền khoa học cũng cứ mãi nghi ngờ, dự đoán ngày tận thế suốt gần hai thập kỷ qua. Nay hành tinh này, mai thiên thạch nọ, thậm chí dẫn chứng luôn cả Nostradamus lẫn Vanga mà vẫn cứ chưa thấy biểu hiện gì cả!? Như hiện nay lại xuất hiện hành tinh Nibiru... đang tham gia nhăm nhe cùng các sự kiện...

Thế cho nên tôi xét để chọn ra 5 Giáo Phái nào được đề cử dựa trên tiêu chí:

1. Trước tiên là Kinh Điển của họ phải ở nơi đỉnh cao của tư tưởng triết học bao gồm cả văn u mặc. Đồng thời đã được nhân loại toàn cầu chấp nhận một cách hiển nhiên.

2. Tiêu chí thứ hai là tuổi thọ phải trên ngàn năm và không ngừng phát triển thêm ra mãi theo thời gian.

3. Thứ ba thì: Điều gì là sự thật, sẽ sống mãi cùng với thời gian. Bởi giá trị của thời gian hàng ngàn năm, đã trả lời khẳng định sự thật tồn tại đó đang hiện hữu.

Chúng ta cùng tham khảo:

1- Ấn Độ Giáo với Kinh Veda. (bao gồm Hindu và Balamon),
2- Hồi Giáo với Kinh Coran.
3- Phật Giáo với Kinh Phật.
4- Thiên Chúa Giáo với Kinh Thánh.
5- Huyền Giáo với Kinh Dịch.

Điều này phù hợp với mô hình tự nhiên như bàn tay có 5 ngón vậy. Nếu như có 4 hoặc 3 ngón, thì ta gọi đó là khuyết tật rồi. Bằng 6 hay 7? Ắt là dị tật vậy. Thế cho nên 5 ngón, chính là mô hình tự nhiên không sai được.

Trước hết, ta phải biết nhóm Huyền Giáo này đã. Đây là nhóm "Bách gia chư tử" bao gồm; Lão Tử, Khổng Tử, Tuân Tử, Liệt Tử, Mặc Tử v.v... Một trăm nhà. Nhóm này không suy tôn bất kỳ một vị Thần nào cả. Họ cho rằng vũ trụ tự nhiên vận hành. Và thống nhất suy tôn Kinh Dịch Làm đầu; "Quần Kinh Chư Thủ". Nên ta gọi đó là Huyền Giáo.

Xét Đạo Chúa, dĩ nhiên trong này phân nhánh từ một gốc ra bao gồm; Do Thái Giáo, Tin lành, Thiên Chúa Giáo... Tôi gọi chung là Đạo Chúa. Và Đạo Phật cũng vậy. Trong đó cũng có các tôn giáo có chung cội nguồn rồi phát triển ra như; Cao Đài, Hòa Hảo, v.v..., tại Việt Nam mà họ đọc tụng chung Kinh Phật.

Ta nhất thiết phải thâm nhập vào kinh điển của tất cả các giáo phái đó một cách thực sự nghiêm túc. Với một tư duy không phân biệt, bàng quan, công bình và thật sự kính cẩn. mới có thể may ra tìm được một chân lý chung tiềm ẩn trong đó cho được.

Thế nhưng, hiện nay không ai làm điều đó cho được cả! Bởi thiên hạ cứ lo mãi đố kỵ, chê bai, gièm siểm lẫn nhau. Nếu không thì cũng chẳng bao giờ chịu đọc kinh của đạo khác. Vì họ e có tội hoặc ý phản đạo!! Thế nên thiên hạ không thể biết được rằng: Tạo Hóa đã cố ý giao cho mỗi giáo phái, giữ một giá trị của chân lý Đạo. Để xem thử, nhân loại có đủ đức tính dung hòa hay không? Nếu thật sự có ai đó, dung hòa được điều này, ắt Đạo sẽ hiển hiện không sai một. Và đó cũng là ngày tận thế (thế cuộc lầm lạc) để bước vào đời mới rồi vậy.

Ta thấy việc dung hòa tư tưởng của các giáo phái nói chung. Đã là việc không có thể đối với thiên hạ hiện nay rồi. Nói chi còn đối thủ đối lập sừng sỏ nhất, đó là nền Khoa Học của nhân loại, đang chờ nữa!?

Điều đáng sợ nhất khi thâm nhập vào trong lĩnh vực này là: Một người bình thường, thậm chí tri thức rất kém. Chỉ cần họ đọc qua một vài cuốn Kinh. Khoác chiếc áo có mang màu Đạo Hạnh lên người thôi. Thế là ta tha hồ mà rửa tai không kịp, để nghe họ giảng thao thao bất tuyệt về Đạo rồi!!! Đó là một sự thật đang xảy ra hiện nay tại Việt Nam.

Rất phải đáng kinh hãi!

Và cho dù ta có tiến hành tham khảo những gì sắp đến. Tôi lại không có thể bàn đến Đạo Hồi lẫn Đạo Ấn cho được. Vì đại đa số người Việt Nam hiện nay rất lạ lẫm với tư tưởng của hai giáo phái này. Ngay cả nhóm Huyền Giáo đây thôi. Cũng đã được liệt vào hàng hiếm rồi vậy. Làm sao ta có thể Luận Giáo để mà hòng Đàm Đạo cho được.

Như tôi đã từng nói: Đạo vốn là ở nơi đỉnh cao của tư duy. Thậm chí chỉ có ở những nơi mà tư duy đã thoát thói tục, ly đời thường. Mới có hy vọng gần cửa Đạo cho được.

Và ta lại xét ở chiều đối lập là Khoa Học, cũng được tôi liệt kệ ra 5 học thuyết cơ bản như:

1. Định Luật Đòn Bẩy của Archimedes.
2. Định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn của Newton.
3. Lý Thuyết Trường của Maxwell và Faraday
4. Thuyết Tương Đối của Einstein.
5. Thuyết Lượng Tử của Bohr, Heisenberg, ...

Do ta đã bỏ qua những đề tài khoa học rồi. Nên các bạn phải chấp nhận một cách mặc định đối với 5 học thuyết mà tôi đã liệt kê như thế.

Tuy nhiên, như tôi đã có nói qua; Thỉnh thoảng, tôi vẫn cứ đan xen một vài bài khoa học vào trang này. Vì mọi sự có thành hiện thực để khai thác phục vụ cộng đồng nhanh hay không. Chính là khả năng của các nhà chuyên môn thuộc lĩnh vực khoa học vật lý.

Bởi xưa nay: Nền khoa học vật lý chính là chiếc bánh lái. Định hướng cho sự phát triển của cộng đồng nhân loại chúng ta đi vào tương lai một cách rõ ràng nhất.

Bằng không: Ắt chúng ta sẽ lạc vào thế giới của sự mê tín mất thôi. Để rồi việc tất phải đến là;

Giúp ích cho cộng đồng thì ít, nhưng gây họa cho xã hội và tương lai thì nhiều.



35 - THẾ GIỚI TRỪU TƯỢNG.

Nếu ta xét trong thế giới trừu tượng:

Trong Lịch sử của khoa học với hai học thuyết nơi đỉnh cao của nền khoa học là Thuyết Tương Đối và Thuyết Lượng Tử. Ta thấy cả hai đều thể hiện đó là hai trường phái trừu tượng hiện đại!

Với lịch sử đối lập của tôn giáo thì ta lại thấy: Kinh Thánh có nói rằng... "Tất cả mọi sự việc đều là tượng trưng! Nếu các ngươi tượng trưng tất cả. Các ngươi sẽ tìm ra toàn bộ sự thật" !!.

Như thế. Ta sẽ nhìn thấy trong lịch sử văn hóa chung của nhân loại có; Kinh Dịch chính là một vũ trụ trừu tượng với những giá trị vô hạn... (còn tiểu vũ trụ song song nữa) !!!. Ví như những câu: "Trời treo cái tượng, thánh nhân nhìn theo đó mà bắt chước. Suy ra mà dùng, diễn ra mà dùng" Rồi còn đại loại như... "Lấy tượng trời, sắp thế đất...", v.v...

Bắt chước ở đây được hiểu như là "cái mưu hoặc cái chước" của trời giấu trong vũ trụ với muôn hình vạn trạng. Ta bắt gặp được cái "chước, kế" đó của trời đất lừa con người vậy.

Thế cho nên cái khái niệm trừu tượng đầu tiên được xem xét đến, chính là hệ thống của mô hình Ngũ Hành! Và ta cũng đã rất quen với những khái niệm tiềm ẩn trong hệ thống này là Tham Thiên Lưỡng Địa.

Đây chính là những thành phần cấu thành hệ thống như: Tham Thiên = 3 dương, còn được gọi là Tam Tài. Lưỡng Địa = 2 âm, cũng có nghĩa là Lưỡng Nghi. Và (3+2=5) đó cũng chính là hai cấu phần tạo nên hệ thống của Ngũ Hành vậy.

Đó chính là mô hình thực tại tự nhiên, trật tự cơ bản của vũ trụ tiềm ẩn đơn giản nhất. Thế nhưng cái giá trị vận hành của mô hình này cũng lại mang tính phức tạp nhất!? Như thế, ta xét thấy cơ cấu Tham Thiên chính là điều cơ bản nhất trong hệ thống tổng thể này với tên gọi độc lập là Tam Tài làm chủ đạo. Cơ cấu Lưỡng Địa là thành phần đồng nhất trong đó, không thể tách rời với tên Âm Dương.

Trật tự hình thành hệ thống Tam Tài là giai đoạn thứ nhất thì Trời (Thiên) sinh trước. Do tính động của dương nên tác động mà sinh ra bước tiếp theo là Đất (Địa) thuộc âm mà thuận theo sau. Và bước thứ ba mới sinh ra Người (Nhân) là cuối cùng. Đó là trật tự, sinh thành trước sau. Thế nhưng khi vận hành, sử sự. Thì con người lại đứng vào giữa trời đất để mà dung hòa cũng như điều hành mọi sự. Và đó là quy luật của mô hình tự nhiên trong vũ trụ.

Từ đây ta có thể suy ra và phát hiện mô hình này được phản ảnh qua những thành phần cơ cấu của một nguyên tử như!:

Hệ thống tam tài đó không gì khác hơn chính là cơ cấu của 3 hạt bao gồm Electron-Proton-Neutron!! Ta xét thấy Proton mang điện tích dương Electeon mang điện tích âm và Neutron là trung hòa!

Từ đó suy ra... Hệ thống 5 gam màu thì cũng có 3 gam màu chính là Xanh-Đỏ-Vàng (Trắng-Đen, phụ). Ta xét thấy Đỏ thuộc dương, Xanh thuộc âm và Vàng là yếu tố trung hòa vậy. Ta mô phỏng theo mô hình cơ bản của tự nhiên đó mà thiết kế :

Trong mô hình mà tôi đã trình bày đề cử 5 học thuyết như ta đã từng biết qua đó. Ta xem xét thấy Thuyết Tương Đối của Einstein, vốn được xây dựng dựa trên nền móng của lực hấp dẫn từ Newton. Thế cho nên hai học thuyết này vốn có cùng một bản chất gốc. Vì thế tôi chọn Thuyết Tương Đối làm đại diện. Cả hai học thuyết này đều mô tả về mô hình của vũ trụ vĩ mô và vận tốc chuyển động cực đại. Thế cho nên Thuyết Tương Đối thuộc Dương. Đại diện cho Thiên trong hệ thống Tam Tài.

Vậy xét những học thuyết còn lại thì thấy; Thuyết Lượng Tử với lực tác động của thế giới hạ nguyên tử vốn là vô hình. Cùng bản thể với lực đẩy hơi nước của Archimes, nên đại điện cho Địa trong Tam Tài thuộc yếu tố Âm. Vậy Tuyết Trường Lượng Tử của Maxwell và Faraday, hiễn nhiên là yếu tố trung hòa, đại diện cho Nhân rồi vậy.

Ta thấy đã so sánh và chọn ra được 3 ứng cử viên sáng giá nhất là Thuyết Tương Đối - Thuyết Lượng Tử - Lý Thuyết Trường. Được chỉ định làm đại diện hệ thống Tam Tài cho khoa học. Và tiếp đến là ta xem xét trong lĩnh vực tôn giáo như sau:

Ấn Độ giáo với cội rễ ban đầu là từ sử thi Ri-Veda với Bà La Môn phát triển trước. Đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên thì thái tử Tất Đạt Đa phát triển ra Đạo Phật, thoát ly cội nguồn đó với tư tưởng tự do hơn và xuất hiện Kinh Phật. Gốc đạo tại Ấn Độ lại tiếp tục do Chankara hoàn tất Kinh Vedanta phát triển lên thành đạo Hindu. Và hai mối tư tưởng đó được xem là truyền thống, riêng Đạo Phật thuộc phi truyền thống đối với tư tưởng chung của người Ấn Độ.

Từ đó ta xét thấy giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo vốn cùng có chung một nguồn gốc xuất phát. Tư tưởng xuyên suốt đều phản ảnh chung cho nguyên lý tĩnh tại làm căn bản. Cho nên tôi chọn Phật Giáo đại diện cho nguyên lý Địa trong hệ thống Tam Tài. Một triết lý bản chất của những "cái không" thuộc chân như, bất động tính.

Về nguyên lý dương, đại diện cho Thiên ắt ta thấy phù hợp với Đạo Chúa rồi vậy. Bởi nguyên do xét thấy trong hệ thống 5 mối đạo này thì: Đạo Hồi với tư tưởng Kinh Coran, xét kỹ thì đó cũng chính là tư tưởng gốc từ Kinh Cựu Ước của Đạo Chúa nói chung. Vì thế ta thấy Kinh Tân Ước là một bước chuyển tiếp xuyên suốt từ Kinh Cựu Ước mà ra. Và tư tưởng triết lý đó thể hiện về một nguyên lý của "cái có", thuộc bản thể chân không, là tính động.

Vậy hiển nhiên cái lý dung hòa cuối cùng đại diện cho Nhân, tất nhiên phải là Kinh Dịch với nhóm Huyền Giáo làm đại diện rồi vậy. Nói chính xác hơn thì đó chính là Tiên Đạo. Bởi nếu ta xem xét sâu hơn về tư tưởng lẫn hành vi của nhóm bách gia này thì họ cũng đều cốt là dựa trên nền tảng tư tưởng của Kinh Dịch để phát triển cả thôi. Và đích đến cuối cùng vẫn là Tu Tiên mà thôi. Thế cho nên Lão Tử là nhân vật ưu tú nhất trong nhóm Huyền Giáo.

Và mô hình cơ bản thực tại của vũ trụ tự nhiên, đã được tôi thiết kế có cấu trúc Tam Tài đối lập giữa khoa học và tôn giáo như sau:

Khoa Học Tôn Giáo
1. Thuyết Tương Đối - - - Đạo Thiên Chúa = Dương.
2. Thuyết Lượng Tử - - - Đạo Phật = Âm.
3. Lý Thuyết Trường - - - Tiên Đạo = Trung Hòa.

Và xem xét tiếp đến những giá trị riêng có tính tương quan như:

1. Đạo Chúa có Ba Ngôi.
2. Đạo Phật có Tam Bảo.
3. Đạo Tiên có Tam Tài (Huyền Giáo)

Gộp chung thì ta có Đạo Chúa đại diện cho dương tính, là Cha, là Thiên. Đạo Phật đại diện cho âm tính, là Mẹ, là Địa. Còn Tiên Đạo đại diện cho trung hòa, là con, là Nhân. Làm 3 ứng cử viên đại diện cho tôn giáo. Thuộc Tam Dương (Tam Tài) theo quan điểm của Phương đông. Hoặc Ba Hạt theo quan điểm của Phương Tây.

Vậy ta xét bên lĩnh vực đối lập của nền khoa học với 3 học thuyết (Tam Âm) đại diện xem sao?:

1. Thuyết Tương Đối với 3 hệ tọa độ không gian.
2. Thuyết Lượng Tử với hệ thống 3 Hạt
3. Lý Thuyết Trường với 3 yếu tố cơ bản Điện-Từ-Trường.

Bằng như ta dò sâu hơn nữa trong mô hình chất điểm làm cơ bản. Thì điều đó vẫn chỉ có thể củng cố thêm cho mô hình thiết kế của tôi càng vững vàng hơn thôi. Ví như:

Một nguyên tử cơ bản cũng phản ảnh 3 hạt như:

1. Proton = dương.
2. Electron = âm.
3. Neutron = trung hòa.

Thậm chí trong thế giới hạ nguyên tử cũng mô phỏng không khác với mô hình thiết kế mà tôi đã trình bày như: Trong thế giới đó, các nhà chuyên môn có thí nghiệm đến mức độ nào đi chăng nữa. Họ vẫn không thể nhận ra rằng mô hình cơ bản của vũ trụ tự nhiên. Phản ảnh một cách trung thành trong trật tự tuyệt đối là hệ thống Tam tài!

Khi người ta phóng xạ (bắn phá) vào một nguyên tử thì nó vỡ ra thành 3 hạt như tôi đã có trình bày là: electron - proton - neutron. Thì trong mô hình đó ta thấy Proton đại diện cho nguyên lý dương. Electron đại diện cho nguyên lý âm. Và tất nhiên là Neutron đại diện cho nguyên lý trung hòa rồi.

Sau đó người ta lại tiếp tục bắn phá riêng hạt electron thì nó lại vỡ ra thành... vô hình. Tuy nhiên trong thế giới (vô hình) của cái gọi là hạ nguyên tử này vẫn phản ảnh 3 yếu tố (ba màu) gọi là "3 quark". Từ thế giới hạ nguyên tử này thì ta phải sử dụng "ngôn ngữ giả định" rồi đấy. Cái ngôn ngữ rắc rối của "3 màu" thì chúng ta cũng đã từng tham khảo qua. Nó thể hiện sự bất lực của ngôn ngữ thông thường là vì thế.

1. Quark thứ nhất; Up = dương!
2. Quark thứ hai ; Down = âm!!
3. Quark thứ ba ; Newtrino = trung hòa!!!

Điều này thì tôi có thể giải thích một cách đơn giản và rõ hơn nữa cùng các bạn. Hầu chúng ta cùng nắm bắt như sau:

Khi người ta phóng xạ (bắn phá) vào một nguyên tử thì nó vỡ ra thành 3 hạt như tôi đã có trình bày là: electron - proton - neutron. Thì trong mô hình đó ta thấy Proton đại diện cho nguyên lý dương. Electron đại diện cho nguyên lý âm. Và tất nhiên là Neutron đại diện cho nguyên lý trung hòa rồi.

Và sau đó, các nhà chuyên môn lại liên tiếp bắn phá vào thế giới hạt này. Cuối cùng là cả một thế giới rối loạn lên hết. Không biết đâu là trật tự nhất định được nữa. Thế nhưng cuối cùng các nhà chuyên môn vẫn sắp xếp một cách tương đối, như hệ thống mà tôi trình bày cùng các bạn tham khảo như sau:

Thế giới hạ nguyên tử này. Cho đến tận thời điểm mà chúng ta đang cùng tham luận trên trang này. Vẫn hoàn toàn không có một trật tự nhất định nào cả! Vì thế, tôi sẽ trình bày theo một mô hình có một trật tự nhất định, qua đó chúng ta cùng dễ hình dung. Lại cũng có tất cả "3 họ" cơ bản là:

1. Họ thứ nhất bao gồm các quark; Up - Down - Newtrino!
2. Họ thứ hai bao gồm các quark ; Charm - Strange - Newtrino!!
3. Họ thứ ba bao gồm các quark ; Top - Bottom - Newtrino!!!

Vẫn phản ảnh một cách trung thành với hệ thống... Tam Tài !?

Tuy nhiên tôi nhất thiết cũng phải diễn giải cùng các bạn hiểu rõ hơn về hệ thống này như sau:

Khi người ta bắn phá vào hạt electron, thì 3 quark sau đó có tên là: Newtrino - Up - Down. Để mọi người nhận ra đây là họ thuộc phả hệ của electron nên các nhà chuyên môn dùng ký hiệu là: Newtrino-e.

Còn như bắn phá vào hạt Muon thì có các quark với tên; Newtrino - Charm - Strange. Và ký hiệu là Newtrino-m. Và cuối cùng thì trong bảng của hạt Tau thì lại có: Newtrino - Top - Bottom. Và quark Newtrinno-t là biểu thị quy định cho quark này.

Chính vì ta không có biết được những điều cơ bản của các quark newtrino có các họ cũng như ký hiệu riêng như thế. Ta cứ đưa tin chung chung là newtrinno sẽ vượt qua vận tốc ánh sáng khi nhà máy gia tốc L.H.C thử nghiệm... Thế nhưng ta không biết đó là quark newtrino thuộc của họ nào để còn hình dung khả năng đó có thực hay không nữa. Ta cứ bàn luận loạn cả lên về điều mà ta vẫn chưa đủ để biết về nó!?

Ví dụ:

Nếu tôi biết giá trị của "Hạt" newtrino mà nhà máy gia tốc chuẩn bị thực nghiệm vừa rồi đó. Nó thuộc phả hệ của họ quark nào. Ví như nó vốn thuộc họ của hệ âm thì không cần phải thử nghiệm làm gì cho tốn kinh phí. Bởi bản chất của nó thuộc tính âm, là tĩnh, sức ì của nó không thể gia tốc cho đến giá trị của vận tốc ánh sáng được. Nói gì đến vượt qua nữa.

Bằng như thuộc họ dương? Ta lại phải xem xét tới tọa độ của thời gian lẫn không gian mà ta dự kiến tiến hành thử nghiệm nữa. Tôi không cần chờ thành quả sau thử nghiệm, mà kết luận ngay là bại. Đó là tôi chưa kể đến thành phần của quark có tính trung hòa nữa.

Và cuối cùng thì ta hợp nhất giữa Khoa Học và Tôn Giáo trong mô hình cơ bản và đơn giản nhất với hệ thống Tam Tài như sau:

1. Đạo Học = Dương = Thiên.
2. Khoa học = Âm = Địa.
3. Dịch Học = Trung Hòa = Nhân.

Như thế, ta đã thiết kế được một mô hình thực tại cơ bản của vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn. Qua như mẫu mô hình mô phỏng ở trên. Ta khó có thể chối bỏ những Thiên Tượng có những trật tự lạ lùng như thế của vũ trụ cho được.

Vấn đề còn lại là ta nhất định phải truy xét đến lịch sử của mỗi thành phần cấu thành trong hệ thống của mô hình đó. Tìm xem có còn những giá trị sai sót nào tiềm ẩn trong quá khứ lịch sử đó hay không? Bởi chỉ khi nào ta kiện toàn những giá trị bất toàn đó thì mới có cơ sở để khởi động "cỗ máy thiên tạo" này vận hành đến tương lai được.

Tôi cam đoan rằng: Qua những giá trị thực tại và những oan khốc bị vùi lấp trong lịch sử Kinh Dịch cũng như Sử Tiên mà chúng ta đã từng thưởng lãm qua trên trang này. Nếu như lịch sử của dân tộc Việt đó phản ảnh bao nhiêu sự oan khốc. Thì lịch sử của các tôn giáo cũng mô phỏng bấy nhiêu giá trị bị chôn vùi oan uổng như thế!? Không ngoại trừ cả lịch sử của nền khoa học của nhân loại chúng ta nữa!? Tuy nhiên, ta đã lướt qua lịch sử của nền khoa học rồi. Thế nên ta không biết được những điều oan khốc cũng như sai lầm nào đã từng diễn ra trong lịch sử đó.

Bởi đó chính là quy luật của vũ trụ thực tại vận hành tiềm ẩn trong đó vốn là như thế, không thể sai được!!! Tạo Hóa đã an bài;

Cho dù bất kể là giáo phái nào. Tất cả đều thống nhất và nhìn nhận một giá trị chân lý tuyệt đối là sự thật. Đó là Đạo.

Vì thế, trong bài tiếp theo; Chúng ta nhất định xem xét những điều oan khốc nào đã từng xảy ra đối với Đạo Phật! Một mối đạo mà hiện nay đang chiếm đa số tại Việt Nam. Đồng thời cũng hiện hiện thậm chí ngay trong giai đoạn mà Phật còn tại thế!?

Bởi Kinh Dịch cũng như Tiên Đạo. Đã từng là đạo của dân tộc Việt từng có trước khi Phật ra đời hàng ngàn năm trước đó nữa. Ta cũng đã từng "Khảo Sử" Việt trong các bài trước đến độ phải "Sôi Kinh" Dịch đến độ chín hết cả rồi. Dựa trên nền tảng đó; Ta tiếp tục Khảo Kinh Phật trong các bài sau vậy. Với một mục đích là tìm những giá trị chân lý nào bị vùi lấp hàng ngàn năm qua. Khiến nên ước mơ về một cõi cực lạc mà Phật đã từng hứa. Hôm nay vẫn mãi chỉ là một mơ ước mà thôi.

Tôi hy vọng: Các bạn đã quen với những điều "gây sốc" trong lịch sử Việt vừa qua trên trang này. Vậy ta sẽ dễ thích nghi hơn, với những giá trị gây sốc "nặng đô" hơn, tiếp đến trong lịch sử của Nhà Phật... Trong những bài viết sắp tới.


Thanked by 2 Members:

#14 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 00:54


36 - THĂM DÒ KHÁI NIỆM CƠ BẢN!

Trang Tử! Một triết gia tiêu biểu của Phương Đông. Với câu nói dông dài, đặc thù triết học phương đông như:

"Người ta sở dĩ có nơm là vì cá, có ná là vì chim và có ý là vì lời. Làm sao ta phải biết đặng chim quên ná, đặng cá quên nơm, đặng ý quên lời đi vậy. Ôi! Ta tìm ở đâu ra người biết quên lời để mà đàm đạo đây?".

Và đối lập với phương đông, phương tây cũng có Pascal. Triết gia được suy tôn là giàu ngôn ngữ nhất. Và câu phát biểu đó súc tích và ngắn gọn như sau:

"Cái tôi thấy, nó mênh mông, rộng lớn đến mức... Tôi cảm thấy ngôn ngữ của nhân loại chúng ta nghèo nàn quá. Không đủ để mô tả" !?

Đến như hai bậc siêu vĩ của Đông-Tây như Chúa Jêsu và Phật Thích ca cũng có những biểu hiện như:

Phật cũng không có thể dùng ngôn ngữ của thế gian để mà mô tả hay diễn giải gì được cả! Thế cho nên Người phải dùng đến cái gọi là "Phương tiện" để mà thuyết giáo!!

Và ta thấy Chúa Jêsu cũng không khác hơn khi Người phải mượn đến những ví dụ! Ngay cả môn đồ của Người cũng không thể hiểu nổi!! Để đến nỗi ta thấy mỗi khi tối về, môn đồ của Người thường cằn nhằn rằng; "Sao Thầy không nói thẳng ra đi, mà cứ phải dùng ví dụ như thế!! Không ai hiểu gì cả!!!

Và cuối cùng là Einstein, Bác học của những nhà bác học. Sau khi gặt trơ gốc cả cánh đồng triết học cũng đã phải thốt lên: " Ngay cả một học giả, đòi hỏi có năng khiếu và tính gan dạ. Khi phát biểu về sự thật. Cũng gặp phải khó khăn bởi thành kiến triết học, bao gồm những gì đã được học và tích lũy từ khoa học" !?

Qua những dẫn chứng mở đầu như trên. Tôi ý thức một cách rất sâu sắc về những gì mà mình đang phải đương đầu. Tôi chỉ có thể mượn một phương ngữ của Nhà Phật mà kết luận rằng: Đó là những sự việc; "Bất khả thuyết".

Từ đây suy ra...; Ngay cả Phật Thích ca còn chưa có thể thuyết giảng về đạo học của mình bằng ngôn ngữ thông thường của thế gian cho được. Vậy thì các "Nhà Sư" càng cố thuyết giảng và tỏ ra hiểu Đạo bao nhiêu. Cũng có nghĩa là các vị càng không thể hiểu bấy nhiêu về Đạo cho được rồi vậy!

Thế mà..., tôi đang vẫn phải làm việc phải làm, từ những điều đơn giản nhất có thể. Và dần đến những điều phức tạp tính, lên đến độ trầm trọng nhất, của ngôn ngữ thông thường của nhân loại chúng ta. Bởi một khi ta dùng cái hữu hạn mà nắm bắt cái vô hạn là nguy rồi vậy.

Sau khi có đủ ý thức sự việc sắp đến có tính bất khả diễn đạt như thế. Chúng ta cùng tham khảo với sự cảm thông cùng tôi như sau...:

Trước hết ta phải hiểu rõ nghĩa đen của khái niệm "Phật", theo như quan niệm của người Ấn Độ là: "Người đã tự giác ngộ và giác ngộ người khác"! (giác giả giác tha). Điều đó có nghĩa là; Phật!

Ta xét thấy trong tất cả các giáo lý cũng như tư tưởng của Nhà Phật xưa nay. Người ta luôn bàn đến những vấn đề cao siêu, thế nhưng còn tồn đọng những ngôn ngữ với những khái niệm rất đơn thuần mà ta vẫn chưa có thể lĩnh ngộ cho được!?

Nhìn chung, những "khái niệm" luôn là những giá trị còn rất mơ hồ. Ta chưa có thể làm rõ khái niệm đó để thể hiện thành một "quan niệm" về bản chất của sự việc mà ta đang mô tả đến. Quan niệm sẽ cho ý thức ta biết về những điều hợp lý và bất hợp lý lẫn lộn trong đó. Ý thức ta mới sàng lọc những giá trị bất hợp lý trong tư tưởng đó ra và chỉ tích lũy lại những gì thuộc về hợp lý mà thôi. Từ đây ta mới có thể hình thành được một "quan điểm" về những điều hợp lý mà ta đã tích lũy được từ sự việc. Sau đó ta mới có thể đặt nó thành "mục đích". Rồi ta mới có thể hành động mà theo đuổi cái đích đó đến nơi, và thành hiện thực cho được.

Và khái niệm mà tôi muốn nói đến đó, chính là khái niệm..., "giác ngộ"! Tôi chỉ lạ một điều là hiện nay, kể cả tư duy của các nhà khoa học nơi đỉnh cao cũng vẫn đang còn lầm lẫn về khái niệm này mới chết người đi được!? Bởi một khi nói đến trực giác là ngay cả một giáo sư vật lý của quốc tế, cũng hiểu điều đó như là lĩnh vực thuộc về tôn giáo!? Ta nhất thiết phải làm rõ bản tính công cụ ngôn ngữ này. Bởi đây chính là một trong những công cụ quan trọng được liệt vào hàng trọng yếu trong tương lai, bao gồm cả khoa học lẫn tôn giáo.

Trước hết, đối với lĩnh vực khoa học, ta diễn giải và trả khái niệm này trở về với chính thể của nó như sau:

Đối với 5 giác quan thông thường như Khứu, Thính, Thị, Vị, Xúc giác nói chung. Đây là những giác quan thuộc về không gian 3 chiều, bằng vật lý. Bởi vì ta có thể dùng các giác quan đó vẽ, đo lường, mô phỏng trực tiếp lên không gian 3 chiều vật lý. Đồng thời ta cũng nhận biết những sự việc trong không gian 3 chiều đó một cách trực tiếp như chạm tay vào. Nhìn thấy bằng mắt, nếm bằng lưỡi v.v...

Riêng về không gian chiều thứ tư là chiều của thời gian. Ta chỉ có thể "cảm nhận" bằng... "tâm lý" mà thôi. Bằng khái niệm gọi chung là cảm giác. Ví như ta chạm tay trực tiếp vào một ly nước đá chẳng hạn. Thì xúc giác cho ta biết được cái lạnh "phản tả" cho ta từ ly nước đá đó. Thế nhưng khi ta đưa tay đến cách cái ly đó khoảng 1cm. Chưa có thể gọi là tiếp xúc trực tiếp, mà là gián tiếp (chưa chạm vào). Ta vẫn "cảm nhận" được cái cảm giác của khí lạnh, phả ra từ chiếc ly nước đá đó, phản hồi thông tin.

Cũng vì từ trước tới nay, khái niệm này vẫn đang còn là một khái niệm mơ hồ chung mà thôi. Cũng chính vì thế nên nó chưa ra đời, tất chưa có tên gọi!! Ta chỉ có thể gọi qua loa một cách chung chung là cảm giác hoặc cảm nhận mà thôi! Đây là một sự thiếu sót rất đáng trách của các nhà ngôn ngữ học, đối với nhân loại của chúng ta.

Cũng như thế, nếu ta xét ở vào góc độ của tâm lý, của tôn giáo. Ta chợt ngỡ ngàng khi phát hiện trong lĩnh vực tôn giáo cũng phản ảnh cùng một tình trạng như lĩnh vực vật lý vậy!?

Ví như ta xét thấy những giảng giải của Phật Thích Ca mô tả về 5 giác quan này. Phật thường cho đó là ngũ tặc. Chính cái động của ngũ tặc này. Khiến gây nên che khuất cái gọi là ngũ uẩn, còn đang tiềm ẩn ở phía sau đó nữa! Cái mà Phật gọi là "uẩn giác". Chỉ khi nào ta bỏ mất cái động loạn của ngũ tặc này đi, thì mới có thể "phát giác" được cái "chánh giác" phía sau đó được.

Thế nhưng cái uẩn giác chung chung mà Phật từng ám chỉ đó. Vẫn chưa có tên! Và Phật vẫn chưa có thể gọi cho được cái "giác tiềm ẩn đó", tên là gì nữa!? Bởi ta xét thấy những khái niệm như "giác ngộ", "kiến giác", giác tánh", vân vân và v.v... "!?".

Vậy thì đối với khái niệm "giác ngộ" thì ta gặp (ngộ) được cái giác... gì mới được!? Hoặc như "kiến giác" chẳng hạn. Thế thì ta phải kiến (thấy) cái... giác gì mới được chứ!?

Vậy cái thị giác chính là cái "động hư" của "cái thấy" từ giác quan thông thường, bị giới hạn trong không gian 3 chiều. Còn cái "sự thấy" là cái uẩn giác "chân tĩnh", tiềm ẩn ở phía sau đó của thị giác đơn thuần. Nó vẫn chưa được đặt tên!? Thế cho nên ta mới thấy Phật diễn tả chung chung là giác ngộ, liễu ngộ, kiến ngộ v.v... như thế.

Vậy khi ta chợt phát giác ra và bắt gặp (giác ngộ) được cái uẩn giác, khuất phía sau đó của thị giác. Vẫn chưa có thể gọi là đắc đạo như mọi người thường lầm tưởng xưa nay. Và cái chức năng của uẩn giác đó, ta thường gọi một cách ngẫu nhiên là chức năng của giác quan thứ 6 suốt bấy lâu nay vậy. Vậy khi ta đã giác ngộ và kiến giác được cái uẩn giác tiềm ẩn đó rồi. Ta nhất định còn phải tìm hiểu về cái "tánh giác" (bản tính, tính chất) của nó nữa. Sau mới có thể tiến hành khai thác công cụ đó mà phát huy cho được. Đó mới có thể gọi là "đắc đạo" được.

Đó chính là chức năng của giác quan thứ 6! Cái điều mà tất cả mọi tôn giáo đều tạm gọi là Đạo. Với tư duy của nền khoa học thì cũng mô tả sự việc này một cách bất toàn và đầy vô thức là; "Nguồn năng lượng tiềm ẩn toàn phần" đó vậy!!

Vậy từ đây suy ra...;

Để nhân loại chúng ta có thể khai thác được nguồn năng lượng đang tiềm ẩn này. Ta nhất định phải có công thức! Từ gợi mở này đưa tư duy chúng ta nhớ đến một Đẳng Thức năng lượng tiềm ẩn toàn phần của nhân loại hiện nay. Đó chính là đẳng thức của Einstein; E=mc2 !?

Chà, chà..! Vấn đề đã thoắt nhiên, đẩy lên độ phức tạp trầm trọng mất rồi! Bởi mô hình của vũ trụ là một tổng thể đồng nhất trong đó. Ta không thể tách rời các cấu phần yếu tố có tính đồng nhất đó ra cho được.

Vậy thì chúng ta bắt buộc phải xem xét lại cái đẳng thức bất hủ E=mc2 này xem sao nhé. Bởi đối tượng này chính là công thức để khai thác nguồn năng lượng của vũ trụ đó, không khác được. Ta chỉ nhớ rằng; Khi xưa, Einstein vẫn biết cái đẳng thức này vẫn còn một giá trị nào đó, tiềm ẩn ở phía sau nữa!? Ông đang không thể nào tìm ra cho được..., bỗng dưng; Thuyết Lượng Tử xuất hiện và cuốn tất cả trôi theo cơn thác cuồng loạn của mình.

Ta thấy khi Planck đưa cho Einstein xem cái đẳng thức E=hv của Planck thì: Einstein đã nhìn vào đấy xem xét khá lâu, rồi trầm ngâm phát biểu:

"Không đủ! Vẫn còn một giá trị nào đó..., tiềm ẩn rất sâu ở phía sau đó nữa !?". Và Planck liền phát biểu ngay:

"Tôi không muốn thế hệ tương lai kết tội tôi. Vì đây (E=hv) chỉ là..., giả định". "!!".

Thôi chết! Vậy mà tất cả các nhà bác học của suốt hơn 100 năm qua. Đều dựa trên nền móng của "sự giả định" này, để mà thiết kế cũng như xây dựng mô hình tương tai của nhân loại chúng ta !?

Thật khôi hài!?

Tôi nhớ không lầm thì: Trước khi qua đời, Einstein còn gọi Zeilinger lại dặn dò và trăn trối rằng: "Mai sau có ai nói với anh về cái hằng số Planck đấy. Anh đừng ngần ngại mắng thẳng vào mặt của họ rằng; Ông chẳng hiểu một tí gì về Thuyết Lượng Tử cả" !?

Thế nhưng, ta thấy muốn mổ xẻ cả hai cái đẳng thức này để xem xét "gốc bệnh" ở đâu. Trước hết, ta phải thấy được rằng; Đối tượng nào mới là "đối tượng cơ bản", để ta sử dụng hai công cụ (E=mc2 và E=hv) này, mà áp dụng khai thác nguồn năng lượng của vũ trụ đang tiềm ẩn?!

Dựa trên mô hình chuẩn là "chất điểm". Ta thấy choán lấp hết tư duy của nhân loại hiện nay chính là nhà máy gia tốc hạt L.H.C! Họ đang hì hục khai thác cho bằng được cái gọi là "Hạt Của Chúa"!!!

Theo tôi thì: Ta nên gọi đây là "Hạt Higgs" thì chính xác hơn. Bởi nếu ta thành công hay thất bại, thì Hạt Higgs vẫn không có vấn đề gì ở đây cả. Thế nhưng nếu ta phát biểu là Hạt của Chúa là có vấn đề đấy! Không nên như thế. Nếu tôi là Peter Higgs, tôi sẽ lên tiếng với mọi người rằng; Ta nên rút lại câu phát biểu là "Hạt Của Chúa". Bởi vì nhà máy L.H.C là hoàn toàn phá sản, đối với dự án của mình rồi vậy. Bởi tôi biết trong lúc thảo luận về một định hướng còn bế tắc chung. Peter Higgs đã phát biểu đột xuất câu "Gia Tốc"! Thế rồi nhà máy L.H.C ra đời!! Nếu thế thì tôi sẽ phát biểu là sự "Giảm Tốc" thì sao? Điều này có nghĩa là nhà máy L.H.C đã hoàn toàn phá sản trong dự án gia tốc của mình đối với điều cơ bản của vũ trụ.

Ta phải đặt vấn đề và xác định quan điểm lại là: Hai công cụ đẳng thức của Einstein và Planck đó là để khai thác nguồn năng lượng tiềm ẩn trong "đối tượng cơ bản" của vũ trụ, chứ không phải là để tìm ra hạt cơ bản của vũ trụ. Không hề.

Thế cho nên ta phải xác định lại cái gọi là hạt cơ bản của vũ trụ, là điều kiện đòi hỏi tiên quyết trong mọi vấn đề được đặt ra. Đối với nền khoa học thì nhân loại chúng ta đã bị lạc mất nguyên nhân cội rễ ngay từ trong nguyên nhân của lịch sử! Đó chính là giai đoạn mà Descartes đã cách ly giữa Tâm và Vật vào thế kỷ thứ 17. Quan điểm về một thế giới quan cơ giới ra đời. Mô hình của vũ trụ đã được xem như có thể tháo rời ra và lắp ráp từng phần lại với nhau! Mô hình này có lợi ích cho vật lý là khoa học. Song nó lại trở thành một tai họa khôn lường, đối với lĩnh vực tâm lý thuộc tôn giáo và văn hóa nói chung.

Thế cho nên khi ta xem xét cái hạt nhân cơ bản của vũ trụ trong lĩnh vực tôn giáo thì... Mọi giáo phái đều khẳng định đó chính là;

"Con Người"!!! (Sốc...).

Phải! Vì đây mới chính là yếu tố cơ bản nhất của vũ trụ. Là mô hình Hạt Nhân của vũ trụ. Nó thể hiện tất cả các lý tính mà nền khoa học đã từng mô tả về hạt nhân cơ bản này. Nó là một thành phần độc lập và tổng thể trong mô hình của vũ trụ! Không thể tách rời, không thể phân chia!! Và hoàn toàn có tính tác động gây ảnh hưởng đến toàn cục!!!

Và đó mới chính là "Hạt Của Chúa"!

Bởi đây chính là Hạt Giống mà Người đã gieo trong thời điểm cuối của ngày thứ 6. Là ngày cuối cùng khi Người tạo dựng mô hình của vũ trụ cơ bản ban đầu. Thế cho nên ta mới thấy tất cả các tôn giáo xưa nay. Đều tập trung khai mở cũng như ươm mầm phát triển cho hạt nhân cơ bản này của vũ trụ là đồng bộ.

Nếu ta xét riêng về văn hóa cũng như ngôn ngữ U Mặc của dân tộc Việt thì sẽ thấy:

"Hạt Nhân" cũng có nghĩa là "Giống Người" !?. Hoặc "Nhân Tố" cũng còn có nghĩa tiềm ẩn giá trị là "yếu tố con người" rồi vậy!!! Bằng như muốn suy tiếp? Thì tôi gợi ý thêm cho các bạn tham khảo từ "Nguyên Nhân" nữa nhé?!

Lại..., Sốc!!

Một trạng thái gây sốc..., đầy thi vị!!!

Đến thời điểm của luận giải này. Buộc ta phải xem xét và khảo luận lại hai từ "Vật Lý" của nền khoa học hiện nay như sau:

Cái nghĩa hoàn chỉnh của từ "Physics" (vật lý) nguyên thủy là: "Truy tìm tự tính của sự vật". Thế cho nên ta thấy rằng ta đã hoàn toàn hiểu sai lầm về hai từ "vật lý" hiện nay là rất tai hại và đong đầy khiếm khuyết. Tóm lại; Điều này đã phản ảnh cho một tư duy bất toàn của nền khoa học nhân loại nói chung.

Thế cho nên ta thấy vấn đề được đặt ra như: Tìm "vật chất cơ bản của vũ trụ"? Là sai!

Mà phải đòi hỏi vấn đề đặt ra là: "Vật thể cơ bản của vũ trụ" mới đủ chính xác. Do xưa nay chúng ta luôn không biết cách đặt câu hỏi cho chính xác!! Ta có thể thấy điều đó đã thường xảy ra. Khi các nhà chất vấn đặt câu hỏi đối với những nhà phát minh xưa nay. Trong khi các nhà phát minh lại phải trả lời theo yêu cầu của câu hỏi áp đặt đó chứ không được trả lời theo sự thấy của mình!? Khiến sự việc luôn luẩn quẩn và đi vào rắc rối không có lối thoát chung.

Dấu chân luẩn quẩn này, ta vẫn thấy các nhà chất vấn luôn vấp phải mà chưa có thể thoát ra cho được hiện nay!!!

Vậy nếu muốn tìm hiểu về cái "Hạt Nhân" vốn là vật thể cơ bản của vũ trụ đó. Ta xét thấy Phật có khuyên rằng: "Quy Tâm"!..., rồi lại "Kiến Tánh"!!..., Phật tại Tâm!!!

Thế nhưng...; Muốn "Kiến Tánh" để mà "Quy Căn" như lời của Phật dặn dò đó. Ta phải ý thức được rằng; Đó chính là cả một "Tiểu Vũ Trụ" đang mô phỏng và vận hành một cách tiềm ẩn trong đó nữa kìa!!!

Vậy cái công cụ duy nhất, để có thể khai thác vật thể cơ bản, đồng thời cũng là tiểu vũ trụ này.

Chính là Kinh Dịch rồi vậy!!

Lần cuối, tôi phải ghi lại rõ hơn là:

"Sốc Triền Miên..."!!!

Bạn đọc tư do chia sẻ.

36 - THĂM DÒ KHÁI NIỆM CƠ BẢN!

Trang Tử! Một triết gia tiêu biểu của Phương Đông. Với câu nói dông dài, đặc thù triết học phương đông như:

"Người ta sở dĩ có nơm là vì cá, có ná là vì chim và có ý là vì lời. Làm sao ta phải biết đặng chim quên ná, đặng cá quên nơm, đặng ý quên lời đi vậy. Ôi! Ta tìm ở đâu ra người biết quên lời để mà đàm đạo đây?".

Và đối lập với phương đông, phương tây cũng có Pascal. Triết gia được suy tôn là giàu ngôn ngữ nhất. Và câu phát biểu đó súc tích và ngắn gọn như sau:

"Cái tôi thấy, nó mênh mông, rộng lớn đến mức... Tôi cảm thấy ngôn ngữ của nhân loại chúng ta nghèo nàn quá. Không đủ để mô tả" !?

Đến như hai bậc siêu vĩ của Đông-Tây như Chúa Jêsu và Phật Thích ca cũng có những biểu hiện như:

Phật cũng không có thể dùng ngôn ngữ của thế gian để mà mô tả hay diễn giải gì được cả! Thế cho nên Người phải dùng đến cái gọi là "Phương tiện" để mà thuyết giáo!!

Và ta thấy Chúa Jêsu cũng không khác hơn khi Người phải mượn đến những ví dụ! Ngay cả môn đồ của Người cũng không thể hiểu nổi!! Để đến nỗi ta thấy mỗi khi tối về, môn đồ của Người thường cằn nhằn rằng; "Sao Thầy không nói thẳng ra đi, mà cứ phải dùng ví dụ như thế!! Không ai hiểu gì cả!!!

Và cuối cùng là Einstein, Bác học của những nhà bác học. Sau khi gặt trơ gốc cả cánh đồng triết học cũng đã phải thốt lên: " Ngay cả một học giả, đòi hỏi có năng khiếu và tính gan dạ. Khi phát biểu về sự thật. Cũng gặp phải khó khăn bởi thành kiến triết học, bao gồm những gì đã được học và tích lũy từ khoa học" !?

Qua những dẫn chứng mở đầu như trên. Tôi ý thức một cách rất sâu sắc về những gì mà mình đang phải đương đầu. Tôi chỉ có thể mượn một phương ngữ của Nhà Phật mà kết luận rằng: Đó là những sự việc; "Bất khả thuyết".

Từ đây suy ra...; Ngay cả Phật Thích ca còn chưa có thể thuyết giảng về đạo học của mình bằng ngôn ngữ thông thường của thế gian cho được. Vậy thì các "Nhà Sư" càng cố thuyết giảng và tỏ ra hiểu Đạo bao nhiêu. Cũng có nghĩa là các vị càng không thể hiểu bấy nhiêu về Đạo cho được rồi vậy!

Thế mà..., tôi đang vẫn phải làm việc phải làm, từ những điều đơn giản nhất có thể. Và dần đến những điều phức tạp tính, lên đến độ trầm trọng nhất, của ngôn ngữ thông thường của nhân loại chúng ta. Bởi một khi ta dùng cái hữu hạn mà nắm bắt cái vô hạn là nguy rồi vậy.

Sau khi có đủ ý thức sự việc sắp đến có tính bất khả diễn đạt như thế. Chúng ta cùng tham khảo với sự cảm thông cùng tôi như sau...:

Trước hết ta phải hiểu rõ nghĩa đen của khái niệm "Phật", theo như quan niệm của người Ấn Độ là: "Người đã tự giác ngộ và giác ngộ người khác"! (giác giả giác tha). Điều đó có nghĩa là; Phật!

Ta xét thấy trong tất cả các giáo lý cũng như tư tưởng của Nhà Phật xưa nay. Người ta luôn bàn đến những vấn đề cao siêu, thế nhưng còn tồn đọng những ngôn ngữ với những khái niệm rất đơn thuần mà ta vẫn chưa có thể lĩnh ngộ cho được!?

Nhìn chung, những "khái niệm" luôn là những giá trị còn rất mơ hồ. Ta chưa có thể làm rõ khái niệm đó để thể hiện thành một "quan niệm" về bản chất của sự việc mà ta đang mô tả đến. Quan niệm sẽ cho ý thức ta biết về những điều hợp lý và bất hợp lý lẫn lộn trong đó. Ý thức ta mới sàng lọc những giá trị bất hợp lý trong tư tưởng đó ra và chỉ tích lũy lại những gì thuộc về hợp lý mà thôi. Từ đây ta mới có thể hình thành được một "quan điểm" về những điều hợp lý mà ta đã tích lũy được từ sự việc. Sau đó ta mới có thể đặt nó thành "mục đích". Rồi ta mới có thể hành động mà theo đuổi cái đích đó đến nơi, và thành hiện thực cho được.

Và khái niệm mà tôi muốn nói đến đó, chính là khái niệm..., "giác ngộ"! Tôi chỉ lạ một điều là hiện nay, kể cả tư duy của các nhà khoa học nơi đỉnh cao cũng vẫn đang còn lầm lẫn về khái niệm này mới chết người đi được!? Bởi một khi nói đến trực giác là ngay cả một giáo sư vật lý của quốc tế, cũng hiểu điều đó như là lĩnh vực thuộc về tôn giáo!? Ta nhất thiết phải làm rõ bản tính công cụ ngôn ngữ này. Bởi đây chính là một trong những công cụ quan trọng được liệt vào hàng trọng yếu trong tương lai, bao gồm cả khoa học lẫn tôn giáo.

Trước hết, đối với lĩnh vực khoa học, ta diễn giải và trả khái niệm này trở về với chính thể của nó như sau:

Đối với 5 giác quan thông thường như Khứu, Thính, Thị, Vị, Xúc giác nói chung. Đây là những giác quan thuộc về không gian 3 chiều, bằng vật lý. Bởi vì ta có thể dùng các giác quan đó vẽ, đo lường, mô phỏng trực tiếp lên không gian 3 chiều vật lý. Đồng thời ta cũng nhận biết những sự việc trong không gian 3 chiều đó một cách trực tiếp như chạm tay vào. Nhìn thấy bằng mắt, nếm bằng lưỡi v.v...

Riêng về không gian chiều thứ tư là chiều của thời gian. Ta chỉ có thể "cảm nhận" bằng... "tâm lý" mà thôi. Bằng khái niệm gọi chung là cảm giác. Ví như ta chạm tay trực tiếp vào một ly nước đá chẳng hạn. Thì xúc giác cho ta biết được cái lạnh "phản tả" cho ta từ ly nước đá đó. Thế nhưng khi ta đưa tay đến cách cái ly đó khoảng 1cm. Chưa có thể gọi là tiếp xúc trực tiếp, mà là gián tiếp (chưa chạm vào). Ta vẫn "cảm nhận" được cái cảm giác của khí lạnh, phả ra từ chiếc ly nước đá đó, phản hồi thông tin.

Cũng vì từ trước tới nay, khái niệm này vẫn đang còn là một khái niệm mơ hồ chung mà thôi. Cũng chính vì thế nên nó chưa ra đời, tất chưa có tên gọi!! Ta chỉ có thể gọi qua loa một cách chung chung là cảm giác hoặc cảm nhận mà thôi! Đây là một sự thiếu sót rất đáng trách của các nhà ngôn ngữ học, đối với nhân loại của chúng ta.

Cũng như thế, nếu ta xét ở vào góc độ của tâm lý, của tôn giáo. Ta chợt ngỡ ngàng khi phát hiện trong lĩnh vực tôn giáo cũng phản ảnh cùng một tình trạng như lĩnh vực vật lý vậy!?

Ví như ta xét thấy những giảng giải của Phật Thích Ca mô tả về 5 giác quan này. Phật thường cho đó là ngũ tặc. Chính cái động của ngũ tặc này. Khiến gây nên che khuất cái gọi là ngũ uẩn, còn đang tiềm ẩn ở phía sau đó nữa! Cái mà Phật gọi là "uẩn giác". Chỉ khi nào ta bỏ mất cái động loạn của ngũ tặc này đi, thì mới có thể "phát giác" được cái "chánh giác" phía sau đó được.

Thế nhưng cái uẩn giác chung chung mà Phật từng ám chỉ đó. Vẫn chưa có tên! Và Phật vẫn chưa có thể gọi cho được cái "giác tiềm ẩn đó", tên là gì nữa!? Bởi ta xét thấy những khái niệm như "giác ngộ", "kiến giác", giác tánh", vân vân và v.v... "!?".

Vậy thì đối với khái niệm "giác ngộ" thì ta gặp (ngộ) được cái giác... gì mới được!? Hoặc như "kiến giác" chẳng hạn. Thế thì ta phải kiến (thấy) cái... giác gì mới được chứ!?

Vậy cái thị giác chính là cái "động hư" của "cái thấy" từ giác quan thông thường, bị giới hạn trong không gian 3 chiều. Còn cái "sự thấy" là cái uẩn giác "chân tĩnh", tiềm ẩn ở phía sau đó của thị giác đơn thuần. Nó vẫn chưa được đặt tên!? Thế cho nên ta mới thấy Phật diễn tả chung chung là giác ngộ, liễu ngộ, kiến ngộ v.v... như thế.

Vậy khi ta chợt phát giác ra và bắt gặp (giác ngộ) được cái uẩn giác, khuất phía sau đó của thị giác. Vẫn chưa có thể gọi là đắc đạo như mọi người thường lầm tưởng xưa nay. Và cái chức năng của uẩn giác đó, ta thường gọi một cách ngẫu nhiên là chức năng của giác quan thứ 6 suốt bấy lâu nay vậy. Vậy khi ta đã giác ngộ và kiến giác được cái uẩn giác tiềm ẩn đó rồi. Ta nhất định còn phải tìm hiểu về cái "tánh giác" (bản tính, tính chất) của nó nữa. Sau mới có thể tiến hành khai thác công cụ đó mà phát huy cho được. Đó mới có thể gọi là "đắc đạo" được.

Đó chính là chức năng của giác quan thứ 6! Cái điều mà tất cả mọi tôn giáo đều tạm gọi là Đạo. Với tư duy của nền khoa học thì cũng mô tả sự việc này một cách bất toàn và đầy vô thức là; "Nguồn năng lượng tiềm ẩn toàn phần" đó vậy!!

Vậy từ đây suy ra...;

Để nhân loại chúng ta có thể khai thác được nguồn năng lượng đang tiềm ẩn này. Ta nhất định phải có công thức! Từ gợi mở này đưa tư duy chúng ta nhớ đến một Đẳng Thức năng lượng tiềm ẩn toàn phần của nhân loại hiện nay. Đó chính là đẳng thức của Einstein; E=mc2 !?

Chà, chà..! Vấn đề đã thoắt nhiên, đẩy lên độ phức tạp trầm trọng mất rồi! Bởi mô hình của vũ trụ là một tổng thể đồng nhất trong đó. Ta không thể tách rời các cấu phần yếu tố có tính đồng nhất đó ra cho được.

Vậy thì chúng ta bắt buộc phải xem xét lại cái đẳng thức bất hủ E=mc2 này xem sao nhé. Bởi đối tượng này chính là công thức để khai thác nguồn năng lượng của vũ trụ đó, không khác được. Ta chỉ nhớ rằng; Khi xưa, Einstein vẫn biết cái đẳng thức này vẫn còn một giá trị nào đó, tiềm ẩn ở phía sau nữa!? Ông đang không thể nào tìm ra cho được..., bỗng dưng; Thuyết Lượng Tử xuất hiện và cuốn tất cả trôi theo cơn thác cuồng loạn của mình.

Ta thấy khi Planck đưa cho Einstein xem cái đẳng thức E=hv của Planck thì: Einstein đã nhìn vào đấy xem xét khá lâu, rồi trầm ngâm phát biểu:

"Không đủ! Vẫn còn một giá trị nào đó..., tiềm ẩn rất sâu ở phía sau đó nữa !?". Và Planck liền phát biểu ngay:

"Tôi không muốn thế hệ tương lai kết tội tôi. Vì đây (E=hv) chỉ là..., giả định". "!!".

Thôi chết! Vậy mà tất cả các nhà bác học của suốt hơn 100 năm qua. Đều dựa trên nền móng của "sự giả định" này, để mà thiết kế cũng như xây dựng mô hình tương tai của nhân loại chúng ta !?

Thật khôi hài!?

Tôi nhớ không lầm thì: Trước khi qua đời, Einstein còn gọi Zeilinger lại dặn dò và trăn trối rằng: "Mai sau có ai nói với anh về cái hằng số Planck đấy. Anh đừng ngần ngại mắng thẳng vào mặt của họ rằng; Ông chẳng hiểu một tí gì về Thuyết Lượng Tử cả" !?

Thế nhưng, ta thấy muốn mổ xẻ cả hai cái đẳng thức này để xem xét "gốc bệnh" ở đâu. Trước hết, ta phải thấy được rằng; Đối tượng nào mới là "đối tượng cơ bản", để ta sử dụng hai công cụ (E=mc2 và E=hv) này, mà áp dụng khai thác nguồn năng lượng của vũ trụ đang tiềm ẩn?!

Dựa trên mô hình chuẩn là "chất điểm". Ta thấy choán lấp hết tư duy của nhân loại hiện nay chính là nhà máy gia tốc hạt L.H.C! Họ đang hì hục khai thác cho bằng được cái gọi là "Hạt Của Chúa"!!!

Theo tôi thì: Ta nên gọi đây là "Hạt Higgs" thì chính xác hơn. Bởi nếu ta thành công hay thất bại, thì Hạt Higgs vẫn không có vấn đề gì ở đây cả. Thế nhưng nếu ta phát biểu là Hạt của Chúa là có vấn đề đấy! Không nên như thế. Nếu tôi là Peter Higgs, tôi sẽ lên tiếng với mọi người rằng; Ta nên rút lại câu phát biểu là "Hạt Của Chúa". Bởi vì nhà máy L.H.C là hoàn toàn phá sản, đối với dự án của mình rồi vậy. Bởi tôi biết trong lúc thảo luận về một định hướng còn bế tắc chung. Peter Higgs đã phát biểu đột xuất câu "Gia Tốc"! Thế rồi nhà máy L.H.C ra đời!! Nếu thế thì tôi sẽ phát biểu là sự "Giảm Tốc" thì sao? Điều này có nghĩa là nhà máy L.H.C đã hoàn toàn phá sản trong dự án gia tốc của mình đối với điều cơ bản của vũ trụ.

Ta phải đặt vấn đề và xác định quan điểm lại là: Hai công cụ đẳng thức của Einstein và Planck đó là để khai thác nguồn năng lượng tiềm ẩn trong "đối tượng cơ bản" của vũ trụ, chứ không phải là để tìm ra hạt cơ bản của vũ trụ. Không hề.

Thế cho nên ta phải xác định lại cái gọi là hạt cơ bản của vũ trụ, là điều kiện đòi hỏi tiên quyết trong mọi vấn đề được đặt ra. Đối với nền khoa học thì nhân loại chúng ta đã bị lạc mất nguyên nhân cội rễ ngay từ trong nguyên nhân của lịch sử! Đó chính là giai đoạn mà Descartes đã cách ly giữa Tâm và Vật vào thế kỷ thứ 17. Quan điểm về một thế giới quan cơ giới ra đời. Mô hình của vũ trụ đã được xem như có thể tháo rời ra và lắp ráp từng phần lại với nhau! Mô hình này có lợi ích cho vật lý là khoa học. Song nó lại trở thành một tai họa khôn lường, đối với lĩnh vực tâm lý thuộc tôn giáo và văn hóa nói chung.

Thế cho nên khi ta xem xét cái hạt nhân cơ bản của vũ trụ trong lĩnh vực tôn giáo thì... Mọi giáo phái đều khẳng định đó chính là;

"Con Người"!!! (Sốc...).

Phải! Vì đây mới chính là yếu tố cơ bản nhất của vũ trụ. Là mô hình Hạt Nhân của vũ trụ. Nó thể hiện tất cả các lý tính mà nền khoa học đã từng mô tả về hạt nhân cơ bản này. Nó là một thành phần độc lập và tổng thể trong mô hình của vũ trụ! Không thể tách rời, không thể phân chia!! Và hoàn toàn có tính tác động gây ảnh hưởng đến toàn cục!!!

Và đó mới chính là "Hạt Của Chúa"!

Bởi đây chính là Hạt Giống mà Người đã gieo trong thời điểm cuối của ngày thứ 6. Là ngày cuối cùng khi Người tạo dựng mô hình của vũ trụ cơ bản ban đầu. Thế cho nên ta mới thấy tất cả các tôn giáo xưa nay. Đều tập trung khai mở cũng như ươm mầm phát triển cho hạt nhân cơ bản này của vũ trụ là đồng bộ.

Nếu ta xét riêng về văn hóa cũng như ngôn ngữ U Mặc của dân tộc Việt thì sẽ thấy:

"Hạt Nhân" cũng có nghĩa là "Giống Người" !?. Hoặc "Nhân Tố" cũng còn có nghĩa tiềm ẩn giá trị là "yếu tố con người" rồi vậy!!! Bằng như muốn suy tiếp? Thì tôi gợi ý thêm cho các bạn tham khảo từ "Nguyên Nhân" nữa nhé?!

Lại..., Sốc!!

Một trạng thái gây sốc..., đầy thi vị!!!

Đến thời điểm của luận giải này. Buộc ta phải xem xét và khảo luận lại hai từ "Vật Lý" của nền khoa học hiện nay như sau:

Cái nghĩa hoàn chỉnh của từ "Physics" (vật lý) nguyên thủy là: "Truy tìm tự tính của sự vật". Thế cho nên ta thấy rằng ta đã hoàn toàn hiểu sai lầm về hai từ "vật lý" hiện nay là rất tai hại và đong đầy khiếm khuyết. Tóm lại; Điều này đã phản ảnh cho một tư duy bất toàn của nền khoa học nhân loại nói chung.

Thế cho nên ta thấy vấn đề được đặt ra như: Tìm "vật chất cơ bản của vũ trụ"? Là sai!

Mà phải đòi hỏi vấn đề đặt ra là: "Vật thể cơ bản của vũ trụ" mới đủ chính xác. Do xưa nay chúng ta luôn không biết cách đặt câu hỏi cho chính xác!! Ta có thể thấy điều đó đã thường xảy ra. Khi các nhà chất vấn đặt câu hỏi đối với những nhà phát minh xưa nay. Trong khi các nhà phát minh lại phải trả lời theo yêu cầu của câu hỏi áp đặt đó chứ không được trả lời theo sự thấy của mình!? Khiến sự việc luôn luẩn quẩn và đi vào rắc rối không có lối thoát chung.

Dấu chân luẩn quẩn này, ta vẫn thấy các nhà chất vấn luôn vấp phải mà chưa có thể thoát ra cho được hiện nay!!!

Vậy nếu muốn tìm hiểu về cái "Hạt Nhân" vốn là vật thể cơ bản của vũ trụ đó. Ta xét thấy Phật có khuyên rằng: "Quy Tâm"!..., rồi lại "Kiến Tánh"!!..., Phật tại Tâm!!!

Thế nhưng...; Muốn "Kiến Tánh" để mà "Quy Căn" như lời của Phật dặn dò đó. Ta phải ý thức được rằng; Đó chính là cả một "Tiểu Vũ Trụ" đang mô phỏng và vận hành một cách tiềm ẩn trong đó nữa kìa!!!

Vậy cái công cụ duy nhất, để có thể khai thác vật thể cơ bản, đồng thời cũng là tiểu vũ trụ này.

Chính là Kinh Dịch rồi vậy!!

Lần cuối, tôi phải ghi lại rõ hơn là:

"Sốc Triền Miên..."!!!

Bạn đọc tư do chia sẻ.



CÕI TAM GIỚI.

Đầu sóng chân mây tìm vận mệnh.
Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh.
Con thuyền cô độc dò dòng sử.
Một bến tầm nguyên mãi gập ghềnh...

Đó là nỗi lòng mà tôi trĩu nặng trên dọc những tháng ngày đi tìm nguồn cội trong quá khứ. Hành trang không thể thiếu cho cuộc trường hành này chính là tri thức. Số vốn tri thức đã được tích lũy này lại phải luôn được mài dũa bằng tư duy một cách sắc sảo không ngừng. Tuy nhiên cái khó là ở chỗ; Chỉ có sự công bình mới có thể phát huy được tinh thần sắc sảo để chia chẻ mọi hồn linh cốt tủy của vạn sự cho được! Trong khi bản - tính - chất của con người, Tạo Hóa lại cấu tạo hết 80% là sự yếu đuối, mong manh và dễ rệu rã vô cùng!?

Tôi có thể nhắc lại một điển hình như sau, làm dẫn chứng:

Trong thế giới Liêu Trai...

Hồi ức xa xưa chợt đưa tôi về cận cảnh của một kẻ chán người đời (lại chán đời), bỏ tất cả lại sau lưng để tìm vào tận chốn rừng thiêng mà sống cùng cỏ, cây, chim, thú...

Chỉ có những ai đã từng đi lạc đơn độc giữa rừng hoang thâm u, hoàn toàn vắng bóng người lai vãng. Mới có thể cảm nhận được nỗi khiếm đảm của chốn rừng thiêng, mỗi khi bóng đêm về. Thế nhưng đối với những ai đã chán người đời rồi, thì vẫn có thể gắng gượng mà dần thích nghi được với những cảm giác đấy.

Sự việc diễn ra trong một đêm mà kẻ chán người đời kia đang ngồi lim dim mà trầm tư bên đống lửa trong rừng. Qua ánh lửa chập chờn khi mờ khi tỏ đó. Bất chợt kẻ chán đời kia rụng rời khi nhìn thấp thoáng thấy có một trự Quỷ Núi đang đi đến...

Có lẽ vì cái lạnh lẽo của chốn rừng đêm hay sao mà...?! Khiến nên Quỷ Núi đã mò đến và ngồi xuống cùng sưởi ấm bên đống lửa! Trự Quỷ Núi đó thản nhiên và bất ngờ hỏi rằng: "Ngươi vì sao mà lại đi vào rừng này mà sống có một mình vậy!?". Kẻ chán sự đời đó run bắn người lên và cố gắng đáp lại rằng: Vì..., tôi sợ người đời quá rồi, nên mới đi vào đây ở như thế. Quỷ Núi nghe thế, liền quay lại nhìn chăm chăm vào mặt kẻ chán đời kia một hồi lâu, đồ như ra chiều thăm dò...

Rồi Quỷ Núi lại hỏi tiếp; Thế ngươi có sợ ta không?

Quả thật lúc đấy kẻ tội nghiệp kia chừng như thất lạc hết cả hồn vía đi rồi. Ríu cả lưỡi lại, lập bập không thành tiếng nữa; Dạ, sợ... Sợ chết khiếp đi rồi ạ.ạ.ạ...!

Quỷ Núi ra vẻ ngạc nhiên mà rằng:

Ngươi vì sợ loài người mà đi vào rừng ở. Mà trong rừng thì chỉ có Quỷ và Ma mà thôi. Thế nhưng ta là loài Quỷ mà ngươi cũng lại phải sợ nữa! Vậy thì ngươi thuộc là loài nào vậy?!

Thế rồi trự Quỷ Núi kia nhe cả hai hàm răng lởm chởm nanh, cười phá lên khanh khách, dội vang cả khu rừng đêm khi đấy, khiến kẻ tội nghiệp kia phải khiếp đảm hơn nữa.

Sau đó Trự Quỷ cũng liền đứng dậy, bỏ đi trước sự kinh hãi tột cùng của kẻ đã lỡ chán người đời kia giữa đêm rừng... đặc quạnh.

Nếu nói đến Tam Giới, quan điểm chung thì người ta thường nghĩ ngay đến Tam tài là Thiên - Địa - Nhân. Đơn giản hơn nữa thì đó là Thượng, Trung và Hạ giới. Ta xét cõi thượng thì đó là nơi mà Chúa, Phật, Thần, Tiên cư ngụ. Trong cõi trung là thể hiện loài người thế nhân chúng ta sinh sống. Vậy cõi hạ giới ắt phải để các loài Ma, Quỷ, hồn oan tụ chốn.

Tôi còn nhớ không lầm thì trong Binh Pháp của Khương Tử Nha với cuốn Hạ là Bình Đạo có ghi: "Đức xuống tới kẻ gánh củi, thì người Hiền sẽ theo về. Đức xuống tới côn trùng, thì Thánh Nhân sẽ theo về".

Từ đó suy ra...; Vậy nếu Đức xuống tới cỏ cây, ắt Đạo phải theo về rồi vậy!?

May phúc cho tôi một điều rất lạ là: Không hiểu do đâu, từ xưa nay tôi luôn có tính công bình khi xem xét bất kỳ một sự việc gì!? Chính vì thế nên khi thâm nhập vào Kinh của các giáo phái với mục đích tìm xem chân lý, tuyệt không mảy may có tính thiên vị nào bám theo quan điểm.

Để rồi khi nhìn lại những tranh giành, hơn thua của thế nhân trong cõi hạ giới này, tôi thấy; Nhỏ thì đố kỵ nhau đến từng lời nói, khiến luôn gói theo ý kích bác, hàm trong đó mới hả dạ! Lớn thì các nước gây chiến tranh, thôn tính và chiếm đoạt kể cả những phần ranh giới vô hình ở trên trời lẫn dưới biển!!

Rồi lại tìm thấy trong sử sách; Khi Thiên, Địa giới đánh nhau! "Vị" Thần, Tiên nào mà bắt được một "Con" Quỷ, bèn: Nếu ngươi cải tà quy chánh thì ta thâu nạp. Bằng không cải tà quy chánh thì ta hóa đá, ắt ngàn năm khó đầu thai!

Xét trong khắp lục cõi... Đã có ai từng cảm thông cho loài Quỷ nơi hạ giới này không? Không hề, bởi đó vốn là loài Quỷ, Ma, Yêu, Tinh, vân vân và v.v... Rất đáng nên phải xa lánh.

Nhưng ta cứ thử xem xét như thế này xem sao nhé: Nếu chỉ xét trong giới hạn nơi Chánh và Tà. Nếu "Quỷ bất hạnh" nào bị bắt, rồi cải Tà mà quy Chánh theo Thần, Tiên. Thì ta thấy trong cái Chánh đã có cái Tà là Quỷ đã phản bội với Chúa Quỷ của Quỷ mất rồi! Bằng như Quỷ nào ngoan cố, chấp nhận bị hóa đá. Vậy trong cái Tà thì "Quỷ vinh dự" đã có cái Chánh ở chỗ tuyệt đối trung thành với Chúa Quỷ mà Quỷ tôn thờ!!

Ngay cả trên Thiên Giới cũng đại loại như thế cả! Hầu như tất cả các giáo phái đều kêu gọi loài người về với Chúa, Phật v.v..., để chiến tranh cùng với Ma Quỷ!! Vậy, với một tư duy thiếu hiểu biết của loài người chúng ta sẽ thấy: Ngay cả Chúa, Phật bao gồm các vị giáo chủ nói chung; Vẫn còn chiến tranh với Ma Quỷ thì trách chi loài người không chém giết, tàn hại lẫn nhau cho được...

Thế nhưng nếu ta xét sâu hơn nữa sẽ bắt gặp: Lẫn khuất phía sau những góc khuất tối tăm của mọi nơi có Tàng Kinh Các. Ta vẫn thấy Chúa lẫn Phật nơi cõi diệu vợi hơn nữa. Các Ngài vẫn thường xuyên nói chuyện, trao đổi với những vị Chúa Quỷ này rất là bình thường kia mà!!!

Từ đó, trong thâm tâm của riêng tôi. Đã có một không gian nhất định nào đó thật sâu trong tiềm thức, dành riêng mà cảm thông cho cõi hạ giới đó rồi. Tôi biết điều đó, cõi thiên giới biết điều đó. Dĩ nhiên cõi hạ giới cũng biết điều đó nữa.

Thế cho nên trong một lần nơi cõi Động Thiên Thai. Khi tôi đang ngao du vào thế giới bên kia của không gian chiều thứ tư... Điều này có thể diễn đạt là như nửa tham thiền nhập định, nửa như tỉnh thức...

Tôi nhất thiết phải lưu ý: Khi Ta tham thiền là đang đứng ngay phía bên ngoài của cánh cửa không gian chiều thứ 3 và thứ 4. Thế giới phía bên kia của cách cửa đó có lý tính như hư, như thực. Muôn hình vạn trạng, luôn thoắt ẩn thoắt hiện không sao xác định được. Thế nên tôi mới mô tả là huyễn - thực cảnh. Hầu hết trong chúng ta đều sẽ rơi vào Ma Cảnh, là huyễn cảnh như cách gọi của Nhà Phật. Không khéo mà khiến nên nhận định lạc gốc chân hư sự việc ngay.

Bằng như ta tham thiền mà không thấy gì, hoặc có thấy hiện cảnh rõ ràng. Có nghĩa là ta đã lạc bước trong thế giới đầy huyễn hoặc đó mấy rồi vậy. Thế giới đó nhất thiết phải như hư, như thật và đầy biến ảo, mới thật là thế giới đó!!!

Và... Trong khi thần thức của tôi đang "thưởng lãm" bức tranh trừu tượng của Hóa Công dưới ánh trăng mờ ảo... Bất chợt một cảch tượng mà hầu như xưa nay chưa từng có bất kỳ một cuốn Sử, Sách hay Kinh, Sấm nào ghi chép cả. Kể cả trong thiên thư!?:

Ngay trước mặt cách chừng 3 bước chân, ở về phía bên phải của tôi; Phật Thích Ca hiện ra một cách rất rõ ràng, không huyễn hoặc gì cả! Người nói rằng; Nếu ngươi nói ngươi tin ta và đi tìm ta. Vậy ngươi có dám cho ta xin một cái Hồn của ngươi chăng?

Ôi! Sao lại có thể như thế cho được? Bởi tôi ý thức một cách rất rõ ràng là; Con người chúng ta vốn có 3 Hồn và 7 Phách cả thảy. Chỉ cần lạc mất một cái Phách bất kỳ nào trong bảy Phách đó thôi, đã đủ... "ra dại" rồi. Đằng này Phật lại đi xin tới..., cái Hồn cơ!

Nhưng biết đây lại là huyễn hay thực cảnh mà hòng xem xét trong hoàn cảnh đấy cho được (bởi ta không thể đùa với trời đất được đâu)!? Tuy chưa cho, nhưng thú thật tôi như người đã bị lạc mất hồn đi rồi đấy. Tư duy đang miên man mãi tận đâu đâu thì lại nghe Phật Thích Ca giục: Kìa! Ngươi thế nào rồi?

Ừm... Thì thôi vậy. Nếu Phật đã nói thế thì tôi tin tưởng mà giao cho Người một Linh Hồn. Tôi tin đạo không thể lừa dối con người cho được.

Vừa nói xong thì Thần Thức của tôi nhìn thấy (không phải cảm thấy) một cái hồn của mình, có dạng như sương khí mờ mờ. Thoát ra chầm chậm từ trong thân của mình và nhập vào thân Phật mất đi!

Đang chưa kịp kiểm tra lại xem mình có biểu hiện gì "sục sạc" hay không... Bên tai lại nghe có tiếng của một giọng nói khác vang lên, cắt ngang những hành động có vẻ rất ngô nghê của tôi khi đấy: Thế ngươi nói là ngươi công bình, vậy ngươi có dám cho ta một cái hồn như đã cho Phật hay không vậy?!

Tôi giật mình ngẩng lên và... hốt hoảng khi thấy lại có vị đứng phía bên trái của mình đã hiện ra khi nào rồi. Đó chính là Chúa Jêsu!!

Chúa ôn tồn nhắc lại: Ngươi thể hiện sự công bình đi chứ?

Chán quá đi mất. Nghĩ nát cả đầu ra mà tôi vẫn chưa có thể q uyết định được điều gì cả. Còn chưa kịp trấn tỉnh để xem mình có bị sao hay không. Vậy mà lại xảy ra thêm một tình huống, đang đòi hỏi phải xử lý ngay trước mắt nữa. Nhưng cớ sao tôi đã kiệt quệ cả tinh thần lẫn thể xác như thế này rồi, mà các vị lại còn phân bì với nhau nữa để làm gì?! Đến như cả Chúa và Phật còn phân bì như thế, thì cái Đạo có đáng phải để con người đi tìm hay không. Trong khi chỉ có các vị mới hiểu, còn sự hiểu biết của thế nhân là không thể.

Thôi thì đã lỡ làm người công bình rồi. Như thế, tôi chấp nhận cho Chúa luôn một cái nữa cho nhẹ óc đi cho rồi, nhức đầu tưởng đến chết được. Dù sao thì mình cũng còn được một cái. Bởi vốn dĩ có đến 3 cái hồn kia mà. Tuy nhiên tôi vẫn có niềm tin rằng; chắc chắn Đạo không thể lừa dối con người cho được, ngay cả Chúa hay Phật cũng thế. Và tôi tin Người.

Vừa nghĩ như vậy xong. Ngay lập tức cái hồn thứ 2 của tôi cũng thoát ra và cũng lại nhập mất vào trong thân thể của Chúa Jêsu...

Các bạn không thể nào tưởng tượng được một sự kiện xảy ra ngay sau đó là như thế nào đâu. Tôi không dám cho rằng mình đã đọc sách vừa đủ nhiều. Tuy nhiên tôi cam đoan một câu rằng; Hiện cảnh đó xưa nay chưa hề có bất kỳ một sử sách hoặc kinh điển nào có thể ghi chép đến được cả.

Một Chúa Quỷ hiện ra đứng giữa Chúa Jêsu và Phật Thích Ca đòi hồn!!!

"Chết Điếng!".

Đó là hai từ mà tôi có thể mô tả một cách ngắn gọn nhất cùng các bạn. Trời! Mà kêu trời có thấu cho được đâu, đối với hoàn cảnh lúc đấy mà kêu!! Phải chi Chúa Quỷ hiện ra trước hai vị kia thì còn đỡ. Đằng này Chúa Quỷ lại "canh chừng" để hiện ra sau hai vị, mới chết cho cái thân phận loài người của tôi đi.

Tôi cũng chỉ có 3 cái hồn mà thôi. Những tưởng xả thân cầu đạo đến mức Chúa một, Phật một và Mình một là cùng (vừa đẹp). Thế nhưng sự việc trước mắt chỉ có thể ở trong thế giới của cái mà Phật gọi là "phi tưởng xứ địa phương" mà thôi. Lại bất chợt xuất hiện vào thời điểm "chết người" này.

Vấn đề rất kinh hoàng khi đấy là; Chúa Quỷ cứ đứng đó khóc lóc, kêu gào mà đòi hồn của tôi dưới ánh trăng, giữa chốn núi rừng hoang vắng. Tiếng khóc mới thê lương và khiếp đảm làm sao. Nói thẳng ra là Chúa Quỷ đòi tôi phải thực thi và chứng minh sự công bình! Thế nhưng tôi chỉ còn lại có mỗi một cái hồn cuối cùng và duy nhất thì làm sao?

Chúa Quỷ chỉ một mực kêu gào sự công bình (Quỷ có quyền phân bì mới chết chớ). Tuy nhiên sự công bình đó phải được kèm theo cái linh hồn của tôi nữa, mới đủ gọi là khả thi.

Cuối cùng, sau khi không thể tìm đâu ra được giải pháp khả dĩ nào được nữa. Cả Chúa và Phật cũng chẳng ý kiến gì!? (có lẽ hai vị hài lòng và yên phận với phần của mình rồi chăng!?). Vì sự công bình mà tôi chấp nhận giao cái hồn cuối cùng của mình cho Chúa Quỷ! Bởi vì tôi chợt nhận ra rằng: Vậy thì cái Đạo có đáng để con người đi tìm nữa hay không. Nơi đây đã đầy đủ các yếu tố đại diện cao nhất cho cả Tam Giới rồi. Vậy mà các vị vẫn còn phân bì, tranh giành cả phần linh hồn cuối cùng của loài người vốn u mê. Trong khi trí huệ của các vị là thấu suốt mọi sự.

Thoáng qua trong tư duy của tôi lúc đó có một ý nghĩ: Bằng như tôi có chết đi. Diêm Vương cũng không đủ để xét xử tình huống này cho được rồi vậy. Thế là tôi đồng ý giao cho Quỷ Chúa cái hồn cuối cùng của mình cho trọn vẹn hai chữ công bình, đã trót cưu mang mà nặng nợ... cùng Tam Giới.

Kỳ lạ thay!

Chúa Quỷ vừa chụp lấy cái linh hồn cuối cùng đó. Ngay lập tức cả ba vị đồng loạt trả cả 3 cái hồn lại cho tôi và biến mất!! Đồng thời, tất cả mọi oan khốc ngàn đời bị vùi lấp. Đổ ập về và choán ngợp, lấp đầy tâm trí cũng như sự hiểu biết của tôi ngay trong tích tắc đó.
...Lượng, Nguồn thông tin trong vũ trụ muôn vạn kiếp qua cứ đổ ập vào mãi, không vơi!! Cái biển chứa của tri thức cũng vẫn cứ cuốn mãi nguồn thác đấy vào mãi mà không đầy!!!

Tuy nhiên; Lúc này cái vốn tri thức ít ỏi, đã được gieo trồng trước đó bằng giác quan thông thường, thu nạp một phần qua kinh sách. Bắt đầu mới nảy mầm và sàng lọc, so sánh thực hư lẫn lộn trong cả hai vũ trụ thông tin rối loạn trật tự đó.

Hai vũ trụ song song mà tôi nhắc đến chính là: Tiểu Vũ Trụ và Đại Vũ Trụ đó vậy.

Và đó cũng chính là những sự kiện mà tôi đã từng được trải qua trong cõi Tam Giới. Là ranh giới nằm giữa không gian chiều thứ 6 và 7. Một nơi mà Phật đã từng có nhắc đến:

Vùng "Phi Tưởng Xứ" địa phương!!!

Tôi không kỳ vọng gì chúng ta đến đấy cả. Chỉ mong rằng các bạn chia sẻ và nhớ đến tâm tư của tôi. Đã được đúc kết lại với hai câu thơ nhắn gửi đến thế hệ hôm nay và tương lai trong cõi hạ giới này như sau:

"Nhắn ai lăm gánh sơn hà.
Mồ hôi trộn nước mắt và chén cơm...".


Thanked by 2 Members:

#15 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 01:10

<p style="margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);"><strong>38 - GÓC QUAN SÁT CÔNG BÌNH</strong>
Trước hết, ta phải xác định được điều căn bản đầu tiên để thái tử Tất Đạt Đa quyết ra đi tìm Đạo là: Không chấp nhận Đạo Balamon mà người đang theo đó, có tục hiến tế người sống hàng năm! Thứ đến mới là phá bỏ đẳng cấp đang được duy trì một cách phi lý giữa đẳng cấp Balamon và các tầng lớp tín dân. Cuối cùng mới đến sự việc mong giải thoát vòng luân hồi sinh - lão - bệnh - tử của thế nhân.
Ta xem xét tổng thể những mắc xích từ cội nguồn nguyên nhân, cho tới thành quả từ các chi nhánh phát triển tóm lược như sau:
Người Ấn Độ xem dãy Himalaya ở bắc Ấn, chính là cõi trời. Từ dãy núi này phát sinh ra hai dòng sông chảy ngược hướng với nhau. Một dòng là sông Ấn, chảy theo hướng bên phải của Himalaya, đổ ra vịnh Oman với chủng tộc Naga sinh sống. Bộ tộc này vốn thờ thần rắn Naga. Theo tiếng Sanscrit thì sông gọi là shindus. Khi các giống dân Ba Tư tràn vào thì họ gọi thành ra là Hindu. Có nghĩa là miền của các dòng sông.
Hai là sông Hằng chảy theo hướng bên trái của Himalaya, đổ ra vịnh Bengal. Chủng tộc Dravidian định cư theo dòng sông này thì thờ Thần Bò. Từ đó ta xét thấy sử thi Rig-Veda đã xuất hiện tại vùng gốc rễ chung của cả hai chủng tộc này là miền thung lũng Indus dưới chân Himalaya. Và tộc Naga đã phát huy sử thi Rig-Veda mà phát triển thành ra đạo Balamon đầu tiên vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
Thái tử Tất Đạt Đa tuy lệ thuộc đạo Balamon đương thời, nhưng Người lại vốn có nguồn gốc theo tộc Dravidian thờ Thần Bò. Và Người nảy mầm tư tưởng rồi phân nhánh, khai sáng ra đạo Phật vào thế kỷ thứ 5 trước công nguyên. Tuy nhiên ta thấy đến thế kỷ thứ 1 trước công nguyên thì lại xuất hiện Chankara. Người phát huy học thuyết Vedanta và nâng tầm đạo Balamon lên cao hơn và phát triển thành Đạo Hindu đến nay với Kinh Veda nói chung (thay tế người bằng súc vật). Quan niệm của Đạo Hindu là thờ Tam Thần Nhất Thể. Bao gồm Thần Brahma - Thần Shiva - Thần Vishnu. (lý Tam Tài).
Vậy Đạo Hindu và tộc người Naga ở miền Indus cũng chính là định hướng cội rễ gốc của Ấn Độ Giáo. Ta xét thấy trong giai đoạn sử thi Ri-Veda thì tại Ấn Độ đã chia ra thành 6 trường phái trong đó rồi. Đến khi đạo Hindu phát huy thì cũng gọi Đạo Phật là trong nhóm Lục Sư (6 nhóm) ngoại đạo. Thế nên quan điểm tại Ấn Độ cho rằng Đạo Hindu thuộc truyền thống và Đạo Phật là phi truyền thống.
Phật đi tìm đạo Từ năm 29 tuổi đến năm 35 tuổi cũng có tất cả là 6 năm! Và cuối cùng khi truyền bá sang Trung Quốc cũng đến đời của Lục Tổ Huệ Năng là dứt (Tổ thứ 6)!! Ta vẫn thấy hệ thống quy luật của số 6, cứ luân hồi mãi từ trong cội nguồn rồi mà vẫn chưa có thể thoát ra cho được! Điều đó, tôi gọi là định số của Tạo hóa đã an bài. Bởi Tạo Hóa tạo dựng vũ trụ thuở ban đầu cũng chỉ có trong 6 ngày mà thôi, dĩ nhiên ngày thứ 7 là nghỉ ngơi rồi. Ta khó có thể chối bỏ sự thật hiển nhiên này cho được. Và dĩ nhiên Phật cũng chưa đạt đến lục thông trong giai đoạn đó như lời Phật đã từng nói là một sự thật.
Điển hình như việc A Nan nằm mộng thấy 7 sự việc mà Phật không biết được. Và sau đó Phật hỏi cụ thể A Nan từng điềm mộng và chiêm đoán tương lai của từng giấc một cùng A Nan. Ta thấy khi A Nan kể từng điềm một thì Phật tỏ vẻ rất lạ lùng và ngạc nhiên. Tuy nhiên điềm báo cuối cùng thì Phật đã biến sắc mặt!
Vậy, tất cả vì chân lý cũng như sự công bình. Ta khảo xét lại xem có nguyên cớ cũng như nỗi oan khốc nào bị vùi lấp trong quá khứ lịch sử của Nhà Phật hay không? Bởi cho tới mãi tận ngày hôm nay. Thế nhân chúng ta vẫn đang còn mãi ngụp lặn, đắm chìm trong biển khổ ngày càng trầm trọng hơn. Thậm chí những khái niệm như sinh - lão - bệnh - tử xem ra...; Thời điểm này không đáng sợ hơn muôn vàn những hệ lụy tác hại khác đang hoành hành nữa!
Thái tử Tất Đạt Đa đầu tiên vào rừng học phép Thiền với hai vị ẩn sĩ Già Lam trong đó. Sau cùng là với 5 anh em Kiều Trần Như. Sử Kinh chép rằng sau đó Người bỏ đi và cuối cùng tự tu theo trung đạo mà mình đã liễu ngộ và đắc đạo!
Tuy nhiên nếu ta dõi theo dấu chân của Phật Thích Ca ở vào thời điểm... Trước khi Người đắc đạo dưới cội bồ đề, ta cùng xem xét những diễn biến có tính bước ngoặc như sau:
... Trong một lần, Người đang làm hành giả tại một địa phương bất định xứ, hẻo lánh... Người rơi vào hoàn cảnh là không nhìn thấy một làng hoặc xóm nào để ghé vào khất thực mà độ thân cho qua thời điểm cả. Người chỉ bắt gặp một dòng sông, bèn ghé lại giải khát và nghĩ ngơi. Tuy nhiên, bởi do đói nên Người kiệt sức dần đi, rồi bất tỉnh.
Ta không nghe sử sách tả lại là Người bất tỉnh trong bao lâu cả. Chỉ biết rằng bất chợt có một bé gái chăn bò, độ chừng 11 - 12 tuổi đi ngang qua. Bé gái này bắt gặp vị hành giả nằm ngất sỉu bên bờ sông. Bé gái đó biết là vị hành giả này do đói và kiệt sức, liền vắt sữa bò cho uống.
Người hồi sức dần...
Ta hãy thử đặt mình vào hoàn cảnh lúc đấy xem sao? Dĩ nhiên, lương tâm sẽ cảm thấy bất mãn và thất vọng đến..., vô cùng. Bởi bản thân là một thái tử. Vì đã bỏ cả ngai vàng trong tương lai mà đi tìm đạo với hy vọng cứu độ chúng sinh. Thế nhưng chưa cứu được ai, trước mắt lại xảy ra cảnh trớ trêu là bé gái chưa đủ tuổi khôn lớn, ở một nơi hẻo lánh đã phải cứu độ cho mình rồi?! Chúng ta không thể phủ nhận sự thật này cho được.
Tạo Hóa đã khéo đặt để cho Người một hoàn cảnh không thế éo le hơn thế được nữa. Từ đấy suy nguyên nhân gây ra hoàn cảnh này chính bởi tại miếng ăn mà ra cả thôi! Người đã từ bỏ tất cả rồi, kể cả ngai vàng. Thế nhưng cái nợ cơm áo đời thường nhất, lại chưa có thể buông tha cho Người được!! Tất cả cũng chỉ tại vì có mỗi miếng ăn mà thôi. Và đó cũng chính là dòng tư duy của Người đang thấm đẫm tất cả nỗi cay đắng ê chề đó.
Và ta xét thấy sự thất vọng lên đến đỉnh điểm khi Người đứng dậy vất cái bình bát thẳng xuống sông với câu nguyền: Nếu ngươi chảy xuôi theo dòng nước thì ta sẽ từ bỏ tất cả và trở về. Bằng như ngươi trôi ngược dòng, thì ta mới tiếp tục tìm đạo.
Ta thấy đây chính là câu nguyền mà Người thề nhất định phải quay trở về! Bởi xưa nay làm gì có vật nào đã trôi ngược dòng sông bao giờ!! Tóm lại, ta thấy Người đã nhất quyết trở về và không đi tìm đạo nữa rồi. Ta có thể xét thấy điều này qua hành động cũng như lời thề nguyền đó.
Thế nhưng, sự việc lại trớ trêu hơn nữa đã diễn ra lúc đấy. Bởi cái bình bát mà Người đã ném xuống đó..., đang trôi ngược dòng sông!? Điều này có nghĩa là Người đã vất bỏ luôn cả cái nợ cơm áo đeo bám cuối cùng. Bởi tấm cà sa khoác trên thân của Người, không phải là chiếc áo từ đã rất lâu rồi.
Thế rồi Người ngồi tại đó mà suy tư... về sự việc vừa xãy ra. Nhất định không đi đâu nữa. Gần đấy, phía bên bìa rừng. Người nhìn thấy có bóng mát của cội bồ đề. Và Người liền đi vào gốc cây bồ đề đó mà ngồi trầm tư mặc tưởng suốt 49 ngày và; Đắc Đạo.
Ta thấy Kinh sử còn mô tả về linh tượng của một Bạch Tượng cùng với Phật Thích ca! Ẩn khuất rất kín phía sau những trang Kinh Sử đó còn có hai linh vật nữa là: Thần Rắn Naga và Thần Bò, thậm chí kể cả bóng dáng của Thần Khỉ Hanuman lẫn khuất quanh Phật nữa!!
Ví như trước lúc Phật ngồi tĩnh tâm tại gốc bồ đề đó. Hoàn cảnh đã ứng hiện Phật uống sữa Bò (khải thị) để hồi tỉnh lại trong lúc kiệt sức. Trong khoảng thời gian 49 ngày ngồi trầm tư mặc tưởng dưới cội bồ đề đó; Thần Rắn Naga 7 đầu đã từng hiện ra, cuộn quanh thân sưởi ấm và xòe 7 đầu mà che mưa cho Người!! Cuối cùng, khi Người cảm thấy đói. Thần Khỉ cũng thể hiện như việc hái trái cây mà đưa cho Người. Người cầm lấy rồi vất đi, Thần Khỉ lại hái trái cây khác đưa thì Người mới nhận lấy!!! Đặc biệt là trái và cây của hai loại cây này rất giống nhau như hai anh em sinh đôi vậy, nhưng lại không phải là một !?.
Ta thấy sau đó Phật Thích Ca liền đi giáo hóa khắp nơi. Thuyết giảng và mô tả về một cõi cực lạc đang tồn tại song song cùng cõi nhân thế đầy đau khổ này. Thế nhưng thiên hạ vẫn cứ mãi đắm chìm, lầm lạc trong biển mê, không cách gì thoát ra cho được cả! Phật giảng một đường, thế nhân lại hiểu một ngã! Ngôn ngữ không đủ, Phật dùng phương tiện để ẩn dụ. Thế nhân lại cứ nghĩ đó là thật!! Thế nhưng khi Phật nói thật, thì thế nhân lại cứ ngỡ là ẩn dụ!!!
Tôi có thể đơn cử điển hình như A Nan. Chúng ta đều biết A Nan vốn có quan hệ anh em chú bác cùng với Phật Thích Ca. Khả năng của trí tuệ cũng như sự học hỏi là xuất chúng. Một lần Phật hỏi A Nan: Do nguyên cớ gì mà người theo ta? A Nan bèn đáp: Bởi thấy Phật có 32 tướng tốt. Nên cầu mong đắc được 32 tướng tốt đó.
Chúng ta lại không ai hiểu được rằng Phật đã thất vọng vô cùng đối với A Nan. Vì mục đích chính của A Nan là thích cái sắc tướng đó mà cầu đạo thôi. Trong khi bản thể của đạo Phật phải xuất phát từ lòng từ bi với sự mong cầu là giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi cảnh lầm than của thế tục. Ngay cả như A Nan còn như thế, huống hồ chi nói đến khắp thế nhân cho được.
Thế nhân chỉ mãi vọng cầu cho sở thị vốn là nhu cầu của cá nhân họ mà thôi. Và họ mong được Phật cứu độ cho họ bằng tha lực, chứ không tự lực họ mà hành đạo. Cuối cùng rồi Phật quyết định nhập Niết Bàn. Tôi biết Niết Bàn mà Phật nói đến trong ngày đó, không hề là Niết Bàn như thế nhân chúng ta đã biết và nghĩ như từ xưa cho đến hôm nay như vậy bao giờ cả!
Niết Bàn ngày đó có nghĩa là Phật đã quyết nhập để đạt tới đỉnh của thực tại Đạo. Qua đó mới có thể làm tỉnh ngộ đối với sự mê lầm của thế gian được. Bởi Phật thấy không thể khai ngộ bằng pháp ngôn cùng thế nhân cho được rồi. Thế nhưng cái điều đáng phải sợ nhất của thế gian xưa nay, không phải là những thế lực phản đối, chống phá, tham vọng bất kể âm thầm hay ra mặt. Mà là cái sự chân thành một cách mê muội ngay từ bên trong của giáo đồ. Và ngày đó Phật Thích Ca đã vấp phải sự cố u mê này của thế nhân, khiến nên cái chân thể của Đạo Lý đã bị vùi lấp mất chân lý cho đến tận hôm nay!
Ta cũng phải nên biết trước lúc Phật quyết định nhập Niết Bàn, đã từng xảy ra hai sự kiện như: Vị đệ tử có khả năng thần thông đệ nhất là Mục Kiền Liên, bất ngờ nhập niết bàn! Khi nghe được tin đó. Phật liền nói cùng Xá Lợi Phất, một đệ tử được liệt vào hàng đệ nhất trí tuệ rằng: Khoảng 3 tháng sau ta sẽ nhập niết bàn. Ta xét thấy ngay hôm sau, Xá Lợi Phất liền tạ từ Phật để về quê thăm mẹ. Và liền sau đó Phật cũng nghe được tin Xá Lợi Phất cũng đã nhập niết bàn!! Ta thấy có sự việc bất thường là lại có hai đệ tử xuất sắc nhất, nhập niết bàn trước khi Phật nhập!!!
Sự kiện oan khiên này, tôi chỉ có thể đưa ra trước công luận khi mọi hướng lịch sử đã hội về đến trước ngưỡng cửa của sự vô hạn. Bởi Đạo vốn là vô biên. Chỉ khi nào ta đắc đạo mới có thể hiểu được cái giá trị vô biên đó. Bằng không, ta có xuất sắc mấy đi nữa thì cũng chỉ có thể cảm nhận được là; Ta đang bị giới hạn cùng với sự hiểu biết chung của thế nhân mọi đương đại mà thôi.
Tôi có thể đưa ra một sự kiện dị sử điển hình như sau:
Nghe rằng...; Trong những vị đồ đệ đương thời Phật Thích Ca. Riêng có A Nan là trong thâm tâm vẫn chưa thực sự chịu khuất phục Phật! Bởi A Nan tự biết mình là người xuất sắc nhất, chân thành nhất. Trong khi Ca Diếp đã lén lấy cắp bảo vật mà Phật lại còn chọn làm đại đệ tử thứ nhất của Phật. Còn A Nan thì Phật vẫn không chọn!?
Lại còn trước khi Phật nhập Niết Bàn. Phật đã sai A Nan đi khất thực ở những nơi xa xôi, hẻo lánh nhất. Sau đó, Phật tụ các đồ đệ lại truyền bảo pháp mà không có mặt A Nan!
Để rồi khi Phật nhập Niết Bàn thì Ca Diếp nghiễm nhiên là đại đồ đệ thứ nhất!?
Ngay cả như vị đại đồ đệ thứ nhất là Ca Diếp. Đã âm thầm, lén lút lấy cắp bảo vật (cũng có Kinh chép là ngọc xá lợi, tuy nhiên tôi biết và gọi đó là sở pháp) của Phật, mà giấu làm của riêng hòng tu luyện đắc đạo!? Để đến đỗi trước khi chết khoảng 3 ngày. Ca Diếp vẫn cứ chống gậy lập cập đi qua lại quanh sân mà mồm lẫm bẩm như người phát rồ, mãi một câu: Tại sao cùng một Pháp mà các Pháp lại không đồng!?. Đó là do Ca Diếp đã ra sức tu luyện mãi mà không đắc Đạo dù có pháp!? Ta chợt giật mình khi so sánh với tình cảnh của Khổng Tử trước khi chết! Hai vị này không biết ai là bản sao của ai nữa cả?!. Bởi họ vốn sinh cùng thời (Khổng Tử nhỏ hơn Phật Thích Ca khoảng 42 tuổi!).
A Nan muốn bỏ đi. Cuối cùng A Nan chấp nhận chịu phục Ca Diếp để nhận diệt độ, hòng vào lạy Phật lần cuối. Do Phật có dặn Ca Diếp là khi nào A Nan chịu thuần phục thì mới diệt độ cho. Ta cũng có được nghe lại rằng: Khi A Nan vừa lách cửa bước vào bên trong. Trong sát na, A Nan chợt hốt ngộ... Thì ra Phật đã trao bảo pháp lại cho A Nan chứ không phải Ca Diếp!!!
Ta phải xem xét kỹ càng lắm mới có thể nhận ra được là: Ngay sau khi Phật nhập niết bàn. Ca Diếp liền tụ chúng mà kết tập kinh điển. A Nan không được có mặt. Thế nhưng A Nan vốn lại là đa văn nên là người duy nhất mới có thể kết tập được Kinh Điển từ thuyết ngôn của Phật mà thôi. Vì thế bắt buộc A Nan phải có mặt trong cuộc họp. Và Ca Diếp mới là người có toàn quyền quyết định chép gì và không nên chép điều gì.
Vì Phật Thích Ca cũng như chân lý của Người, từ đây tôi suy ra một nghi án: Vậy những cuốn Kinh Phật mà hiện nay thế nhân chúng ta đã từng và đang đọc đó. Những sự thật nào đã không được chép vào, và những điều gì hoàn toàn không phải là sự thật?
Ta thấy ngay trong lúc đương thời tại thế của Phật Thích Ca. Các đại đệ tử của Người đã nổi loạn cả rồi. Tiêu biểu là Đề Bà Đạt Đa, đã bao phen mưu sát Phật không thành. Đến nỗi lúc Phật đang đi ngoài đường mà chợt nhìn thấy Đề Bà Đạt Đa ở xa xa là Người liền tránh ngay. Ca Diếp thì lén giấu bảo pháp. Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất thì nhập niết bàn trước!!! Lại còn một số năm ba vị khác mà tôi chưa tiện kể ra đây nữa. Và Phật cũng đã từng khẳng định: Chính các đệ tử Phật làm nát đạo pháp của Phật chứ không phải người ngoại đạo bao giờ cả !!!.
Và ta thấy sứ mệnh cũng như trách nhiệm của A Nan là nhắc lại lời Phật dạy để mọi người chép lại thành Kinh Phật mà truyền thế đến hôm nay. Bởi A Nan là người duy nhất thuộc lòng 82.000 lời kinh của nội giáo và 2.000 lời kinh ngoại giáo. Tổng cộng lên đến 84.000 kinh như chúng ta đã nghe hôm nay. Khi hoàn tất sứ mệnh ấy. A Nan đã bơi xuồng ra giữa dòng sông Hằng và hóa ở đấy.
Tôi khẳng định không phải A Nan nhập niết bàn như kinh đã chép! Bởi đó là tượng trời, là Thiên Thư. Phàm, tướng tinh của Phật Thích Ca vốn là Bạch Tượng!! Nhất định ta phải biết cách chiêm tượng trời..., để còn sắp xếp và xem xét thế đất nữa. Có như thế, nhân loại chúng ta mới có hy vọng hiểu thấu bản thể chân lý của Đạo cho được.
Bởi tượng trời còn treo vô vàn những điều oan khốc của Phật còn bị vùi lấp. Ví như A Nan khi mất đi, hóa thành Quạ! Ca Diếp thành Cá Chép!! Anh em Kiều Trần Như người thành Chim thành Chuột v.v... Thậm chí, mãi về sau này khi đạo đã truyền sang Trung Quốc. Khi chết, Bồ Đề Đạt Ma cũng hóa thành Rùa Vàng và Lục Tổ Huệ Năng thành Đại Bàng!!!
Mỗi chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem. Ta có tận tâm tìm đạo thật sự hay chưa? Đạo là không sai một. Thế nhưng tại sao đã hơn 2,500 năm qua rồi. Nhân loại chúng ta vẫn chưa một ai có thể tự giải thoát bản thân của mình được, nói gì đến người thứ hai trong tổng thể nhân loại. Bởi có ai biết được. Đang còn đầy rẫy những điều oan khốc bị chôn vùi như thế mà chưa được làm sáng tỏ trước ánh sáng của chân lý.
Không phải ngẫu nhiên mà Đạo Hindu lại được xem là Ấn Độ Giáo bao giờ cả. Ở đây các bạn thấy tại sao tôi lại chọn Phật giáo đại diện chứ không chọn cái nền tảng gốc của Ấn Độ là Hindu, đều có nguyên do cả. Cũng giống như đại diện cho Chúa lại không chọn từ gốc là Do Thái Giáo mà lại chọn Thiên Chúa Giáo! Mặc dù tại nước Do Thái thì đạo Do Thái Giáo chiếm đến 70%.
Tuy nhiên trong thời kỳ cuối này. Tất cả đều phải được phơi bày ra trước ánh sáng của Kỷ Nguyên Mới. Và ta cũng đừng vội quên: Bàn tay có 5 ngón. Vì thế nên quan điểm của chúng ta đang xem xét những đề tài này chớ vội đứng ở một góc độ của một tôn giáo riêng mà vội đả phá. Bởi còn 4 góc độ khác đang cùng tham gia quan sát những thực tại này nữa.
Điều có thể làm sáng tỏ chân lý của tôn giáo. Chỉ duy nhất được làm sáng tỏ khi ta dùng tư duy khoa học mà xem xét. Và tôi quả quyết: Chúa, Phật, hoặc bất kỳ tôn giáo nào cũng rất mong nhân loại chúng ta đến với Đạo bằng một tư duy sáng suốt nhất mà thôi.
Được vậy; Đạo hiển hiện ngay tức khắc và không sai một bao giờ. Chúa, Phật. Đều giảng về Đạo chính xác một cách tuyệt đối và vô cùng. Thế nhưng những điều mà cả Chúa và Phật từng nói đó. Mãi cho đến tận hôm nay vẫn chưa có thể xảy ra!? Chắc chắn bởi tại đã có rất nhiều những khuất tất bị vùi lấp một cách đầy oan uổng tiềm ẩn trong đó.
Tôi tạm sơ lược qua như thế. Dần đến, chúng ta sẽ đi sâu vào từng chi tiết một, trong những bài sắp đến. Tuy nhiên, do nguyên lý của Thuyết Tương Đối cũng như Thuyết Lượng Tử là: Tổng các vị trí quan sát và tổng các lịch sử. Thế cho nên tuân thủ nguyên lý đó. Tôi sẽ trình bày xen kẽ cho mọi lĩnh vực tham gia bao gồm các lịch sử trong những bài viết tiếp theo.
Các bạn tùy theo quan điểm của mình mà chọn lấy một vị trí để tham khảo. Dĩ nhiên, ai đủ công bình; Người đó sẽ có toàn diện tri thức cũng như tầm nhìn đủ bao quát toàn cục.


</p><p style="margin-bottom: 6px; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; color: rgb(29, 33, 41);"><strong>39 - VỊ TRÍ QUAN SÁT KHÁC</strong>
Theo thống nhất chung. Để đo lường thời gian, nhân loại chúng ta lấy năm thứ nhất theo Dương Lịch gọi là Công Nguyên để làm mốc tính đi...
Và đó cũng là cột mốc mà nhân loại cho rằng Chúa Jêsu ra đời!
Ta cũng đã đều được nghe và biết như; Chúa Jêsu cũng đã khẳng định rằng Người là con của Chúa Cha! Vậy theo như quan điểm của Thiên Chúa Giáo thì tính từ cột mốc của Công Nguyên. Tính ngược trở về quá khứ khoảng 2.000 năm nữa là giai đoạn của Chúa Cha, thuộc về Cựu Ước. Và từ Chúa Jêsu tính xuôi đến tương lai được gọi là Tân Ước. Ta gồm chung cả hai giai đoạn đó lại và được hình thành Kinh Thánh.
Ta xét thấy sự giáng sinh của Chúa Jêsu trong lịch sử Thánh Kinh. Có một đặc điểm rất kỳ lạ là sự kết hợp giữa Thần Linh và Phàm Trần! Thế nhưng xem xét đặc điểm rất đặc biệt này có vẻ rất giống với sự ra đời của rất nhiều vị Vương Đế của dân tộc Việt trong Sử Tiên!!
Tôi có thể đơn cử điển hình ra đây như Đinh Tiên Hoàng chẳng hạn!!! Tạm nhiều chuyện mà xen Sử Việt vào như thế (thói tục hay truyền..., thành ra nhiều chuyện...). Chúng ta tiếp tục cuộc du hành:
Kinh Thánh có ghi lại sự kiện Vua Hê Rốt ban lệnh khắp nơi phải tập trung về để tổng kiểm tra dân số...
Ta thấy khi Ông Giuse và Bà Maria đang trở về xứ để chờ thi hành nghĩa vụ. Bất ngờ trong thời gian đang chờ đợi đó thì Maria chuyển dạ và sinh ra Chúa Jêsu. Chúng ta đều nghe và biết Chúa đã giáng sinh vào mùa đông trong một... hang bò, lừa ở..., ngoài đồng!
Thật bất nhẫn vô cùng. Bởi ta xét thấy; Xã hội đương thời khi đấy đã không một ai động lòng mà giúp đỡ nổi một nơi để người đàn bà chuyển dạ lỡ đường. Để đến nỗi phải tìm vào một cái hang nhốt bò giữa mùa đông mà sinh rơi rớt ngoài đồng!? (Phật cũng đã bị sinh rơi rớt giữa đường đấy các bạn ạ!).
Vào thời điểm mà Chúa Jêsu đã ra đời trong hoàn cảnh đấy. Cả thiên hạ chẳng ngó ngàng gì tới cả. Duy nhất có 3 vị Vua ở Phương Đông, đã chiêm tinh mà tìm Chúa và đến chào hỏi! Ta xét thấy 3 Vị Vua của phương đông đấy qua trang phục của họ. Thì nhận biết ngay là người ở khu vực Trung Đông, chứ không phải bất kỳ một xứ nào trên toàn miền thế giới này cả. (Đây chính là sự ẩn ý của Thiên Cơ, khải định cho sự ra đời sau đó 600 năm cho Đạo Hồi ở Trung Đông).
Tuy nhiên có một sự cố xảy ra trước đó là 3 Vị Vương này đã vào bái kiến Vua Hê Rốt và hỏi về sự giáng sinh này. Cho nên ngay sau đó, Vua Hê Rốt đã ra lệnh truy lùng Chúa Jêsu và tàn sát tất cả những em bé nào vô phúc mà đã sinh ra trong cùng một thời điểm khi ấy (do 3 vị Vua kia báo ngôi sao vừa giáng sinh ứng tượng sẽ là Vua của dân Irael).
Tuy nhiên hai ông bà Giuse và Maria đã nghe theo lời khuyên của 3 Vị Vua kia mà ngay trong đêm lạnh lẽo giữa mùa đông đó. Đã dìu nhau trốn, chạy về Nazaret mất rồi.
Chúa Jêsu đã sống cùng Cha Mẹ của mình mãi ở đấy. Cho đến năm 30 tuổi thì Người bắt đầu từ giã ông bà mà đi thực thi sứ mệnh đã được giao phó sẵn! Bởi ta xét thấy Người chưa hề phải đi học hay tìm Đạo với bất kỳ một ai khác nào cả!!
Chỉ có một sự việc là người đã đi tìm một Tiên Tri tên là Gioan, để làm thủ tục rửa tội Tổ Tông, theo luật lệ truyền lại từ Kinh Cựu Ước mà thôi. Và ngay sau đó, Người đi thẳng vào khu đồng hoang mà nhịn suốt 40 ngày và: Đắc Đạo.
Chúa Jêsu liền quay trở về mà đi giảng đạo khắp trong dân Do Thái. Nghe rằng; Đầu tiên là Người đi dọc theo bãi biển để tìm đồ đệ. Và Người nhìn thấy một ngư phủ đầu tiên, đang ngồi vá lưới là Phê Rô. Người nói với ông Phê Rô rằng: Ngươi hãy bỏ nghề đánh cá này mà đi theo ta. Ta sẽ chỉ cho ngươi cách đánh cá người!? Ông Phê Rô nghe thế, liền bỏ lưới và đi theo Người.
Và đó cũng chính là vị tông đồ thứ nhất trong số 12 môn đồ của Chúa Jêsu. Ta xét thấy các môn đồ của Chúa đã chọn trong ngày đấy, hầu như đa số là học hành không tới đâu cả! Bởi xuất thân họ đều là ngư phủ. Duy có ông Mát Thiêu thì vốn đã là người thu thuế của thành đó nên dĩ nhiên là người có học.
Thế nhưng những mẻ lưới ngày đó mà các ngư phủ của biển cả này đã quăng ra... Cho đến mãi tận ngày hôm nay. Chưa có bất kỳ một con Cá Người nào thoát ra được cả!! Trong khi những con Cá Người này, đầy rẫy những học hàm, học vị cao nhất trong cõi thế nhân của chúng ta!!!
Đó là một sự thật!?
Ta xét thấy cũng giống như Phật Thích Ca, Chúa Jêsu cũng phải dùng đến những ví dụ để giảng về nước trời! Bởi vì ngôn ngữ của nhân loại chúng ta nghèo nàn quá, không đủ để gánh vác sứ mệnh thiên liêng vốn có giá trị vô cùng đó cho được. Tuy nhiên Người đã dùng rất nhiều những phép lạ để tụ chúng, nhân đó mà hầu giảng về nước trời. Ta thấy những phép lạ mà Chúa Jêsu đã từng làm trong quá khứ. Xét thấy chưa có vị giáo chủ của bất kỳ tôn giáo nào có thể làm như thế cho được!?
Thế nhưng, ta thấy bản tính của thế gian đến với Người là. Cốt để được hưởng những những gì mà cá nhân họ đang cần người cứu trong hiện tại mà thôi! Về việc chung của tương lai, đã có mấy ai từng nghĩ đến. Đó là việc của cả thiên hạ. Vậy ta cùng tham khảo trong nhóm nội bộ 12 môn đồ của Chúa xem sao nhé? Và diễn biến được xem xét như những gì diễn ra sau đây:
Sự kiện mà mọi người đều biết và gây chấn động trong thời điểm đó chính là môn đồ Giuda. Ta nghe truyền lại rằng đó là: Kẻ bán Chúa!
Tôi cam đoan lịch sử Thánh Kinh cũng không khác gì những oan khốc mà lịch sử của người Việt và Phật đã tham khảo sơ lược qua trên trang này. Bởi đó chính là mô hình của vũ trụ phản ảnh đồng bộ như thế. Kể cả lịch sử của nền khoa học đương đại của nhân loại chúng ta!? Dần đến, chúng ta sẽ mổ xẻ sâu vào từng chi tiết. Để làm rõ những căn bệnh trầm kha đầy ác tính tiềm ẩn trong đó, khiến gây nên sự sáng chân lý của đạo chưa hiển lộ được.
Trong bài viết này, chúng ta tạm giới hạn tham khảo nơi cận cảnh khi Chúa Jêsu bị hành hình chết đi rồi sống lại và về trời như lời người đã từng nói trước đó.
Ta thấy ngay sau khi tông đồ Giuda bán Chúa được 30 đồng tiền vàng cho...quân dữ!. Người bị giải đến vị quan tại nhiệm bản xứ là Phi La Tô. Sau khi tra xét án xong. Phi La Tô đã tuyến bố rằng người này không hề phạm tội gì cả! Thế nhưng các thầy cả tế lễ khăng khăng không chấp nhận lời phán quyết của Phi La Tô!? Quyết nổi loạn và đòi hành hình Chúa Jêsu cho bằng được. Trước tình hình như thế. Phi La Tô muốn cứu Chúa Jêsu bằng cách gợi ý một lễ ân xá để phóng thích Chúa, thay vì phải phóng thích một tên cướp khét tiếng và rất nguy hiễm khác. Thế nhưng các thầy tế lễ thà chấp nhận tha cho kẻ cướp hơn là phải tha cho Chúa Jêsu!? Cuối cùng thì Phi La Tô cũng phải chịu thua trước những kẻ đang say máu đến cuồng loạn bằng cách:
Phi La Tô, đại diện cho chính quyền đương thời. Đã sai quân mang một chậu nước ra và rửa tay của mình trước công chúng để khẳng định rằng; Bàn tay của chính quyền, không hề vấy máu của Chúa bao giờ cả. Vì thế, Thiên Ý đã khải tượng và chấp nhận; Mọi chính quyền của mọi đương đại, kể từ lúc đó. Không hề vấy máu của Chúa Jêsu bao giờ cả.
Ta thấy ngay sau khi nghe tin Chúa Jêsu bị quy án tử bằng hình phạt đóng đinh lên cây thập tự. Giuda đã vội chạy đến tìm các thầy tế lễ... Ném 30 đồng vàng vào các Thầy và gào khóc rất thảm thiết mà đòi trả Thầy của mình lại!? Không lay động được gì các Thầy, Giuda tuyệt vọng, bèn đi treo cổ tự vẫn trước khi Chúa Jêsu chết...
Tuy nhiên, ta phải rất khó khăn lắm. Mới có thể xét thấy được một tình tiết, tiềm ẩn rất kín trong những trang Kinh Thánh, làm chứng cứ những oan khốc như sau:
Trước lúc Chúa Jêsu về trời (cả hồn và xác), sau khi sống lại. Trong đoạn cuối của kinh Tân Ước có chép lại là...; Vị tông đồ mà Chúa yêu thương nhất là Gio An. Ông đã ghé đầu sát vào ngực Chúa mà hỏi mãi một câu: Thưa Thầy, nếu thế thì ai mới là kẻ phản bội Thầy!!!,...???.
Ta lại thấy Chúa Jêsu cứ mãi lảng tránh câu trả lời cùng Gio An. Bất ngờ vị đại tông đồ mà Chúa đã trao cho giữ chìa khóa nước trời trước đó là Phê Rô. Nãy giờ đứng lắng nghe ở phía sau lưng Người, chen vào hỏi tiếp. Chúa bèn trả lời rằng: Việc ấy có can hệ gì đến Ngươi? Ta xét thấy ở đây có một sự việc khuất tất, nhất thiết phải được làm rõ. Nếu không, thì đâu có đủ để được gọi là sự công bình như tôn chỉ hàng đầu mà giáo phái này nêu rõ từ thời Cựu Ước.
Trước lúc Chúa về trời, Người cũng đã dặn dò các tông đồ ở lại phải đi giảng đạo khắp thế gian. Khi các vị Tông Đồ họp lại và tìm người thứ 12 khác để thay cho chỗ khuyết của Giuda. Ta không đủ để nhận ra thiên ý của Tạo Hóa về sự xuất hiện sau đó của vị tông đồ thứ 13; Phao Lô!?
Phao Lô, khi Chúa còn sống thì vốn lại là một công an!!! (tôi diễn giải theo quan niệm hiện nay cho các bạn dễ nắm bắt tình hình chung). Ông chuyên đi lùng sục, bắt bớ và giải tán những nơi có Chúa hay các tông đồ hoặc người dân tụ tập, bàn tán về Chúa Jêsu!!
Trong một lần, khi Phao Lô đi tuần về nhà và chuẩn bị ngồi vào bàn ăn cơm. Chợt có một người đến báo tin và chỉ điểm nhóm của các tông đồ đang tụ tập họp bàn... kế hoạch gì đó. Phao Lô tức tốc bỏ cả bữa ăn và lên ngựa truy lùng... Thế nhưng dọc đường, Phao Lô bị xét đánh trúng giữa đỉnh đầu và té xuống ngựa. Hai mắt của người cũng không nhìn thấy được nữa. Sau khi về nhà, và có một người môn đồ của Chúa đến trị cho hết.
Ngay sau đó; Người ta thấy Phao Lô tức tốc chạy đi tìm các vị tông đồ kia để mà...; Giảng đạo về Chúa Jêsu một cách say sưa hơn các vị đó nữa! Các Vị tông đồ lấy làm ngạc nhiên vô cùng, nhưng cứ nữa nghi nữa ngờ. Không biết thực hay hư, bởi Phao Lô thường xuyên đi truy lùng bắt bớt mình mà nay sao lại có thể như thế cho được!? Các vị càng hồ nghi bao nhiêu. Phao Lô lại càng thuyết giảng hăng say hơn nữa bấy nhiêu!! Thậm chí Phao Lô còn lớn tiếng cả quyết rằng; Mọi người đều đang hiểu sai ý của Chúa Jêsu hết cả rồi!!!
Quả! Đầy bí ẩn và diệu kỳ thay!?
Phao Lô cứ nằng nặc và một mực quả quyết rằng đã có một sự kiện oan khốc xảy ra rồi. Và tất cả mọi người đang hiểu lầm về sự kiện đó, bao gồm cả nước trời như chúa Jêsu từng đã nói đến!? Ta xét thấy điều này qua câu nói của Phao Lô cùng Phê Rô là: Tôi biết trong các ông, có một người đã lên trời cùng với Chúa Jêsu rồi! Thế nhưng tôi không biết là Chúa trong người đó, hay là người đó trong Chúa nữa?... !?.
Vậy người đó trong nhóm các tông đồ mà Phao Lô đã nhắc đến là ai? Ta xét thấy ngoài tông đồ Giuda ra, thì không còn ai chết trong giai đoạn đó cùng với Chúa Jêsu nữa cả. Vậy tiền án này nhất định phải được tôi mang ra xem xét chi tiết cùng các bạn trong những bài viết sắp đến.
Chúng ta chỉ thấy trong giai đoạn đó không một ai tin Phao Lô được cả. Bởi một tình huống dỡ khóc dở cười mà các vị đã rơi vào hoàn cảnh khi đó là: Phao Lô vốn không phải là môn đồ mà Chúa đã chọn khi người còn sống! Lại có xuất thân là chính quyền (công an), thường xuyên đi truy lùng Chúa Jêsu và mọi người khi trước kia mà!? Nay lại còn đang giảng đạo của Chúa, khác hơn những gì mà các tông đồ đang hiểu và rao giảng với mọi người nữa!!!
Rất quái lạ! Và không thể nào hiểu nổi, có nên tin hay không!?
Tóm lại là các tông đồ trong thời điểm đó rất hoang mang vô cùng. Phao Lô uất ức. Ta thấy ông vội rao giảng ra tất cả các dân ngoại ở trên khắp thế gian. Bởi lúc đó 12 vị kia chỉ rao giảng trong dân nội là người Do Thái mà thôi. Và sở dĩ ngày nay ta thấy Đạo Thiên Chúa được truyền ra khắp thế giới là có xuất xứ chính bởi từ tông đồ thứ 13 này, chứ không phải từ 12 tông đồ đầu tiên.
Ta xét kỹ càng theo hành động trong ngày đó của Phao Lô cốt ý là ở chỗ: Người quyết rao tin này ra khắp thế gian. Mục đích là đi tìm cho bằng được một kẻ công bình nào đó, về để xem xét lại những sự việc oan khốc trong nội bộ của Nhà Chúa! Bởi chỉ có người ngoài mới có đủ tính công bình mà xem xét thấu đáo một cách bàng quan cho được. Nội bộ nhất định phải có sự thiên vị hay cả nể. Từ đó sẽ dẫn đến việc xét, sử sai lạc đi sự thật vốn đã bị chôn vùi rồi. Có một ấn định của Chúa ở đây là ngày phán xét sẽ có trong ngày sau. Phàm, nếu đã là phán xét, ắt là có oan khốc rồi vậy. Bởi nếu không có oan, tất sẽ không có phán xét.
Thế cho nên ta dõi theo hành tung của tông đồ Phao Lô thì sẽ thấy: Ông đi đến địa phương nào rao giảng xong, là lập ra Hội Thánh ở xứ đó để tiếp tục trách nhiệm mà ông đã giao phó. Sau đó ông lại đi đến xứ khác..., khác nữa..., và khác nữa...
Cứ thế... Mỗi khi ông nghe tin Hội Thánh ở xứ nào có biểu hiện tìm ra được một kẻ đạt đủ tiêu chí đó. Ông tức tốc quay trở về xứ của Hội Thánh đó mà kiểm tra... năng lực! Thấy không hội đủ khả năng mà ông cần tìm. Ông lại lên đường và tiếp tục sứ mệnh thiên khải đó cho riêng ông. Và ông cũng đã lập đủ và đúng tất cả là 12 Hội Thánh!
Đến cuối đời; Ông đã cất lên một câu rằng: Tôi đã làm xong phần việc của mình trên thế gian này!! Ta xét thấy nhà Bác học Einsten tuy trước đó có phần ngạo mạn đối với Chúa. Tuy nhiên đến cuối đời cũng đã phải lập lại câu nói này của Thánh Phao Lô!!!
Lại xét và so sánh giữa Kinh Thánh và Kinh Phật, ta thấy có những khác biệt rất rõ ràng ở chỗ: Kinh Phật xưa nay là rất tùy tiện mà ghi chép hay ấn tống. Người ta có quyền xóa bớt hay thêm thắt tùy theo góc nhận thức của một cá nhân nào đó! Thậm chí cũng có rất nhiều kinh được viết ra từ những quan điểm của riêng một thiền sư bất kỳ, chợt thâm nhập cảnh giới từ nẻo thiền. Tôi điển hình như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa chẳng hạn. Hơn 20 năm về trước. Ngay trong trang đầu tiên luôn có hàng chữ: Kinh này chỉ dùng riêng để giáo hóa hàng Bồ Tát. Thế nhưng hiện nay thì dòng chữ này đã bị xóa mất!?
Riêng về Kinh Chúa thì bất khả thêm bớt, bất khả chạm đến đối với bất cứ ai. Cho dù chỉ là một chấm hay một phết trong đó!!! Điều đối lập nổi bật giữa hai giáo phái này là triết lý của Nhà Phật thì nói về cái không. Trong khi đó thì triết lý của Chúa là nói đến những điều hằng có!
Như thế, những điều oan khốc này, nhất định sự công bình đòi hỏi phải được xem xét đến trước khi nhân loại có thể bước vào miền địa đàng như Chúa đã từng hứa. Bởi nước Thiên Đàng của Chúa đó; Không hề mở cửa cho bất kỳ sự oan khốc nào còn bị che khất được. Cho dù sự bí mật đó bị vùi lấp và lạc mất ở đâu đó..., tận hồn linh cốt tủy của mỗi cá nhân.
Không hề.
Nhân loại nhất định; Bằng bất kỳ giá nào cũng phải tìm cho bằng được sự lạc mất đó. Bằng không, sự đào thải tất phải đến...
Vậy ta cùng tạm tính toán xem sự đào thải đó của thời gian. Có chu kỳ sự vận hành như thế nào nhé. Ta sử dụng di bảo của giống nòi Thần Tiên, bao gồm cả Lịch Sử dân tộc lẫn Kinh Dịch mà xem xét sự vận hành đó như sau:
Dĩ nhiên cột mốc thời gian phải được tính từ lúc nước chia đôi dòng từ cội nguồn và tìm về gặp nhau là thời điểm 1975. Vậy hiện nay khi chúng ta đang tham khảo sự việc này thì thời gian thể hiện giá trị là 2017.
Ta có 2017 - 1975 = 42 năm. Chính xác với hệ số mà Phật đắc đạo! Vậy ta xét khắp trong lục cõi... Thể hiện là hệ số 6. Vậy 42 + 6 = 48 năm. Lại một dị bản nữa của số ngày mà Phật đắc đạo.
Đó là năm 2023.
Thật ra nếu tri thức ta đủ. Ta sẽ thấy ngay hệ số mà tất cả các tôn giáo nói chung trên toàn cầu xưa nay. Đều trong cùng một quy luật của đạo pháp này không sai. Đó chính là điều mà Chúa Trời đã khẳng định thuở người tạo dựng mô hình theo trật tự tự nhiên cũa vũ trụ là 6 ngày + một ngày nghỉ là 7.
Và cũng ngay sau đó; Loài người cũng vì tham vọng mà anh em sát hại lẫn nhau. Người đã nguyền một câu như là hình phạt mà nhân loại phải mang lấy: 7 x 7 = 49 ngày. Thế cho nên mọi pháp thiền đều nhất thiết phải đủ 49 ngày để có thể bước qua không gian phía bên kia của chiều thứ tư. Làm gì có lối nào khác cho bất kể ai ở đây cho được. Cho dù kẻ đó có là một vị giáo chủ hay học giả, triết gia, bác học v.v..., nào khác.
Thế cho nên những ai là phàm tục hiện nay, chớ có u mê mà nói cuồng ngông mãi... về những điều mà mình chưa bao giờ có thể biết được tới.
Trong khi: Từ Biết cho tới Hiểu. Lại còn là cả một quá trình không có thể san bằng trong một sớm một chiều cho được.
Ý thức được điều này: Chúng ta lại tiếp tục tham gia cùng nhau bình luận, để trao đổi và mài dũa tri thức mà không ngại sơ xuất.


Sửa bởi MikeDo: 08/04/2018 - 01:11


Thanked by 3 Members:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |