Bây giờ ta thử xét ví dụ số 1 mà Vương Khánh dùng để chứng minh cho lý thuyết của mình là đúng ra sao ?
“Ví dụ 1: Càn tạo: Giáp Dần-Đinh Mão-Ất Sửu-Ất Dậu
Đại vận: Tân Mùi Lưu niên: Kỷ Sửu
Thân vượng Kiếp vượng, vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng địa chi Sát có Tài sinh có thể dùng được, nhưng trên thực tế vấn đề xảy ra ngay chỗ Sát này. Thất Sát là hung thần, không có chế hóa mà lại có nguồn; mà xung quanh nhật chủ không có Ấn tinh hộ vệ, Thực Thần thì yếu nên khó dùng, không hề có chút lực để kháng kích Thất Sát, điềm đại hung. Đại vận Tân Mùi Sát thấu, ứng kỳ đến, lưu niên Kỷ Sửu bị ung thư không chữa khỏi mà chết“.
Ví dụ này Vương Khánh luận theo Cách Cục pháp cho ta thấy cái cốt tủy mà Vương Khánh sử dụng là coi Sát, Thương, Kiêu, Kiếp luôn luôn là các hung thần nên cần được chế ngự, nếu không được chế ngự sẽ là “điềm đại hung“.
Ở ví dụ này vì Sát không được chế ngự, cho nên Vương Khánh cho rằng vào đại vận Sát (Tân) đương số bị ung thư chết thì đó chính là bằng chứng để chứng minh cho lý thuyết mà Vương Khánh đã đưa ra là đúng.
Vậy thì ta thử xem có đúng là Sát (Tân) ở ví dụ này đã gây ra tai họa hay không ?
Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn năm Kỷ Sửu theo phương pháp của tôi:
Qua kết quả tính toán này ta thấy Thân là Mộc hơn Thổ và Kim gần 30đv nên gọi là ngũ hành thiên lêch, nó thường là xấu (trừ ngoại cách). Theo lý thuyết của tôi thì Tứ Trụ này có Mộc là hành kỵ vượng và điểm hạn của nó được tăng gấp đôi.
Nhưng may mới chỉ đượi coi là thiên lệch chứ chưa phải tới mức độ xấu nhất là thiên khô (thường được gọi là Mệnh thiên khô) vì có Thực thần Đinh xì hơi Thân.
Ví dụ này cái xấu nhất không phải là “Sát không có chế hóa còn được Tài sinh“ như Vương Khánh nói mà là Thân quá cường vượng nhưng lại không thể Tòng nên thành cách cực xấu. Tài Sát ở đây có thể nói là vô dụng đối với Thân cho nên dụng thần đầu tiên phải lấy là Thực Thương (ở đây Thực Thương mới thực sự được gọi là Thọ tinh).
Năm Kỷ Sửu thuộc đại vận Tân Mùi, có 2 tiểu vận là Canh Thân và Tân Dậu. Ta thấy vào đại vận Tân Mùi có Mão trụ tháng hợp với Mùi đại vận hóa Mộc và Sửu trụ ngày hợp với Dậu trụ giờ hóa Kim. Kim cục không khắc được Mộc cục (vì Kim cục chỉ có các chi trong Tứ Trụ) nên không gây ra Đại Chiến.
Đến năm Kỷ Sửu có Giáp trụ năm hợp với Kỷ lưu niên không hóa Thổ (vì Kỷ tọa Sửu) và Kim cục trong Tứ Trụ hợp với Sửu thái tuế hóa Kim đã gây ra đại chiến (vì lúc này Kim cục khắc được Mộc cục). Do Kim cục gây ra Đại Chiến nên điểm vượng trong vùng tâm không phải tính lại (?).
Qua sơ đồ tính toán này thì Sát đại vận là Tân nhược cả ở tuế và vận nên không những không khắc được 2 Ất trong Tứ Trụ mà ngược lại còn bị Đinh trụ tháng là Thực thần vượng ở đại vận khắc chế. Nếu theo Vương Khánh thì Sát là hung thần bị Thực thần vượng chế ngự thì phải là tốt chứ sao lại bị ung thư mà chết như vậy ? Điều này quá đủ để khẳng định lý thuyết mà Vương Khánh đưa ra là Sát không có chế hóa mới là hung thần gây ra tai họa này là sai.
Rõ ràng cái chết này hoàn toàn không dính dáng gì tới Sát đại vận cả, kể cả khi không có Thực thần Đinh chế Sát đại vận (vì Sát đại vận không khắc được 2 Ất).
Vậy thì cái gì mới là nguyên nhân chính gây lên cái chết này ?
Nhìn vào sơ đồ ta có thể biết ngay không chỉ có tới 3,25đh do Đại Chiến gây ra là quá đáng sợ rồi mà (2.0,5).4 đh = 4đh của kỵ vượng còn đáng sợ hơn là vì do Thân mộc quá cường vượng nên Mộc không những có điểm kỵ vượng mà điểm này còn được nhân gấp đôi (do Thân có tới 20đv lớn hơn hỷ dụng thần). Nếu không có 4đh này thì tổng số không phải là 6,75đh mà chỉ là 2,75đh thì không thể gây ra bất kỳ tai họa nào cả, cho dù có gây ra Đại Chiến.
Đại chiến nó chỉ là một điều không may xẩy ra cho bất cứ Tứ Trụ nào, cho dù Tứ Trụ đó thuộc cách cục thấp hay cách cục cao, là mệnh nghèo hèn hay mệnh phú quý nhưng ngũ hành thiên lệch như của Tứ Trụ này thì nó đã tiềm ẩn tai họa ngay trong Tứ Trụ từ khi mới sinh và nó sẽ theo người đó đến hết cuộc đời.
Nói về ngũ hành thiên lệch hay mệnh thiên khô thì ai ai nghiên cứu Tử Bình đều biết cả nhưng thời điểm nó gây ra tai họa như ví dụ này thì mấy ai dự đoán được. Bằng chứng ở đây là chính Vương Khánh sau 26 năm nghiên cứu Tử Bình vẫn “Mù Văn Tịt“.
Nếu ai đó không tin, vậy thì thử hỏi có cuốn sách nào hay người nào đã nói tới khái niệm về điểm kỵ vượng này bao giờ chưa ?
Bây giờ chúng ta thử áp dụng lý thuyết Ta với Đất và Trời của Vương Khánh vào ví dụ này xem sao ?
Vương Khánh viết :
“thần nắm lệnh của tháng là chủ khí của trời“, ý nói là hành của lệnh tháng là Mộc ở đây sẽ là “khí chủ về Trời“.
“thập thần tích cực nổi trội nhất trong thiên can là chủ khí của đất“, ý nói Kiếp tài là Giáp mang hành Mộc là hành nổi trội nhất trong các thiên can ở ví dụ này sẽ được gọi là “chủ khí của Đất“
Và Vương Khánh đã viết :
“Vượng suy pháp và cách cục pháp có 3 điểm lớn khu biệt với nhau:
A. Trung tâm điểm luận mệnh (thái cực điểm) không giống nhau.
Vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm điểm luận mệnh,cách cục pháp lấy chủ khí của trời và đất làm trung tâm điểm luận mệnh. Trên thực tế là sự khác biệt cực lớn của 2 loại nhân sinh quan, nhân sinh lấy "ta"làm trung tâm, hay là lấy "tự nhiên trời đất" làm trung tâm”.
Ý câu này Vương Khánh muốn nói ”Vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm - Ta làm trung tâm” tức lấy hành của Nhật can làm trung tâm mà hành của Nhật can là Ta ở ví dụ này là Mộc.
Rõ ràng ở ví dụ này Ta với Đất và Trời đều là Mộc cả, vậy thì Vương Khánh sẽ phải giải thích ra sao ?
Và càng rõ ràng là các điểm kỵ vượng ở ví dụ này chính là Ta đã phản lại Ta để gây ra tai họa cho chính Ta thì còn nghi ngờ gì nữa ?
Cho nên tôi mới nói Ta, Đất và Trời đều là ngũ hành của trời đất cả là ý như vậy. Chứ không thể nhìn một cách Thiển Cận và Ấu Trĩ như Vương Khánh được.
Sửa bởi VULONG777: 18/06/2016 - 11:08
Read more:
TuViLySo.Org
Tôi đã dùng cả "Cách Cục Pháp" và "Vượng Suy Pháp" để luận ví dụ này. Không biết lý thuyết "Cách Cục Pháp" của Vương Khánh có gì khác với lý thuyết "Cách Cục Pháp" của Trầm Hiếu Chiêm hay không ? Nếu có khác thì yêu cầu Hjmama cho biết.
Phần của tôi đã xong xin mời đến lượt Hijmama trả bài.