--------------------
Trước tiên, câu hỏi tại sao Triệt không an tại cung Tuất/Hợi được đưa ra -> lý do bởi sự xoay vòng các can tháng trong năm xảy ra liền mạch và liên tục trong 60 năm; trong khi đó, mỗi năm có 12 tháng nhưng chỉ có 10 can để kết hợp với 12 tháng mà thôi; hơn nữa, có sự thay đổi trong lịch kiến Tý qua lịch kiến Dần - thành ra nhìn bằng mắt (cảm quang của thị giác) thì khó nhận biết được vấn đề này. Nay giả sử đổi năm âm lịch từ lịch kiến Dần qua lịch kiến Tý thì ta sẽ được bảng sau:
ta biết rằng trong một bảng hoa giáp có 60 năm, mà mỗi tuần giáp thì có 12 địa chi trong khi chỉ có 10 can, như vậy sự vận chuyển của tuần giáp trong 60 năm có 5 lần (60 : 12 = 5), thực ra là có 6 lần, nhưng lần thứ 6 trùng lắp với lần thứ 1 thành ra có 5 lần thôi. Triệt lộ không vong đánh dấu sự kết thúc của tuần giáp theo tháng - nhưng nếu để nguyên bảng lịch kiến Dần cho mỗi năm thì dễ thấy nhầm lẫn, vậy ta thử chuyển thành lịch kiến Tý thì sẽ thấy rõ ngay.
Giả sử chuyển thành lịch kiến Tý thì:
- Vòng thứ 1: áp dụng cho năm Giáp Kỷ, ta sẽ thấy vòng một này kết thúc tại Nhâm Thân, Quý Dậu nên đặt triệt tại đây. Nói cách khác, nó báo hiệu kết thúc của mười can tại vòng 1 để mười can của vòng 2 bắt đầu (nên trong bảng đề là "triệt của vòng 1").
- Vòng thứ hai: áp dụng cho năm Ất Canh, ta sẽ thấy vòng hai bắt đầu từ Bính Tý, thành ra sẽ kết thúc tại Nhâm Ngọ, Quý Mùi nên đặt "triệt" ở đây. Nói cách khác, nó báo hiệu kết thúc của mưới can tại vòng 2 để mười can của vòng 3 bắt đầu (nên trong bảng đề là "triệt của vòng 2").
- Vòng thứ 3: áp dụng cho năm Bính Tân, ta sẽ thấy vòng 3 bắt đầu từ năm từ Mậu Tý, thành ra kết thúc tại Nhâm Thìn, Quý Tị nên đặt "triệt" ở đây. Nói cách khác, nó báo hiệu kết thúc của mười can tại vòng 3 để mười can của vòng 4 bắt đầu (nên trong bảng đề là "triệt của vòng 3").
- Vòng 4: áp dụng cho năm Đinh Nhâm, ta sẽ thấy vòng 4 bắt đầu từ Canh Tý, thành ra kết thúc tại Nhâm Dần/Quý Mão nên đặt "triệt" ở đây. Nói cách khác, nó báo hiệu sự kết thúc của mười can tại vòng 4 để cho chu kỳ mười can tại vòng 5 bắt đầu (nên trong bảng đề là "triệt của vòng 4").
- Vòng 5: áp dụng cho các năm Mậu Quý, ta sẽ thấy vòng 5 bắt đầu từ Nhâm Tý, Quý Sửu - nhưng can Giáp/Ất của vòng 5 lại đóng tại cung Dần/Mão. Khi quy đổi ra lịch kiến Dần, ta sẽ tự nhiên thấy năm đó khởi đầu bằng Giáp Dần mà hai tháng cuối của năm Mậu Quý là Giáp Tý Ất Sửu chứ không phải Nhâm Tý Quý Sửu nữa.
--------------------------------
NGŨ CAN HỢP HÓA<p>
Giáp với Kỷ hợp hóa thổ; Ất với Canh hợp hóa Kim; Bính với Tân hợp hóa Thủy; Đinh với Nhâm hợp hóa Mộc; Mậu với Quý hợp hóa hỏa. Khảo nguyên nói rằng: ngũ hợp này tức là ngũ vị tương đắc mà đều hữu hợp, theo Hà đồ thì các cặp số:
- 1 & 6: thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi
- 2 & 7: địa nhị sinh hỏa, thiên thất thành chi
- 3 & 8: thiên tam sinh mộc, địa bát thành chi
- 4 & 9: địa tứ sinh kim, thiên cửu thành chi
- 5 & 10: thiên ngũ sinh thổ, địa thập thành chi
</p><p>
Lại lấy quy luật ngũ tý của lục giáp để:
- lấy năm khởi tháng (ví dụ năm Giáp thì khởi đầu tháng Giáp tý)
- lấy ngày khởi giờ (ví dụ ngày Giáp thì khởi đầu giờ Giáp Tý)
CỤ THỂ HỢP HÓA TRONG 6 CON GIÁP
việc hợp hóa được thuyết "ngũ vận, lục khí" miêu tả chi tiết. Cái gọi là ngũ vận bao gồm:
- năm Giáp Kỷ: thổ vận
- năm Ất Canh: kim vận
- năm Bính Tân: thủy vận
- năm Đinh Nhâm: mộc vận
- năm Mậu Quý: hỏa vận
- năm Giáp Kỷ: là khí Kim thiên (trời vàng)
- năm Ất Canh: là khí Tố thiên (trời nắng)
- năm Bính Tân: là khí Huyền thiên (trời huyền)
- năm Đinh Nhâm: là khí Thương thiên (trời xanh thẫm)
- Năm Mậu Quý: là khí Đan thiên (trời đỏ)
Sửa bởi huygen: 10/11/2015 - 18:58
đính chính