Jump to content

Advertisements




Giải Mã Tứ Trụ


68 replies to this topic

#16 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 00:12

II – Hung thần

A - Các hung thần có thể gây ra điểm hạn


1 – Kình Dương
Cách tra Kình Dương lấy Nhật can làm chủ xem Chi nào trong tứ trụ mà Nhật can ở trạng thái đế vượng thì Chi đó chính là Kình Dương (như Nhật can là Tân thì chi Thân nếu có trong tứ trụ thì nó là Kình Dương bởi vì Tân ở trạng thái đế vượng tại Thân).
Kình Dương có cát có hung nhưng phần nhiều chủ về hung. Trong đại vận người ta sợ nhất là gặp Kình Dương, nó chủ về sự trì trệ, tai họa, thương tật, của cải hao tán, .... và cũng chủ về những tội phạm pháp. Kình Dương kiêm ác sát thì tai họa vô cùng. Kình Dương không những sợ gặp Tuế quân mà còn sợ xung Tuế quân (thái tuế hay chi của lưu niên), cho nên nói “ Kình Dương xung Tuế quân là tai họa cực xấu “. Kình Dương tuy là sự cứng rắn nhưng nếu thân nhược gặp phải nó thì không thể cho là xấu, vì Kình Dương có công năng bảo vệ thân (tức là vì Chi cùng hành với Thân nên giúp cho thân bớt nhược). Phàm người có Lộc, cần phải có Kình Dương để bảo vệ, gặp Quan hay Sát và Ấn phải có Kình Dương mới tốt. Như thế gọi là “Quan Ấn tương trợ, nhờ có Kình Dương mới đem Lộc về“. Trong mệnh gặp Kình, Sát kiêm vượng thì càng thông đạt đến Ấn thụ (tức chức trọng và quyền cao), tức nhờ Kình Dương trợ uy mà đạt được. Cho nên có câu “gặp Sát mà không có Kình Dương thì không thành đạt, có Kình mà không có Sát thì không có uy, có cả Sát cả Kình thì lập công kiến hiệp, có thể thành tướng, soái“. Hay câu “Sát Ấn tương sinh còn có Kình Dương trợ giúp thì không gì là không quý hiển“. Nói chung người gặp Kình Dương nên làm việc thiện, kiềm chế mình, tôn trọng pháp luật .....thì tránh được điều xấu, giữ được an thân, nếu không thì suốt đời trắc trở.

2 - Kiếp Sát
Cách tra lấy chi năm hay chi ngày là chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Kiếp Sát chủ về hung, về các tai họa bệnh tật, bị thương, hình pháp, trong tứ trụ không gặp là tốt nhất. Nếu nó là kỵ thần thì tính tình cường bạo, gian hoạt sảo trá, thường chuốc lấy tai họa. Nếu là hỷ, dụng thần thì là người hiếu học, cầu tiến bộ, ham lập nghiệp, công việc chuyên cần, quả đoán trong công việc, dễ thành công.

3 – Tai Sát
Cách tra lấy chi năm làm chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tai Sát sợ khắc, nếu gặp sinh lại tốt (?). Trong tứ trụ nếu gặp Tai Sát thì phúc ít họa nhiều. Sát chủ về máu me, chết chóc. Nếu Sát thuộc hành Thủy hay Hỏa phải đề phòng bỏng, cháy; thuộc Kim hay Mộc đề phòng bị đánh; thuộc Thổ phải đề phòng ôn dịch (dịch bệnh) hay đổ sập của các vật (như tường, nhà,...). Tai Sát khắc thân là xấu, nếu có thần phúc cứu trợ, phần nhiều có quyền lực, cũnh như Kiếp Sát gặp Quan tinh, Ấn thụ là tốt.

4 – Vong Thần
Cách tra lấy chi năm hay chi ngày làm chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vong Thần cát (tức tốt) thì sắc sảo uy lực, mưu lược, tính toán liệu việc như thần, binh cơ ứng biến, cuối cùng rồi sẽ thắng, nói năng hùng biện, tuổi trẻ tiến nhanh. Nói là tốt tức là chỉ khi Thân vượng, Vong Thần là hỷ, dụng thần (tức hành của nó là hỷ hay dụng thần). Nói là xấu tức Thân nhược, Vong thần là kỵ thần, là người ngông cuồng đảo điên, trắng đen thị phi lẫn lộn, lòng dạ hẹp hòi, đam mê tửu sắc, việc quan kiện tụng, phạm quân pháp. Mệnh (tứ trụ) đã có tuần Không Vong còn gặp Vong Thần thì họa không nhẹ, nghèo đói suốt đời (?).
Với phương pháp của tôi Vong Thần luôn luôn có điểm hạn dương (xấu).

5 – Nguyên Thần
Cách tra lấy chi năm làm chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau:
Với nam sinh các năm dương và nữ sinh các năm âm (dấu của can của năm sinh - tức trụ năm) là năm:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Với nam sinh các năm âm và nữ sinh các năm dương:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Mệnh gặp Nguyên thần thường tướng mạo xấu, thô cứng, giọng khàn đục, tính cách cũng vậy. Tuế Vận (lưu niên và đại vận) gặp Nguyên thần như cây gặp gió, bị xô lắc đảo điên, không được bình yên, không có bệnh trong thì gặp nạn ngoài, tuy có phú quý cao sang nhưng không thịnh. Đại vận gặp Nguyên thần thì cả 10 năm đáng sợ, không yên ổn, cửa nhà lận đận, nếu có cát thần phù hộ thì mới đỡ phần nào .
Nguyên Thần tuy xấu, lưu niên đại vận gặp là không tốt, nhưng biết được điều xấu, tránh xa phương của Nguyên Thần (phương mang hành của Nguyên thần) thì có thể vô hại.

6 - Cấu và Giảo
Cách tra lấy chi năm làm chủ.
Với nam sinh các năm dương và nữ sinh các năm âm thì xem trong tứ trụ có ngôi thứ ba sau mệnh (chi của trụ năm - năm sinh và tính theo theo bảng 60 năm Giáp Tý) là Cấu ngôi thứ ba trước mệnh là Giảo.
Với nam sinh các năm âm, nữ sinh các năm dương thì ngôi thứ ba sau mệnh là Giảo, ngôi thứ ba trước mệnh là Cấu.

Ví dụ:
Nếu nam sinh năm Canh Ngọ (nó là năm dương bởi vì can năm của nó là Canh là can dương) thì ngôi thứ ba sau năm Ngọ (mệnh) là Dậu tức là Cấu, ngôi thứ ba trước Ngọ là Mão tức là Giảo.
Nữ sinh năm dương là Canh Ngọ (1990) thì ngôi thứ ba sau Ngọ là Dậu tức là Giảo còn ngôi thứ ba trước Ngọ là Mão tức là Cấu.
Những cái khác tính tương tự.
Mệnh gặp hai sát đó thân thường bị sát khắc, nhưng có nhiều cơ mưu, chủ về nắm các việc hình phạt hay sát phạt hoặc là tướng soái. Năm hành đến đó thường gặp chuyện cãi cọ, hình phạt. Cả hai cùng gặp càng nặng, đi với sát càng nặng. Trụ ngày và tuế vận nhất là thái tuế cùng gặp Cấu hay Giảo là chủ về tai nạn nát thân.

7 – Không Vong
Nếu trụ ngày trong tứ trụ là Giáp Tý thì nó được gọi là Tuần Giáp Tý, nó có nghĩa là ở đây mỗi Tuần chỉ có 10 ngày tính từ trụ ngày Giáp Tý theo chiều thuận của bảng nạp âm là Giáp Tý (1), Ất Sửu (2), Bính Dần (3), Đinh Mão (4), Mậu Thìn (5), Kỷ Tị (6), Canh Ngọ (7), Tân Mùi (8), Nhâm Thân (9) và Quý Dậu (10), nó không có ngày Giáp Tuất (11) và Ất Hợi (12), cho nên các chi Tuất và Hợi được gọi là Không Vong của trụ ngày Giáp Tý bởi vì trong Tuần Giáp Tý không có các chi là Tuất và Hợi.
Cách tra Không Vong là lấy trụ ngày trong tứ trụ làm chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sát của tuần Không Vong có cát có hung. Nếu tứ trụ có hung tinh, ác sát thì đó là đất tụ hội của tai họa, đều cần có Không Vong giải cứu. Nếu là đất Lộc, Mã, Tài, Quan thì đó là nơi phúc tụ, không nên gặp Không Vong vì sẽ bị nó làm cho tiêu tan.

8 – Thiên la và địa võng
Thìn của trụ năm hay trụ ngày gặp Tị hay Tị của trụ năm hay trụ ngày gặp Thìn trong tứ trụ là Thiên La.
Tuất của trụ năm hay trụ ngày gặp Hợi hay Hợi của trụ năm hay trụ ngày gặp Tuất trong tứ trụ là Địa Võng.

Cách tra lấy chi năm hay chi ngày làm chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thiên la và địa võng là hung thần ác sát, là một trong những tiêu chí lao tù. Nếu trong tứ trụ có Thiên la hay Địa võng còn thêm tam hình thì khi gặp tuế vận khó tránh khỏi tù đầy.
Nếu trong tứ trụ có thiên la hay địa võng thì nó chỉ có thể gây ra điểm hạn khi nó gặp lưu niên.

9 - Tứ phế

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua đây ta thấy trụ ngày mà can và chi của nó có hành giống nhau (trừ hành Thổ) và sinh vào các tháng thuộc mùa có hành xung khắc với nó thì nó là Tứ Phế.
Tứ Phế chủ về thân yếu (?), nhiều bệnh, không có năng lực (?) nếu không gặp sinh, phù trợ mà còn bị khắc, hại, hung sát áp chế thì chủ về thương tật tàn phế, kiện tụng cửa quan, thậm chí bị giam, hoặc là người theo tăng đạo. Cho nên trong tứ trụ, cho dù là năm tháng ngày giờ gặp phải đều không tốt, nhất là trụ ngày.

A - Các hung thần chưa xác định được điểm hạn

1 - Thập ác-đại bại

Cách tra nếu ngày sinh là một trong các các tổ hợp can chi sau đây là có Thập ác đại bại
Giáp Thìn, Ất Tỵ, Nhâm Thân, Bính Thân, Đinh Hợi, Canh Thìn, Mậu Tuất, Quý Hợi, Tân Tị, Kỷ Sửu.
Thập ác như là người phạm mười trọng tội trong luật pháp, không được ân xá hay giảm. Đại bại là như trong luật nhà binh giao tranh thất bại, chết không sót một ai, nghĩa là rất nặng nề. Ngày Thập ác đại bại là ngày hung, cổ xưa giao chiến rất kiêng kỵ. Ngay nay nó thường được dùng để kiêng kỵ khi xuất hành, khởi sự công việc hay hỷ sự.
Ngày Thập ác đại bại là “Kho vàng bạc hóa thành cát bụi“, nếu gặp cát thần phù trợ, quý khí trợ giúp thì còn tốt, nếu gặp Thiên đức, Nguyệt đức thì không còn là điều kiêng kỵ nữa, nếu gặp sao Tài sao Quan ngược lại là phúc. Năm can chi và ngày can chi xung khắc nhau lại là gặp cát thần quý nhân giúp đỡ.

2 – Âm Dương sai lệch
Cách tra lấy trụ ngày làm chủ tìm các tổ hợp can chi trong tứ trụ như sau:
Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi .
Âm Dương sai lệch là thông tin về hôn nhân không thuận dễ dẫn đến vợ chồng bất hòa, ly hôn, nặng thì người phối hôn dễ bị bệnh tật. Bất kể là nam hay nữ, tháng, ngày, giờ mà có hai cái hay ba cái trùng nhau là rất nặng.
(Riêng hung thần này chỉ gây ra điểm hạn cho người phối hôn.)

3 – Hàm Trì (hay Đào Hoa)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hàm Trì chủ về sự đòi hỏi sinh lý khá cao nhưng phàm người có Hàm Trì thì thường khéo tay, phong lưu, đẹp, tính nóng nhưng giỏi nhiều nghề, phần nhiều là nghệ nhân. Sự hiểu biết, linh lợi, thông minh,... chính là nguồn tiến bộ của văn hóa, nghệ thuật.... Có rất nhiều bậc quan quý cao sang, thương gia giầu có, nhiều nghệ sĩ và nhà khoa học, danh nhân tướng soái đều có Hàm Trì. Nhưng khi tổ hợp trong tứ trụ không tốt là chủ về sự phong lưu trăng gió, quan hệ mờ ám giữa nam nữ. Với nữ, nếu trong tứ trụ không có Quan hay Sát, nhất là Quan hoặc có cả Quan và Sát mà :
a - Có cả sao Hàm Trì và Hồng Diễm.
b - Sao Hàm Trì hợp với cung phối hôn (chi trụ ngày) hóa cục có hành sinh cho Nhật Can.
c - Sao Hàm Trì và Hồng diễm cùng trụ.
d - Sao Hàm Trì ở trụ giờ.
Thì những người này phần nhiều làm nghề mãi dâm (nếu trong tứ trụ có 2 hay 3 trong 4 thông tin này).

4 - Hồng Diễm
Cách tra sao Hồng Diễm là lấy can ngày hay can năm làm chủ tìm trong tứ trụ gặp những chi sau là có Hồng Diễm:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sao Hồng Diễm đại diện cho người có khả năng hấp dẫn, lôi cuốn những người khác giới tính bởi tính tình cởi mở hay có thân thể quyến rũ....của họ. Nếu nữ mệnh gặp phải Hồng Diễm mà nó không bị xung hay hợp thì rất xấu (?), nhất là có thêm sao Hàm Tri (Đào Hoa).

Bảng tra thần sát theo địa chi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Bảng tra thần sát theo thiên can

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Chỉ có các cát thần và hung thần có trong 2 bảng trên khi xuất hiện trên tuế vận và tiểu vận mới có khả năng gây ra hạn hoặc giải được hạn (trừ âm dương sai lệch).
Vì mục đích của cuốn sách này là phương pháp tìm các điểm hạn nên ở đây chỉ lập các bảng tra các thần sát có khả năng gây ra điểm hạn, còn các thần sát khác bạn đọc tự lập lấy bảng để tra.

Thanked by 1 Member:

#17 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 00:19

Chương 8

Sơ đồ biểu diễn tứ trụ, tuế vận và tiểu vận

I - Quy ước biểu diễn Tứ trụ, tuế vận và tiểu vận

Ví dụ : Nam sinh ngày 11/10/1987 lúc 16,00’.
1 - Xác định tứ trụ, các đại vận và thời gian của chúng
2 - Xác định lưu niên và tiểu vận của tứ trụ này vào ngày 10 tháng 6 năm 2006.
3 - Xác định tất cả các cát thần và hung thần của tứ trụ này .

Điều bắt buộc của tuần thứ nhất là bạn đọc phải trả lời đúng 3 câu hỏi này.

Đáp án :

1 – Nam mệnh có tứ trụ :

Đinh Mão – Canh Tuất – ngày Quý Tị - Canh Thân

Các đại vận và thời gian của chúng :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Đại vận đầu tiên của người này là Kỷ Dậu, nó bắt đầu vào tháng 6/1988 (khi người này 1 tuổi) tới 6/1998 bởi vì mỗi đại vận chỉ kéo dài đúng 10 năm. Vì vậy đại vận thứ 2 là Mậu Thân từ 6/1998 tới 6/2008, tiếp Đinh Mùi từ 6/2008 tới 6/2018, Bính Ngọ từ 6/2018 tới 6/2028,......

2 - Ngày 10/6/2006, đó là năm (lưu niên) Bính Tuất thuộc đại vận Mậu Thân và tiểu vận Tân Sửu (bởi vì lưu niên Bính Tuất có 2 tiểu vận là Tân Sửu và Canh Tý, nhưng ngày 10 tháng 6 chưa qua ngày sinh nhật 11 thánmg 10 nên nó vẫn còn ở tiểu vận Tân Sửu).

3 - Sơ đồ biểu diễn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



a - Hình chữ nhật phía trên :
Giữa can chi cùng 1 trụ ghi nạp âm của trụ đó.
Trụ Mậu Thân là đại vận:
Trụ Bính Tuất là lưu niên (năm) 2006.
Năm 2006 người này 19 tuổi (2006 – 1987 = 19), số 19 viết phía dưới can của lưu niên, còn năm 2006 viết phía trên thái tuế (chi của lưu niên).
Con số 10/6 là ngày 10 tháng 6 năm 2006, đó là ngày và tháng của lưu niên (năm) 2006 là ngày Canh Ngọ và tháng Giáp Ngọ.
Trước ngày sinh nhật (11/10) người này ở tiểu vận Tân Sửu, sau ngày sinh nhật (11/10) mới sang tiểu vận Canh Tý được viết trong 2 hình tứ giác phía trong hình chữ nhật (ý muốn nói tiểu vận chỉ có tác động được tới đại vận và lưu niên).

b - Hình chữ nhật phía dưới :
Giữa can chi của cùng 1 trụ ghi nạp âm của trụ đó.
Trụ đầu tiên là trụ của năm sinh là Đinh Mão.
Trụ thứ hai là trụ của tháng sinh là Canh Tuất.
Trụ thứ ba là trụ của ngày sinh là Quý Tị.
Trụ thứ tư là trụ của giờ sinh là Canh Thân.
11/10 lúc 16,00’ là ngày, tháng và giờ sinh của người này được viết dưới nạp âm của trụ ngày.
9/10 lúc 4,00’ là giờ, ngày và tháng thay đổi lệnh tháng - giao lệnh (tức là mốc thời gian thay đổi từ tháng này sang tháng tiếp sau) từ tháng 9 tới tháng 10 là tháng sinh của anh ta (mục đích để xác định thời gian bắt đầu đại vận đầu tiên), chúng cũng được viết dưới nạp âm của trụ ngày (ở bên trái 11/10 và 16,00’ với nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương còn ở bên phải với nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm).
1987 là năm sinh của anh ta được viết phía trên chi của trụ năm

c - Cách để xác định trạng thái của các can chi :

Bước đầu tiên :
Các trạng thái (hay điểm vượng) của các can hay các chi trong tứ trụ được xác định theo lệnh tháng (tức là chi của trụ của tháng sinh), còn can đại vận được xác định theo chi đại vận, can lưu niên được xác định theo chi của lưu niên và can tiểu vận được xác định theo chi tiểu vận, tất cả các trạng thái (điểm vượng) của các can chi này được ghi bên phải ngay cạnh chúng.

Bước thứ hai :
Nếu các can đều nhược ở tuế vận thì viết là 0/0 (riêng can lưu niên thì viết số 0), còn nếu các can chỉ vượng ở đại vận (ta giả sử là Mộc Dục) nhưng nhược ở lưu niên thì viết là Mộc Dục/2, còn nếu vượng ở lưu niên thì viết chính trạng thái đó, tất cả các trạng thái này được viết phía trên các can của chúng

4 - Các cát thần và hung thần của tứ trụ .
Các cát thần của tứ trụ này có thể giải được hạn là :
Sinh tháng Tuất có Bính là Nguyệt đức, Bính và Đinh là Đức quý nhân, Quý và Mậu là Tú quý nhân và Bính là Thiên đức quý nhân.
Can của trụ năm là Đinh và can của trụ ngày là Quý có Hợi, Dậu, Mão và Tị là Thiên ất quý nhân cũng như Dậu và Mão là Văn xương quý nhân.
Các cát thần này được viết tắt là:
Bính,bính,đinh,quý,mậu,bính,hợi,dậu,mão,tị,dậu,mão.
Có tất cả 12 cát thần trong tứ trụ này.

Các hung thần của tứ trụ này có thể gây ra điểm hạn là :
Mão trụ năm có Thân là Kiếp sát và Dậu là tai sát và Dần là Vong thần.
Chi Tị trụ ngày có Dần là Kiếp sát và Thân là Vong thần.
Nam sinh năm âm (Đinh) Nguyên thần của chi Mão trụ năm là Thân và Cấu giảo là Tý và Ngọ.
Trụ ngày là Quý Tị, vì vậy Không Vong là Ngọ và Mùi.
Các hung thần này được viết tắt là :
Thân,dậu,dân,dần,thân,thân,tý,ngọ,ngọ,mùi.
Có tất cả 10 hung thần của tứ trụ này.

Tất cả các cát thần và hung thần này khi xuất hiện ở tuế vận hay ở tiểu vận mới có khả năng gây ra điểm hạn, riêng tứ phế chỉ có điểm hạn khi nó ở trụ ngày.

Thanked by 3 Members:

#18 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 10:42



Chương trìng Tứ Trụ trung cấp

Tuần Thứ Hai


Phương pháp xác định Thân vượng hay nhược

Chương 9 : Thân và vùng tâm

I – Thân và vùng tâm


1 - Thân

Hành và vị trí của can ngày (Nhật Can) được gọi là Nhật Chủ hay Thân, nó đại diện cho người có tứ trụ này. Can ngày chỉ có 1 điểm vượng ở lệnh tháng của bảng sinh vượng tử tuyệt nhưng Nhật Chủ hay Thân lại có điểm vượng của hành của can ngày ở vùng tâm.

2 - Vùng tâm và vùng ngoài

Sơ đồ 1 (chỉ để minh họa):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này ta thấy can ngày là Kỷ mang hành Thổ nên Nhật Chủ hay Thân của người có tứ trụ này là Thổ. Muốn xem Thân của tứ trụ này là vượng hay nhược (tức là ta phải xem hành Thổ của tứ trụ ở tại vị trí của can ngày là vượng hay nhược so với 4 hành còn lại là Kim, Thủy, Mộc và Hỏa) thì đầu tiên ta phải xem trong tứ trụ này có nhiều can chi mang hành Thổ và chúng có được lệnh hay không cũng như các can chi khác sinh hay khắc với can chi mang hành Thổ này là mạnh hay yếu.... . Sau đó ta phải xét xem độ vượng còn lại của các can chi Thổ này giúp đỡ Nhật Can được nhiều hay ít, dĩ nhiên sự giúp đỡ này phụ thuộc vào khoảng cách xa hay gần của chúng với Nhật Can. Hoàn toàn tương tự khi ta xét độ vượng còn lại của các can chi của các hành khác tác động đến Nhật Can mạnh hay yếu cũng phụ thuộc vào khoảng cách của chúng với Nhật Can như vậy. Cuối cùng ta phải xác định được một vùng mà độ vượng còn lại của các can chi này tác động tới Nhật Can không còn phụ thuộc vào khoảng cách - vùng đó được gọi là Vùng Tâm. Trong vùng tâm ta chỉ việc cộng độ vượng của tất cả các can chi cùng hành với nhau, sau đó ta so sánh Thân (độ vượng của hành của Nhật Can) với các hành khác xem nó là mạnh hay yếu (lớn hơn hay nhỏ hơn).

Do vậy nếu ta lấy Nhật Can Kỷ làm tâm điểm thì thấy gần nó nhất có can tháng, can giờ và chi ngày. Ta gọi vùng tâm là vùng hình học phẳng phía trong của chữ V chứa can tháng Canh, can ngày Kỷ, can giờ Đinh và chi ngày Sửu, còn can Nhâm trụ năm và các chi Thân, Tuất và Mão là ở ngoài chữ V (tức ở bên ngoài của vùng tâm).

Qua đây chúng ta thấy các can tàng trong các chi của tứ trụ, mặc dù chúng có điểm vượng theo trạng thái của chúng tại lệnh tháng, nhưng các điểm vượng này không được tính trong vùng tâm (mặc dù các thần hay các hành mà các can tàng này đại diện vẫn có trong tứ trụ).

3 - Các quy ước trên sơ đồ :
a – Tại các góc của các hình chữ nhật trên là vị trí của các can và chi trong tứ trụ.
b - Các can chi trong chữ V được coi là ở trong vùng tâm còn các can chi ở ngoài chữ V được xem là ở vùng ngoài.
c – Hai can chi được coi là gần với nhau khi chúng không phải đi qua một can chi nào cả.
d – Hai can chi bị coi là cách một ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 1 can hay 1 chi.
e – Hai can chi bị coi là cách 2 ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 2 can chi.
f – Hai can chi bị coi là cách 3 ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 3 can chi.

4 - Khả năng khắc nhau của các can chi trong tứ trụ
(Chú ý: Ở phần “Xác định Thân vượng hay nhược” này chỉ xét sự khắc của Ngũ Hành)

a - Can và chi cùng trụ khắc với nhau được gọi là khắc trực tiếp. Can hay chi bị khắc trực tiếp bị giảm ½ đv (điểm vượng) của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh của can hay chi cùng trụ cũng như nó không sinh hay khắc được với các can hay chi khác.
b - Can hay chi bị khắc gần (tức không cùng trụ) bị giảm 1/3đv của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh cũng như nó không sinh hay khắc được với các can chi khác.
c – Nếu can hay chi bị khắc cách 1 ngôi thì nó bị giảm 1/5v của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận được sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác.
d – Nếu can hay chi bị khắc cách 2 ngôi thì nó bị giảm 1/10đv của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận được sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác.
e – Nếu can chi bị khắc cách 3 ngôi thì nó bị giảm 1/20đv của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác.

f - Các can hay chi trong cùng tổ hợp không hóa luôn luôn khắc được với nhau.

5 – Các can hay chi ở trong hay ngoài hợp của tứ trụ sinh hay khắc với nhau
a – Nếu các can hay chi trong cùng tổ hợp hóa cục hay không hóa cục thì chúng có thể sinh hay khắc được với các can hay chi cùng trụ với chúng nếu các can hay các chi này không bị hợp (tức là nếu can và chi cùng trụ cùng bị hợp thì chúng không có khả năng sinh hay khắc với nhau).
b - Nếu một tổ hợp không hóa cục thì các can hay chi trong cùng tổ hợp vẫn có khả năng khắc với nhau như bình thường.
c – Các can hay chi không bị hợp có thể sinh hay khắc được với các can hay các chi cùng trụ với chúng trong tổ hợp.
d - Nếu can hay chi trong tổ hợp hóa cục hay không hóa cục bị can hay chi cùng trụ không bị hợp khắc thì nó cũng được xem là bị khắc trực tiếp, nhưng nó vẫn khắc được các can hay chi trong cùng tổ hợp (nếu tổ hợp này không hóa cục).
e - Nếu can hay chi ở ngoài tổ hợp bị can hay chi cùng trụ trong tổ hợp hóa cục hay không hóa cục khắc thì nó cũng được xem là bị khắc trực tiếp, nhưng nó vẫn khắc được các can hay các chi khác ngoài tổ hợp như bình thường.
f – Nếu can hay chi trong cùng tổ hợp không hóa mà bị can hay chi trong cùng tổ hợp khắc gần thì nó không có khả năng nhận được sự sinh và không sinh hay khắc được với các can hay chi khác trong cùng tổ hợp hay cùng trụ.

6 – Can Chi sinh cho nhau

A - Can và chi cùng trụ trong Tứ Trụ sinh cho nhau
a - Nếu can và chi cùng trụ không cùng bị hợp và can hay chi này không bị khắc gần thì chúng có thể sinh cho nhau 1/3đv của chúng chỉ khi can (hay chi) chủ sinh có can (hay chi) bên cạnh cùng hành (bất kể can (hay chi) bên cạnh này bị khắc gần hay trực tiếp cũng như kể cả hành cũ và hành mới mà nó hóa cục) và 1/2 đv nếu can (hay chi) bên cạnh mang hành sinh cho nó (bất kể can (hay chi) bên cạnh này bị khắc gần hay trực tiếp cũng như kể cả hành cũ và hành mới mà nó hóa cục)
b - 81/39 - Thân vượng, kiêu ấn ít nhưng kiêu ấn phải là chi của trụ tháng và nó phải ở trạng thái Lộc hay Kình dương của lệnh tháng, nếu can và chi của trụ tháng không bị khắc gần hay chúng không cùng bị hợp thì can tháng có thể sinh cho chi tháng ít nhất 1/5 đv của nó.
c – Can chi là Thực Thương được lệnh mà sinh cho can hay chi cùng trụ bị giảm ít nhất 1/10đv của nó (104/T3).
d – Nhật Can bị hợp khi sinh cho chi cùng trụ bị giảm 1/10đv của nó (73/T3).
e - Can và chi cùng trụ không có khả năng sinh hay khắc với nhau nếu chúng cùng bị hợp, trừ khi tất cả các can và các chi trong cùng trụ đều tham gia vào 2 tổ hợp này.
c - If the wing and legs in the same pillar generate for each other then the wing or leg which is the generative master is reduced at least its 1/10sp only if it is Thuc-Thuong (and with command?).
f - If the wing and the leg in the same pillar both are combined then they do not have the ability to generate or ruin each other.

B – Can sinh cho Can và Chi sinh cho Chi
Chi có thể sinh cho Chi và Can có thể sinh cho Can khi chúng gần nhau trong Tứ Trụ với tỷ lệ trung bình là 1/7 đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó mang hành sinh cho nó và 1/13 đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó cùng hành với nó chỉ khi 3 Can hay 3 Chi này không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp.

7 - Sơ đồ :
A - Sơ đồ 1 bên trên:
a - Mão (mộc) ở trụ giờ bị can tháng Canh (kim) khắc cách 2 ngôi nên Mão bị giảm 1/10đv của nó nhưng nó có khả năng nhận được sự sinh hay sinh và khắc được với các can hay chi khác.
b – Sửu (thổ) ở trụ ngày bị Mão ở trụ giờ khắc gần (vì Mão và Sửu không bị hợp), vì vậy Sửu bị giảm 1/3đv của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh của can cùng trụ cũng như nó không sinh hay khắc được với các can chi khác.
c - Nếu can giờ là Mậu hay Kỷ thì nó bị Mão khắc trực tiếp (vì cùng trụ) nên Mậu hay Kỷ bị giảm ½ đv của nó (vì cùng trụ nên lực khắc là mạnh nhất) và Mậu hay Kỷ không có khả năng khắc các can hay chi khác.
d - Tuất ở chi tháng và Kỷ ở can ngày bị Mão khắc cách 1 ngôi nên Tuất và Kỷ bị giảm 1/5 đv của chúng, nhưng Tuất và Kỷ vẫn có khả năng sinh hay khắc với can hay chi khác như bình thường.
e - Nếu Tuất là chi ở trụ năm và Kỷ là can ở trụ tháng thì chúng bị Mão trụ giờ khắc cách 2 ngôi, vì vậy Tuất và Kỷ bị giảm 1/10 đv của nó, nhưng Tuất và Kỷ vẫn có khả năng sinh hay khắc với các can hay chi khác như bình thường.
f - Nếu Kỷ là can ở trụ năm thì bị Mão trụ giờ khắc cách 3 ngôi nên Kỷ bị giảm 1/20 đv của nó và Kỷ vẫn có khả năng sinh và khắc với các can hay chi khác như bình thường.
g - Thân trụ năm có Tuất bên cạnh sinh cho, vì vậy Thân sinh được ½ đv của nó cho Nhâm cùng trụ.
h - Tuất trụ tháng có Sửu bên cạnh cùng hành, vì vậy Tuất sinh được 1/3 đv của nó cho Canh cùng tru.

B - Sơ đồ 2 (chỉ để minh họa):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


a - Ất trụ giờ sinh cho Bính trụ ngày, vì vậy Bính trụ ngày sinh ½ đv của nó cho Ngọ cùng trụ đã hóa thành Thổ.
b - Thân và Giáp trụ năm cùng bị hợp hay Thân trụ năm bị Ti trụ tháng khắc gần, vì vậy Thân không khắc được Giáp cùng trụ.
c - Tị và Kỷ trụ tháng cùng bị hợp, vì vậy Tị không sinh được 1/3đv của nó cho Kỷ cùng trụ, mặc dù Tị có Ngọ cùng hành bên cạnh (mặc dù Ngọ đã hóa Thổ cục) hay Kỷ bị Giáp khắc gần, vì vậy nó không thể nhận được sự sinh của Tị cùng trụ.
d - Nếu Giáp ở trong hợp bị Thân cùng trụ khắc trực tiếp (nếu Thân không bị hợp) thì nó vẫn khắc được Kỷ trong cùng tổ hợp với nó.
e - Mùi (hoặc các chi khác đã hóa Thổ) trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Ất cùng trụ, vì vậy Mùi bị giảm ½ đv của nó.

8 - Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi
Trên sơ đồ 1 có các mũi tên đi từ can năm, chi năm, chi tháng và chi giờ vào vùng tâm có các con số 2/5 và 1/2, chúng có nghĩa là điểm vượng còn lại của các can chi này (sau khi đã tính sự sinh hay khắc của chúng với các can chi khác trong tứ trụ) vào được vùng tâm phải bị giảm 2/5 đv hay ½ đv của chúng (các hệ số giảm này được xác định qua các ví dụ trong thực tế).

9 - Điểm vượng của bảng sinh vượng tử tuyệt
Để dự đoán chính xác độ vượng hay suy của các trạng thái của can chi trong tứ trụ theo lệnh tháng, chúng ta không thể ước lượng chính xác độ vượng hay suy của chúng (may ra có một số người có khả năng này mà thôi). Bởi vì chính khó khăn này mà tôi đã tìm cách sử dụng các con số để đặc trưng cho độ vượng hay suy của các trạng thái trong bảng sinh vượng tử tuyệt.
Vậy thì phải chọn các con số như thế nào để diễn tả được chính xác các trạng thái vượng suy của chúng ? Chúng ta thấy không gì đẹp bằng lấy số 10 đặc trưng cho trạng thái Đế vượng, số 9 cho trạng thái Lâm quan, số 8 cho Quan đới, số 7 cho Mộc dục, số 6 cho Trường sinh, số 5 cho Suy và Bệnh, số 3 cho Tử, Mộ và Tuyệt, số 4 cho Thai và Dưỡng.
Các số đặc trưng cho các trạng thái từ trường sinh đến đế vượng là hợp lý nhưng các trạng thái gần nhau từ suy, bệnh đến thai, dưỡng có số điểm bằng nhau là chưa hợp lý. Các trạng thái có số điểm bằng nhau này cần phải được kiểm nghiệm qua các ví dụ trong thực tế để điều chỉnh chúng cho đến khi chúng chính xác. Vậy thì làm cách nào bây giờ ? Ví dụ nào là đáng tin cậy để có thể xác định được chúng ?
Theo như tôi biết cụ Thiệu Vĩ Hoa là cháu nội đời thứ 29 (?) của cụ Thiệu Khang Tiết một nhà dịch học nổi tiếng của Trung Quốc và bây giờ cụ Thiệu Vĩ Hoa cũng đang là một nhà dịch học nổi tiếng. Vậy thì các ví dụ của cụ không đáng tin cậy sao? Để xác định một ví dụ có Thân vượng hay Thân nhược, cụ Thiệu Vĩ Hoa đã không những chỉ dùng tài năng bẩm sinh của mình mà còn sử dụng kinh nghiệm của cả 29 đời mệnh học gia truyền của dòng họ cụ nữa. Cho nên tôi đã không ngần ngại lấy các ví dụ của cụ để xác định chính xác các con số đặc trưng cho các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt. Nhưng đáng tiếc rằng mặc dù cụ có diễn đạt các cách để xác định Thân vượng hay nhược trong các ví dụ của cụ, chúng ta cũng không có mấy ai nắm được nó vững vàng. Cánh để xác định của cụ chỉ là phán đoán các thông tin trong tứ trụ rồi theo kinh nghiệm để kết luận Thân vượng hay nhược, cho nên chúng ta khó mà có được khả năng như cụ. Do vậy ở đây tôi chỉ cần lấy các kết quả mà cụ đã kết luận Thân vượng hay nhược trong các ví dụ của cụ là quý báu nắm rồi (trong sách cụ có nói đến phương pháp xác định Thân vượng hay Thân nhược nhưng tôi thấy phương pháp đó không có nhiều giá trị áp dụng trong thực tế).

10 – Điểm vượng vùng tâm của các hành
Khi các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt có điểm vượng thì chúng chính là điểm vượng của các can chi trong tứ trụ tại lệnh tháng. Khi đó chúng ta tính toán xem sau khi các can chi trong tứ trụ sinh và xung khắc nhau chúng còn lại bao nhiêu điểm vượng, khi chúng vào trong vùng tâm còn lại bao nhiêu điểm vượng, các điểm vượng này chính là các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi đó. Ở vùng tâm này ta chỉ còn việc cộng tất cả các điểm vượng của các can chi cùng một hành với nhau, tổng số đó chính là điểm vượng trong vùng tâm của hành đó.

11 – Các trường hợp ngoại lệ
Kiêu ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân trong các trường hợp sau:
Trước khi Kiêu Ấn sinh 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân thì số điểm vượng này phải trừ đi số điểm vượng mà can chi Tỷ Kiếp nhận được do các can chi của Kiêu ấn sinh cho khi đã tính vào trong vùng tâm.
a - Nếu Thân nhược nhưng điểm vượng trong vùng tâm của Kiêu Ấn lớn hơn điểm vượng trong vùng tâm của thực thương và tài tinh thêm can ngày được lệnh.
b - Nếu Thân nhược nhưng điểm vượng trong vùng tâm của Kiêu Ấn lớn hơn điểm vượng trong vùng tâm của thực thương và tài tinh mà can ngày thất lệnh nhưng không được nhập Mộ thì điểm vượng trong vùng tâm của Thân phải không nhỏ hơn điểm vượng trong vùng tâm của tài tinh và quan sát.
c - Nếu Thân nhược mà điểm vượng trong vùng tâm của Kiêu Ấn nhỏ hơn Thực Thương và Tài tinh còn can ngày được lệnh nhưng không bị hợp thì điểm vượng của Thân phải lớn hơn điểm vượng của Tài, Quan-Sát và Thực-Thương.
d - Nếu Thân nhược và Kiêu Ấn không phải là kỵ thần (tức nó không lớn hơn Thân 20đv) mà Kiêu Ấn là can lộ, được lệnh, gần Nhật can và nó phải nhận được điểm vượng của chi cùng trụ sinh cho, chỉ đúng khi can ngày không bị Tử Tuyệt và không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp.

12 – Thân vượng hay nhược
a - Nếu điểm vượng vùng tâm của Thân lớn hơn điểm vượng vùng tâm của Thực Thương, Tài và Quan Sát ít nhất 1đv (điểm vượng) thì Thân của tứ trụ đó được gọi là Thân vượng còn ngược lại được gọi là Thân nhược (không có Thân trung bình?).
b - Thân được gọi là hơi vượng khi Thân chỉ nhiều hơn hỷ dụng thần số 1 ( nghĩa là nó là 1 hành trong các hành là hỷ dụng thần có điểm vượng lớn nhất trong vùng tâm) từ 1đv tới 1,5đv.

13 - Các ký hiệu và quy ước
a – Theo thứ tự, hành tài tinh được viết đầu tiên, sau đến quan sát, kiêu ấn, Thân (tức tỷ kiếp), cuối cùng mới là thực thương.

Ví dụ : Nếu Thân là kim thì thứ tự các hành được diễn tả như sau :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


b – Nếu các can chi lộ trong tứ trụ có cùng hành thì chúng được gọi là can chi của hành đó.

Ví dụ : Nếu Kiêu ấn thuộc hành mộc mà trong tứ trụ có 1 Giáp và 2 Mão thì chúng được gọi 3 can chi của kiêu ấn. Nếu chúng chỉ là các can tàng phụ trong tứ trụ thì chúng không được tính là can chi Kiêu Ấn nhưng Kiêu Ấn vẫn được xem là có trong tứ trụ.
c - Dấu #, nó nghĩa là trong tứ trụ không có can chi thuộc hành đó (kể cả can tàng phụ của hành đó).
d - Dấu #4,2, nó nghĩa là trong tứ trụ không có can chi thuộc hành đó nhưng nó có can tàng phụ của hành đó và điểm vượng cao nhất của các can tàng phụ này là 4,2.
e - Số – 1, nó nghĩa là điểm hạn của hành làm dụng thần và nó được viết phía trên hành của nó, tương tự với các điểm hạn của các hành khác cũng viết phía trên hành của chúng như vậy.
f – Điểm vượng vùng tâm của các hành được ghi phía dưới tên của các hành của chúng.
l - Trong phần tính điểm vượng vùng tâm, các điểm vượng của các can chi khi vào tới vùng tâm trên các sơ đồ được khoanh tròn, nhưng từ tuần thứ 3 trở đi chỉ có các điểm hạn trên các sơ đồ mới được khoanh tròn.
m – Tháng 1 dương lịch được gọi là tháng 13 của năm cũ theo lịch can chi.

Sửa bởi VULONG777: 05/10/2015 - 10:44


#19 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 10:56

II - Xác định điểm vượng của các trạng thái

Bạn đọc phải thực hiện lần lượt các bước như sau :
1 - Xác định tứ trụ cũng như điểm vượng của các can chi theo lệnh tháng và phải ghi các điểm này ngay bên phải của can chi đó.
2 – Xác định các tổ hợp hóa cục hay không hóa cục trong tứ trụ, các can hay chi trong các tổ hợp phải được khanh tròn và chúng được nối với nhau bởi ít nhất 3 đoạn thẳng (như trong sơ đồ ở trên).
3 – Xác định các can và chi bị khắc gần hay trực tiếp và chúng phải được khoanh tròn (để biết chúng không có khả năng sinh hay khắc được cho các can chi khác cũng như chúng không có khả năng nhận được sự sinh của can chi cùng trụ).
4 - Đường chữ V trong sơ đồ của tứ trụ ở trên đặc trưng cho vùng tâm nó chứa can ngày, can tháng, can giờ và chi ngày.
5 – Các mũi tên từ can năm, chi năm, chi tháng và chi giờ đi vào vùng tâm có các số thập phân 2/5 hay 1/2 cho biết điểm vượng còn lại của các can hay chi này vào được vùng tâm bị giảm 2/5đv hay ½ đv của chúng.

Tứ trụ 1 : Nam sinh này 9/6/1970 lúc 2,00’ có tứ trụ :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sơ đồ trên mô tả các điểm vượng (trạng thái) của các can chi theo lệnh tháng (tức chi tháng) theo dự kiến của tôi và chúng được ghi bên phải ngay cạnh các can chi của chúng.
Ta thấy bán hợp của Tuất trụ năm với Ngọ trụ tháng hóa Hỏa (vì có Đinh trụ giờ dẫn hóa) và Canh trụ ngày bị khắc gần bởi Đinh trụ giờ, vì vậy ta phải khoanh tròn Tuất, Ngọ và Canh trụ ngày cũng như ta phải nối Tuất với Ngọ bằng 3 đường gấp khúc (như trong sơ đồ trên). Mặc dù Canh trụ năm bị khắc trực tiếp bởi Tuất cùng trụ (vì Tuất đã hóa Hỏa) nhưng nó vẫn có khả năng khắc các can chi khác (vì Tuất ở trong hợp). Ngọ của trụ tháng bị khắc trực tiếp bởi Nhâm cùng trụ.

1 – Canh trụ năm có 7đv bị giảm ½ đv bởi Tuất cùng trụ khắc trực tiếp (vì Tuất đã hóa Hỏa), 1/10đv bởi Đinh trụ giờ khắc cách 2 ngôi và 2/5đv khi nó vào vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 7.1/2.9/10.3/5đv = 1,89đv.
2 - Tuất trụ năm có 10đv, nó bị giảm ½ đv khi nó vào vùng tâm, vì vậy nó còn 5đv.
3 - Ngọ trụ tháng có 10đv bị giảm ½ đv bởi Nhâm cùng trụ khắc trực tiếp và 2/5đv khi nó vào vùng tâm, vì vậy nó còn 10.1/2.3/5đv = 3đv.
4 – Thân trụ ngày có 7đv bị giảm ¼ đv bởi Đinh trụ giờ khắc cách 1 ngôi, nó còn 5,6đv.
5 - Sửu trụ giờ có 9đv bị giảm 2/5đv khi nó vào vùng tâm, nó còn 5,4đv.
6 – Đinh trụ giờ có 9đv bị giảm 1/5đv bởi Nhâm trụ tháng khắc cách 1 ngôi, nó còn 7,2đv.
7 – Canh trụ ngày có 7đv bị giảm 1/3đv bởi Đinh trụ giờ khắc gần, nó còn 4,67đv.
8 – Nhâm trụ tháng có 4đv bị giảm 1/10đv bởi Sửu trụ giờ khắc cách 2 ngôi, nó còn 3,6đv.
Nếu ta cộng tất cả các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi có cùng hành thì :
Điểm vượng trong trong vùng tâm của các hành như sau :
Mộc.......Hỏa......Thổ......Kim.......Thủy
#.........15,2......5,4......12,16......3,6
Cụ Thiệu Vĩ Hoa đã xác định mệnh này có Thân vượng. Nếu Thân là vượng thì Nhật Can (can của trụ ngày) phải có điểm đắc địa tại các chi trong tứ trụ (trừ chi của trụ tháng bởi vì điểm vượng của nó ở lệnh tháng chính là điểm vượng này) và qua các ví dụ trong thực tế tôi đã đưa ra giả thiết số 72/ trong chương 14.

(72/(Tứ trụ số 1 của phần II chương 9) – Nhật Can chỉ có điểm vượng đắc địa tại các chi của trụ năm, trụ ngày và trụ giờ khi nó ở trạng thái Lộc và Kình Dương của các chi này và các điểm vượng này chỉ bị giảm như điểm vượng của các can chi khi nó bị khắc trực tiếp (còn nếu nó bị khắc gần?) hoặc ít nhất bởi 2 lực khắc.)

Nếu sử dụng giả thiết 72/ thì điểm vượng đắc địa của Nhật Can Canh ở trạng thái Lộc tại Thân trụ giờ không bị giảm (bởi vì nó chỉ bị khắc bởi 1 lực cách 1 ngôi của Đinh trụ giờ), vì vậy điểm vượng của trạng thái Lộc ở đây phải có ít nhất 4,05đv thì hành Kim của Nhật Chủ là 12,16đv + 4,05đv = 16,21đv mới lớn hơn các hành Thủy (Thực-Thương), Mộc (Tài) và Hỏa (Quan-Sát) 1đv, khi đó Nhật Chủ mới trở thành vượng.

(Nếu theo phương pháp cổ truyền thì Nhật Can có các điểm đắc địa ở các chi trong tứ trụ (trừ chi tháng) khi nó vượng tại các chi này.)

Giải thích :
Có thể hiểu các chi (trừ chi tháng) có cùng hành với Nhật Chủ hay chúng sinh cho Nhật Chủ (nếu Nhật Chủ mang hành Thổ) là vùng đất mà dân sống ở đó đồng lòng và giúp đỡ Nhật Chủ, cho nên thế lực của Nhật Chủ được mạnh thêm.

Ta đã xác định được trạng thái Lộc có ít nhất 4,05đv.

Tứ trụ 2 : Nữ sinh ngày 21/10/1976 lúc 20,00’ có tứ trụ :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Qua sơ đồ này ta thấy:
1 - Tất cả các can và chi đều có 3đv tại lệnh tháng.
2 – Nếu áp dụng giả thiết từ 93/ tới 96/ (chương 14) thì lực xung gần của Thìn trụ năm với Tuất trụ tháng có 3đv và với Tuất trụ giờ cách 2 ngôi có 3.1/2đv = 1,5đv.

(Trích: 2 - Các lực xung, khắc hay hợp của các địa chi
93a/ - Ở đây, các chi không cần phải động và các lực này chỉ để xét khả năng tranh hay phá hợp của các địa chi.
93b/ - Các chi trong tứ trụ và chi tiểu vận với các chi ở tuế vận cũng được xem là gần nhau.
93c - Lực xung, khắc hay hợp của các địa chi trong tứ trụ từ khi mới sinh (khi tuế vận được xem như chưa xuất hiện) được xác định bởi chính điểm vượng của chúng tại lệnh tháng (chi của trụ tháng).
93d/ - Lực xung, khắc hay hợp của các địa chi ở một năm (lưu niên) bất kỳ được xác định bởi điểm vượng của chúng ở lưu niên đó như sau :
Điểm vượng của các chi trong tứ trụ chính là điểm vượng trung bình của chúng tại lệnh tháng, đại vận và 2 lần tại chi của lưu niên :
Điểm vượng của chi tiểu vận và đại vận chính là điểm vượng trung bình của chúng tại chi đại vận và 2 lần tại chi của lưu niên.
Điểm vượng của chi lưu niên là điểm vượng của nó tại chi của lưu niên (thái tuế).

a - Lực hợp của các địa chi bị giảm
94/ - Lực hợp của 1 chi với y chi bị giảm :
94a/21 - (y - 1)/y.đv nếu nó hợp với mỗi chi gần.
94b/ - 1/3.(y - 1)/y.đv nếu nó hợp với chi cách 1 ngôi.
94c/ - 1/2.(y - 1)/y.đv ...................................... 2 ngôi.

b - Lực xung hay khắc của các địa chi
95/ Lực của 1 chi xung hay khắc với 1 hay nhiều chi và hợp với y chi bị giảm :
95a/19 - y/(y + 1).đv nếu nó xung hay khắc với mỗi chi gần.
95b/56 - y/(y + 1).đv và thêm 1/3.đv nếu nó xung hay khắc với mỗi chi cách 1 ngôi.
95c/89 - y/(y + 1).đv và thêm 1/2.đv ....................................với mỗi chi cách 2 ngôi.

96/ - Các lực trên bị giảm thêm như sau :
96a/(30;70;79;89) - 2/3.đv nếu nó hợp, xung hay khắc với chi cách 1 hay 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) chi gần với nó (chỉ xét về ngũ hành) ở trong tứ trụ giữa chúng (kể cả chi này bị hợp nhưng không hóa cục). (vd 68; 77).
96b/ - ½.đv nếu nó, hợp, xung hay khắc với chi cách 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) chi (chỉ ...) cách 1 ngôi giữa chúng (kể cả chi này ...).
96c/ - 2/3. ½.đv nếu nó hợp, xung hay khắc với chi cách 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) cả chi gần và cách 1 ngôi (chỉ ...) ở trong tứ trụ giữa chúng (kể cả các chi này ...).)


3 - Nếu áp dụng giả thiết 94a;b;c/ thì mỗi lực hợp gần của Ngọ trụ ngày với Tuất trụ tháng và trụ giờ có 3.(2-1)/2đv = 1,5đv, vì vậy bán hợp của Ngọ với 2 Tuất bị phá tan bởi vì lực hợp không lớn hơm lực xung (chú ý các bán hợp hay lục hợp không bị phá chỉ khi lực hợp của chúng phải lớn hơn lực xung).
4 - Bính trụ năm, Tuất của trụ tháng và trụ giờ, mỗi can hay chi có 3đv ở lệnh tháng, các can chi này bị giảm 2/5đv của chúng khi chúng vào đến vùng tâm, vì vậy mỗi can hay chi này chỉ còn 3.3/5đv = 1,8đv.
5 - Thìn trụ năm có 3đv bị giảm ½ đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó còn 1,5đv.
6 - Mậu của trụ tháng và trụ giờ, Bính và Ngọ của trụ ngày ở trong vùng tâm, vì vậy mỗi can và chi này vẫn có 3đv (vì chúng không bị xung và nhận được sự sinh của các can chi khác).
7 - Trong tứ trụ không có can chi mang hành Kim, Thủy và Mộc nên các hành này không có điểm vượng ở vùng tâm (mặc dù chúng có can tàng là tạp khí trong các địa chi).
Điểm vượng trong vùng tâm của các hành như sau :
Kim........Thủy........Mộc........Hỏa....... Thổ
#..............#............#............7,8...... .11,1

Ví dụ này cụ Thiệu Vĩ Hoa đã dự đoán Nhật Chủ là nhược, vì vậy nếu Thân nhược thì điểm vượng đắc địa Kình Dương của Nhật Chủ (Bính) tại Ngọ của trụ ngày chỉ có thể cao nhất là 4,29đv, bởi vì nếu nó là 4,3đv thì Thân có 7,8đv + 4,3đv = 12,1đv, khi đó Thân trở thành vượng bởi vì Thân (Hỏa) lớn hơn thực thương (Thổ), tài tinh (Kim) và quan sát (Thủy) ít nhất 1đv.
Điểm vượng trong vùng tâm của các hành như sau:
Kim..........Thủy.......Mộc........Hỏa...... ..Thổ
#..............#...........#..........12,09....... 11,1

Nếu lực xung của Thìn với Tuất trụ giờ (cách 2 ngôi) bị giảm 2/3đv thì nó còn 1đv. Do vậy bán hợp Hỏa cục của Ngọ với Tuất trụ giờ không bị phá, nên có thêm 1,8đv của Tuất hóa Hỏa ở vùng tâm.
Điểm vượng trong vùng tâm của các hành chưa có điểm vượng đắc địa như sau :
Kim.........Thủy.........Mộc........Hỏa..... ...Thổ
#..............#.............#............9,6..... ....9,3

Muốn cho Thân nhược thì điểm vượng đắc địa Kình Dương của Nhật Chủ (Bính) tại Ngọ trụ ngày cao nhất là 0,69đv. Số điểm này là không thể chấp nhận được bởi vì điểm đắc địa Kình dương không thể nhỏ hơn điểm vượng đắc địa Lộc đã có ít nhất là 4,05đv.

Chúng ta đã xác định được trạng thái Kình Dương nhiều nhất là 4,29đv (để đơn giản lấy 4,3đv).

Sửa bởi VULONG777: 05/10/2015 - 11:00


#20 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 11:04

Tứ trụ 3 : Nam sinh ngày 13/8/1980 lúc 7,10’ có tứ trụ :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này ta thấy:
1 - Giáp bị Canh khắc gần, Thân trụ tháng bị Ngọ khắc gần, không có các tổ hợp cũng như các can và chi sinh cho nhau.
2 – Canh có 9đv bị giảm 1/10 đv bởi Bính khắc cách 2 ngôi, 1/10 đv bởi Ngọ khắc cách 2 ngôi và 2/5 đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 4,37đv.
3 - Thân trụ năm có 9đv bị giảm 1/5 đv bởi Ngọ khắc cách 1 ngôi, 1/20 đv bởi Bính khắc cách 3 ngôi và ½ đv khi nó vào tới vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 3,42đv.
4 - Thân trụ tháng có 9đv bị giảm 1/3 đv bởi Ngọ khắc gần và 2/5 đv khi nó vào tới vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 3,24đv.
5 - Thìn trụ giờ có 5đv nó chỉ bị giảm 2/5 đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó còn 3đv.
6 - Giáp có 3đv bị giảm 1/3 đv bởi Canh khắc gần và 1/5 đv bởi Thân trụ năm khắc cách 1 ngôi (Thân trụ tháng bị Ngọ trụ ngày khắc gần nên nó không khắc được Giáp), vì vậy nó còn 1,6đv.
7 - Điểm đắc địa Kình dương của Nhật Chủ (Mậu) ở Ngọ trụ ngày là 4,29đv.
Điểm vượng ở vùng tâm của các hành như sau :
Thủy.........Mộc........Hỏa.......Thổ..... ....Kim
#.............1,6.........10........12,29......11, 03

Ví dụ này Thiệu Vĩ Hoa xác định Thân nhược nhưng ở đây Thổ lớn hơn Kim trên 1đv, vì vậy Thân là vượng. Cho nên trạng thái bệnh không thể có 5đv, mà nó chỉ có thể là 4,83đv, bởi vì khi đó Thìn có 2,898đv ở vùng tâm, hành Thổ trong vùng tâm có 12,018đv là nhỏ hơn Kim 1đv nên Thân mới nhược.
Nếu trạng thái bệnh là 4,84đv thì điểm vượng vùng tâm của Thìn là 2,904đv, hành Thổ trong vùng tâm có 12,034đv, vì vậy Thân vẫn là vượng.

Ta đã xác định được trạng thái Bệnh max là 4,83đv, để đơn giản ta lấy là 4,8đv.

Tứ trụ 4 : Nữ sinh ngày 9/8/1965 lúc 9,20’ có tứ trụ :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này chúng ta thấy :
1 - Lục hợp của Tị trụ năm với Thân không hóa, Thân bị khắc gần, Tân và Mùi bị khắc trực tiếp.
2 - Ất trụ năm có 4đv bị giảm 2/5đv khi nó vào vùng tâm nên nó còn 2,4đv.
3 - Tị trụ năm có 7đv nhận được 1/3đv của Ất cùng trụ sinh cho nó, vì vậy nó có thêm 4.1/3đv = 1,33đv (vì Ất có Giáp cùng hành ở gần), nhưng nó bị giảm ½ đv khi nó vào đến vùng tâm, nó chỉ còn (7 + 1,33).1/2đv = 4,17đv.
4 – Thân có 9đv bị giảm 1/3đv bởi Tị trụ năm khắc gần và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 3,6đv.
5 – Mùi có 7đv bị giảm ½ đv bởi Ất cùng trụ khắc trực tiếp, 1/5đv bởi Giáp khắc cách 1 ngôi và 1/10đv bởi Ất trụ năm khắc cách 2 ngôi, vì vậy nó còn 2,52đv.
6 - Tị trụ giờ có 7đv bị giảm 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, nó còn 4,2đv.
7 - Tân có 10đv bị giảm ½ đv bởi Tị trụ giờ khắc trực tiếp, nó còn 5đv.
8 – Các điểm vượng trong vùng tâm của Ất và Giáp không thay đổi.

Điểm vượng trong vùng tâm của các hành như sau :
Thổ.........Kim........Thủy.........Mộc..... .Hỏa
2,52........8,6..........#6..........9,4.......8,3 7

Ví dụ này Thiệu Vĩ Hoa đã xác định Nhật Chủ là vượng, nhưng ở đây Mộc không nhiều hơn Kim 1đv nên Nhật Chủ là nhược. Nếu Thân vượng thì trạng thái thai của Ất phải có ít nhất 4,1đv, khi đó Ất trụ năm có 2,46đv trong vùng tâm. Mộc có 9,56đv trong vùng tâm, nó vẫn chưa lớn hơn Kim 1đv nên Thân vẫn là nhược. Do vậy điểm của trạng thái tuyệt của Giáp phải có ít nhất 3,1đv, khi đó Mộc có 9,66đv trong vùng tâm, vì vậy nó mới có 1đv nhiều hơn điểm vượng của Kim, Hỏa và Thổ vì vậy Thân mới vượng.

Chúng ta đã xác định được: Trạng thái tuyệt có ít nhất 3,1đv
..............................................Trạng thái thai có ít nhất 4,1đv

Tứ trụ 5 : Nữ sinh ngày 17/9/1966 lúc 0,30’ .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Qua sơ đồ này ta thấy :
1 - Ngũ hợp của Giáp với Kỷ không hóa và Dậu bị khắc trực tiếp. Nếu theo ví dụ 4 thì Giáp có 4,1đv, Mão có 3,1đv, còn các điểm vượng khác vẫn như dự kiến.
2 – Bính trụ năm có 3đv bị giảm 1/20đv bởi Tý khắc cách 3 ngôi và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 1,71đv.
3 - Ngọ trụ năm có 3đv bị giảm 1/10đv bởi Tý khắc cách 2 ngôi và ½ đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 1,35đv.
4 - Dậu trụ tháng có 9đv bị giảm ½ đv bởi Đinh khắc trực tiếp, 1/3đv bởi Ngọ trụ năm khắc gần, 1/5đv bởi Bính trụ năm khắc cách một ngôi và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 1,44đv.
5 – Tý trụ giờ có 7đv bị giảm 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, nó còn 4,2đv.
6 - Kỷ có 6đv bị giảm1/3đv bởi Giáp khắc gần và ½ đv bởi Mão cùng trụ khắc trực tiếp, vì vậy nó chỉ còn 2đv.
7 – Đinh trụ tháng có 6đv bị giảm 1/10đv bởi Tý khắc cách 2 ngôi, nó còn 5,4đh.
8 - Nhật Chủ Kỷ đắc địa Lộc ở Ngọ trụ năm có 4,05đv bị giảm ½ đv khi nó vào vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 2,025đv.
Điểm vượng trong vùng tâm của các hành :
Thủy.........Mộc........Hỏa.......Thổ..... ....Kim
4,2...........7,2.........8,46......4,025.....1,44

Ví dụ này Thiệu Vĩ Hoa đã xác định Thân vượng, nếu Thân vượng thì ta khẳng định điểm vượng trong vùng tâm của kiêu ấn (Hỏa) phải sinh được cho Thân (Thổ).
Qua các ví dụ thực tế tôi đã xác định được kiêu ấn có thể sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân qua các giả thiết từ 190/ tới 194/ trong chương 14 (xem câu 11 ở trên).
Nếu sử dụng các giả thiết này thì kiêu ấn sinh cho Thân 50%đv của nó, Thân có 8,46.1/2 đv + 4,025đv = 8,225đv, nó nhiều hơn quan sát, thực thương và tài tinh 1đv, vì vậy Thân mới trở thành vượng.
Nếu trạng thái tử là 2,9đv thì Bính có 1,653đv trong vùng tâm, Ngọ có 1,305đv, khi đó Hỏa có 8,358đv và Thổ có (8,358.1/2 + 4,025)đv = 8,204đv, Thổ lớn hơn Mộc 1đv, vì vậy Thân là vượng. Nhưng trong thực tế chúng ta thấy thời gian từ trạng thái tử đến trạng thái mộ (tức thời gian từ khi chết đến khi chôn) chỉ khoảng một vài hôm so với các trạng thái khác ít nhất cũng vài tháng trở lên. Do vậy ta có thể coi hai trạng thái tử và mộ có số điểm 3đv là hợp lý.

Ta đã xác định được trạng thái tử và mộ là 3đv.

#21 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 11:29

Tứ trụ 6 : (Ví dụ số 351 trong cuốn Trích Thiên Tủy.)

“351 - Giáp Dần - Tân Mùi - Quý Hợi - Mậu Ngọ

Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý/ Đinh Sửu

Quý thủy sinh vào mùa cuối hạ, mộc hỏa cũng vượng, can tháng Tân kim vô khí, không có sinh thủy, nhật chủ tuy vượng địa, nhưng vẫn bị mang hai hỏa thổ, can giờ Mậu thổ, hợp thần chân mà còn vượng, nhật chủ không thể hợp theo vậy. Đầu vận Nhâm Thân Quý Dậu, kim thủy đều vượng, cô khổ quá mức; đến vận Giáp Tuất, chi hội hỏa cục, xuất ngoại gặp được cơ hội lớn; vận Ất Hợi thủy gặp mộc tiết, chi được hội cục, thành danh bất ngờ, tài bạch giàu có sung túc; vừa giao Bính Tý, hỏa không thông căn, bị liên luỵ mà mất chức, đến năm Nhâm Tý hết lộc”.

Với ví dụ này chúng ta chỉ cần biết rằng các đại vận Nhâm Thân và Quý Dậu có can chi đều là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp mà “cô khổ quá mức” thì chứng tỏ Tứ Trụ này phải có Thân vượng thì mới phù hợp với thực tế.

Sơ đồ tính điểm vượng của các hành trong vùng tâm:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này, ta thấy:
1 – Mậu và Quý hợp với nhau không hóa.
2 – Giáp, Mùi và Ngọ đều bị khắc gần hay trực tiếp nên ta phải khoanh tròn chúng lại để biết chúng không có khả năng nhận được sự sinh hay sinh khắc các can chi khác trong Tứ Trụ.
3 – Giáp trụ năm có 3đv bị khắc gần bởi Tân trụ tháng nên giảm 1/3đv và khi vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 3.2/3 . 3/5 đv = 1,2đv.
4 - Dần trụ năm có 3đv bị giảm 1/5đv do Tân trụ tháng khắc cách 1 ngôi và vào vùng tâm giảm thêm 1/2đv còn 3.4/5.1/2đv = 1,2đv.
5 – Mùi trụ tháng có 8đv bị Dần trụ năm khắc gần gi ảm 1/3đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 8.2/3.3/5đv = 3,2đv.
6 – Hợi trụ giờ có 3đv và 4,3đv đắc địa Kình dương của Nhật can Quý không bị can chi nào khắc cả nên vẫn còn nguyên là 3đv + 4,3đv = 7,3đv.
7 – Ngọ trụ giờ có 5,1đv (để ngắn gọn ta tạm lấy 5,1đv cho trạng thái Suy) bị giảm 1/3đv do Hợi khắc gần và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 5,1.2/3.3/5đv = 2,04đv.
8 – Mậu trụ giờ có 5,1đv không bị ai khắc cả nên còn nguyên 5,1đv.
9 – Quý trụ ngày hợp với Mậu không hóa nên bị giảm 1/3đv còn 3.2/3đv = 2đv.
10 – Tân trụ tháng có 5,1đv không bị ai khắc nên vẫn còn 5,1đv.

Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm :
Hỏa.........Thổ...........Kim..........Thủy............Mộc
2,04.........8,3............5,1............9,3..............2,4

Tứ Trụ này được xác định Thân vượng mới phù hợp với thực tế cho nên ở đây Thân có 9,3đv lớn hơn Thổ đúng 1đv cho nên Thân là vượng. Điều này khẳng định trạng thái Suy có max là 5,10đv (vì nếu lấy cao hơn thì Thân sẽ trở thành nhược).

Chúng ta đã xác định được : Trạng thái suy max 5,1đv

Tứ trụ 7 : (Ví dụ số 38/440 trong cuốn “Dự Đoán Theo Tứ Trụ” của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa.)

Nam: Nhâm Thìn - Canh Tuất - Giáp Ngọ - Giáp Tý

Các đại vận : Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn

Thiệu Vĩ Hoa đã dự đoán Tứ Trụ này có Thân nhược.

Nếu ta lấy trạng thái Dưỡng là 4,4đv thì có sơ đồ tính toán như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này ta thấy Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh thêm Thân lớn hơn Tài và Quan Sát nên theo lý thuyết của tôi (quy tắc 2) Kiêu Ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân là 5,38.1/2 đv = 2,69đv. Vậy thì Thân có 6,453đv được thêm 2,69đv thành 6,453đv + 2,69đv = 9,143đv. Lúc này ta thấy Thân đã lớn hơn Kim là kỵ thần số 1 (hành kỵ thần có số điểm vượng lớn nhất trong các hành kỵ thần) trên 1đv nên Thân được xem là vượng, điều này không thể chấp nhận được vì nó trái với điều dự đoán của Thiệu Vĩ Hoa.

Nếu ta lấy trạng thái Dưỡng là 4,39đv thì sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược theo phương pháp của tôi như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Với sơ đồ này nếu theo lý thuyết của tôi thì mặc dù có Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh nhưng Nhật can thất lệnh và Thân Mộc lại nhỏ hơn Tài và Quan Sát nên Kiêu Ấn không thể sinh được 50%đv của nó cho Thân. Do vậy với trạng thái Dưỡng có 4,39đv thì Thân là nhược, điều này đã đúng theo dự đoán của Thiệu Vĩ Hoa.

Đến đây chúng ta đã xác định được trạng thái Dưỡng có max là 4,39đv (để đơn giản chúng ta lấy 4,4đv).

11 - Bảng điểm
(Các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt)

A - Các trạng thái được gọi là được lệnh (tức vượngtại tháng sinh) :
1 - Trường sinh 6đv (điểm vượng)
2 - Mộc dục 7đv
3 - Quan đới 8đv
4 - Lâm quan 9đv
5 - Đế vượng 10đv

B - Các trạng thái được gọi là thất lệnh (tức nhược tại tháng sinh) :
6 - Suy max là 5,1đv
7 - Bệnh max là 4,83đv (để đơn giản lấy 4,8đv)
8 - Tử 3đv
9 - Mộ 3đv
10 - Tuyệt min 3,1đv
11 - Thai min 4,1đv
12 - Dưỡng max là 4,39đv (để đơn giản lấy 4,4đv)

C - Nhật Chủ (can ngày) chỉ có điểm vượng đắc địa ở :
13 - Lộc (tức ở trạng thái Lâm Quan) có min là 4,05đv
14 - Kình dương (tức ở trạng thái Đế Vượng) có max là 4,29đv (để đơn giản lấy 4,3đv)

Chúng ta tạm thời xem các điểm vượng đặc trưng cho các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt theo dự kiến và đã được xác định ở trên là các hằng số cơ bản của Thuyết Vũ Trụ Hẹp. Vì vậy tôi mong muốn bạn đọc cùng tham gia với tôi nghiên cứu các ví dụ trong thực tế để nhanh chóng xác định được chính xác các hằng số này (bởi vì điểm vượng của một trạng thái bất kỳ muốn chính xác tuyệt đối thì cần ít nhất 2 ví dụ, trong đó một ví dụ xác định max là X đv, còn ví dụ kia xác định min là Y đv, chỉ khi X đv = Y đv mới được xem là chính xác tuyệt đối).

Số điểm đặc trưng cho các trạng thái trong bảng "Sinh Vượng Tử Tuyệt" đã tìm được như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi VULONG777: 05/10/2015 - 11:54


#22 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 17:51

Chương 10

Dụng thần của tứ trụ

I - Dụng thần

1 - Dụng thần

Dụng thần là gì ? Dụng thần cùng nghĩa với thuốc thần hay thần dược, nghĩa là thuốc cực quý dùng để chữa bệnh. Một người có bệnh thì được bác sĩ khám để xác định là bệnh gì thì mới tìm được thuốc chữa đúng căn bệnh đó. Thuốc tốt nhất để chữa đúng căn bệnh đó có thể ví như là thuốc thần hay thần dược. Trong tứ trụ cũng tương tự như vậy, đầu tiên phải xác định được độ vượng suy của 5 hành ở vùng tâm, sau đó mới xét đến hành của Thân nhược hay vượng hơn so với các hành kia thì mới biết được Thân vượng hay Thân nhược. Khi đã biết Thân vượng hay nhược rồi, thì hành nào có tác dụng tốt nhất làm Thân đang vượng thì bớt vượng đi hay Thân đang nhược thì được sinh hay phù trợ cho bớt nhược, hành đó được gọi là hành dụng thần (thần dược).
Mỗi hành đều có 2 can và 2 chi làm dụng thần.Giả sử hành Mộc làm dụng thần thì ta có 4 can chi của hành dụng thần là Giáp, Ất, Dần và Mão. Vậy thì lấy cái nào làm dụng dần chính cái nào là dụng thần phụ ? Theo như kinh nghiệm của cổ nhân để lại thì can mới là khí tinh túy của dụng thần, còn chi thì đã có can tàng là bản khí, đó chính là khí tinh tuý đại diện cho dụng thần của chi đó. Nhưng can lại có hai can, vậy lấy can nào làm dụng thần chính ? Thì theo phương pháp của tôi can nào được lệnh tháng hơn, tức là có điểm vượng cao hơn sẽ được chọn làm dụng thần chính, cho dù nó ở bất kỳ vị chí nào trong tứ trụ (vì như thuốc quý được cất ở đâu trong nhà thì vị chí không quan trọng, mà quan trọng là thuốc nào có chất lượng tốt hơn). Điều này khác với cách xác định dụng thần của cổ nhân để lại.
Dụng thần này thường được gọi là dụng thần sinh phù và chế ngự và nó là dụng thần quan trọng nhất trong tứ trụ.

2 - Vị trí của dụng thần chính trong tứ trụ

Nếu có nhiều can giống nhau là dụng thần chính xuất hiện trong tứ trụ thì ta chọn can lộ đầu tiên, sau đó đến can tàng bản khí và sau cùng mới đến can tàng tạp khí (vị trí của dụng thần là can tàng tạp khí: Đầu tiên nó tàng trong chi có hành sinh cho nó, sau đó đến chi có hành bị nó khắc, tiếp tới chi có hành có thể nhận được sự sinh từ nó và cuối cùng tới chi có hành khắc nó) và theo thứ tự ưu tiên thì vị trí đầu tiên của nó ở trụ năm, sau đến trụ tháng rồi mới tới trụ ngày và cuối cùng là trụ giờ (trừ can trụ ngày bởi vì nó chính là Nhật Chủ đại diện cho người có tứ trụ này). Vì người ta đã coi trụ năm quan trọng nhất như gốc của cây, trụ tháng thứ nhì như thân cây, trụ ngày như cành cây và trụ giờ cuối cùng như hoa lá quả.

Có nhiều trường hợp hành làm dụng thần đầu tiên không có trong tứ trụ, cho nên ta phải lấy hành khác để thay thế, tức hành thứ 2 làm dụng thần (nghĩa là biết bệnh rồi mà không có đúng thuốc tốt để chữa mà phải lấy thuốc khác để thay thế). Dụng thần này tác dụng “chữa bệnh” kém hơn dụng thần của hành đầu tiên. Tương tự hành thứ hai này cũng thiếu thì phải lấy đến hành thứ 3 làm dụng thần. Dụng thần thuộc hành thứ 2 hay thứ 3 này tất nhiên là kém hơn dụng dần thuộc hành thứ nhất nhưng nó kém hơn như thế nào ? Liệu có thể lấy số điểm để đặc trưng cho sự yếu kém của chúng được không thì đến giờ tôi vẫn chưa làm được.

3 - Để cho ngắn gọn và đơn giản chúng ta quy ước:
a - Gọi can làm dụng thần chính của tứ trụ là dụng thần.
b - Riêng trong phần này can ngày được xem như là 1 can chi của tỷ kiếp.
c - Can hay chi mang hành của thần nào (trong10 thần) thì nó được tính là can hay chi của thần (hành) đó.
d - Can tàng tạp khí và chi chứa nó không được tính là can chi của thần (hành) đó, nhưng thần (hành) của can tạp khí này vẫn được xem có trong tứ trụ.

Ví dụ :
Nếu Mộc là hành của kiêu ấn (thuộc 10 thần) thì Giáp, Ất, Dần và Mão được gọi là can chi kiêu ấn hay 4 can chi kiêu ấn.
Nếu trong tứ trụ chỉ có Giáp hay Ất tàng trong các chi Thìn, Mùi hay Hợi là tạp khí thì Giáp hay Ất chỉ được gọi là can tạp khí của kiêu ấn, vì vậy Giáp, Ất và các chi Thìn, Mùi hay Hợi này không được gọi là các can chi kiêu ấn, nhưng trong tứ trụ vẫn có kiêu ấn hay hành của kiêu ấn (Mộc).

e – Trong các hành là kỵ thần, nếu hành nào có điểm vượng trong vùng tâm lớn nhất thì nó được gọi là kỵ thần số 1.
f – Trong các hành là hỷ dụng thần, nếu hành nào có điểm vượng trong vùng tâm lớn nhất thì nó được gọi là thần đẹp số 1.
g - Nếu điểm vượng trong vùng tâm của các can hay chi nhỏ hơn 6đv thì các can hay chi này được xem là nhược trong vùng tâm.

4 – Xác định dụng thần khi Thân vượng

Mẫu 1 : Kiêu ấn không có trong tứ trụ

Dụng thần đầu tiên phải là... (xem giả thiết 44/ ở chương 14).

(44/ - Nếu Thân vượng mà trong tứ trụ không có kiêu ấn (tức là không có cả các can tàng tạp khí của nó) thì dụng thần đầu tiên phải lấy tài tinh, sau mới lấy đến thực thương (nếu không có tài), cuối cùng mới phải lấy đến quan sát (nếu không có tài và thực thương).)

Mẫu 2 : Kiêu ấn nhiều trong tứ trụ

Kiêu ấn nhiều chỉ khi:
a – Trong tứ trụ có ít nhất 3 can chi là kiêu ấn.
b – Trong tứ trụ chỉ có 2 can chi là kiêu ấn nhưng có ít nhất 1 trong 2 can chi này có điểm vượng vùng tâm từ 6đv trở lên.
c – Chi tháng là kiêu ấn mà nó ở trạng thái Lộc hay Kình dương tại lệnh tháng có trên 6đv trong vùng tâm.
Dụng thần đầu tiên là .... (xem giả thiết 45/ ở chương 14).

((45/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (kiêu ấn nhiều có khả năng xì hơi hết quan sát để sinh cho Thân, vì vậy quan sát đã trở thành kỵ thần, còn tài tinh có khả năng chế ngự kiêu ấn và làm hao tổn Thân), sau mới là thực thương (vì nó có khả năng xì hơi Thân vượng và làm hao tổn kiêu ấn), cuối cùng mới là quan sát.)

Mẫu 3 : Kiêu ấn đủ trong tứ trụ

Kiêu ấn đủ chỉ khi :
a – Trong tứ trụ chỉ có 2 can chi kiêu ấn và điểm vượng ở vùng tâm của chúng nhỏ hơn 6đv.
b – Trong tứ trụ chỉ có chi tháng là kiêu ấn và nó ở trạng thái Lộc hay Kình dương của lệnh tháng có 6đv ở vùng tâm.
Dụng thần đầu tiên phải là… (xem giả thiết 46/ và 47/ ở chương 14).

(46 / - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ và thực thương không nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (vì khả năng để chế ngự Thân vượng của quan sát là tốt nhưng nó chỉ bằng khả năng mà kiêu ấn xì hơi quan sát để sinh cho Thân là xấu), sau mới là tài tinh, cuối cùng mới là quan sát.
47/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ, thực thương không nhiều mà quan sát khắc gần hay hợp với Nhật nguyên thì dụng thần đầu tiên vẫn có thể là quan sát
. )


Mẫu 4 : Kiêu ấn ít trong tứ trụ

Kiêu ấn ít là trong tứ trụ chỉ có 1 can hay 1 chi của kiêu ấn hoặc chỉ có các can tạp khí của kiêu ấn.
a – Nếu thực thương nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh, sau mới là đến quan sát và sau cùng mới là thực thương.
b- Nếu Thực thương đủ, ít hay không có trong tứ trụ thì :
Dụng thần đầu tiên phải là..... (xem các giả thiết từ 48/ đến 60/ ở chương 14).

(48/20 - Thân vượng nhưng điểm vượng vùng tâm của nó chỉ lớn hơn hỷ dụng thần số 1 là quan sát (hay tài tinh ?) từ 1đv đến 1,5đv mà kiêu ấn ít và thực thương không nhiều, nếu Nhật can ở tử, mộ hay tuyệt ở lệnh tháng còn bị can hay chi của quan sát được lệnh khắc gần hay trực tiếp thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương.
49/ - Nếu Thân chỉ lớn hơn tài tinh hay quan sát là hỷ dụng thần số 1 từ 1đv đến 2,5đv, mà kiêu ấn ít, thực thương chỉ là các can tàng phụ trong tứ trụ và Nhật can thất lệnh mà bị quan sát được lệnh khắc gần hay trực tiếp, thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương.
50/ - Nếu Thân vượng là kỵ thần 1 có ít nhất 3 can chi còn tài tinh là hỷ thần số 1 thì khi kiêu ấn, quan sát và thực thương ít, dụng thần đầu tiên phải là thực thương, bởì vì thực thương có thể xì hơi Thân để sinh cho tài tinh, mục đích để tránh sự thương tổn do hai hành này xung khắc nhau (nó thường được gọi là dụng thần hòa giải hay thông quan), trừ khi Thân vượng và tài tinh tương đương với nhau thì không thể lấy thực thương làm dụng thần bởi vì khi đó tài tinh sẽ vượng hơn còn Thân sẽ trở thành nhược.
51/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít và thực thương không nhiều thì dụng thần đầu tiên thường phải là quan sát, sau mới là thực thương và cuối cùng mới là tài tinh.
52/17 - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít, thực thương không nhiều, tỷ kiếp và quan sát cùng có 3 can chi nhưng tỷ kiếp nắm lệnh (nếu quan sát có 4 can chi thì Thân phải có ít nhất 5đv nhiều hơn quan sát) thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát, sau mới là thực thương và cuối cùng mới là tài tinh.
53/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít, thực thương không nhiều, tỷ kiếp có ít nhất 3 can chi và nắm lệnh, còn quan sát có nhiều nhất 3 can chi (trừ giả thiết 53a/207) thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát, sau mới là thực thương và cuối cùng mới là tài tinh.
53a/209 - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít, thực thương không nhiều và tỷ kiếp có ít nhất 3 can chi và nắm lệnh, còn quan sát có 3 can chi nhưng nhật can và tất cả can chi của tỷ kiếp đều bị khắc gần và trực tiếp bởi quan sát và Thân không lớn hơn quan sát 5đv thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương, sau tới tài tinh và cuối cùng mới tới quan sát.
54/86 - Nếu Thân vượng, kiêu ấn và thực thương không nhiều mà quan sát có ít nhất 4 can chi và Thân không có 2,5đv nhiều hơn quan sát là kỵ 1 thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (bởi vì quan sát là quá mạnh không cần phải thêm, còn thực thương là quá yếu thành vô dụng so với quan sát), sau mới là thực thương và cuối cùng mới là quan sát.
55/43 - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít, thực thương không nhiều, quan sát có ít nhất 3 can chi và nắm lệnh, còn tỷ kiếp có nhiều nhất 3 can chi thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương, sau mới là tài tinh và cuối cùng mới là quan sát.
56/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít và thực thương không nhiều, quan sát và Thân đều có 3 can chi nhưng cả hai đều không nắm lệnh thì dụng thần đầu tiên là quan sát chỉ khi Thân lớn hơn quan sát là kỵ 1 ít nhất 5đv (?)
57/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít, thực thương không nhiều và tỷ kiếp có 4 can chi, còn quan sát có 3 can chi và nắm lệnh thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (dụng thần đầu tiên là quan sát chỉ khi Thân lớn hơn hỷ dụng thần số 1 là tài tinh hay quan sát ít nhất 5đv), sau mới là tài tinh, cuối cùng mới là quan sát.
58/ – Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít và thực thương không nhiều, quan sát có 3 can chi và nắm lệnh, còn Thân có 5 can chi thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát, sau mới là thực thương và cuối cùng mới là tài tinh ?
59/ – Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít và thực thương nhiều thì dụng thần đầu tiên thường phải là tài tinh, sau đó mới là quan sát, cuối cùng mới là thực thương.
60/ - Nếu Thân vượng, kiêu ấn và thực thương nhiều, ít hay không có mà quan sát có ít nhất 4 can chi và nắm lệnh thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (thực thương là vô dụng bởi vì quan sát quá vượng), sau đó mới là thực thương, cuối cùng mới là quan sát).


5 – Xác định dụng thần khi Thân nhược
Nếu Thân nhược thì dụng thần đầu tiên phải là.... (xem các giả thiết 42/ và 43/ trong chương 14).

(42/ - Nếu Thân nhược mà quan sát hay thực thương là kỵ 1 thì dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn (bởi vì kiêu ấn có khả năng xì hơi quan sát để sinh cho Thân và chế ngự thực thương), sau mới đến tỷ kiếp. Nếu trong tứ trụ không có kiêu ấn và tỷ kiếp thì dụng thần thứ 3 phải là thực thương (nếu thực thương không là kỵ 1 và nhiều) hay tài tinh (nếu thực thương là kỵ 1 hay nhiều).
43/ - Nếu Thân nhược mà tài tinh là kỵ 1 thì dụng thần đầu tiên phải là tỷ kiếp (bởi vì tỷ kiếp có khả năng chế ngự tài tinh và giúp đỡ Thân nhược), sau mới đến kiêu ấn (vì nó có khả năng làm hao tổn tài tinh và sinh cho Thân).

Nếu trong tứ trụ không có tỷ kiếp và kiêu ấn mà Quan Sát là kỵ 1 thì dụng thần phải là thực thương, còn nếu Tài tinh là kỵ 1 thì dụng thần phải là can ngày.

Sửa bởi VULONG777: 05/10/2015 - 18:04


#23 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 18:09

II - Dụng thần hòa giải

Khi 2 hành trong tứ trụ có thế lực mạnh ngang nhau, nếu chúng tương tranh với nhau, thì cả 2 hành này dễ bị tổn thương. Do vậy ta phải chọn 1 hành khác để hòa giải 2 hành này, mục đích có thể tránh được sự tổn thương do chúng tương tranh với nhau. Hành này được gọi là hành làm dụng thần hòa giải.

Ví dụ 1 : Về ngũ hành
Kim và Mộc đều có thế lực mạnh tương tranh với nhau, khi đó chúng rất cần có Thủy để hóa giải sự tương tranh này bởi vì Thủy có thể xì hơi Kim để sinh cho Mộc. Nó nghĩa là Kim không còn khắc được Mộc mà nó phải sinh cho Thủy, vì vậy Thủy thêm vượng sinh cho Mộc. Điều này chỉ xẩy ra khi Thủy không quá yếu và không quá vượng bởi vì nếu nó quá yếu thì nó không có khả năng xì hơi Kim và sinh cho Mộc, còn nếu nó quá vượng thì nó sẽ xì hơi Kim quá mạnh có thể làm cho Kim suy yếu cùng kiệt cũng như nó sẽ sinh cho Mộc quá nhiều làm Mộc quá vượng. Như vậy nó đã làm cho Kim và Mộc bị thay đổi quá nhiều dễ dẫn tới kim và Mộc đều bị thương tổn.

Ví dụ 2 : Về thập thần
Nếu Thân vượng, quan sát cũng vượng mà có ấn tinh không quá vượng hay quá nhược để xì hơi quan sát sinh cho Thân thì chúng sẽ không còn xung đột với nhau, nên chúng không bị thương tổn, như thế mới được lộc trọng quyền cao.

Chú ý : Thực thương chỉ có tác dụng như dụng thần hòa giải khi Thân quá vượng cần có thực thương để xì hơi Thân sinh cho tài tinh, vì vậy tài tinh không bị thương tổn (tức là không bị phá tài hay phá sản) mà trái lại tài càng thêm vượng (tức là phát tài). Bởi vì nếu Thân vượng nhưng Thân và tài tinh có thế lực ngang nhau, nếu lấy thực thương để xì hơi Thân và sinh cho tài tinh thì Thân sẽ trở thành nhược còn tài tinh sẽ trở thành vượng, Thân không thắng được tài tinh dễ bị phá tài. Do vậy thực thương ở đây không có tác dụng như dụng thần hòa giải.
Nếu trong tứ trụ không có các dụng thần hòa giải này thì chúng ta tự tạo ra trong thực tế như : Tên gọi, phương để sống, nghề nghiệp, quần áo..... có hành của dụng thần hòa giải đó.

III - Dụng thần điều hòa

Một người được sinh ra vào mùa đông thì tứ trụ của người này cần phải có Hỏa để làm cho tứ trụ không bị lạnh, nhưng Hỏa không lên có quá nhiều nó chỉ cần có đủ để sưởi ấm cho tứ trụ (điều này chỉ đúng cho những người được sinh ra và sống ở bắc bán cầu có 4 mùa rõ rệt bởi vì lý thuyết của môn tứ trụ này được đưa ra cũng như các thực nghiệm của nó mới chỉ được áp dụng cho những người ở vùng này). Những người được sinh ra vào mùa hè thì ngược lại, còn mùa xuân và mùa thu có nhiệt độ thích hợp, vì vậy không cần tới dụng thần điều hòa. Bởi vì trong Tử Bình người ta lấy Hỏa để đại diện cho lửa, phương nam và nóng, còn Thủy để đại diện cho nước, phương bắc và lạnh..... Các can chi và các cách dùng để điều hòa nhiệt độ này được gọi là dụng thần điều hòa.

Nếu trong tứ trụ không có hay có dụng thần điều hòa nhưng nó quá yếu thì người ta thường dùng lửa, máy điều hòa nhiệt độ, quần áo, nước, mầu sắc,....., nhất là đặt tên có hành của dụng thần hòa giải và chọn phương bắc hay phương nam để sống, nhằm mục đích để bổ cứu cho dụng thần điều hòa.

Ví dụ :
Một người được sinh ra vào mùa đông trong các tháng Tý, Hợi hay Sửu thì trong tứ trụ cần có 1 hay vài can chi là Bính, Đinh, Tị hay Ngọ tùy theo trong tứ trụ có nhiều hay ít các can chi là Nhâm, Quý, Tý hay Hợi cũng như chúng được lệnh hay không được lệnh, nếu Thủy quá mạnh mà Hỏa quá yếu thì chúng ta mới phải sử dụng các yếu tố bên ngoài như đã nói ở trên để bổ cứu.

Ngoài ra, nếu Thủy vượng trong tứ trụ (như đươc sinh vào mùa đông, trong tứ trụ có nhiều can chi Thủy, hay có Thủy cục mạnh) thì có thể dùng Mộc làm dụng thần điều hòa bởi vì Mộc có khả năng xì hơi Thủy để sinh cho Hỏa (tức là làm giảm độ vượng của Thủy, nó cũng có nghĩa là làm giảm lạnh), vì vậy nếu gặp được các đại vận Giáp, Ất, , Dần, Mão, Thìn (vì nó thuộc mùa xuân), Bính, Đinh Tị, Ngọ, Mùi (vì nó thuộc mùa hạ) thì chúng có khả năng làm dụng thần điều hòa cho tứ trụ. Nhất là những người sinh vào ngày Quý Dậu, tức là ngày Kim Thần. Thân (Thủy) là vượng, vì vậy khi gặp các vận Hỏa hay đi về phương nam là phương có Hỏa mạnh để sống thì những người này thường sẽ đúng với câu “Kim thần nhập Hỏa phú quý sẽ vang xa).

Trong 3 loại dụng thần ở trên thì dụng thần sinh phù và chế ngự là quan trọng nhất, sau mới đến dụng thần hòa giải, cuối cùng mới đến dụng thần điều hòa.

#24 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 18:31

IV - Dụng thần của các mệnh cục đặc biệt

Nói chung cách xác định dụng thần của các mệnh cục đặc biệt này (thường được gọi là ngoại cách) hoàn toàn ngược với các cách thông thường. Trong các trường hợp của ngoại cách này, dụng thần của chúng là dựa theo thế vượng của các hành trong tứ trụ, nó nghĩa là nếu hành nào vượng nhất thì hành đó chính là dụng thần, còn hành sinh ra nó và hành xì hơi nó (tức là hành được nó sinh cho) thường là hỷ thần, còn hành khắc nó và bị nó khắc là kỵ thần. Nói chung những người có cách cục đặc biệt này thường không tuân theo cách dự đoán thông thường.

A – Cách độc vượng

Các Cách Độc Vượng thường không có can chi là Tài của hành độc vượng đó, còn nếu có thì chỉ có nhiều nhất một Can hay một Chi nhưng nó phải là thất lệnh và bị khắc gần hay trực tiếp, khi đó trong Tứ Trụ phải có 7 can chi là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (kể cả can ngày).

1 – Cách Mộc độc vượng
Cách này đòi hỏi những điều kiện sau đây:
a - Nhật can là giáp hay ất.
b – Sinh các tháng dần, mão, hoặc mộc khí nắm lệnh (chi tháng hóa thành mộc cục).
c – Trong tứ trụ không có canh, tân, thân hay dậu để phá cách (vì nó mang hành Kim khắc Mộc).
d – Trong địa chi có tam hội, tam hợp cục hóa mộc hoặc mộc nhiều thế vượng.
Dụng thần của cách này là mộc, hỷ thần là thủy và hỏa, còn kỵ thần là kim và thổ.

Ví dụ: Năm Ất Mùi - tháng Kỷ Mão – ngày Giáp Dần - giờ Ất Hợi
Nhật can Giáp mộc sinh tháng Mão, Mộc khí nắm lệnh (vì chi tháng là Mão đã hóa Mộc). Ðịa chi Hợi Mão Mùi tam hợp hóa mộc. Không có canh, tân, thân, dậu phá cách. Tuy có Kỷ (Thổ) là Tài nhưng nó thất lệnh và bị Giáp khắc gần. Trong Tứ Trụ có 7 can chi là Mộc (Tỷ Kiếp) nên đây là cách mộc độc vượng.

2 – Cách Hỏa độc vượng
Cách này đòi hỏi những điều kiện sau đây :
a - Nhật can là Bính hay Đinh.
b – Sinh vào các tháng Tỵ, Ngọ, hoặc hỏa khí nắm lệnh.
c – Trong tứ trụ không có Nhâm, Quý, Tý, Hợi để phá cách.
d – Trong địa chi có tam hội, tam hợp cục hóa hỏa, hay hỏa, mộc nhiều thế vượng.
Dụng thần của cách này là hỏa, hỷ thần là mộc và thổ, kỵ thần là thủy và kim.

Ví dụ : Năm Giáp Tuất – Bính Dần – ngày Bính Ngọ - Canh Dần
Nhật can Bính sinh tháng Dần, hỏa khí nắm lệnh (tức là chi tháng Dần đã hóa Hỏa). Các chi có tam hợp Dần Ngọ Tuất hóa hỏa. Tuy có canh kim nhưng nó thất lệnh và bị khắc gần bởi Bính trụ ngày. Trong Tứ Trụ có 7 can chi là Mộc (Kiêu Ấn) và Hỏa (Tỷ Kiếp) nên nó thuộc cách hỏa độc vượng.

3 – Cách Thổ độc vượng
Cách này đòi hỏi những điều kiện sau đây :
a - Nhật can là Mậu hay Kỷ.
b – Sinh vào các tháng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, hoặc thổ khí nắm lệnh.
c – Có đầy đủ bốn kho (tức các chi là Thổ) Thìn, Tuất, Sửu và Mùi (ba kho cũng được).
d - Tứ trụ không có Giáp, Ất, Dần, Mão để phá cách.
Dụng thần của cách này là thổ, hỷ là hỏa và kim. Kỵ thần là thủy và mộc.

Ví dụ: Bính Thìn - Mậu Tuất – ngày Kỷ Sửu - Kỷ Tị
Nhật can Kỷ sinh tháng Tuất, thổ khí nắm lệnh. Tất cả các can chi trong Tứ Trụ là Thổ và Hỏa, trong đó có ba chi là Thổ. Không có mộc phá cách, nên đây là cách Thổ độc vượng.

4 – Cách Kim độc vượng
Cách này đòi hỏi những điều kiện sau đây :
a - Nhật can là Canh hay Tân.
b – Sinh vào các tháng Thân, Dậu, hoặc kim khí nắm lệnh.
c – Các địa chi có tam hội hoặc tam hợp hóa kim, hoặc kim nhiều thế vượng.
d – Trong tứ trụ không có Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ để phá cách.
Dung thần của cách này là kim, hỷ là thổ và thủy. Kỵ thần là hỏa và mộc.

Ví dụ: Canh Thân – Tân Dậu – ngày Tân Tị - Kỷ Sửu
Nhật can Tân sinh tháng Dậu, kim khí nắm lệnh. Các địa chi Tị Dậu Sửu tam hợp hóa kim cục. Có Kỷ thổ sinh cho Kim và Canh, Tân trợ giúp. Trong tứ trụ không có Bính, Đinh, Tị, Ngọ để phá cách, nên nó thuộc cách kim độc vượng.

5 – Cách Thủy độc vượng
Cách này đòi hỏi những điều kiện sau đây:
a - Nhật can là Nhâm hay Quý.
b – Sinh ở các tháng Tý, Hợi, hoặc thủy khí nắm lệnh.
c - Địa chi có tam hội, tam hợp hóa thủy, hoặc thủy rất nhiều, thế vượng.
d – Trong tứ trụ không có Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi để phá cách.
Dụng thần của cách này là thủy, hỷ là kim và mộc. Kỵ thần là thổ và hỏa.

Ví dụ: Tân Hợi – Canh Tý - ngày Quý Sửu – Nhâm Tý
Nhật can Quý thủy sinh tháng Tý, thủy khí năm lệnh. Các địa chi Hợi Tý Sửu trong Tứ Trụ tạo thành tam hội hóa thủy cục. Thiên can Canh, Tân sinh thủy, còn được Nhâm, Quý thủy trợ giúp. Trong mệnh cục không có Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi phá cách, nên là cách thủy độc vượng.

6 – Cách Kiêu Ấn độc vượng - Tòng Kiêu Ấn - Cách Lưỡng Vượng (trừ Thổ)
(Nói chung không được có Tài, trừ khi Thân và Kiêu Ấn có số Can Chi bằng nhau.)

1 - Nếu chi tháng mang hành Kiêu Ấn và 4 chi tạo thành tam hợp hay tam hội cục Kiêu Ấn thì Thân không được nhỏ hơn Kiêu Ấn 40%đv - xem cách tòng theo Lệnh tháng).
2 - Nếu trong Tứ Trụ không có Tài tinh và Thực Thương có nhiều nhất 1 can chi Tử Tuyệt thì thành cách Tòng Kiêu Ấn chỉ khi Kiêu Ấn có ít nhất 6 can chi, còn nếu chỉ có 5 can chi thì chúng đều phải ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng.
3 – Nếu trong Tứ Trụ Thân và Kiêu Ấn có số Can Chi bằng nhau mà Kiêu Ấn nắm lệnh thì Thân phải là hành thống trị trong Tứ Trụ, không lớn hơn Kiêu Ấn 5đv nhưng lớn hơn Thực Thương, Tài tinh và Quan Sát ít nhất 20đv thì có thể thành cách tòng Kiêu Ấn.

Khi đó dụng thần là Kiêu Ấn, hỷ thần là Quan Sát và Tỷ Kiếp còn kỵ thần là Thực Thương và Tài tinh.

5 – Ngoại lệ: Nếu Kiêu Ấn có ít nhất 6 can chi mà Thân không bằng 15%đv của Kiêu Ấn thì Thân được xem là nhược, khi đó dụng thần là Tỷ Kiếp, hỷ thần là Tài tinh còn kỵ thần là Quan Sát, Kiêu Ấn và Thực Thương.

Cách phụ thuộc hoàn toàn ngược với cách độc vượng. Ở đây Thân quá nhược, còn hành của tài tinh, quan sát hay thực thương lại quá vượng. Thân bắt buộc phải phụ thuộc vào hành vượng đó để sống. Do vậy nó được gọi là cách phụ thuộc.

1 – Cách phụ thuộc tài (theo tài hay tòng tài)
Cách này đòi hỏi những điều kiện sau đây:
a – Thân nhược, mệnh cục không có các can chi là Tỷ Kiếp và Kiêu, Ấn sinh phù, trợ giúp cho Thân.
b - Can chi tài nhiều, vượng, hoặc có thực, thương nhiều xì hơi Thân tái sinh tài.
Dụng thần là tài tinh, hỷ thần là thực thương, kỵ thần là kiêu ấn và tỷ kiếp, còn quan sát là bình thường.

Ví dụ: Mậu Tuất – Bính Thìn – ngày Ất Mùi – Bính Tuất
Nhật can Ất mộc, chi toàn thổ, tài vượng. Thiên can có hai Bính xì hơi mộc để tái sinh tài, còn Mậu thổ sinh cho Tài. Ất mộc trong Tứ Trụ không có khí gốc, vì vậy thành cách phụ thuộc tài.

2 – Cách phụ thuộc quan sát
Cách này đòi hỏi những điều kiện sau đây:
a - Thân nhược và nó không có gốc trong Tứ Trụ (tức là không có các chi mang hành của Thân).
b - Tứ trụ quan, sát nhiều nhưng không có thực, thương để khắc chế quan, sát.
c – Có hỷ tài để sinh quan, sát.
Dụng thần là quan sát, hỷ thần là tài tinh, còn kỵ thần là kiêu ấn, tỷ kiếp và thực thương, trong đó kiêu ấn và tỷ kiếp là xấu nhất.

Ví dụ: Bính Dần – Giáp Ngọ - ngày Canh Ngọ - Bính Tuất
Nhật Can là Canh (Kim) sinh ở tháng Ngọ (Hỏa). Các chi Dần Ngọ Tuất trong Tứ Trụ tạo thành tam hợp hóa Hỏa cục, Bính trụ năm và trụ giờ là Hỏa, Giáp (Mộc) trụ tháng sinh Hỏa, còn Canh (Kim) trong Tứ Trụ không có gốc. Do vậy Tứ Trụ này thuộc cách phụ thuộc Quan Sát.

3 – Cách phụ thuộc thực thương
Cách này đòi hỏi những điều kiện sau đây:
a – Thân nhược, chi tháng là thực, thương (hành của thực, thương) của Thân.
b - Mệnh cục nhất thiết phải có tài thì mới thành cách.
c - Trong mệnh cục có tam hội, tam hợp cục hóa thành thực thần, thương quan hoặc Thực Thương nhiều và vượng trong Tứ Trụ.
d – Trong mệnh cục không có quan, sát khắc Nhật can hoặc kiêu, ấn khắc thực, thương.
Dụng thần là thực thương, hỷ thần là tài tinh, kỵ thần là kiêu ấn, quan sát, còn tỷ
kiếp là bình thường.

Ví dụ: Mậu Tý – Tân Dậu – ngày Kỷ Dậu – Nhâm Thân
Can ngày là Kỷ thổ sinh tháng Dậu, Dậu thuộc kim là thực thương của Thân. Trong tứ trụ Mậu, Kỷ thuộc thổ sinh kim (tức sinh cho Canh, Tân, Thân, Dậu), kim lại sinh cho thủy (Nhâm, Tý) cứ thế tương sinh, vì vậy thành cách phụ thuộc thực thương.

D - Cách hóa khí

Cách hóa khí chỉ có thể tồn tại nhiều nhất một can hay một chi là Tài của hành hóa khí này nhưng nó phải thất lệnh và bị khắc trực tiếp không phải từ Can hay Chi trong hóa cục.

1 – Cách hóa khí (hành của can ngày bị thay đổi)
a - Nhật can hợp với can bên cạnh (can tháng hoặc can giờ) hóa thành cục có hành khác với hành của Nhật can.
b - Trong Tứ Trụ không có can chi tỷ kiếp.
c - Hành của hóa cục vừa được tạo ra trở thành hành thống trị trong tứ trụ (nghĩa là khi đó nó mới có điểm vượng cao nhất trong vùng tâm của cả 5 hành).
d - Hành vừa hóa thành giống hành của chi tháng.
e - Hỷ thần thực, thương làm xì hơi thế vượng của nó.
f - Trong tứ trụ không có quan sát của hành hóa khí này.
g – Nếu có 1 can chi Tài tinh của hành hóa khí mà được lệnh thì nó phải bị 2 lần khắc gần hay bị cả khắc gần lẫn trực tiếp (339/T3), còn nếu thất lệnh thì chỉ cần bị khắc gần hay trực tiếp (340/T3).

Dụng thần luôn luôn là hành của hóa khí này.

Nói chung can ngày hợp với can bên cạnh rất khó hóa được cục (xem phần lý thuyết về hợp hóa của nhật can).

(Tôi đang nghiên cứu để viết lại toàn bộ phần Ngoại Cách này nhưng chưa xong nên tạm thời không đưa vào đây.)

Sửa bởi VULONG777: 05/10/2015 - 19:00


Thanked by 1 Member:

#25 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 20:06

Chương 11

Xác định điểm hạn của ngũ hành

I - Điểm hạn của ngũ hành

1 – Khái niệm về điểm hạn của ngũ hành

Ta đã biết hành nào trong năm hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa và Thổ có lợi nhất cho hành của Thân được gọi là hành của dụng thần, còn những hành khác cũng có lợi cho Thân được gọi là các hành hỷ thần và dĩ nhiên sẽ có các hành không có lợi cho Thân được gọi là các hành kỵ thần.

Tương tự như xác định điểm vượng cho các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt để diễn tả mức độ mạnh hay yếu của các can chi theo lệnh tháng thì ở đây qua các ví dụ trong thực tế tôi cũng đã xác định được điểm hạn cho các hành để diễn tả khả năng tốt hay xấu của các hành với Thân. Tôi quy ước điểm hạn của các hành xấu là kỵ thần không lợi cho Thân mang dấu dương (+), còn các hành tốt là hỷ thần và dụng thần có lợi cho Thân thì mang dấu âm (-).

2 - Điểm hạn của ngũ hành

a – Hành làm dụng thần có -1đh (điểm hạn).
b – Hành khắc dụng thần có 1đh (trừ trường hợp quan sát là dụng thần thì kiêu ấn có 1đh hay Thân nhược mà thực thương làm dụng thần thì tài tinh có 1đh).
c – Các hành khác là hỷ thần có -0,5đh.
d – Các hành không khắc dụng thần là kỵ thần có 0,5đh.

Nếu Thân nhược thì các hành kiêu ấn và tỷ kiếp mang dấu âm còn các hành thực thương, tài tinh và quan sát mang dấu dương.
Nếu Thân vượng, kiêu ấn không nhiều thì hành Thân và kiêu ấn mang dấu dương còn hành thực thương, tài và quan sát mang dấu âm.

3 - Các trường hợp ngoại lệ

a – Nếu Thân nhược nhưng kiêu ấn có ít nhất 20đv nhiều hơn Thân thì kiêu ấn mang dấu dương.
b – Nếu Thân vượng mà kiêu ấn nhiều thì quan sát mang dấu dương.
c – Thân nhược mà trong tứ trụ không có kiêu ấn và tỷ kiếp, nếu phải lấy kỵ thần thực thương làm dụng thần thì thực thương mang dấu âm.
d - Nếu Thân nhược mà điểm vượng (trong vùng tâm) của Thân không có quá 1 đv ít hơn so với quan sát là kỵ thần số 1 và thế lực của Thân không yếu hơn thế lực của quan sát, tức số can chi mang hành của Thân không ít hơn số can chi mang hành của quan sát (trong đó mỗi điểm Lộc, Kình dương hay nắm lệnh của mỗi hành này cũng như hành nào lớn hơn hành kia ít nhất 5 đv trong vùng tâm thì hành đó coi như được thêm 1 can hay 1 chi) cũng như điểm vượng của kiêu ấn không nhỏ hơn điểm vượng của quan sát thì điểm hạn của thực thương có thể mang dấu âm.

II – Thân vượng và các ví dụ minh họa

1 - Kiêu ấn không có trong tứ trụ

M-1/1 : Nam sinh ngày 24/5/1936 lúc 9,46’ có tứ trụ :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có 2 Tị và Bính trụ năm đều bị khắc trực tiếp còn Bính trụ ngày bị khắc gần và không có các tổ hợp
1 – Bính trụ năm có 9đv bị giảm ½ đv bởi Tý khắc trực tiếp, 1/3đv bởi Quý trụ tháng khắc gần, 1/10đv bởi Quý trụ giờ khắc cách 2 ngôi và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 9.1/2.2/3.9/10.3/5đv = 1,62đv.
2 – Tý có 3,1đv bị giảm ½ đv khi nó vào vùng tâm, nó còn 1,55đv.
3 - Tị trụ tháng có 10đv bị giảm ½ đv bởi Quý trụ tháng khắc trực tiếp, 1/3đv bởi Tý khắc gần, 1/10đv bởi Quý trụ giờ khắc cách 2 ngôi, 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 10.1/2.2/3.9/10.3/5sp = 1,8đv.
4 - Nếu sử dụng giả thiết 72/ thì Ngọ trụ ngày có 9đv và có thêm 4,3đv của Nhật Chủ (Bính) đắc địa Kình dương ở Ngọ, vì vậy nó thành 13,3đv nhưng nó bị giảm 3 lần ¼ đv bởi 2 Quý và 1 Tý đều đều khắc cách 1 ngôi, nó chỉ còn 13,3.(3/ 4)3đv = 5,61đv
5 - Nếu sử dụng giả thiết 72/ thì Tị trụ giờ có 10đv có thêm 4,05đv đắc địa Lộc của Nhật Chủ tại Tị trụ giờ, nó thành 14,05đv nhưng nó bị giảm ½ đv bởi Quý trụ giờ khắc trực tiếp, 1/10đv bởi Quý trụ tháng khắc cách 2 ngôi, 1/10đv bởi Tý trụ năm khắc cách 2 ngôi và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 14,05.1/2.9/10.9/10.3/5đv = 3,41đv.
6 – Bính trụ ngày có 9đv bị giảm 2 lần 1/3đv bởi 2 Quý khắc gần và 1/10đv bởi Tý trụ năm khắc cách 2 ngôi, vì vậy nó chỉ còn 9.(2/3)2 đv = 3,6đv.
7 – Quý ở trụ tháng và trụ giờ có 4,1đv trong vùng tâm (vì chúng ở trong vùng tâm, chúng không bị khắc và chúng không nhận được sự sinh của các chi cùng trụ).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta thấy Thân (Hỏa) có 1đv lớn hơn thực thương Thổ, tài tinh Kim và quan sát Thủy, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn là Mộc không có trong tứ trụ, vì vậy dụng thần đầu tiên phải lấy tài tinh và dụng thần chính của nó là Canh tàng trong Tị trụ tháng (vì theo quy tắc ưu tiên, Canh tàng trong Tị trụ tháng mạnh hơn ở Tị trụ giờ và xem giả thiết 44 trong chương 14).
Kim làm dụng thần nên có -1đh. Hỏa khắc dụng thần Kim nên nó có 1đh. Mộc sinh cho kỵ thần Hỏa, vì vậy Mộc là kỵ thần có 0,5đh. Thủy khắc kỵ thần Hỏa nên nó là hỷ thần có -0,5đh (vì kiêu ấn ít). Mặc dù Thổ khắc hỷ thần Thủy là xấu nhưng nó có khả năng xì hơi kỵ thần Hỏa để sinh cho dụng thần Kim là tốt, vì vậy nó được xem là hỷ thần có -0,5đh.

2 - Các ví dụ cho Mẫu 2 - Kiêu ấn nhiều

M-2/1 : Nam sinh ngày 10/11/2005 lúc 10,30’

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này ta thấy trong tứ trụ có :
1 - Ất bị khắc trực tiếp, Hợi bị khắc gần.
2 - Nhật Chủ Mậu đắc địa Lộc ở chi Tị (nó có 4,05đv nhưng vào vùng tâm nó bị giảm 2/5đv còn 2,43đv).
Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi đã ghi trên sơ đồ (các điểm vượng của các can chi của 2 Đinh, Mậu và Tuất không thay đổi (vì chúng không bị khắc, không được sinh và chúng ở trong vùng tâm).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta thấy Thân (Thổ) có 1đv lớn hơn thực thương Kim, tài tinh Thủy và quan sát Mộc, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn nhiều (vì nó có 3 can chi là Hỏa - 2 Đinh và 1 Tị), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Thủy và dụng thần chính của nó là Nhâm tàng trong Hợi trụ tháng.
Thủy là dụng thần có -1đh. Thổ khắc dụng thần Thủy nên nó có 1đh. Kiêu ấn (Hỏa) sinh cho kỵ thần Thổ (Thân) nên nó có 0,5đh. Mộc cũng là kỵ thần có 0,5đh (bởi vì kiêu ấn (Hỏa) nhiều, vì vậy nó có khả năng hóa quan sát Mộc để sinh cho Thân (Thổ) là xấu). Kim là hỷ thần có -0,5đh (bởi vì nó có khả năng xì hơi Thân (Thổ) để sinh cho dụng thần Thủy là tốt).

M-2/2 : Nam sinh ngày 10/6/1985 lúc 15,52’ :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ không có các tổ hợp, Sửu, Ngọ và Giáp đều bị khắc trực tiếp.
1 - Nhật Chủ (Canh) ở trạng thái Lộc tại Thân trụ giờ có 4,05đv, vì vậy Thân có 7đv được thêm 4,05đh thành 7đv + 4,05đv = 11,05đv, nhưng nó bị giảm 2/5đh khi vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 11,05.3/5đv = 6,63đv.
2 - Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được ghi trên sơ đồ (trong chúng chỉ có điểm vượng của Canh không thay đổi).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta thấy Thân (Kim) có 1đv nhiều hơn, thực thương Thủy, tài tinh Mộc và quan sát Hỏa, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn (Thổ) nhiều (vì nó có 2 can chi là Sửu và Thìn, mà Thìn có 9đv trong vùng tâm), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (Mộc) và dụng thần chính của nó là Ất ở trụ năm.
Mộc là dụng thần nên nó có -1đv. Kim khắc dụng thần Mộc nên nó có 1đh. Thổ là kỵ thần có 0,5đh. Hỏa cũng là kỵ thần có 0,5đh (vì Thổ có khả năng xì hơi tất cả Hỏa để sinh cho kỵ thần Kim (Thân) là xấu). Thủy là hỷ thần có -0,5đh (bởi vì nó có khả năng xì hơi Thân để sinh cho dụng thần Mộc là tốt).

M-2/3 : Nữ sinh ngày 3/10/1952 lúc 4,30’ .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có lục hợp của Thìn với Dậu và bán hợp của Dần với Ngọ đều không hóa. Nhâm trụ năm và Nhâm trụ ngày bị khắc gần.
1 – Nếu sử dụng giả thiết 81/39 thì Kỷ và Dậu trong cùng trụ không cùng bị khắc gần và không cùng bị hợp, vì vậy Dậu có 9đv (Lộc) ở lệnh tháng nhận được ít nhất 1/5đv của Kỷ sinh cho nó, Dậu được thêm 6.1/5đv = 1,2đv thành 9đv + 1,2đv = 10,2đv, nhưng nó bị giảm 2/5đv khi nó vào vùng tâm, nó chỉ còn 10,2.3/5đv = 6,12đv.
2 - Dần có 6đv được Nhâm cùng trụ sinh cho 1/3đv của nó thành (7.1/3 + 6)đv = 8,33đv (vì Nhâm của trụ giờ có Nhâm gần cùng hành), khi nó vào vùng tâm bị giảm 2/5đv, vì vậy nó còn 8,33.3/5đv = 5đv.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Thủy) có 1đv lớn hơn Mộc, Hỏa và Thổ, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Nếu sử dụng giả thiết 45/ thì Thân vượng mà kiêu ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (Hỏa) và dụng thần chính của nó là Đinh tàng trong Ngọ trụ ngày.
Hỏa là dụng thần có -1đh. Thủy khắc Hỏa nên nó có 1đh. Kim sinh cho kỵ thần Thủy nên nó là kỵ thần có 0,5đh. Thổ là kỵ thần có 0,5đh (vì Kim nhiều có khả năng xì hơi tất cả Thổ để sinh cho Thân là xấu). Mộc là hỷ thần có -0,5đh (vì nó có khả năng xì hơi Thân sinh cho dụng thần Hỏa).

3 - Các ví dụ cho Mẫu 3 : Kiêu ấn đủ

M-3/1 : Nam có tứ trụ :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa, Tuất bị khắc trực tiếp và Giáp trụ ngày bị khắc gần. Hợi và Tý trong tam hội bị Sửu khắc gần, vì vậy Hợi không nhận được 1/3đv của Tân cùng trụ sinh cho.
Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả ở sơ đồ trên.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Mộc) có 1đv lớn hơn Hỏa, Thổ và Kim, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn đủ (vì nó có 2 Tân đều nhược trong vùng tâm, nó nghĩa là các điểm vượng trong vùng tâm của chúng nhỏ hơn 6đv) và thực thương ít, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là thực thương (Hỏa) và dụng thần chính của nó là Đinh tàng trong Tuất trụ giờ.
Hỏa là dụng thần nên nó có -1đh. Thủy có 1đh bởi vì nó khắc dụng thần Hỏa. Mộc (Thân) là kỵ thần có 0,5đh. Kim được coi là hỷ thần có -0,5đh (vì kiêu ấn (Thủy) chỉ là đủ, nó không xì hơi được hết Kim để sinh cho Thân, Kim vẫn có thể chế ngự được Thân là tốt). Thổ là hỷ thần có -0,5đh (bởi vì nó khắc kỵ thần Thủy và làm hao Thân là tốt).

M-3/2 : Nữ sinh ngày 18/13/1986 lúc 0,30’ .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của Bính với Tân không hóa, Canh và Sửu bị khắc gần.
1 – Đinh có 3đv được Mão cùng trụ sinh cho ½ đv của nó (vì Mão được sinh gần bởi Tý), nó thành (3 + 5,1.1/2)đv = 5,55đv, nhưng nó bị giảm 1/5đv bởi Tý khắc cách 1 ngôi, vì vậy nó còn 5,55.4/5 đ v = 4,44đv
2 - Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Hỏa) có 1đv nhiều hơn Thổ, Kim và Thủy nên Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn đủ (vì kiêu ấn có 2 can chi là Dần và Mão đều nhược ở vùng tâm) và thực thương ít, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là thực thương (Thổ) và dụng thần chính của nó là Mậu tàng trong Dần ở trụ năm.

Thổ là dụng thần có -1đh. Mộc có 1đh (vì nó khắc dụng thần Thổ). Hỏa là kỵ thần có 0,5đh. Thủy là hỷ thần có -0,5đh (vì Mộc chỉ là đủ). Kim khắc kỵ thần Mộc nên nó là hỷ thần có -0,5đh.

M-3/3: Nam sinh ngày 2/5/1977 lúc 20,00’ .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của 2 Giáp với 1 Kỷ, Kỷ bị khắc gần, Thìn và Tuất bị khắc trực tiếp.
Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Thổ) có 1đv nhiều hơn Kim, Thủy và Mộc, vì vậy Nhật Chủ là vượng mà kiêu ấn đủ (vì Đinh và Tị nhược trong vùng tâm) và thực thương (Kim) ít, nên dụng thần đầu tiên thường là thực thương. Nhưng ở đây Giáp là quan sát hợp với Nhật can, nó không bị xì hơi bởi kiêu ấn và nó vẫn khắc được Nhật Chủ (Kỷ), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là quan sát (Mộc) và dụng thần chính của nó là Ất tàng trong Thìn trụ tháng (giả thiết 47/).
Mộc là dụng thần nên nó có -1đh. Kiêu ấn (Hỏa) là kỵ thần có 1đh (vì nó xì hơi quan sát để sinh cho Thân là xấu nhất). Thổ là kỵ thần có 0,5đh. Kim và Thủy đều là hỷ thần nên chúng đều có -0,5đh.

M-3/4 : Nam sinh ngày 20/6/1958 lúc 4,30’

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có tam hợp Dần Ngọ Tuất không hóa và Mậu trụ ngày bị khắc gần .
Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Thổ) có 1đv lớn hơn Kim, Thủy và Mộc nên mệnh này có Thân vượng. Nếu sử dụng giả thiết 46/ thì Thân vượng mà kiêu ấn đủ và thực thương ít, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là thực thương (Kim) và dụng thần chính của nó là Tân tàng trong Tuất trụ năm.
Kim là dụng thần có -1đh. Hỏa khắc dụng thần Kim nên nó có 1đh. Thổ là kỵ thần nên nó có 0,5đh. Mộc và Thủy là hỷ thần nên chúng đều có -0,5đh.

Sửa bởi VULONG777: 05/10/2015 - 20:14


#26 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 20:17

4 - Kiêu ấn ít

M-4/1 : Nam sinh ngày 20/13/1939 lúc 22,13’

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của Nhâm với Đinh không hóa. Kỷ bị khắc trực tiếp, Sửu và Hợi bị khắc gần.
1 - Mặc dù Nhâm bị khắc trực tiếp bởi Tuất nhưng nó nó vẫn khắc được Đinh (vì chúng ở cùng trong tổ hợp).
2 - Nhật Chủ (Nhâm) ở trạng thái Lộc tại Hợi trụ giờ có 4,05đv
3 - Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.
Điểm hạn và điểm vượng trong vùng tâm của các hành :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Thủy) có 1đv nhiều hơn Mộc, Hỏa và Thổ, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít, nếu sử dụng giả thiết 55/43 thì dụng thần đầu tiên phải là thưc thương (Mộc) (bởi vì quan sát (Thổ) có tới 3 can chi và nắm lệnh, còn Thân (Thủy) chỉ có 2 can chi và đắc địa Lộc, Thân chỉ hơi vượng, vì vậy nếu có thêm quan sát thì Thân dễ thành nhược). Do vậy dụng thần đầu tiên phải là thực thương (Mộc) và dụng thần chính của nó là Giáp tàng trong Hợi trụ giờ.
Mộc là dụng thần có -1đh. Kim khắc dụng thần Mộc nên nó có 1đh. Thủy (Thân) là kỵ thần có 0,5đh. Hỏa và Thổ là hỷ thần đều có -0,5đh.

M-4/2 : Nam sinh ngày 3/13/1969 lúc 1,20’ :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ không có các tổ hợp, nhưng có 2 Quý bị khắc trực tiếp và Tý bị khắc gần.
1 - Dậu có 6đv được thêm 50% đv của Kỷ cùng trụ sinh cho, vì vậy nó có (6 + 3,1.1/2) đv = 7,55đv, nhưng nó bị giảm 1/5 đv bởi Bính khắc cách 1 ngôi và ½ đv khi nó vào vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 7,55.4/5.1/2đv = 3,02đv.
2 - Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi khác được mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Thủy) có 1đv nhiều hơn Mộc, Hỏa và Thổ, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng, kiêu ấn và thực thương ít, nếu sử dụng giả thiết 53/ thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát (Thổ) và dụng thần chính của nó là Kỷ ở trụ năm (vì Thân có 3 can chi và nắm lệnh còn quan sát chỉ có 3 can chi).
Thổ là dụng thần có -1đh. Kim (kiêu ấn) có 1đh. Thủy (Thân) là kỵ thần có 0,5đv. Mộc và Hỏa là hỷ thần có -0,5đh.

M-4/3 : Nam sinh ngày 11/11/1958 lúc 8,00’

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ, ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của Mậu với Quý là không hóa, Thìn ở trụ giờ và Nhâm bị khắc trực tiếp, Quý và Hợi bị khắc gần.
Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Thủy) có 1đv lớn hơn Mộc, Hỏa và Thổ, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít, nếu sử dụng giả thiết 52/17 thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát (Thổ) và dụng thần chính của nó là Mậu trụ năm (quan sát chỉ có 4 can chi còn Thân mặc dù chỉ có 3 can chi nhưng nắm lệnh và điểm vượng trong vùng tâm của Thân lớn hơn của quan sát 5đv, vì vậy Thân được xem như có 5 can chi tỷ kiếp).
Thổ là dụng thần có -1đh, Kim có 1đh, Thủy có 0,5đh, Mộc và Hỏa có -0,5đh

M-4/4 : Nữ sinh ngày 29/9/1962 lúc 19,35’

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ, ta thấy trong tứ trụ có tam hợp Dần Ngọ Tuất hóa Hỏa, Nhâm và Canh bị khắc gần.
Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Kim) không lớn hơn Thủy, Mộc và Hỏa 1đv, vì vậy Nhật Chủ nhược. Nếu sử dụng giả thiết 194/98 thì kiêu ấn sinh được 50%đv của nó cho Thân (vì Nhật can được lệnh và kiêu ấn lớn hơn thực thương và tài tinh). Thân có (8,19 + 6.1/2)đv = 11,19đv nhiều hơn Thủy, Mộc và Hỏa 1đv, vì vậy Nhật Chủ đã trở thành vượng. Nếu sử dụng giả thiết 54/48 thì Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít (vì Tuất đã hóa Hỏa chỉ còn Kỷ), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (Mộc) và dụng thần chính của nó là Giáp tàng trong Dần của trụ năm (Hỏa quá mạnh vì nó có tới 4 can nên không cần thêm còn thực thương thì trở thành vô dụng).
Mộc làm dụng thần có -1đh. Kim có 1đh. Thổ có 0,5đh. Thủy và Hỏa có -0,5đh.

M-4/5 : Nam sinh ngày 13/7/1982 lúc 10,12’

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ, ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của Nhâm với Đinh và bán hợp của Tị với Dậu không hóa. Nhâm và Dậu bị khắc trực tiếp (nhưng Nhâm ở trong hợp nên nó vẫn khắc được Đinh cùng trong tổ hợp).
Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Hỏa) có trên 10đv nhiều hơn Thổ, Kim và Thủy, vì vậy Nhật Chủ là khá vượng. Thân vượng mà kiêu ấn ít và thực thương đủ (vì nó có 2 chi là Tuất và Mùi đều nhược ở vùng tâm) thì thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát và dụng thần chính của nó là Nhâm ở trụ năm.
Thủy là dụng thần có -1đh. Mộc có 1đh. Hỏa có 0,5đ . Thổ và Kim có -0,5đh.

M-4/6 : Nữ sinh ngày 30/11/1983 lúc 2,00’.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ, ta thấy trong tứ trụ không có các tổ hợp, Hợi trụ tháng bị khắc gần và Nhâm bị khắc trực tiếp.
1 - Tân có 7đv được Sửu sinh cho 1/3đv của nó thành 8,37đv (vì nó có Tuất gần cùng hành).
2 - Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi khác được mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Thủy) có 1đv nhiều hơn Mộc, Hỏa và Thổ, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít thì dụng thần đầu tiên thường phải là quan sát, nhưng nếu sử dụng giả thiết 191/34 (Tân ở đây là kiêu ấn được lệnh, gần Nhật can và được Sửu (Thổ) cùng trụ sinh cho vì vậy kiêu ấn được xem là đủ) thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (Mộc) và dụng thần chính của nó là Giáp tàng trong Hợi trụ năm.
Mộc là dụng thần có -1đh. Kim có 1đh. Thủy có 0,5đh. Thổ và Hỏa có -0,5đh.

M-4/7 : Nữ sinh ngày 8/11/1958 lúc 19,10’.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của Mậu với Quý và Giáp với Kỷ đều không hóa, Hợi bị khắc gần.
Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Thổ) lớn hơn Kim, Thủy và Mộc trên 1đv, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân khá vượng và tài tinh là hỷ thần 1 mà quan sát, kiêu ấn và thực thương ít, vì vậy nếu sử dụng giả thiết 50/ thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (Kim) và dụng thần chính của nó là Tân tàng trong Tuất trụ năm.
Kim làm dụng thần có -1đh. Hỏa khắc dụng thần Kim có 1đh. Thổ có 0,5đh. Thủy và Mộc là hỷ thần đều có -0,5đh.

M-4/8 : Nam sinh ngày 2/2/1966 lúc 6,00’ am

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của Bính với Tân không hóa, Đinh và Mão đều bị khắc gần.
Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi đã mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Hỏa) lớn hơn Thổ, Kim và Thủy trên 1đv, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít, vì vậy dụng thần đầu tiên thường phải là quan sát và dụng thần chính của nó là Quý ở trụ giờ (vì mặc dù điểm vượng của Thân chỉ lớn hơn quan sát có 1,37đv nhưng thế lực của Thân quá mạnh, nó có tới 3 can chi và đắc địa Lộc tại Ngọ trụ năm, còn quan sát chỉ có Quý ở trụ giờ).
Thổ làm dụng thần có -1đh. Mộc khắc dụng thần Thổ có 1đh. Hỏa có 0,5đh. Kim và Thủy là hỷ thần có -0,5đh.

Sửa bởi VULONG777: 05/10/2015 - 20:21


Thanked by 1 Member:

#27 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 20:30

III – Thân nhược và ví dụ minh họa

M-5/1 : Nữ sinh ngày 13/6/1961 lúc 20,16’ .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có: Canh và Giáp bị khắc gần, Tân được Sửu cùng trụ sinh cho ½ đv của nó, Sửu trụ ngày được Đinh cùng trụ sinh cho ½ đv của nó, nhưng không có các tổ hợp.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Hỏa) nhỏ hơn thực thương Thổ, vì vậy Nhật Chủ nhược. Thân nhược mà Thổ là kỵ 1, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn là (Mộc) và dụng thần chính của nó là Giáp ở trụ tháng.
Mộc là dụng thần có -1đh. Kim khắc dụng thần Mộc nên có 1đh. Hỏa là hỷ thần có -0,5đh. Thủy và Thổ là kỵ thần đều có 0,5đh.

M-5/2 : Nam sinh ngày 7/4/1971 lúc 12,50’

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có : Ngọ trụ giờ không hợp được với Tuất trụ ngày (vì lực hợp của Ngọ với Tuất là 8đv không lớn hơn lực xung của Thìn với Tuất là 8đv), Hợi bị khắc gần và 2 Nhâm bị khắc trực tiếp .
Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Thủy) có điểm vượng vùng tâm nhỏ hơn quan sát và tài tinh, vì vậy Nhật Chủ là nhược. Thân nhược mà quan sát và tài tinh đều có điểm vượng trong vùng tâm bằng nhau. Chúng ta nhận thấy quan sát khắc Thân xấu hơn so với tài tinh chỉ là làm hao Thân, vì vậy quan sát (Thổ) phải là kỵ 1. Do vậy dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn (Kim) và dụng thần chính của nó là Tân ở trụ năm.
Kim là dụng thần có -1đh. Hỏa khắc Kim nên nó có 1đh. Thủy có -05đh. Thổ và Mộc là kỵ thần nên có 0,5đh.

M-5/3 : Nam sinh ngày 20/9/1978 lúc 9,30’ .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có bán hợp của Tị với Dậu hóa Kim (vì có Tân dẫn hóa), Dậu của trụ tháng và Ất bị khắc gần.
Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi đã được mô tả trên sơ đồ .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Mộc) nhỏ hơn quan sát (Kim), vì vậy Nhật Chủ là nhược. Thân nhược mà quan sát là kỵ 1, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn (Thủy). Nhưng trong tứ trụ không có kiêu ấn nên dụng thần thứ hai phải là tỷ kiếp. Nhưng trong tứ trụ cũng không có tỷ kiếp, vì vậy dụng thần thứ 3 phải là kỵ thần thực thương (Hỏa) (bởi vì trong thực tế người ta vẫn có thể lấy độc để trị độc) và dụng thần chính của nó là Đinh tàng trong Ngọ trụ năm (vì Quan sát khắc (hay nó bị kiêu ấn xì hơi để sinh cho Thân) Thân nên là xấu nhất, tài tinh làm hao Thân và sinh cho kỵ thần quan sát cũng là rất xấu, chỉ còn thực thương mặc dù xì hơi Thân là xấu nhưng nó khắc kỵ thần quan sát là có lợi một ít cho Thân).
Hỏa là dụng thần có -1đh. Thổ có 1đh (vì nó xì hơi dụng thần Hỏa để sinh cho kỵ thần Kim là xấu nhất). Kim có 0,5đh. Thủy và Mộc là hỷ thần nên đều có -0,5đh.

M-5/4 : Nam sinh ngày 21/5/1949 lúc 22,00’ .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có : Hợi trụ giờ bị khắc trực tiếp, Tị bị khắc gần, không các tổ hợp.
Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Kim) nhỏ hơn Hỏa, vì vậy Nhật Chủ nhược (vì nếu sử dụng giả thiết 194/98 thì kiêu ấn không sinh được ½ đv của nó cho Thân). Thân nhược mà quan sát là kỵ 1, vì vậy dụng thần đầu tiên thường phải là kiêu ấn (Thổ), nhưng ở đây kiêu ấn lớn hơn Thân trên 20đv, vì vậy nếu sử dụng giả thiết 27/12 thì kiêu ấn trở thành kỵ thần có 0,5đh. Cho nên dụng thần đầu tiên phải là tỷ kiếp (Kim) và dụng thần chính của nó là Canh tàng trong Tị trụ tháng.
Kim là dụng thần có -1đh. Hỏa khắc dụng thần Kim nên nó có 1đh. Thủy là kỵ thần có 0,5đh. Mộc khắc Thổ là kiêu ấn quá vượng làm lợi cho Thân nhiều hơn là làm hao tổn Thân, vì vậy nó được xem là hỷ thần có -0,5đh.

M-5/5 : Nam sinh ngày 8/7/1968 lúc 20,00’. Từ 4/2/2008 đến 8/7/2008 người này không có hạn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

555-acd e by

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


1 - Nếu Mão trụ ngày ở trong hợp khắc được Kỷ cùng trụ cũng ở trong hợp thì:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Kim) nhỏ hơn Mộc (quan sát), vì vậy Nhật Chủ nhược. Thân nhuợc mà quan sát Mộc là kỵ 1, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn (Hỏa) và dụng thần chính của nó là Đinh tàng trong Mùi của trụ tháng. Nếu như vậy thì điểm hạn của 6 tháng đầu năm 2008 (đó là năm Mậu Tý thuộc đại vận Nhâm Tuất và tiểu vận Giáp Dần. Tháng 7 bắt đầu đại vận Quý Hợi) có ít nhất 7đh là không thể chấp nhận được (vì 6 tháng đầu năm 2008 người này không có hạn).

2 - Nếu Mão của trụ ngày bị hợp không khắc được Kỷ cùng trụ cũng bị hợp thì :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thân (Thổ) có 1đv nhiều hơn thực thương, tài tinh và quan sát, vì vậy Nhật Chủ vượng. Nếu Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít thì dụng thần đầu tiên thường phải là quan sát, nhưng nếu sử dụng giả thiết 57/ thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (Kim) và dụng thần chính của nó là Canh tàng trong Thân của trụ năm. Nếu như vậy thì điểm hạn của 6 tháng đầu năm 2008 là thấp mới có thể chấp nhận được.

Từ ví dụ này chúng ta đã tìm ra quy tắc :
"Nếu can và chi trong cùng trụ đều bị hợp hóa cục hay không hóa cục thì chúng không có khả năng sinh hay khắc với nhau, trừ khi tất cả các can và các chi trong 2 tổ hợp này đều cùng trụ với nhau"
(như ví dụ này thì

M-5/6 (xem ví dụ 45): Nam sinh ngày 5/9/1977 lúc 3,00’ am . Tháng 3/1978 bị đi kiết rất nặng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Từ ví dụ này chúng ta đã đưa ra giả thiết 82/45 :
"Nếu can hay chi cùng trụ trong Tứ Trụ sinh được cho nhau thì can hay chi chủ sinh sẽ bị giảm ít nhất 1/10 đv của nó chỉ khi nó là thực thương và được lệnh".

Bảng lấy dụng thần khi Thân nhược

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Chú ý : “Kiêu ấn quá nhiều* ”, nó có nghĩa là điểm vượng trong vùng tâm của kiêu ấn nhiều hơn của Thân ít nhấi 20đv).

Bảng lấy dụng thần khi Thân vượng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Chú thích :
“Tỷ/kiếp – Quan/s >5đv”*, nó nghĩa là điểm vựợng trong vùng tâm của tỷ kiếp (Thân) nhiều hơn của quan sát ít nhất 5đv.
“Tỷ/kiếp - Hỷ/dụng 1 < 1,5đv”*, nó nghĩa là điểm vượng trong vùng tâm của Tỷ kiếp (Thân) không lớn hơn 1,5đv so với điểm vượng trong vùng tâm của hành là hỷ dụng thần số 1

Qua đây chúng ta thấy xác định dụng thần khi Thân vượng mà kiêu ấn ít là phức tạp nhất. Do vậy tôi hy vọng bạn đọc cùng tôi kiểm tra các quy tắc đã đưa ra ở đây và tìm thêm các quy tắc mới.

Sửa bởi VULONG777: 05/10/2015 - 20:53


#28 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 21:14

Chương 12

Cát hung của đại vận và lưu niên

1 – Cát hung của đại vận và lưu niên khi chưa tính đến các lực hình, xung, khắc, hại, hợp giữa các can chi với nhau
a - Ðại vận hay lưu niên đẹp nhất là can của chúng giống với dụng thần chính, sau mới đến dụng thần phụ (vì khác dấu), cuối cùng mới đến các can có hành là các hỷ thần. Chi đại vận và chi lưu niên chỉ có tác dụng làm cho cho các đại vận hay lưu niên đó tốt thêm một chút nếu chúng mang hành của hỷ dụng thần hay giảm tốt một chút nếu chúng mang hành của kỵ thần.
b - Các đại vận hay lưu niên có can mang hành của kỵ thần là xấu, trong đó can đại vận vượng mà khắc được dụng thần chính là hung vận, tức là vận xấu nhất. Các chi của chúng cũng chỉ có tác dụng làm thay đổi một phần sự tốt xấu của tuế vận.
c - Can đại vận là hỷ dụng thần thì 10 năm đó thường là đẹp còn là kỵ thần thì 10 năm đó thường là xấu. Can lưu niên là hỷ dụng thần thì chỉ đẹp tại năm đó còn là kỵ thần thì cũng chỉ xấu tại năm đó.

2 – Cát hung của đại vận và lưu niên khi đã tính đến các lực hình, xung, khắc, hại, hợp giữa các can chi với nhau
a - Khi can hay chi của lưu niên, đại vận hợp với các can chi khác hóa cục có hành là hỷ hay dụng thần là tốt còn hóa thành kỵ thần là xấu.
b - Nếu các can của tuế vận bị hợp nhưng không hóa thì tuế vận này thường bị giảm tốt rất nhiều nếu chúng là hỷ dụng thần (nhất là chúng bị khắc) và giảm xấu nếu chúng là kỵ thần (nhất là chúng bị khắc), còn các chi của tuế vận hợp mà không hóa thì thường là tốt bởi vì nó thường giảm được nhiều các lực hình, xung, khắc và hại giữa các chi với nhau.
c - Nói chung nếu các can chi, nạp âm trong tứ trụ và ở tuế vận, tiểu vận mà hình, xung, khắc, hại với nhau nhiều hay chúng hóa thành các cục là kỵ thần cũng như chúng hóa thành 2 hay nhiều hóa cục khắc nhau, thì năm đó bất kể đang là đại vận hay lưu niên là hỷ dụng thần cũng thường trở thành xấu, nặng có thể dẫn đến tử vong.

(Nếu theo một số sách mệnh học cổ truyền thì trong 10 năm của đại vận, 70% xấu hay tốt của 5 năm đầu của đại vận chủ yếu do thiên can của đại vận đó quyết định, địa chi chỉ quyết định 30%, còn 70% xấu hay tốt của 5 năm sau chủ yếu do địa chi của đại vận đó quyết định, còn thiên can chỉ quyết định 30%.)

Ví dụ minh họa sau đây (trích trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“) có thể giải đáp được một phần thắc mắc cho nhiều người là môn Tứ Trụ có giúp được gì cho chúng ta trong cuộc sống ?

Ví dụ 140: Tổng thống Ðức Horst Koehler sinh ngày 22/2/1943 lúc 20,00’ (?) có Tứ Trụ:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tứ trụ này có Thân khá nhược mà Tài tinh là kỵ thần số 1, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tỷ kiếp/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ. Các đại vận hỷ dụng thần của Tứ Trụ này là Tân Hợi, Canh Tuất, Kỷ Dậu và Mậu Thân (được xác định theo hàng can như trong lý thuyết tôi đã phân tính – 10 năm trong một đại vận chúng liên quan tới 10 thiên can), còn các đại vận kỵ thần là Quý Sửu, Nhâm Quý, Ðinh Mùi…trong chúng đại vận Ðinh Mùi thường là xấu nhất bởi vì nó khắc dụng thần chính là Tân của Tứ Trụ này nhưng ở đây không xấu bởi vì nó đã bị Quý trụ năm là Thực chế ngự. Vận Sát (Ðinh) có Thực thần (Quý) chế ngự thường là vận “Anh hùng áp đảo vạn người“.

Trong Tứ Trụ có các thông tin đẹp như Mậu trụ giờ là Ấn vượng, nó đại diện cho con dấu tức là chức vụ và quyền lực của quan lại trong xã hội, nó cũng đại diện cho học vấn, nghề nghiệp, bằng cấp…; và “Thực Thương sinh Tài thì phú quý sẽ tự nhiên đến“, đó chính là Quý trụ năm là Thực vượng sinh Giáp ở trụ tháng là Tài cũng vượng. Mặc dù chúng là các thông tin rất đẹp nhưng làm thế nào để cho chúng có thể trở thành hiện thực ?

Thân (Kim) nhược nó rất cần nhận được sự sinh của Ấn (Thổ), vì vậy người này nên làm các nghành nghề hay công việc liên quan tới Ấn, nó chính là làm công nhân viên chức nhà nước (tức làm công ăn lương). Bởi vì nếu dựa vào thông tin Thực Thương sinh Tài mà đi vào kinh doanh làm ăn cá thể (tức làm ông chủ) thì ở Tứ Trụ này, Thân khá nhược còn bị Thực Thương xì hơi để sinh cho Tài, vì vậy nó sẽ dẫn đến Thân càng nhược mà Tài càng vượng, Thân không thắng được tài thì vì tài mà gặp tai họa. Khi đó làm sao có “...phú quý tự nhiên đến“ được nữa mà là “...tai họa tự nhiên sẽ đến”.

Không biết có ai cố vấn cho ông ta không mà các vận Tân Hợi tới Mậu Thân (từ tháng 2/1969 tới tháng 2/2009) ông ta đã làm công nhân viên chức của chính phủ đúng theo mệnh nên Thân vượng (đều là các vận là hỷ dụng và nghành nghề - công chức - bên ngoài bổ xung thêm) đã liên tiếp được thăng quan tiến chức ầm ầm cả trong nước Ðức và Europa, rồi cuối cùng được làm tổng thống nước Ðức. Rõ ràng ở đây “Phú quý tự nhiên đã tới“ với ông ta, dĩ nhiên Quý (chức vụ) nhiều hơn Phú (tiền, của cải) bởi vì Thân khá nhược nên vào các vận hỷ dụng cũng không thể phát Tài to được.

Chúng ta thử xem vận Ðinh Mùi có phải là vận “Thực thần chế Sát anh hùng áp đảo vạn người“ hay không?

Năm Kỷ sửu (2009) bắt đầu đại vận Ðinh Mùi là kỵ vận (nhưng nó không phải là hung vận - tức vận khắc dụng thần - vì có Quý trụ năm chế ngự) nhưng may mắn có Giáp trong Tứ Trụ hợp Kỷ đại vận hóa Thổ thành công mà Thổ là hỷ thần, thêm Quý trụ năm vượng ở lưu niên chế ngự được Ðinh đại vận. Do vậy năm Kỷ Sửu mặc dù có tam hình Sửu Mùi Tuất vẫn được xem là một năm đẹp (nhưng chưa thấy gì là áp đảo vạn người cả),

Năm Canh Dần (2010) có Dần lưu niên hợp thêm với Hợi trong Tứ Trụ hóa Mộc. Vì vậy Mộc cục có thể xì hơi Quý (Thủy) để sinh cho Ðinh (Hỏa). Sát (Ðinh) không bị chế ngự lại được sinh càng vượng khắc Thân (Kim) là Canh và Tân. Thổ trong Tứ Trụ ở trạng thái tĩnh (Mậu, Mùi và Tuất) nên không có khả năng hóa Ðinh (Hỏa) để sinh cho Thân (Kim), vì vậy Thân (Kim) đã bị tổn thương. Thực tế ông ta đã bị chỉ trích quá nặng đành phải từ chức về hưu vào ngày 31/5/2010.

Chúng ta thử xem nguyên nhân nào dẫn đến ông ta bị chỉ trích nặng nề như vậy? Nguyên nhân chính gây ra chính là Mộc cục mà Mộc trong Tứ Trụ này là Tài tức tiền hay gái. Dĩ nhiên gái thì không phải rồi nên chỉ còn nguyên nhân là tiền nhưng không thấy ôn ta dính dáng đến tiền long gì cả. Vậy thì nó là cái gì liên quan đến tiền ở đây ? Ðó chính là khi đến thăm Afghanistan ông ta đã phát biểu đại loại (không liên quan tới trách nhiệm của ông ta) là nước Ðức can thiệp vào Afhanistan là để tuyên truyền, quảng cáo...nhằm nâng cao uy tín của nước Ðức trên thị trường thế giới để duy trì và ký kết thêm được nhiều hợp đồng làm ăn kinh tế với các nước trên thế giới.... Ðúng là sự chỉ trích ông ta có liên quan đến tiền (Tài - Mộc) thật.

#29 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 22:05

Xin đính chính lại phần định nghĩa về ít, đủ và nhiều của Kiêu Ấn trong chương trình trung cấp ở đoạn sau:

"4 – Xác định dụng thần khi Thân vượng

Mẫu 1 : Kiêu ấn không có trong tứ trụ

Dụng thần đầu tiên phải là... (xem giả thiết 44/ ở chương 14).

(44/ - Nếu Thân vượng mà trong tứ trụ không có kiêu ấn (tức là không có cả các can tàng tạp khí của nó) thì dụng thần đầu tiên phải lấy tài tinh, sau mới lấy đến thực thương (nếu không có tài), cuối cùng mới phải lấy đến quan sát (nếu không có tài và thực thương).)

Mẫu 2 : Kiêu ấn nhiều trong tứ trụ

Kiêu ấn nhiều chỉ khi:
a – Trong tứ trụ có ít nhất 3 can chi là kiêu ấn.
b – Trong tứ trụ chỉ có 2 can chi là kiêu ấn nhưng phải có ít nhất 1 trong chúng ở trong vùng tâm được lệnh, còn nếu can hay chi được lệnh này ở vùng ngoài thì nó luôn luôn được xem là thất lệnh, trừ khi nó là can trụ năm, chi trụ tháng hay chi trụ giờ ở trạng thái đế vượng tại lệnh tháng.
c – Chi tháng là kiêu ấn mà nó ở trạng thái Lộc hay Kình dương tại lệnh tháng và có trên 6đv trong vùng tâm.
Dụng thần đầu tiên là .... (xem giả thiết 45/ ở chương 14).

(45/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (kiêu ấn nhiều có khả năng xì hơi hết quan sát để sinh cho Thân, vì vậy quan sát đã trở thành kỵ thần, còn tài tinh có khả năng chế ngự kiêu ấn và làm hao tổn Thân), sau mới là thực thương (vì nó có khả năng xì hơi Thân vượng và làm hao tổn kiêu ấn), cuối cùng mới là quan sát.)

Mẫu 3 : Kiêu ấn đủ trong tứ trụ

Kiêu ấn đủ chỉ khi :

a – Trong tứ trụ chỉ có 2 can chi kiêu ấn đều thất lệnh hoặc 1 trong chúng là các can chi được lệnh ở vùng ngoài, trừ can trụ năm, chi trụ tháng hay chi trụ giờ ở trạng thái đế vượng tại lệnh tháng.
b – Trong tứ trụ chỉ có chi tháng là kiêu ấn và nó ở trạng thái Lộc hay Kình dương của lệnh tháng có 6đv ở vùng tâm.
c – Nếu kiêu ấn chỉ có 1 can được lệnh ở trụ tháng hay trụ giờ mà nhận được điểm vượng của chi cùng trụ sinh cho.

Dụng thần đầu tiên phải là… (xem giả thiết 46/ và 47/ ở chương 14).

(46/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ và thực thương không nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (vì khả năng để chế ngự Thân vượng của quan sát là tốt nhưng nó chỉ bằng khả năng mà kiêu ấn xì hơi quan sát để sinh cho Thân là xấu), sau mới là tài tinh, cuối cùng mới là quan sát.
47/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ, thực thương không nhiều mà quan sát khắc gần hay hợp với Nhật can thì dụng thần đầu tiên vẫn có thể là quan sát.)

d – Nhưng nếu Kiêu Ấn đủ và Thực Thương không nhiều mà Kiêu Ấn được lệnh sinh được cho cục Tỷ Kiếp cùng trụ thì dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh sau mới tới Thực Thương cuối cùng mới là Quan Sát).

Định nghĩa về ít, đủ hay nhiều của Thực Thương cũng tương tự.

(Đáng nhẽ tôi phải sửa ngay lúc trước nhưng vì cẩu thả nên đến đoạn này mới biết nhưng có điều các quy tắc đã được tìm ra ở đây chưa chắc đã đúng hết nên còn phải sửa tiếp là một điều chắc chắn.)

Thành thật xin lỗi mọi người.)

(Đến đây hết phần Tứ Trụ Sơ Cấp và Trung cấp.)

Sửa bởi VULONG777: 05/10/2015 - 22:17


#30 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/10/2015 - 22:44

Chương trình Tứ Trụ cao cấp

Chương 13

Phương pháp tính điểm hạn

Từ chương này, bạn đọc bắt đầu làm quen với Phương Pháp Tính Điểm Hạn. Phương pháp này có khả năng tính điểm hạn (đh) cho từng năm một, nghĩa là xác định xem một năm bất kỳ có hạn hay không, hạn đó nặng hay nhẹ đến mức độ nào và tìm cách giải cứu cho hạn đó .

I – Tìm các quy tắc tính điểm hạn

Muốn biết hạn của một người tại một năm nào đó (được gọi là lưu niên) có hay không, nặng hay nhẹ,…. , ta phải tìm được các quy tắc tính các điểm hạn. Do vậy muốn tìm được các quy tắc này chúng ta phải bắt đầu từ các ví dụ trong thực tế đã xẩy ra các hạn, sau đó đi tìm các yếu tố nào có thể dẫn đến hạn đó. Các yếu tố gây ra hạn đó chính là các quy tắc tính điểm hạn và số điểm của từng quy tắc phải được điều chỉnh sao cho đúng với bản chất thực sự khách quan của chúng (cứ tạm thời coi điểm hạn của các quy tắc này tuân theo định luật Vật lý về mệnh học của Thuyết Vũ Trụ Hẹp). Khi biết được tổng số các điểm hạn đã gây ra hạn của năm đó, ta so sánh số điểm đó với mức độ nặng nhẹ của hạn đã xảy ra, sau đó mới có thể lập lên bảng điểm hạn để diễn tả mức độ hạn nặng nhẹ theo số điểm

II – Các nguyên nhân chính gây ra hạn

1 – Các nguyên nhân trong tứ trụ (từ ví dụ số 1 tới ví dụ số 137).
Phần lớn các hạn do chính các yếu tố trong tứ trụ của người đó gây ra, (chiếm khoảng 60% trong tổng số các hạn?). Các yếu tố này chính là các tổ hợp quá xấu giữa tứ trụ, đại vận, tiểu vận và lưu niên của người đó gây lên (như hình, xung, khắc, hại, hợp ,…..).

2 – Các nguyên nhân bên ngoài tứ trụ (từ ví dụ số 158 đến 203)
Các hạn do các yếu tố bên ngoài tứ trụ gây ra (chiếm khoảng 40% ?):
a - Vợ khắc chồng, chồng khắc vợ, con cái khắc cha mẹ, cha mẹ khắc con cái... và kể cả các phương tiện vận chuyển giao thông....
b - Do phong thủy (tức là gió và nước trong lòng đất) của ngôi nhà hay khu đất người đó ở, hoặc không may đi vào vùng đất đúng vào giờ phút nó có sát khí quá nặng như vùng sông nước, vùng núi đá hiểm trở nguy hiểm, nơi có động đất, chiến tranh, khí độc...
c – Trong nhà hay dưới mặt đất của ngôi nhà
Đây là yếu tố mà mọi người thường gọi là nhà có ma. Những người ở trong các nhà này nhẹ thì chỉ bị ma quấy rầy, còn nặng thì bị ốm đau, tai nạn, có thể dẫn đến tử vong (thường là do trong nhà này có người chết oan ức hoặc dưới lòng đất của ngôi nhà đó có xương cốt của người chết hay ngôi nhà đó khi động thổ hay cất nóc vào các giờ cấm kỵ, tức là vào giờ tử…). Các yếu tố này thì tôi hoàn toàn không biết bởi vì tôi chưa được đọc một cuốn sách nào về lĩnh vực này.
d - Do chết bất ngờ
Như người đó không may đi trên một chiếc ô-tô, tầu thủy, máy bay….mà phương tiện vận tải đó đến ngày tận số, vì theo mệnh học chúng đều có tứ trụ, tức chúng đều phải có số mệnh (như chiếc tầu Titaníc chẳng hạn),…
Các hạn này do các yếu tố bên ngoài tứ trụ gây lên. Do vậy trong thực tế có rất nhiều tai họa đã xẩy ra (kể cả cái chết) không thể phát hiện bằng tứ trụ (mệnh) của người đó.

3 - Dự đoán hạn
Vì hạn do nhiều yếu tố gây ra như vậy, nên để dự đoán chính xác người ta thường phải kết hợp nhiều phương pháp dự đoán khác nhau. Tất cả các yếu tố này cùng một lúc tác động tới con người để gây ra hạn, và cái mà phản ánh nhanh nhất, chính xác nhất các hạn này chính là khuôn mặt của con người. Do vậy môn xem tướng mặt có thể phát hiện hạn xẩy ra trước vài tháng hay vài ngày, thậm chí có thể trước vài phút. Giá trị của môn xem tướng mặt là nó có thể giúp con người tránh được các hạn dược gây lên bởi các yếu tố bên ngoài của tứ trụ. Bởi vì các yếu tố này con người thường bị bất ngờ vì khó dự đoán trước được (trừ câu 2 phần a). Còn các yếu tố do tứ trụ (mệnh) của con người gây ra thì không có gì là bất ngờ cả, vì con người có thể dự đoán được nó từ khi mới sinh (kể cả câu 2 phần a).
Bởi vì tất cả các yếu tố này cùng một lúc tác động tới con người để gây ra hạn, do vậy phương pháp tính điểm hạn chỉ khi kết hợp được cả hai nguyên nhân này để xét điểm hạn cho mỗi hạn thì khả năng dự đoán chính xác mới có thể cao được (?). Hiện giờ tôi chưa có khả năng kết hợp được 2 nguyên nhân này để xét cho một hạn mà vẫn xét riêng từng nguyên nhân gây ra hạn. Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi giải quyết được vấn đề này.

Ví dụ về môn xem tướng mặt : Con của Trần Đoàn (Trần Đoàn tức Hi Di một nhà mệnh học nổi tiếng của TQ) một lần qua sông trên chiếc thuyền nhỏ, khi thuyền vừa rời bến đã hốt hoảng kêu lên “Không được đi nữa phải quay thuyền vào bờ ngay nếu không sẽ chết đuối hết”. Khi thuyền đã cập lại bờ thì bỗng nhiên có một người què cứ mặc nhiên chống nạng đi xuống thuyền, trong khi mọi người đang vội vã rời khỏi thuyền. Con của Trần Đoàn lúc đó lại kêu lên “Bây giờ thì chúng ta lại qua sông được vì đã có quý nhân đây rồi”. Khi con thuyền ra được giữa sông thì một cơn cuồng phong nổi lên làm con thuyền chao đảo như muốn lật úp, nhưng rồi nó cũng qua được tới bờ sông bên kia an toàn.

Vì sao con của Trần Đoàn lại dự đoán chính xác đến như vậy ? Trong sách có nói qua là khi thuyền vừa rời bờ con của Trần Đoàn nhìn thấy tất cả các lỗ mũi của mọi người trên thuyền đều có sắc ám mầu đen. Vì lỗ mũi là nơi lưu thông của hơi thở (tức là chỗ lưu thông của khí ngũ hành), cho nên khi có sắc ám mầu đen là hành của Thủy thì tất có tai họa về Thủy, do vậy phải rời khỏi sông nước ngay lập tức. Còn khi người què đi xuống thuyền thì lúc đó lỗ mũi của mọi người không còn sắc ám mầu đen nữa lên có thể tiếp tục qua sông. Tai họa này nếu có xẩy ra thì chúng ta không thể phát hiện qua Tứ Trụ của những người này được.

Đây là ví dụ tai họa về Thủy còn tai họa về đường hàng không (hay đường bộ) thì mầu sắc nào xuất hiện trên khuôn mặt hay lỗ mũi của mọi người đi trên máy bay (ô tô, tầu hỏa, …) sẽ báo hiệu sắp bị tai họa ? (hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi trả lời câu hỏi này).

Những người giỏi về tướng mặt họ có thể nhìn và dự đoán khá chính xác mức độ nặng nhẹ của tai họa và khoảng thời gian sẽ xẩy ra tai họa đó.

(Tôi chưa tìm được một ví dụ nào có thể chứng minh tai họa được gây ra bởi cả 2 yếu tố này (bên trong và bên ngoài của tứ trụ)).

III - Điểm hạn với thực tế

Qua nhiều ví dụ tai họa đã xẩy ra trong thực tế nếu thừa nhận các điểm hạn chuẩn theo dự kiến của tôi như các điểm hạn của dụng thần, ngũ hành... cũng như các điểm hạn của hình, xung, khắc, hợp, hại, …., thì tổng điểm hạn tại một thời điểm của một năm có thể sẽ diễn tả được mức độ nặng hay nhẹ của tai họa đó như sau :

1 - Từ 4đh (điểm hạn) đến 4,4đh, chỉ có hạn nhẹ, có thể phải đến bệnh viện nhưng không phải nằm lại bệnh viện để điều trị.
2 - Từ 4,4đh đến 4,6đh, có hạn nặng, phải nằm điều trị ở bệnh viện, hoặc bị phá tài hay lao tù (dựa theo các thông tin của tứ trụ với tuế vận).
3 - Từ 4,6đh đến 4,8đh, hạn khá nặng có thể phải cấp cứu, hoặc bị phá sản hay lao tù nặng.
4 - Từ 4,8đh đến 4,9đh , hạn rất nặng có thể bị ngất.
5 - Từ 4,9đh đến 4,99đh, hạn cực nặng có thể tới mức chết lâm sàng.
6 - Từ 5,0đh trở lên có thể dẫn tới tử vong nếu không có cách nào giải cứu được.
Theo phương pháp này sai số có thể từ - 0,1đh tới + 0,1đh.

(Chú ý: Số điểm này chỉ do các yếu tố giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận gây ra, chưa tính tới các yếu tố trong môi trường mà người đó sống tác động vào Tứ Trụ, tuế vận và tiểu vận của người đó.)

IV – Các bước bắt buộc phải thực hiện

A – Trong tứ trụ :
1 - Xác định tứ trụ.
2 - Xác định các hợp có hóa hay không hóa cục.
3 - Xác định các thiên khắc địa xung (TKĐX).
4 - Xác định điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm.
5 - Xác định Thân là vượng hay nhược.
6 - Xác định dụng thần chính và vị trí của nó trong tứ trụ.
7 - Xác định các đại vận và thời gian của chúng.
8 - Xác định các cát thần và hung thần có khả năng gây ra điểm hạn của tứ trụ.

B - Tứ trụ với tuế vận (đại vận và lưu niên) và tiểu vận.
1 – Xác định can chi của năm cần dự đoán (lưu niên), cũng như xác định can chi của đại vận và 2 tiểu vận của năm cần dự đoán đó.
2 – Khi vào đại vận cần xác định tất cả các tổ hợp có hóa cục hay không hóa cục cũng như các TKĐX.
Đến lưu niên cũng phải xem như trên để xác định lại các tổ hợp và các TKĐX còn hay mất (vì đại vận thường xuất hiện trước lưu niên).
Xác định điểm vượng trong vùng tâm có phải tính lại hay không.
Xác định điểm hạn của các TKĐX, điểm hạn của các hóa cục cũng như của các Đại Chiến nếu có.
3 - Xác định điểm kỵ vượng của các can và chi.
4 – Xác định điểm hạn của dụng thần ở trong tứ trụ cũng như ở đại vận và lưu niên. Nếu xét hạn tại năm sinh thì dụng thần còn có thêm điểm hạn ở tháng cần dự đoán của năm đó.
5 – Xác định điểm hạn của Nhật can ở đại vận và ở lưu niên. Nếu xét hạn tại năm sinh thì Nhật can còn có thêm điểm hạn ở tháng cần dự đoán của năm đó.
6 – Xác định điểm hạn của các can khắc nhau kể cả các can trong hợp không hóa. Sau đó xác định đh của các can động này theo lệnh tháng, đại vận và lưu niên (thường được gọi là điểm hạn của can), cũng như đh của các cát thần và hung thần của các can chi ở tuế vận và tiểu vận (chú ý các can chi trong hợp hay trong tứ trụ không có điểm hạn của các thần này trừ Tứ Phế) .
7 – Xác định các điểm hạn của hình, tự hình, hại và tứ hình.
8 – Xác định điểm hạn của 4 chi giống nhau hợp với 1 chi không hóa hay 4 can hợp với 1 can.
8 – Xác định nạp âm của các trụ và tính điểm hạn của các nạp âm khắc nhau.
9 – Xác định đh Kình dương.
10 – Xác định đh thương quan gặp quan (chính quan).
11 – Xác định đh tuế vận cùng gặp.
12 – Xác định đh của các hóa cục trong tứ trụ bị phá.
13 - Tính tổng điểm hạn là bao nhiêu và xét xem tổng điểm hạn có được giảm hay không. Cuối cùng đó chính là điểm hạn của năm cần dự đoán, sau đó đối chiếu với bảng điểm hạn sẽ biết được hạn nặng hay nhẹ ra sao.

Qua các thông tin xuất hiện trong từng tai họa, chúng ta có thể dự đoán hạn đó có thể xẩy ra về bệnh tật, tai nạn, phá tài, bại quan hay lao tù. Điều quan trọng là cách giải cứu các hạn đó như thế nào? Nếu may mắn đã có người giải được và cho chúng ta biết thì thật quý báu vô cùng, nếu không chúng ta đành phải tự mình đi tìm cách giải cứu các hạn đó. Theo như sự hiểu biết của tôi thì đã có rất nhiều cách giải hạn hữu hiệu nhưng đáng tiếc hiện giờ chúng đang được cất dấu trong các cuốn sách gia truyền của một số người, không biết đến khi nào họ cho chúng ta biết các cách giải cứu đó?

Hiện tại chúng ta hy vọng những ai đã may mắn được các nhà mệnh học giải cứu sẽ cho chúng ta biết cách giải cứu đó như thế nào cùng với tứ trụ và năm hạn đó của họ cho mọi người biết qua các trang web lý số.

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |