Jump to content

Advertisements




THIỀN TÔNG


53 replies to this topic

#1 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 29/07/2011 - 12:00

CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA &
Phương Pháp Tu Trì Của Thiền Tông
Nguyên Tác: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch giả: Thích Duy Lực
Từ Ân Thiền Đường, Anaheim, California Hoa Kỳ Xuất Bản 1991 PL 2535


MỤC LỤC
Lời Dịch Gỉa
Luận Tổng Quát: Thế Nào Gọi Là Thiền
Chương I: Cội Nguồn Truyển Thừa
Trang 01-1
Trang 01-2
Chương II: Yếu Chỉ Thiền Tông
Trang 02-1
Trang 02-2
Trang 02-3
Trang 02-4
Chương III: Thỉnh Ích (Hỏi Đạo)
Phụ Lục: Nguyệt Khê Pháp Sư Cao Ngoạ Xứ Bi Văn




LỜI DỊCH GIẢ

Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách. Người biên soạn hình như không có tham thiền, đối với Phật pháp cũng chưa được thông thạo, chỉ đem những tác phẩm như Tham Thiền Tu Pháp, Nguyệt Khê Ngữ Lục, Phật Pháp Vấn Đáp Lục, Đại Thừa Bát Tông Tu Pháp của ngài Nguyệt Khê gom lại thành quyển sách này, trong đó lại thêm vào những lời của giáo môn và ý kiến của tự mình, nghịch với ý chỉ của ngài Nguyệt Khê mà chẳng tự biết, mà người biên soạn chỉ biết giữ bản quyền, không cho người khác in lại, đối với văn tự trong sách, do người sắp chữ sắp lộn, có rất nhiều chỗ lời sai chữ trật cũng vẫn để y nguyên mà không dò lại và sửa cho kỹ.

Chúng tôi vì muốn giữ đúng ý chỉ của ngài Nguyệt Khê mà chẳng di hại cho người đọc nên lược bỏ phần nghịch với chỉ của tác giả và giảm bớt những lời trùng nhau.

Nguyệt Khê thiền sư đã tịch năm 1965, sách này được in năm 1971.

Cuốn sách này có một bài đề mục là Nguyệt Khê Pháp Sư Cao Ngọa Xứ Bi Văn (tiểu sử), soạn năm 1971, soạn giả tự xưng là Trí Viên, trong đó không đề cập sự viên tịch của ngài Nguyệt Khê, nên chúng tôi dịch thêm tiểu sử của Ngài do Mục sư Vương Cảnh Khánh soạn. Dù chúng tôi giữ thái độ thận trọng trong việc phiên dịch quyển sách này, nhưng vẫn có thể còn nhiều chỗ sơ sót, xin độc giả hoan hỷ chỉ giáo cho.




LUẬN TỔNG QUÁT
Thế nào gọi là Thiền?




I- ĐỊNH NGHĨA CỦA THIỀN.

Thiền Na là tiếng Ấn Độ, xưa dịch là Tư Duy Tu, sau dịch là Tịnh Lự, gọi tắt là Thiền.

Trước đời Phật Thích Ca, có ông Phất Đang La (Nirgranto Jnati Putra) đã sáng lập giáo phái Thiền Na, dùng khổ hạnh để tu luyện. Sau này Phật Thích Ca lập ra sáu thứ Ba La Mật, cái thứ năm cũng gọi là Thiền Na. Kỳ thực hai chữ Thiền Na chỉ là một tên gọi thông thường về phương pháp tu luyện.

Ngôn giáo của Phật Thích Ca bất cứ Đại thừa, Tiểu thừa đều lấy Tu Thiền làm chủ yếu. Các phái ngoại đạo mỗi mỗi đều tự lập pháp Thiền của họ. Tên gọi dù đồng nhau, nhưng tính chất nội dung mỗi mỗi chẳng đồng, như Mười Hai Tịnh Pháp Thiền của Phất Đang La, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng của Bà La Môn đều khác; nói về Thiền của Phật giáo như Lục Độ Thiền của Đại thừa, Tứ Đế và Thập Nhị Nhân Duyên của Tiểu thừa đều khác nhau. Còn Bất Lập Văn Tự Thiền của Tối thượng thừa, gọi là “Giáo ngoại biệt truyền”, là do Phật Thích Ca đích thân truyền cho Ma Ha Ca Diếp, sau đó Bồ Đề Đạt Ma truyền vào Trung Quốc. Phái Thiền này chỉ chú trọng phương pháp thực hành, chẳng lập văn tự lý luận, nên gọi là Thiền tông, khác hẳn với các phái Thiền kia.

Thiền tông ở Trung Quốc từ đời Đường đến đời Tống rất là thịnh vượng, truyền đến ngày nay vẫn còn phổ biến khắp nơi. Cho nên người ta nói đến hai chữ “Tham Thiền” đều chỉ pháp Thiền của Thiền tông này. Kỳ thật ở trong Phật giáo, từ Tiểu thừa cho đến Đại thừa, các tông các phái mỗi mỗi đều có pháp Thiền riêng biệt, lý lẽ và phương pháp, trực tiếp hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực mỗi phái mỗi khác. Xét theo lịch sử kể trên, chúng ta muốn lập ra một định nghĩa chính xác của chữ Thiền thật là rất khó, nhưng quyển sách này chỉ sáng tỏ về pháp Thiền của tổ Đạt Ma truyền vào Trung Quốc. Do đó chúng ta chỉ có thể dựa theo tông chỉ của Thiền tông, giả thiết một định nghĩa cho chữ Thiền.

Theo pháp tu thông thường, đối với khái niệm của chữ Thiền là từ nhân đến quả, tức là từ nhân vị theo thứ lớp tu tập cho đến chứng quả thành Phật, đều là những phương pháp Tiệm tu. Nhưng theo khái niệm của Thiền tông thì chẳng phải vậy, vì đường lối thực hành của Thiền tông là pháp trực tiếp, ngay đó hiện thị quả Phật. Chư Tổ nói: “Thấy phải thấy ngay, suy nghĩ là sai”. Kỳ thật quả đã được rồi thì nhân cũng đồng thời giải quyết xong, cho nên nói là Thiền Đốn Ngộ. Định nghĩa của Thiền Đốn Ngộ là “Chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.

Tại sao phải chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn tự? Vì văn tự là một tên gọi giả danh, phải qua suy nghĩ rồi mới có thể biểu hiện ra, nên chỉ là một việc gián tiếp, còn bản thể của chơn tâm (cũng gọi là tự tánh) là một sự thực tế rốt ráo, cảnh giới ấy chẳng dùng kinh nghiệm suy nghĩ mà đến được, vậy cách gián tiếp ngôn ngữ văn tự, tự nhiên chẳng có cách để diễn tả. Nên Phật Thích Ca nói: “Ta thuyết pháp 49 năm, chưa từng nói một chữ”, lại nói: “Kinh giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng thì biết ngón tay chẳng phải mặt trăng”. Thế thì ngôn ngữ văn tự là ngón tay để chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay chẳng phải mặt trăng, chỉ là một việc gián tiếp, sự chỉ thị gián tiếp dù cũng là một phương pháp để đạt đến bản thể chơn tâm, nhưng chẳng bằng sự rốt ráo giản dị của chỉ thị trực tiếp, lại sự chỉ thị của ngón tay (ngôn ngữ văn tự) truyền đến đời sau, có người lại nhận lầm cho ngón tay tức là mặt trăng. Do đó pháp Thiền trực tiếp Đốn ngộ của Thiền tông bèn tùy nhu cầu thực tế mà ra đời, đồng thời phát triển rộng khắp mọi nơi. Dù nói chẳng lập văn tự, nhưng chẳng phải phế bỏ văn tự, giá trị của văn tự vẫn được chư Tổ của Thiền tông chú trọng, cũng như tổ Đạt Ma dùng kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học.

Thế Tôn ở nơi pháp hội Linh Sơn, đưa lên cành hoa, tất cả đại chúng đều ngơ ngác, chỉ có ngài Ca Diếp mỉm cười. Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, Thật tướng Vô tướng, Pháp môn vi diệu, Chẳng lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp”. Từ đó pháp Thiền trực tiếp của Thiền tông căn cứ theo việc này lấy Tâm truyền Tâm.

Phương pháp trực tiếp biểu thị trực tiếp này, Phật Thích Ca đã dùng qua nhiều lần, cũng như Thế Tôn đem hạt châu Ma Ni Tùy Sắc hỏi Ngũ Phương Thiên Vương rằng: Hạt châu này màu gì?
Khi ấy Ngũ Phương Thiên Vương tùy sự thấy của mình đều trả lời màu sắc khác nhau.
Thế Tôn giấu hạt châu rồi lại đưa tay hỏi tiếp: Hạt châu này màu gì?
Các Thiên Vương nói: Trong tay Phật chẳng có hạt châu thì đâu còn màu gì!
Thế Tôn nói: Các ngươi sao mê muội điên đảo quá? Ta đem hạt châu thế gian cho xem thì nói có xanh, vàng, đỏ, trắng, Ta thị hiện hạt châu chơn thật thì chẳng biết gì cả!
Khi ấy Ngũ Phương Thiên Vương đều tự ngộ đạo.

Lại một hôm khác, ngoại đạo hỏi Thế Tôn: Không hỏi có lời, không hỏi không lời?
Thế Tôn im lặng giây lâu, ngoại đạo tán thán rằng: “Thế Tôn đại từ đại bi, khai phá đám mây mê muội cho con, khiến con được ngộ nhập”, đảnh lễ rồi ra đi.
Ngài A Nan hỏi Phật: Ngoại đạo được lý lẽ gì mà tán thán?
Thế Tôn nói: Như con ngựa hay của thế gian, thấy bóng roi liền chạy nhanh.

Việc giấu hạt châu rồi đưa tay và im lặng giây lâu đều là phương pháp trực tiếp chỉ thị bản thể của Chơn tâm, chẳng phải chỉ có một việc “Niêm hoa thị chúng” mà thôi!

“Chẳng lập văn tự” chẳng phải tuyệt đối phế bỏ văn tự, nếu Phật Thích Ca phế bỏ văn tự thì Tam tạng kinh điển từ đâu mà ra? Nếu tổ Đạt Ma tuyệt đối phế bỏ văn tự thì chẳng nên dùng kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học. Thiền tông nói chẳng lập văn tự, bất quá dùng để sáng tỏ phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp vốn là khác nhau mà thôi.

II- PHÁP THIỀN RA ĐỜI LÀ DO NHU CẦU TỰ NHIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI.

Loài người đời Thượng Cổ ngu mê ngoan cố, trí tuệ bị vô minh che khuất, linh tánh bị ngũ uẩn tam độc chi phối, sống trong cuộc sống dã man, nhưng Phật tánh vốn viên mãn, giống như quặng thất bửu ẩn giấu dưới đất, chỉ đợi người khai phá ra. Sau này trí thức mở mang, trước tiên đối với hiện tượng thế giới cảm thấy đủ thứ kỳ lạ và nghi hoặc, rồi sanh tâm cầu bí mật của vũ trụ, hy vọng được giải thích cho rõ ràng, kế đó trở lại tìm hiểu tự tâm, muốn truy cứu nguồn gốc của sự biến hóa chẳng ngừng, sau cùng mới được nhờ sức trí tuệ Bát nhã, mong chứng nhập cùng tột rốt ráo của Bản thể tự tánh để vượt ra ngoài sanh tử luân hồi, ấy tức gọi là việc minh tâm kiến tánh thành Phật vậy.

Ý nghĩa của hai chữ Như Lai là bổn lai như thế, vì Phật tánh và pháp Thiền vốn sẵn đầy đủ, khắp không gian và thời gian, diệu dụng vô biên, nên Phật Thích Ca thường dùng hai chữ Như Lai để đại diện cho bản thể Phật tánh và diệu dụng, triệt để thấu rõ ý nghĩa của hai chữ Như Lai và giá trị chơn chánh của pháp thiền.

III- SỰ KHÁC BIỆT CỦA THIỀN HỌC VỚI HÌNH NHI THƯỢNG HỌC.

Người ta thường hay nhận lầm Thiền học tức là Hình nhi thượng học của Triết học Tây phương, thật ra thì chẳng đúng. Bởi Hình nhi thượng học là một môn học để giải thích bản thể của vạn hữu, mà pháp Thiền là phương pháp dùng để chứng nhập bản thể của vạn hữu. Hình nhi thượng học dù muốn giải thích bản thể của vạn hữu, nhưng vì bản thân của người nghiên cứu chưa chứng nhập bản thể, cho nên chẳng có cách nào chơn chánh để nhận biết bản thể và giải đáp một cách đầy đủ triệt để. Thật bản thể này chẳng phải dùng kinh nghiệm suy tư có thể đạt đến, như kinh Viên Giác nói: “Dùng tâm suy tư để đo lường cảnh giới của Như lai, như lấy lửa đom đóm để đốt núi Tu di thì làm sao cháy được!”

Học giả Tây phương đối với vấn đề chơn thật siêu việt kinh nghiệm xưa nay chẳng có cách nào để giải quyết, như các nhà triết học Emmanuel Kant (1724 – 1804) bèn cho trí thức năng lực của con người chỉ có thể nhận biết thế giới tương đối trong phạm vi cảm giác suy tư, đối với cái bản thể thế giới tuyệt đối siêu việt kinh nghiệm suy tư thì chẳng có cách nào để nhận biết được, lại có người cho rằng việc này chẳng cần nghiên cứu nữa, rồi chuyển hướng hết lòng để nghiên cứu khoa học. Nhưng đại đa số học giả vẫn cho là trong thế hệ Triết học chẳng thể thiếu sự nghiên cứu Hình nhi thượng học, bất quá chẳng lấy bản thể tuyệt thể tuyệt đối làm đối tượng nghiên cứu, chỉ lấy lý luận căn bản của sự vật để làm vấn đề nghiên cứu mà thôi. Cho nên trong Triết học Tây phương chỉ có bản thể luận tương đối, chẳng có bản thể luận tuyệt đối.

Từ xưa nay trải qua mấy ngàn năm, học giả Tây phương đều hướng vào kinh nghiệm suy tư để làm công phu, chẳng những không được chứng nhập bản thể siêu việt kinh nghiệm suy tư, lại nghiên cứu sâu chừng nào thì xa lìa bản thể nhiều chừng nấy, cái nguyên do là thiếu một phương pháp để chứng nhập bản thể.

Sự Tham Thiền chẳng phải trực giác, trực giác là do tác dụng của bộ não thần kinh, bộ não thần kinh chẳng biết được Phật tánh. Các học giả Tây phương chỉ tùy theo kinh nghiệm trong vật chất, chọn cái nào là căn bản nhất để làm cái nguồn gốc của vạn vật mà thôi.

Trong lúc nhà triết học Hy Lạp đang dùng kinh nghiệm suy tư để truy cứu nguồn gốc của vạn vật, thì Phật Thích Ca phát minh được phương pháp để trực tiếp chứng nhập bản thể, siêu việt kinh nghiệm suy tư đã mấy ngàn năm. Cho nên pháp Thiền của Phật Thích Ca thật là một phát minh lớn nhất của loài người, giá trị ấy thật chẳng thể đo lường.

Từ khi Phật Thích Ca phát minh pháp Thiền trực tiếp chứng nhập, người tu theo pháp này được kiến tánh thành Phật (chứng nhập bản thể) đã vô số kể, chỉ nói về Trung Quốc, người được kiến tánh, được ghi trong các Truyền Đăng Lục đã hơn bảy ngàn người, còn những người đã kiến tánh mà chưa được ghi vào thì chẳng biết là bao.

IV- MUỐN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BẢN THỂ CHỈ CÓ CÁCH THAM THIỀN.

Bản thể tức là việc rất thực tế rốt ráo, nhà Phật gọi là Thật tướng, cũng gọi là Chơn như Phật tánh, tên gọi rất nhiều, đều tùy dụng mà đặt danh, cái ý nghĩa của bản thể này với bản thể của nhà Triết học Tây phương khác nhau, muốn chứng nhập bản thể, ngoài Tham Thiền chẳng có cách khác.

Nhà Triết học Tây phương đối với vấn đề bản thể chỉ có một thái độ nghiên cứu để nhận biết, nhà Phật đối với Chơn như Phật tánh thì tỏ ra một thái độ thọ dụng thực tế. Vì người Tham Thiền một khi được chứng nhập bản thể tức là kiến tánh thành Phật, ra khỏi sanh tử luân hồi, được sự thọ dụng lớn (tự do, tự tại vĩnh viễn), mục đích của người học Phật là vậy. Nên bất cứ Tông phái nào trong Phật giáo đều lấy pháp Thiền làm căn bản, đồng thời căn cứ theo pháp Thiền đó có thể khiến người kiến tánh hay không mà phân biệt cao thấp. Như Tiểu thừa dứt lục căn, phá ngã chấp mà lọt vào pháp chấp; Trung thừa phá pháp chấp mà lọt vào không chấp, ấy đều chưa thể chứng nhập bản thể, chẳng được kiến tánh thành Phật. Đại thừa Bồ tát phá không chấp (vô thỉ vô minh) rồi đạt đến cảnh giới tuyệt đối của thật tướng, phương pháp của Thiền tông là chẳng nhờ tất cả kinh nghiệm lý luận để đạt đến, mà chỉ là một phương pháp trực tiếp chứng nhập, gọi là Đốn ngộ thành Phật.
(Nguồn:http://quangduc.com)

#2 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 31/07/2011 - 09:36

YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
1- Ý NGHĨA “GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN, CHẲNG LẬP VĂN TỰ”.

Bích Nham Tập có bài bình xướng rằng: “Đạt Ma từ xa quán đất này có căn khí Đại thừa, bèn vượt biển đến Trung Quốc, chuyên truyền Tâm ấn khai thị cho kẻ mê, chẳng lập văn tự, trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật”.

Nói “Chẳng lập văn tự”, vì văn tự phải nương bộ não suy nghĩ, suy nghĩ thì nương nhất nhiệm vô minh; nhất niệm vô minh hư huyễn chẳng thật, nên suy nghĩ văn tự cũng hư huyễn chẳng thật. Do hư huyễn chẳng thật gọi là tương đối, tương đối thì có sanh diệt, chẳng thể hiển bày tuyệt đối chẳng sanh diệt của bản thể, vì văn tự chẳng thể hiển thị Phật tánh, nên nói chẳng lập văn tự. Phật Thích Ca dùng lời nói văn tự để hoằng giáo pháp là do sự bất đắc dĩ, nên thí dụ ngón tay chỉ mặt trăng, vừa thuyết liền phá. Kinh Niết Bàn nói: “Bắt đầu từ Lộc Uyển, cuối đến sông Bạt Đề, khoảng giữa 50 năm, chưa từng thuyết một chữ” là vậy.

Kinh Kim Cang nói: “Nếu nói Như lai có thuyết pháp tức là báng Phật, người ấy chẳng hiểu nghĩa sở thuyết của ta”. Ý cho rằng phàm thuộc về lời nói văn tự đều chẳng có nghĩa thật, tương đối chẳng thể diễn tả tuyệt đối. Phật Thích Ca vì từ bi độ chúng sanh, dù tạm mượn lời nói văn tự để thuyết pháp, chỉ gọi là phương tiện, nên khi đang thuyết pháp, thường cảnh cáo đại chúng chớ chấp lời nói là thật, để khỏi tự kẹt chẳng thông, đọa vào trong hầm sâu tương đối mà chẳng thể tự cứu.

Phật đối với lời nói và nghĩa thật phân ra rõ ràng, chẳng cho lẫn lộn, thật rất khổ tâm.

Kinh Lăng Già nói: “Đại Huệ! Những kẻ si mê nói rằng: Nghĩa như ngôn thuyết, nghĩa với thuyết chẳng khác. Tại sao? Vì nghĩa tự chẳng thân (không bản thể), ngoài ngôn thuyết chẳng còn nghĩa nào, nên nói nghĩa đúng như ngôn thuyết. Đại Huệ! Họ nói vậy là trí huệ bị cháy khét, chẳng biết Tự tánh ngôn thuyết, chẳng biết ngôn thuyết sanh diệt (pháp tương đối), nghĩa thì chẳng sanh diệt (pháp tuyệt đối). Đại Huệ! Tất cả ngôn thuyết đều đọa nơi văn tự, nghĩa thì chẳng đọa, lìa tánh và phi tánh, cũng chẳng thân chẳng thọ. Đại Huệ! Như lai chẳng thuyết những pháp đọa văn tự, vì văn tự có với không đều bất khả đắc, nên nói chẳng đọa văn tự. Đại Huệ! Nếu nói Như lai thuyết những pháp đọa văn tự, ấy là hư vọng, vì pháp lìa văn tự, cho nên chư Phật và chư Bồ tát chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ. Tại sao? Vì pháp lìa văn tự (bản thể tuyệt đối chẳng dính dáng với văn tự). Dù ngôn thuyết là vọng tưởng của chúng sanh, nhưng cũng chẳng thể phế bỏ ngôn thuyết, nếu chẳng thuyết tất cả pháp thì giáo pháp sẽ bị hoại, nếu giáo pháp hoại thì chẳng còn chư Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, vậy ai thuyết cho ai? Đại Huệ! Đại Bồ tát chớ nên chấp trước ngôn thuyết, chỉ dùng phương tiện tùy nghi rộng thuyết kinh pháp, vì phiền não và hy vọng của chúng sanh chẳng đồng, nên chư Phật vì sự hiểu biết mỗi mỗi khác nhau của chúng sanh mà thuyết pháp, khiến lìa tâm (thức thứ tám), ý (thức thứ bảy), và ý thức (thức thứ sáu); vì tâm, ý, ý thức chẳng thể đạt đến chỗ tự giác Thánh trí vậy”.

Lời nói văn tự đối với bản thể của Phật tánh dù chẳng có giá trị để nói, nhưng đối với sự thuyết pháp độ sanh thì vẫn phải nhờ ngôn thuyết để làm công cụ chủ yếu, đến khi hội Linh Sơn Phật niêm hoa thị chúng, Ca Diếp tỏ ngộ, mới tuyên bố có pháp môn “Giáo ngoại biệt truyền, chẳng lập văn tự” để truyền cho Ca Diếp, pháp môn này là trực tiếp hiển bày thể dụng của Phật tánh, khiến chúng sanh chẳng nhờ văn tự mà trực tiếp ngộ nhập Bản thể của Chơn như. Các đại đệ tử được Thế Tôn dạy dỗ và huân tập đã lâu, Thế Tôn biết họ căn cơ đã thuần thục, nên đặc biệt truyền thị pháp môn vi diệu này, khiến đốn ngộ pháp Vô sanh, thẳng siêu Phật địa.

Suy nghĩ, lời nói, văn tự cùng xuất phát từ nhất niệm vô minh. Khi một niệm chưa động, tịch nhiên trống rỗng, chẳng có tư tưởng cảm giác, dĩ nhiên cũng chẳng lời nói văn tự, đây gọi là vô thỉ vô minh. Khi vô thỉ vô minh bị kích thích, một niệm đã động, suy nghĩ liền sanh. Do suy nghĩ có lời nói, do lời nói mà lập văn tự, suy nghĩ là lời nói chẳng có tiếng, lời nói là suy nghĩ có tiếng, văn tự là nói có hình, lời nói là văn tự vô hình, cả ba đều gom trong chữ “tên gọi”. Nhiếp Đại Thừa Luận nói: “Tên gọi” có hai thứ, một là tên gọi ngôn thuyết, hai là tên gọi suy tư. Nhà triết học Rousseau cũng nói “Tư tưởng là nói bên trong”, Lâm Tế thiền sư nói: “Tên gọi chẳng tự là tên gọi, chỉ do trước mắt ngươi cho là cái linh thiêng của kiến văn giác tri chiếu soi ấy, gắn cho tất cả tên gọi”. Nhưng cả ba đều khởi từ nhất niệm vô minh, nhất niệm vô minh có sanh có diệt, biến đổi vô thường, tên gọi văn tự cũng theo đó biến đổi vô thường. Vô thường thuộc tương đối, Phật tánh thuộc tuyệt đối, tương đối chẳng thể hiển bày tuyệt đối, nên tuyệt đối của Phật tánh chỉ có thể tự tu tự chứng mới có thể nhận biết được, chẳng thể dùng văn tự diễn tả, cũng chẳng thể dùng bộ não suy lường. Kinh Lăng Già nói: “Đệ nhất nghĩa (Phật tánh tuyệt đối) là sở đắc của Thánh trí tự đắc, chẳng phải cảnh giới cảm giác của vọng tưởng ngôn thuyết, cho nên vọng tưởng chẳng thể hiển bày Đệ nhất nghĩa. Ngôn thuyết sanh diệt lay động do nhân duyên tương sanh với nhau, vì do nhân duyên tương sanh với nhau nên chẳng thể hiển bày Đệ nhất nghĩa”.

Kinh Giải Thâm Mật nói: “Ta nói thắng nghĩa (Phật tánh) là sở chứng bên trong của bậc Thánh, việc làm suy tư (suy nghĩ đo lường) là sở chứng của chúng sanh”. Lại nói: “Sở hành của thắng nghĩa vô tướng, suy tư là hành theo cảnh giới có tướng. Thắng nghĩa chẳng thể ngôn thuyết, suy tư là hành theo cảnh giới ngôn thuyết; thắng nghĩa vốn tuyệt biểu thị, thắng nghĩa tuyệt cả tranh luận, suy tư là hành theo cảnh giới tranh luận”.

Theo các kinh điển kể trên, nên biết suy nghĩ văn tự với Chơn như Phật tánh chẳng thể tiếp xúc với nhau. Người ta thường nói: “Chỉ có thể ý hội, chẳng thể ngôn truyền”. Kỳ thật tuyệt đối của Phật tánh dù muốn ý hội cũng chẳng thể được, huống là ngôn truyền ư! Chẳng những Phật tánh như thế, cho đến một kỹ thuật của thế gian chỗ huyền diệu của họ cũng chẳng thể ngôn truyền vậy.
Như Trang Tử nói: “Hoàn Công đọc sách nhà trên, người thợ mộc đẽo bánh xe ở nhà dưới, buông chàng đục đi lên hỏi Hoàn Công rằng: xin hỏi sách Ngài đọc đó là sách gì?
Hoàn Công trả lời: Lời nói của bậc Thánh.
-Bậc Thánh đâu?
-Chết rồi.
Người đẽo bánh xe liền nói: Thế thì sách của Ngài đọc đó chỉ là cặn bả của bậc Thánh mà thôi!
Hoàn Công nói: Quả nhân đọc sách, người thợ đẽo bánh xe sao được bàn luận? Nến nói có lý thì ta tha tội, nếu nói không được thì chém đầu.
Người đẽo bánh xe thưa: Hạ thần đem việc của hạ thần ra mà xem, nếu hạ thần đẽo bánh xe hơi lỏng một chút thì xe chạy được nhưng không an toàn vì dễ sút ra, nếu đẽo hơi chặt thì bánh xe khít mà quay không được, do sự tự ngộ của hạ thần, tâm khiến tay, tay cầm búa đẽo vào bánh xe, chẳng lỏng chẳng chặt, dùng miệng chẳng thể nói, nhưng có sự tự động ở trong đó. Dù con của hạ thần cũng là một thợ mộc danh tiếng, nhưng hạ thần chẳng thể đem sự ngộ ấy để truyền dạy cho con. Nay hạ thần còn sống, có bánh xe, có búa, có tay mà còn truyền thọ chẳng được, huống là bậc Thánh đã chết, chỉ để lại lời nói không còn gì cả!

Do đó chứng tỏ lời nói văn tự là việc gián tiếp trong gián tiếp, sức diễn tả rất hạn chế, huống là muốn truyền đạt bản thể của tuyệt đối ư! Nên Phật nói: “Bất khả thuyết! Bất khả thuyết!” Còn Văn Thù bồ tát tán thán Duy Ma Cật rằng: “Cho đến chẳng có ngôn có thuyết, ấy là chơn nhập pháp môn bất nhị”. Lão Tử nói: “Cho nên bậc Thánh ở nơi việc vô vi hành giáo giáo pháp vô ngôn”. Khổng Tử nói: “Ta muốn vô ngôn”. Tử Lư nói: “Văn chương qua Khổng Phu Tử có thể nghe mà tánh với thiên đạo thì chẳng thể nghe”. Liệt Tử nói: “Vì ngộ bản tánh nên chẳng thể bảo cho biết”. Các nhà Nho và Đạo giáo đều cùng một ý kiến này.

Thế Tôn vì cứu sự hạn chế hẹp hòi của lời nói văn tự, nên ở ngoài ngôn giáo biệt truyền phương pháp trực tiếp, tức là việc niêm hoa thị chúng vậy. Chẳng những niêm hoa mà thôi, phàm nhướng mày nháy mắt, tằng hắng, ngó nhìn đều là phương pháp tiếp dẫn hậu học, khiến cho ngộ nhập bản thể tuyệt đối.

Kinh Lăng Già nói: “Đại Huệ! Chẳng phải tất cả thế giới đều có ngôn thuyết, ngôn thuyết chỉ dùng để giả lập mà thôi. Hoặc có thế giới dùng ngó nhìn để thuyết pháp, hoặc dùng hình tướng, hoặc dùng nhướng mày, nháy mắt, hoặc cười, hoặc ngáp, hoặc tằng hắng, hoặc lay động, hoặc ghi nhớ cõi Phật. Đại Huệ! Những tác dụng kể trên đều khiến chư Bồ tát đắc Vô sanh Pháp nhẫn và Tam muội thù thắng, cho nên chẳng phải ngôn thuyết gồm có tất cả tánh. Đại Huệ! Giống như những ruồi muỗi, con kiến, con trùng trong thế giới này, đều chẳng có ngôn thuyết mà mỗi mỗi làm xong việc hằng ngày”. Hét, gậy, chửi, mắng, dựng phất trần, giơ ngón tay của Tổ sư Trung Quốc đều từ đây mà ra, chẳng phải khi không bày đặt, hoặc có người hỏi nói Thiền tông là sáng lập từ Trung Quốc, ấy là do người chưa hiểu thấu vậy.

Mặc dù sự diễn tả của ngôn thuyết văn tự có nhiều hạn chế, nhưng chẳng thể phế bỏ. Kinh Viên Giác nói: “Kinh giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng thì biết ngón tay chẳng phải mặt trăng, tất cả ngôn thuyết của Như lai khai thị cho Bồ tát đều cũng như thế”. Nên biết giáo pháp văn tự của Như lai đều từ bản tánh chảy ra, muốn khiến chúng sanh theo đó tu hành để đạt đến bản thể tuyệt đối, lìa nhị biên Có và Không, chẳng phải lời nói văn tự của thế gian có thể so bằng.

Kinh Giải Thâm Mật nói: “Dù pháp tánh lìa ngôn, vì muốn khiến chúng sanh tự hiện Đẳng giác, nên giả lập danh tướng”. Còn nói: “Dù Tự tánh chẳng tánh, pháp sở chứng lìa những văn tự, nhưng chẳng thể bỏ ngôn thuyết văn tự mà được diễn thuyết”. Kinh nói: “Biết pháp chẳng do ngôn, người khéo diễn tả ở nơi vô ngôn, mà hiển bày ngôn thuyết, như tiếng vang khắp nơi”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chư Phật ra diệu âm thanh, vì chúng sanh làm Phật sự; tất cả chư Phật tịch lặng vô ngôn cũng vì chúng sanh làm Phật sự”. Nên biết một nói, một nín, một động, một tịnh của Phật đều là dẫn dắt chúng sanh đạt đến chỗ giải thoát, như thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc, chỉ cần hết bệnh tức là toa thuốc hay, đâu cần phân biệt lộc nhung hay cứt bò!

Xưa nay các Tổ sư Thiền tông như ngài Đạo Tín, Huệ Năng, Đạo Nhất, Bá Trượng, Đại Châu, Lâm Tế, Tuyết Phong, Tuyết Đậu… dù gắn cái bảng hiệu “chẳng lập văn tự”, nhưng đều có pháp ngữ và tác phẩm lưu hành trên đời, chẳng phải hoàn toàn phế bỏ văn tự. Nên biết nói “chẳng lập văn tự” là muốn chỉ rõ tìm Phật tánh trong văn tự bất khả đắc, người tu hành chớ nên đọa vào vọng tưởng văn tự mà bị văn tự trói buộc, nếu cứ chấp thật sự chẳng lập văn tự thì nghịch với bản ý của Phật với Tổ vậy.

Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Kẻ chấp Không lại báng kinh rằng, trực ngôn chẳng dùng văn tự; đã nói chẳng dùng văn tự thì con người cũng chẳng nên ngôn ngữ, vì ngôn ngữ tức là tướng của văn tự”. Lại nói: “Trực đạo chẳng lập văn tự, đâu dè hai chữ chẳng lập cũng là văn tự, thấy người có lời nói, liền báng họ là dính mắc văn tự. Các ngươi nên biết, tự mê còn đỡ, lại báng kinh Phật, chớ nên báng kinh, tội chướng vô số kể”.

Tổ Đình Sự Uyển có nói: “Chư Tổ truyền pháp, ban sơ tu hành gồm tam tạng giáo thừa, sau tổ Đạt Ma chuyên truyền Tâm ấn, phá chấp giáo để hiển Tông (Thiền), gọi là giáo ngoại biệt truyền, chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Nhưng đối với sự chẳng lập văn tự, người hiểu lầm rất nhiều, thường cho là bỏ cả văn tự, lấy im lặng tĩnh tọa làm Thiền, ấy là con dê câm của Thiền môn. Vả lại muôn pháp lăng xăng, đâu chỉ là văn tự chẳng lập thôi! Họ chẳng biết đạo tức phải thông, sao lại cố chấp nơi một gốc!”

Nên người thông thạo ngay nơi văn tự mà văn tự bất khả đắc, đối với văn tự như thế, đối với các pháp khác cũng vậy, hễ kiến tánh thành Phật là xong, đâu đợi bỏ văn tự mới xong!

Cho nên văn tự dù thuộc về tương đối, nếu được nương ngón tay mà thấy mặt trăng thì văn tự chưa từng chẳng có công dụng, nếu được minh tâm kiến tánh, chứng nhập Nhất hạnh, nhất tướng Tam muội thì ngay nơi văn tự tức là Thật tướng, tương đối biến thành tuyệt đối; nếu chấp ngón tay là mặt trăng thì văn tự chưa từng là chẳng hại.

Tam tạng mười hai bộ kinh là do Phật Thích Ca giả lập, cũng do Phật phủ định; giả lập là vì độ chúng sanh, phủ định là vì khỏi làm hại chúng sanh. Nếu giả lập mà chẳng thể phủ định thì chẳng phải là Phật; nếu phủ định mà chẳng thể giả lập cũng chẳng phải là Phật. Vì hay giả lập cũng hay phủ định. Cho nên Phật pháp mới được viên dung vô ngại, thuần túy trọn vẹn mà chẳng có chỗ khuyết điểm.

Phật từng thuyết “Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã” rồi ngay đó phủ định liền; Phật từng thuyết “Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên” rồi cũng ngay đó phủ định liền, nói giả, chẳng thật, bất khả đắc. Phật thuyết pháp như thế mới chẳng kẹt nơi danh tướng, dẫn dắt vào nơi tuyệt đối mà chẳng có gì cả. Hoặc có người muốn dựa theo kinh điển pháp môn để vấn nạn Phật, mà chẳng biết những kinh điển nhưng pháp môn đó Phật đã mỗi mỗi tự phủ định rồi! Phật vừa nói liền phá, cho đến chẳng lưu lại một chữ, chẳng còn dấu tích để tìm thì đâu còn gì để cho họ chỉ trích ư! Nên người vấn nạn muốn báng Phật, cũng như dùng ngón tay đánh hư không, như ngước mặt phun nước miếng lên trời, mong chẳng tự làm nhơ cho người cũng chẳng được. Được hiểu như thế rồi mới có thể học Phật tham thiền.

2- SỰ KHÁC BIỆT CỦA TÔNG MÔN VÀ GIÁO MÔN.

Tông môn, giáo môn phân ra riêng biệt bắt đầu từ Trung Quốc căn cứ nơi kinh Lăng Già. Phật bảo: “Đại Huệ! Tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, có hai thứ tướng thông: gọi là Tông thông và Thuyết thông. Nói Tông thông là do tự mình chứng đắc tướng thắng tiến, xa lìa ngôn thuyết văn tự vọng tưởng, rồi ngộ nhập Tự Tướng Tự Giác Địa nơi giới vô lậu, xa lìa tất cả giác tưởng hư vọng, hàng phục tất cả bọn ma đạo, do tự giác phát huy ánh sáng, ấy là tướng tông thông. Thế nào là tướng Thuyết thông? Nói thuyết đủ thứ giáo pháp nơi chín bộ Kinh, lìa các tướng đồng, dị và có, không, dùng phương tiện tinh xảo để tùy thuận chúng sanh, ứng cơ thuyết pháp khiến được độ thoát, ấy gọi là Tướng thuyết thông. Đại Huệ! Ngươi và các Bồ tát nên tu học.

Phật nói “Tông thông” là pháp Thiền thực tiễn do mình tự tham tự chứng; nói “Thuyết thông” là Pháp sư giảng giáo lý, thuyết pháp tự tại, chẳng lìa tự tánh, chẳng đọa nhị biên. Một là trực tiếp, một là gián tiếp; một do tâm hành, một do khẩu thuyết, đức Phật hoằng pháp lợi sanh, đại khái chẳng ra ngoài hai lối này. Hai thứ phương pháp dù chẳng đồng, nhưng mục đích cuối cùng chỉ là một, nếu xét kỹ lại thì tông chẳng lìa giáo, giáo chẳng lìa tông, xưa nay Tông môn dù nói chẳng lập văn tự, chẳng trọng kinh điển, nhưng Thế Tôn sau khi niêm hoa thị chúng rồi liền nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, Thật tướng vô tướng, Vi diệu pháp môn, Chẳng lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật”. Tám câu này tức là ngôn ngữ, tức là giáo lý, cho đến tổ Đạt Ma lấy kinh Lăng Già truyền cho ngài Huệ Khả, ngũ tổ Hoằng Nhẫn lấy kinh Kim Cang truyền thọ ngài Huệ Năng, Tứ Tổ có Pháp ngữ, Lục Tổ có Pháp Bảo Đàn, ấy đều chứng tỏ tông chẳng lìa Giáo vậy.

Lại như trong giáo điển Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Viên Giác, Lăng Nghiêm, Kim Cang, Lăng Già đều trực thị tông chỉ chẳng lìa Pháp thân, ấy đều chứng tỏ Giáo chẳng lìa Tông vậy. Nên Chứng Đạo Ca nói: “Tông cũng thông, Thuyết cũng thông. Định, Huệ sáng tròn chẳng kẹt Không”, chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ ý chỉ này, vì tiên nhập làm chủ, nên ít người thông suốt, lại mỗi mỗi tự lập cửa ải, bài xích lẫn nhau, kẻ học Thiền thì chấp Tông mà đè Giáo, kẻ học Giáo thì chấp Giáo mà khinh Tông. Thật ra Tông lìa Giáo thì đọa nơi rỗng không, Giáo lìa Tông thì thành ra tạp loạn; Tông với Giáo như hai bánh của xe, chẳng thể phế bỏ bánh xe nào.

Hành giả Tông môn dụng công tham thiền, ngoài việc thân cận Thiện tri thức, hiểu rõ phương pháp dụng công đứng đắn, vẫn cần biết rõ cảnh giới chẳng đồng của bốn thừa và sự khác nhau của phương pháp dụng công, mới chẳng lầm nhận cho Tiểu thừa là Đại thừa, lạc vào lối tẻ, chẳng thể đạt đến minh tâm kiến tánh.

Muốn rõ bốn thừa cũng nên xem kinh điển giáo lý; người học giáo lý đã rõ bốn thừa rồi, cần phải chơn tham thật chứng mới được minh tâm kiến tánh. Nếu chẳng minh tâm kiến tánh, dù kinh điển văn tự chứa đầy bụng, biện tài như suối chảy, ngòi bút viết ra muôn ngàn văn chương, với bản thể của Phật tánh đều chẳng dính dáng, thậm chí hiểu lầm ý Phật, tự ý phát huy để di hại cho kẻ hậu học.

3- ĐẠI Ý CỦA BỐN THỪA.

Chữ Phật còn thuộc giả danh, huống là bốn thừa ư! Nhưng đức Phật đại bi cứu thế, phương tiện độ sanh, vì tùy căn cơ sâu cạn của chúng sanh nên giả thiết đủ thứ ngôn giáo pháp môn dùng để tu tập, theo thời ứng cơ, tùy nghi lập giáo, như lương y trị bệnh, tùy bệnh cho thuốc, nên có những thí dụ như xe dê, xe nai, xe trâu (tam thừa) và hóa thành (nửa đường), Bửu sở (quả Phật)… Khổ tâm ấy thật là chiếu sáng muôn đời.

Tất cả pháp có thể nói ra đều thuộc về tương đối; pháp tương đối phải tùy theo không gian và thời gian mà biến đổi, vốn chẳng thật thể. Nên đức Phật thuyết pháp vừa thuyết liền phá, ban sơ Phật đã từng vì chúng sanh thuyết diệu lý của Chơn như Pháp thân, ý chỉ huyền ảo vi diệu, chúng đều bỏ đi, rồi trở lại thuyết pháp môn Tiểu thừa, người nghe mới tin được. Đến khi đồ chúng tu Tiểu thừa đã quen thuộc, ham thích Thiền vị, chỉ tự độ thân mình, Phật lại quở rằng: “Đây vẫn chưa cứu cánh, chưa lìa hẳn sanh tử, nên tu Trung thừa”. Đồ chúng mới chuyển tu Trung thừa, đạt nơi ngã, pháp đều Không. Phật lại quở rằng: “Đây vẫn chưa cứu cánh, tập khí từ vô thỉ chưa sạch, cũng còn biến dịch sanh tử, nên tu Đại thừa”. Từ đó chúng mới chuyên tu pháp Đại thừa, đến khi căn cơ thuần thục, Phật mới trực thị pháp Tối thượng thừa, kẻ tu hoát nhiên đại ngộ, thấu triệt bản tâm chẳng sanh chẳng diệt, chẳng biến chẳng khác, sẵn sàng viên mãn, chẳng do tạo tác, mới biết phi tâm, phi Phật, phi vật, cuối cùng chẳng có pháp nào để đắc, nói “Pháp môn” chỉ là nói suông, nói “bốn thừa” đều là hý luận, khi ấy mới tin Phật nói “Chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ” là chẳng phải cố ý bày đặt sự huyền bí.

Nay lược thuật cảnh giới bốn thừa như sau:

TIỂU THỪA: Cũng gọi là Thanh văn thừa, do nghe thanh giáo của Phật mà ngộ lý Tứ Đế, đoạn dứt Kiến hoặc, Tư hoặc, chứng nhập Niết bàn Tiểu thừa, ấy là lối tu hạ căn trong đạo Phật. Kinh Thắng Man Bửu Quật rằng: “Hai chữ Thanh văn là kẻ hạ căn theo giáo lập nên, thanh tức là Giáo vậy”.

Pháp môn Tứ Đế của thừa Thanh văn sở tu tức là khổ, tập, diệt, đạo. Khổ là cái quả của thọ báo, tập là cái nhân chiêu quả, diệt là đắc quả tịch diệt, đạo là lối tu để đoạn trừ cái nhân chiêu quả. Nói một cách khác, tu theo Tứ Đế tức là biết Khổ đoạn Tập, mộ Diệt tu Đạo; Đế là ý nghĩa xác thật. Cách tu của họ là đoạn dứt công dụng của lục căn, lắng tâm tĩnh lự, cho đến chỉ còn một chút niệm trong sạch, ấy là cảnh giới của Tiểu thừa đạt đến, quả cùng tột gọi là A la hán.

Động cơ của người tu Tiểu thừa là nhàm chán phiền não sanh tử mà cầu thanh tịnh Tịch diệt, cho rằng trong linh tánh vốn chẳng có phiền não, tất cả khổ đều do lục căn chiêu tập mới có, nên muốn được sự vui thanh tịnh tịch diệt chỉ có tu đạo làm cho công dụng của lục căn dừng lại, chẳng sanh tác dụng chiêu tập, mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe, mũi chẳng ngửi, lưỡi chẳng nếm, thân chẳng xúc, ý chẳng tưởng, công dụng của lục căn đã dứt sạch, sáu cửa đã đóng kín, trong linh tánh chỉ còn một niệm thanh tịnh, tịch tịnh an lạc, ấy là đạo quả sở chứng của Tiểu thừa. Nhưng lục căn dù tạm dứt, mà một niệm thanh tịnh chưa được buông bỏ, ắt chẳng phải cứu cánh.

TRUNG THỪA: cũng gọi là Duyên giác thừa, do quán nhân duyên mà ngộ đạo. Xưa nay xưng Bích chi phật, dịch nghĩa là Độc giác. Pháp môn của Trung thừa là Thập Nhị Nhân Duyên, tức vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử. Thập nhị chi (mười hai nhánh) này bao gồm quá khứ, hiện tại, vị lai, tâm thế nhân quả tuần hoàn chẳng dừng.

Ở đây Vô minh là nhất niệm vô minh, cũng gọi là tánh nhất niệm vọng động, chẳng phải vô thỉ vô minh, vì bất giác khởi niệm, bèn sanh ra đủ thứ phiền não, tạo đủ thứ thiện ác nghiệp, gọi là Hành, hai chi này là nhân đời trước. Thức là nghiệp thức như thân trung ấm bị lôi kéo mà đến đầu thai; Danh sắc là lúc ở trong thai sắc thân chưa thành, tứ ấm Thọ, Tưởng, Hành, Thức chỉ có tên gọi, chưa có thật chất; Lục nhập là nói ở trong thai lục căn đã hoàn thành, là chỗ sở nhập của lục trần; Xúc là sau khi sanh ra, lục căn tiếp xúc lục trần; Thọ là lãnh thọ các cảnh giới thuận nghịch, năm chi này là quả đang thọ ở đời này. Ái là đối với cảnh trần có sở ái; Thủ là chấp thủ việc mình ham muốn; Hữu là có quyền sở hữu, cho mình được tùy ý chi phối, ba chi này là nhân sở đắc của đời này, đời này tạo nghiệp nhân thì đời sau báo ứng nghiệp quả. Sanh là tùy theo sự gieo nghiệp nhân thành chủng tử để thọ sanh nơi kiếp sau. Lão tử là kiếp sau đã có sanh, ắt phải có lão tử, hai chi này là quả báo phải thọ ở đời sau. Ấy là đại khái của Thập Nhị Nhân Duyên.

Kẻ tu pháp Trung thừa quán xét chúng sanh trong tam thế đều bị Thập Nhị Nhân Duyên chi phối, mà Thập Nhị Nhân Duyên thì nương nhất niệm vô sanh khởi, cho rằng Tiểu thừa chưa thể phá nhất niệm này, nên chưa đạt cứu cánh, nếu được đoạn dứt nhất niệm này thì vượt ra ngoài tam thế, liễu thoát sanh tử.

Nên cách dụng công của họ là muốn quét sạch nhất niệm vô minh, đạt đến cảnh giới mênh mông trống rỗng chẳng có gì cả, tự cho đã chứng Niết bàn, chẳng biết đã lọt vào vô thỉ vô minh. Cảnh giới trống rỗng chẳng có chi cả, cũng gọi là “Không chấp”, linh tánh ám muội, chẳng khác gì gỗ đá! Huống chi nhất niệm vô minh dù tạm dừng, nếu bị kích thích vẫn có thể nổi lại, nên sở chứng của Trung thừa vẫn chưa cứu cánh.

ĐẠI THỪA: Cũng gọi là Bồ tát thừa, pháp sở tu là sáu Ba la mật, cũng gọi là Lục độ. Sáu Ba la mật là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền na, Bát nhã. Người tu Đại thừa gọi là Bồ Đề Tát Đỏa, Bồ đề dịch là Giác, Tát đỏa dịch là Hữu tình. Ý là giác ngộ chúng sanh hữu tình, gọi tắt là Bồ tát, tức là chúng sanh phát đại tâm Bồ đề, lấy tâm Bồ đề làm thể để tự độ; lấy tâm Đại bi làm dụng để độ tha, tự tha kiêm lợi, nên xưng Đại thừa. Phẩm Thí Dụ trong kinh Pháp Hoa rằng: “Nếu có chúng sanh nơi Phật Thế Tôn nghe pháp tín thọ, tinh tấn tu hành, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, vô sư trí, Vô sở úy, dùng sức tri kiến của Như lai thương xót vô lượng chúng sanh, độ thoát tất cả trời, người đều được lợi ích an lạc, ấy gọi là Đại thừa.

Lục độ bao gồm tam học Giới, Định, Huệ, mà lấy pháp Thiền na làm chủ yếu để dụng công, người tu Đại thừa biết nhất niệm vô minh chẳng thể phá, nên lợi dụng nhất niệm vô minh để phá tan vô thỉ vô minh mà được kiến tánh, ấy là phương pháp dùng tướng cướp (nhất niệm vô minh) để bắt vua cướp (vô thỉ vô minh) vậy.

TỐI THƯỢNG THỪA: Cũng gọi là Phật thừa, khi đã minh tâm kiến tánh, hiển hiện Phật tánh chơn như, phát huy diệu lý tuyệt đối, chỉ có kẻ chứng với kẻ chứng mới biết nhau được. Nên Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp mỉm cười; Ca Diếp giơ tay, A Nan hiệp chưởng, dùng tâm ấn tâm, khế hợp ăn khớp, trình bày trước mắt, chẳng nhờ ngôn thuyết, là pháp tối cao cùng tột, chẳng còn gì hơn nữa, ấy gọi là Tối thượng thừa thiền.

Tiểu thừa đoạn lục căn, Trung thừa đoạn nhất niệm vô minh, Đại thừa đoạn vô thỉ vô minh, Tối thượng thừa trực chỉ Chơn như Phật tánh, đây là đại ý của bốn thừa. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Pháp chẳng bốn thừa, do tâm người tự có sai biệt mà hình thành; thấy, nghe, đọc, tụng là Tiểu thừa; hiểu nghĩa ngộ pháp là Trung thừa; y pháp tu hành là Đại thừa; vạn pháp đều thông, vạn pháp sẵn sàng, tất cả chẳng nhiễm, lìa chư pháp tướng, trọn vô sở đắc, gọi là Tối thượng thừa”. Thế thì, đại ý của bốn thừa đã rõ ràng.

Triệu Châu hòa thượng nói: “Ta Chẳng thích nghe một chữ Phật”, còn nói: “Hễ lão Tăng niệm Phật một tiếng thì phải súc miệng ba ngày”. Nếu thấu rõ lời này thì chẳng bị bốn thừa trói buộc.

#3 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 31/07/2011 - 20:07

4- MỤC ĐÍCH CỦA THAM THIỀN.
Mục đích của Tham thiền là gì? Là muốn minh tâm kiến tánh. Cái quả minh tâm kiến tánh như thế nào? Là thấu triệt bổn nguyên, vượt ngoài tam giới, liễu thoát sanh tử, chẳng thọ hậu hữu, độ mình độ người, phổ lợi chúng sanh. Ấy là mục đích cuối cùng của loài người.

Nhưng muốn minh tâm kiến tánh, trước tiên phải rõ thế nào là tâm tánh. Tâm tánh là bổn nguyên tự tánh của chúng sanh, cũng gọi là Phật tánh, hoặc gọi Chơn như, Như lai. Thiền tông gọi là Bổn lai diện mục, Thanh tịnh pháp thân; Duy Thức tông gọi là Tự thân tịnh độ, Thường tịch quang tịnh độ; Tam Luận tông gọi là Thật tướng bát nhã; Luật tông gọi là Bổn nguyên tự tánh, Kim cang bửu giới; Thiên Thai tông gọi là Tự tánh thật tướng; Hoa Nghiêm tông gọi là Nhất chơn pháp giới; Mật tông gọi là Tịnh bồ đề tâm… danh hiệu dù nhiều, bản thể chỉ một. Duy Thức luận nói: “Chơn là chơn thật, tỏ chẳng hư vọng. Như là như thường, tỏ chẳng biến đổi. Nghĩa là cái chơn thật này, nơi tất cả pháp thường như bản tánh, nên gọi là Chơn như”. Kinh Duy Ma Cật nói: “Như là chẳng hai chẳng khác”. Kinh Kim Cang nói: “Như lai là chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu”.

Theo những kinh luận kể trên, nói “Tâm tánh” là chỉ ngay Chơn như tự tánh, chẳng phải tâm tánh của người đời. Người đời nói “tâm” ấy là vọng tâm, tức là vô minh, nay muốn minh tâm là minh cái tâm chơn thật cùng tột, nên gọi là Chơn như.

Kinh Hoa Nghiêm phát huy cái lý Chơn như Phật tánh rất tường tận, trong phẩm Thập Hồi Hướng nói: “Siêng tu tất cả pháp xuất thế gian, đối với thế gian vô thủ vô y, đối với diệu đạo chánh kiến kiên cố, thấu pháp chơn thật, lìa chư vọng kiến, ví như chơn như, khắp tất cả nơi, chẳng có ngằn mé; ví như chơn như, chơn thật làm tánh; ví như chơn như, thường giữ bản tánh, chẳng có biến đổi; ví như chơn như, nơi tất cả pháp, vô tánh làm tánh… (còn rất nhiều, nay lược bỏ chẳng kể xiết).

Đây là cảnh giới chơn như Phật tánh do Phật với Tổ đích thân chứng nhập, rồi dùng ngôn ngữ phương tiện để khai thị cho chúng sanh, chúng sanh nghe rồi, hoặc ngơ ngác chẳng hiểu gì, hoặc biết được đại ý nhưng chẳng thể cho là minh tâm kiến tánh; nghe rồi được hiểu gọi là giải ngộ, cần phải tự tham thực chứng, đích thân thấy rõ, mới có thể gọi là chứng ngộ, sở chứng với Phật chẳng khác, nên gọi là kiến tánh thành Phật.

Thường có kẻ thông minh lanh lợi, xem nhiều kinh điển mà được giải ngộ, giảng giải cho người khác nghe, biện tài như suối chảy mà thật thì chẳng biết chơn như Phật tánh là vật gì. Cũng như người chưa từng đến thắng cảnh Tây Hồ, chỉ xem du ký của người khác, lại diễn tả cho người khác nghe giống như đã từng đi qua, thật thì chưa từng đích thân thấy thắng cảnh ấy, nếu gặp người đã từng du lịch Tây Hồ, hỏi về chơn cảnh ấy thì ngơ ngác chẳng thể trả lời. Vì thế nên Thiền tông chủ trương chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn tự là vậy.

Nên biết, muốn minh tâm kiến tánh toàn nhờ chơn thực tham chứng, người khác chẳng thể thay thế được, chẳng quí đa văn, chỉ quí thấy ngay, từ ngoài cửa chẳng phải gia bửu, lời của người khác nói chẳng dính dáng với mình.

Xưa kia Hương Nghiêm hòa thượng ở trong hội Bá Trượng, thông minh lanh lợi, hỏi một đáp mười, bị Qui Sơn hỏi: “Khi cha mẹ chưa sanh nói thử một câu xem!” liền ngơ ngác chẳng đáp được. Về liêu phòng tìm tra hết thảy văn tự xem qua, muốn tìm một câu để trả lời trọn chẳng thể được, than rằng: “Bánh vẽ chẳng thể cứu đói”, cứ xin Qui Sơn nói trắng ra. Qui Sơn nói: “Ta nói cho ngươi thì ngươi về sau sẽ mắng ta; ta nói là việc của ta, chẳng dính dáng với ngươi!” Hương Nghiêm bèn lấy tất cả ngôn giáo đốt bỏ, thẳng qua Nam Dương, nghĩ tại di tích của Huệ Trung quốc sư, tham cứu lâu ngày, một hôm nhổ cỏ, ngẫu nhiên quăng miễng trúng nhằm cây tre phát ra tiếng, hoát nhiên tĩnh ngộ, liền về tắm gội đốt nhang, hướng về Qui Sơn lễ bái rằng: “Hòa thượng đại từ, ân hơn cha mẹ, nếu lúc đó vì con nói trắng ra thì đâu có việc kiến tánh hôm nay”.

Do đó, mà xem Thiền tông chẳng lập văn tự, chỉ chú trọng tham chứng, mà được tôn là phương thuốc hay của minh tâm kiến tánh, pháp Thiền của Thiền tông được phổ biến khắp Trung Quốc, đâu phải việc ngẫu nhiên!

5- CÁC LOẠI THIỀN.

Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật, các tông Đại, Tiểu thừa đều có pháp thiền chuyên môn, ngoại đạo tà sư cũng mỗi mỗi kiến lập pháp thiền của họ, tà chánh lẫn lộn, tên gọi rất nhiều, cho nên người tu tập pháp thiền của tông môn, trước tiên phải hiểu rõ pháp thiền của các tông và phân biệt tà, chánh, chơn, ngụy, rồi mới chẳng bị lầm vào lối tẻ, phân biệt được trắng đen. Người xưa vì đáp sai một chữ, đọa thân chồn năm trăm đời, hành giả nên cẩn thận! Phàm phá ngã chấp là chánh, chấp ngã là tà; lối tu theo ngã chấp là ngoại đạo, tu đúng tông chỉ là chơn, không đúng tông chỉ là ngụy, nay đại khái đưa ra các loại thiền như sau:

1/ Tối Thượng Thừa Thiền:

Hành giả sau khi chứng ngộ, trong tâm thất thông bát đạt, tùy tiện đề ra một pháp đều là Phật pháp, nói nghịch nói xuôi chẳng lìa chơn như, tất cả từ chơn tâm mình chảy ra, che thiên ngập địa, từ Thế Tôn niêm hoa thị chúng cho đến Tổ sư hét gậy, chửi, mắng, đều là trực chỉ chơn như, trọn mâm đem ra, kẻ hoát nhiên kiến tánh thì chẳng cách tơ hào, nếu còn do dự bèn cách xa muôn dặm, ấy là Tối thượng thừa thiền.

2/ Như Lai Thiền Với Tổ Sư Thiền:

Như Lai Thiền là Thiền giáo môn, chứng nhập từng bực như: Thập tín, Thập trụ, cho đến Thập địa, Đẳng giác, còn có thể giải thích; Tổ Sư Thiền thì không có thứ bậc, thẳng vào bản thể Phật tánh chẳng thể giải thích. Người xưa có một việc chứng tỏ:

Hương Nghiêm hòa thượng sau khi chứng ngộ, thuyết bài kệ trình ngài Qui Sơn rằng:
Tiếng trúc quên sở tri,
Chẳng cần nhờ tu trì.
Động dung hiển lối xưa,
Chẳng đọa nơi vắng lặng.
Mỗi mỗi chẳng dấu tích,
Thanh sắc ngoài oai nghi.
Người đạt đạo bốn phương,
Đều xưng thượng thượng cơ.

Qui Sơn nghe rồi bảo Ngưỡng Sơn rằng: Ông này đã triệt ngộ.
Sau Ngưỡng Sơn soát lại, Hương Nghiêm thuyết kệ rằng:
Năm xưa nghèo chưa phải nghèo,
Năm nay nghèo mới thật nghèo.
Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi,
Năm nay nghèo dùi cũng không.

Ngưỡng Sơn nói: Như Lai Thiền thì cho sư đệ ngộ, Tổ Sư Thiền thì chưa.

Hương Nghiêm lại nói bài kệ khác:
Ta có một cơ,
Nháy mắt nhìn y.
Nếu còn chẳng ngộ,
Chớ gọi Sa di.

Ngưỡng Sơn bảo với Qui Sơn rằng: Mừng cho Nhàn sư đệ đã ngộ Tổ Sư Thiền.

3/ Thiền Na Thiền và Bát Nhã Thiền:

Thiền Na Thiền là pháp thiền thứ năm trong sáu Ba La Mật, Bát Nhã Thiền là sau khi đã minh tâm kiến tánh, phát huy đại dụng để độ người, như việc niêm hoa thị chúng.

4/ Nhất Vị Thiền Và Ngũ Vị Thiền:

Phá tan hầm sâu vô minh, minh tâm kiến tánh, đốn siêu Phật địa, vào cảnh giới bất nhị, gọi là Nhất Vị Thiền. Ngoại đạo thiền, phàm phu thiền, Tiểu thừa thiền, Đại thừa thiền, Tối thượng thừa thiền, gọi chung là Ngũ vị thiền.

5/ Ba Thứ Tịnh Quán Thiền:

Tức Sa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na, như kinh Viên Giác có giải thích kỹ càng về ba thứ thiền quán này.

6/ Khô Mộc Thiền (Thiền Cây Khô):

Những pháp thiền chấp ngồi suốt ngày đêm chẳng nhúc nhích như dựng cây khô, cho ngồi lâu là cao, gọi là Khô mộc thiền.

7/ Tham Thiền Lầm Dụng Công Rất Dễ Phạm Những Bệnh Sau Đây:

1. Chỉ bệnh: Đè nén tất cả tư tưởng miễn cưỡng dừng lại, như nước biển chẳng nổi sóng, chẳng nổi một bọt nhỏ. Tiểu thừa đoạn dứt lục căn, Đạo giáo thanh tịnh quả dục, tuyệt Thánh bỏ trí đều thuộc bệnh này, Phật tánh thì chẳng hợp với Chỉ.

2. Tác bệnh: Bỏ vọng lấy chơn, lấy niệm xấu đổi niệm lành, nghịch trần hợp giác, nghịch giác hợp trần; phá một phần vô minh, chứng một phần pháp thân; Lão Tử “Thường vô dục để quán diệu, thường hữu dục để quán sai”; Khổng Tử “Chánh tâm thành ý”, nhà Nho “Trừ bỏ ích kỷ của dục vọng, tồn tại chánh tâm của thiên lý”, ấy thuộc về bệnh này, Phật chẳng do Tác mà đắc.

3. Nhậm bệnh: Tư tưởng khởi cũng mặc kệ, diệt cũng mặc kệ, chẳng dứt sanh tử, chẳng cầu Niết bàn, chẳng trụ và chấp trước tất cả tướng, chiếu mà thường tịch, tịch mà thường chiếu, đối cảnh vô tâm, nhà Nho “Lạc thiên tri mệnh”, Đạo giáo “Trở về tự nhiên”, “Trở về hài nhi” đều thuộc bệnh này, Phật tánh chẳng do Nhậm mà có.

4. Diệt bệnh: Tất cả tư tưởng dứt sạch, mênh mông trống rỗng đồng như gỗ đá, Trung thừa phá nhất niệm vô minh, Trang Tử “Tọa vong”, nhà Nho “Ngã tâm vũ trụ” và chơn lý của sáu thứ ngoại đạo ở Ấn Độ thuộc bệnh này, Phật tánh chẳng do Diệt mà có.

Tham thiền lầm dụng công phu nếu phạm bốn bệnh kể trên thì sẽ lầm Tứ tướng, nay lược giải như sau:

1. Ngã tướng: Tức là ngã chấp; Tiểu thừa khi đã dứt lục căn, tiểu ngã đã diệt, lại vào cảnh giới đại ngã, lúc ấy tâm lượng rộng lớn, thanh tịnh tịch diệt, hình như đầy khắp vũ trụ. Nhà Triết học Hy Lạp nói “Đại ngã”, “Thượng đế”, Lão Tử “Nhấp nhoáng trong đó có tượng, nhấp nhoáng trong đó có vật; sâu xa mịt mù, trong đó có tinh” đều thuộc về ngã tướng.

2. Nhơn tướng: Tức pháp chấp, khởi niệm sau để phá niệm trước, ví như niệm trước có ngã, niệm sau chẳng nhận là ngã, rồi lại khởi một niệm nữa để phá cái niệm “chẳng nhận là ngã”, nối liền như thế cho đến vô ngã, nhưng kiến giải “phá” vẫn còn, ấy là nhơn tướng. Trang Tử nói: “Ta nay mất ngã” tức là Nhơn tướng.

3. Chúng sanh tướng: Cũng là pháp chấp, cảnh giới này ngã tướng, nhơn tướng chẳng thể đến, tức là Chúng sanh tướng. Nhà Nho nói: “Mừng, giận, buồn, vui khi chưa phát gọi là Trung”. Thư Kinh nói: “Duy tinh duy nhất, nên chấp nơi Trung”, chữ Trung này tức là Chúng sanh tướng.

4. Thọ giả tướng: Tức là không chấp, tất cả tư tưởng đều đã ngưng nghỉ, tất cả thị phi thiện ác đều đã quên mất, trong đó trống rỗng chẳng có chi cả, đồng như mạng căn. Lục Tổ gọi là Vô ký không, Nhị thừa nhận lầm cho là cảnh giới Niết bàn, kỳ thật chính là vô thỉ vô minh, Thiền tông gọi là hầm sâu vô minh, “hầm sâu đen tối mịt mù”, Đạo giáo nói “Vô cực” tức là cảnh giới này.

Bốn tướng kể trên đều thuộc pháp hữu vi, đều chẳng cứu cánh, nên kinh Viên Giác nói: “Chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ bốn tướng, dù khổ hạnh tu tập trải qua nhiều kiếp, chỉ gọi là hữu vi, rốt cuộc chẳng thể thành tựu tất cả Thánh quả”. Kinh Kim Cang nói: “Có ngã tướng, Nhơn tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng, ắt chẳng phải Bồ tát”, là chỉ rõ bốn thứ cảnh giới này đều chẳng phải chánh pháp. Người trí kém thường nói “Tam giáo cùng nguồn”, nếu được rõ tinh nghĩa bốn tướng này thì biết Tam giáo cách nhau như trời với đất.

Vì phạm bốn bệnh bèn lầm nhận kiến, văn, giác, tri là Phật tánh:

Huệ Trung quốc sư hỏi một Thiền giả: Từ đâu đến?
Đáp: Từ miền Nam đến.
Sư hỏi: Miền Nam có Thiện tri thức nào?
Đáp: Tri thức rất nhiều.
Sư hỏi: Làm sao dạy người?
Đáp: Tri thức miền Nam khai thị người học “Tức tâm là Phật, nghĩa Phật là giác, nay ngươi sẵn đủ chánh kiến, văn, giác, tri, tánh này nhướng mày nháy mắt, vận dụng khứ lai khắp trong cơ thể, búng đầu đầu biết, búng chân chân biết, nên gọi là chánh biến tri, ngoài ra chẳng Phật khác; thân này có sanh diệt, tâm tánh từ vô thỉ đến nay chưa từng sanh diệt, thân sanh diệt như con rắn lột da, người ra nhà cũ, thân là vô thường, tánh thì thường”. Sở thuyết miền Nam đại khái như thế.

Sư nói: Nếu vậy chẳng khác với bọn ngoại đạo tiên ni; họ nói “trong thân này có một thần tánh, tánh này hay biết đau ngứa, khi thân hoại thì thần ra đi, như nhà bị cháy chủ nhà ra đi, nhà là vô thường, chủ nhà là thường”. Nếu nói như thế thì chẳng phân biệt được tà chánh, lấy gì làm đúng! Trước kia ta đi du phương gặp nhiều bọn này, tụ chúng năm ba trăm, mắt ngó mây trời, nói là Tông chỉ miền Nam, tự sửa đổi kinh Pháp Bảo Đàn, lược bỏ Thánh ý, thêm vào lời tục để mê hoặc cho hậu học, đâu còn ngôn giáo! Khổ thay! Mất cả Tông ta! Nếu cho kiến, văn, giác, tri là Phật tánh thì Duy Ma Cật chẳng nên nói “Pháp lìa kiến, văn, giác, tri; nếu hành kiến, văn, giác, tri, ấy là kiến, văn, giác, tri, chẳng phải cầu pháp vậy”.

Huỳnh Bá Truyền Tâm Pháp Yếu nói: “Cái tâm bổn nguyên thanh tịnh này thường tự sáng tròn chiếu khắp, người đời chẳng ngộ, chỉ nhận kiến, văn, giác, tri là tâm; bị kiến, văn, giác, tri che khuất nên chẳng thấy bản thể tinh minh. Hể ngay đó vô tâm thì bản thể tự hiện, như mặt trời trên không, chiếu khắp mười phương chẳng có chướng ngại.Người học đạo nên ở kiến, văn, giác, tri nhận bản tâm, nhưng bản tâm chẳng thuộc kiến, văn, giác, tri, cũng chẳng lìa kiến, văn, giác, tri; chớ nên ở kiến, văn, giác, tri động niệm, cũng chớ lìa kiến, văn, giác, tri cầu pháp; chẳng tức chẳng lìa, chẳng trụ chẳng chấp, tung hoành tự tại, nơi nào chẳng phải đạo tràng!”

8/ Lục Tổ Với Thần Tú:

Thần Tú nói: “Thân là cây Bồ đề, Tâm như đài gương sáng, luôn luôn siêng lau chùi, chớ cho dính bụi trần”. Kiến, văn, giác, tri dụ cho gương sáng, vọng niệm như bụi dính gương, siêng lau chùi dụ cho dứt sạch vọng niệm, chớ cho dính bụi là dụ chẳng cho vọng niệm sanh khởi.

Thật ra kiến, văn, giác, tri vốn hay khởi vọng niệm, là chẳng thể dứt sạch được, ví như nguồn suối ngày đêm chảy nước ra, dứt rồi lại chảy nữa vĩnh viễn dứt không được. Cho nên người nhận kiến, văn, giác, tri là Phật tánh vốn là sai lầm, tu hành vô ích.

Lục Tổ nói: “Bồ đề vốn chẳng cây, gương sáng cũng chẳng đài, vốn là chẳng một vật, nơi nào dính bụi trần”. Lục Tổ đã minh tâm kiến tánh, nên kệ này hiển thị Phật tánh chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thọ huân nhiễm, bổn lai thành Phật, là đứng trên quả vị Chơn như mà nói “vốn chẳng một vật” là chỉ thẳng Phật tánh vốn chẳng khởi vọng niệm, nên biết khởi vọng niệm là kiến, văn, giác, tri, chẳng khởi vọng niệm là Phật tánh. Nếu Phật tánh với kiến, văn, giác, tri chẳng phân biệt rõ ràng thì dụng công học Phật ắt phải sai lầm.

Thần Tú cho kiến, văn, giác, tri là Phật tánh, nhưng sai lầm ấy chẳng phải chỉ một mình Thần Tú, sai lầm ấy truyền nhau từ đời Lục Triều, là chịu sự ảnh hưởng học thuyết Lão Tử nói “Đạo sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật, vạn vật sanh cõng âm mà ôm dương, từ âm dương của vạn vật trở về ba, hai, một rồi tới đạo”. Bên ngoài thì nói danh từ của Phật pháp, bên trong là lý đạo của Lão Tử truyền nhau cho đến đời này, chẳng biết lầm hại cho bao nhiều học Phật với những cao Tăng thông minh, thật đáng thương xót!

Phàm dụng công tu hành, cần phải phá vô thỉ vô minh, kinh Hoa Nghiêm nói: “Phá vô minh đen tối”. Kinh Viên Giác nói: “Vô thỉ huyễn vô minh”. Kinh Thắng Man nói: “Đoạn vô thỉ vô minh”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Pháp trần u nhàn”, Tổ sư Thiền tông gọi là vô ký không, hầm sâu vô minh, đáy thùng sơn đen, đầu sào trăm thước, hang quỉ núi đen; Giáo môn gọi là nguyên phẩm vô minh, căn bản vô minh, bạch tịnh thức… Các kinh Lăng Già, Niết Bàn, và lịch sử Thiền tông như Chỉ Nguyệt Lục, Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, trong đó nói về dụng công phá về vô thỉ vô minh rất nhiều, chưa thể kể hết.

9/ Tham Thiền Lầm Nhận Hầm Sâu Vô Minh Là Phật Tánh Như Thái Cực Đồ Thuyết Của Châu Liêm Khê:

Châu Liêm Khê là Tổ sáng lập lý học của nhà Nho đời Tống, soạn Thái Cực Đồ Thuyết, cho Đạo là trước vô hậu hữu làm căn bản, phối hợp với lý âm dương ngũ hành để thuyết minh thế hệ của vũ trụ vạn vật trở đi trở lại, tuần hoàn hóa sanh mãi. Cái nghĩa “Vô cực thái cực” với học thuyết “Vô danh là bắt đầu của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật” và “Vô vi mà vô bất vi” của Lão Tử đồng một ý chỉ. Nhà Nho vốn chỉ nói Thái cực, hai chữ “Vô cực” là học thuyết của Đạo giáo, Lão Tử Trí Hùng Chương nói: “Trở về nơi vô cực”, Trang Tử Đại Tông Sư Thiên nói: “Yểu đào vô cực”, Khắc Ý Thiên “Đạm nhiên vô cực”, Tại Hựu Thiên “Dạo nơi đồng vô cực”, trong Đạo Tạng có Thái Cực Tiên Thiên Đồ, tác giả là Trần Đồ Nam, người Đạo giáo, ấy là một sản phẩm hỗn hợp với Nho và Đạo. Châu Liêm Khê từng theo học với Thích Thọ Nhai ở Hạc Lâm Tự, được bản Thái Cực Tiên Thiên Đồ, rồi sửa lại theo ý mình để kiến lập thế hệ Lý học.

Theo quan điểm của nhà Phật, vô cực tức là vô thỉ vô minh, thái cực tức là nhất niệm vô minh. Tại sao? Vô cực vốn vô mà sanh ra hữu, nhất niệm đã sanh tức là thái cực, niệm có động tịnh thì phân thành âm dương, âm dương phân thì lưỡng nghi lập, biến hợp mà sanh ngũ hành. Tinh diệu của lưỡng nghi hợp nhau mà có Càn nam, Khôn nữ, nhị khí (âm dương), ngũ hành hóa sanh vạn vật, rồi vạn vật trở về nơi ngũ hành, ngũ hành trở về âm dương, âm dương trở về thái cực, một lên một xuống, trở đi trở lại tức là pháp luân hồi sanh diệt, bắt đầu khởi từ vô minh, cuối cùng cũng trở lại nhập nơi vô minh, giống như Thập Nhị Nhân Duyên của thừa Duyên giác. Theo Thập Nhị Nhân Duyên chỉ nói về tác dụng luân hồi của vô thỉ vô minh với nhất niệm vô minh, nói cách khác tức là tác dụng của bộ não suy nghĩ, chẳng thể thuyết minh tác dụng Phật tánh, Phật tánh siêu việt luân hồi sanh diệt, vô nhân vô duyên, chẳng động chẳng tịnh, bổn lai vô sanh nên vô diệt, bổn lai chẳng hữu nên chẳng vô, sự hữu vô sanh diệt là do tác dụng tương đối của bộ não, chẳng dính dáng với bản thể chơn như.

Thái Cực Đồ Thuyết nói vô cực sanh thái cực, thái cực lại sanh âm dương vạn vật, vì có sanh nên có diệt, có sanh diệt tức là luân hồi, có luân hồi thì chẳng phải tuyệt đối. Nên biết lý vô cực, thái cực là do kiến, văn, giác, tri quán xét hiện tượng biến hóa của vũ trụ mà kiến lập giả thiết, phàm chỗ quán xét có thể đến là quyết định chẳng phải bản thể tuyệt đối. Bản thể chơn như tuyệt đối là “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, chẳng thể dùng suy nghĩ đo lường, cũng chẳng thể dùng ngôn ngữ tỏ bày, chỉ có người trực tiếp chứng nhập mới biết được. Kẻ được chứng nhập thì không còn sanh tử luân hồi, nên gọi là kiến tánh thành Phật, sau khi thành Phật thì chẳng biến lại chúng sanh, chẳng chịu lại luân hồi, mà thái cực thì luân hồi chẳng dừng.

10/ Tham Thiền Nhận Lầm Học Thuyết Của Vương Dương Minh Là Thiền Tông:

Có người cho học thuyết Dương Minh là Phật pháp, thật là lỗi lầm lớn. Học thuyết Dương Minh có bốn lời để làm cương yếu, tức “không thiện không ác là thể của tâm, có thiện có ác là động của ý, biết thiện biết ác là lương tri, làm thiện bỏ ác là cách vật (đủ tư cách làm người)”. Bốn lời này tức là vô thỉ vô minh với tác dụng của nhất niệm vô minh, so với thể dụng của Phật tánh còn xa lắm. Học thuyết Dương Minh chưa thể vượt qua phạm vi vô minh, vẫn còn ở trong luân hồi, cái bệnh ấy là do dùng bộ não suy xét đo lường, bộ não vốn huyễn hóa chẳng thật, chẳng phải thể dụng chơn thật cùng tột.

Chơn như Phật tánh chẳng phải suy nghĩ đo lường có thể đến, chẳng thọ huân nhiễm, chẳng có biến đổi, chỉ có kẻ chứng với kẻ chứng mới biết nhau được. Nhà Phật lấy chơn như Phật tánh làm cội nguồn, mà nhà Nho lấy vô thỉ vô minh làm cội nguồn, vì cội nguồn chẳng đồng nên chẳng thể đến với nhau. Nhiều người chưa rõ sự khác biệt giữa Phật tánh với vô thỉ vô minh, lại lầm nhận vô thỉ vô minh là Phật tánh, nói Nho, Phật cùng nguồn, ấy là một sự lỗi lầm rất lớn. Hoặc cho “chẳng thiện chẳng ác thể của tâm” tức chơn như Phật tánh của nhà Phật, “có thiện có ác động của ý” tức vô minh phiền não của nhà Phật, ấy là sai. “Chẳng thiện chẳng ác thể của tâm” tức vô thỉ vô minh, “có thiện có ác động của ý” tức nhất niệm vô minh, “biết thiện biết ác là lương tri” tức kiến, văn, giác, tri, “làm thiện bỏ ác là cách vật” tức là tác bệnh trong bốn thứ thiện bệnh, đều là linh tánh của bộ não, chẳng dính dáng với Phật tánh.

Vô thỉ vô minh bổn lai ám muội chẳng sáng, vô tri vô giác nên chẳng phân biệt thiện ác, khi bị kích thích sanh khởi nhất niệm vô minh, mới có kiến, văn, giác, tri, phân biệt được thiện, ác, tốt, xấu, người có ý thức đều biết thiện biết ác, “lương tri” của Dương Minh là tác dụng của bộ não, tác dụng của bộ não đều lấy vô minh làm chủ, chẳng phải Phật tánh. Nhất niệm vô minh có hai mặt: tịnh và nhiễm. Thiện là tịnh duyên, ác là nhiễm duyên, chẳng thể cho tịnh duyên là Phật tánh, nhiễm duyên là chúng sanh vậy.

#4 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 02/08/2011 - 10:46

11/ Tham Thiền Nhận Lầm Phục Tánh Thư Của Lý Cao Là Thiền Tông:
Người đề xướng đạo học nhà Nho Hàn Dũ, Lý Cao đời Đường là nổi bật nhất, Phục Tánh Thư của Lý Cao đối với học giả nhà Nho ảnh hưởng lớn hơn. Lý Cao cho “tánh vốn trong sáng, vì bị thất tình mê hoặc mà trở thành hôn trược”, nên chủ trương ức chế tình cảm để khôi phục bản tánh.

Phục Tánh Thư nói: “Con người sở dĩ làm bậc Thánh là do tánh, tánh con người sở dĩ bị mê hoặc là do tình, mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham, bảy thứ đều do tình làm ra, tình đã hôn muội thì tánh, ấy chẳng phải lỗi của tánh. Thất tình thay phiên tuần hoàn thì tánh chẳng toàn vẹn, như nước có cặn bã thì chẳng trong, lửa có khói đen thì sáng chẳng tỏ, ấy chẳng phải lỗi của nước và lửa không trong sáng, cặn bã chẳng có thì nước trong, khói đen chẳng tỏa thì ánh sáng tỏ, thất tình chẳng làm thì tánh tròn vẹn vậy”. Lại nói: “Tánh với tình chẳng lìa nhau, nếu chẳng có tánh thì tình chẳng thể sanh, vậy tình do tánh mà sanh, tình chẳng tự tình, bởi tánh mà tình, tánh chẳng tự là tánh, do tình mà tánh”.

Lý Cao từng tham học với Dược Sơn thiền sư, rất tin Phật pháp, kỳ thật Lý Cao bị lầm hại là do kinh Phật ngụy, bởi câu “Bản tâm Viên Giác trong sạch sáng tỏ (Phật tánh) hay sanh khởi phiền não”, cái thuyết “Chơn như duyên khởi” xuất xứ từ Đại Thừa Khởi Tín Luận là ngoại đạo mạo tên ngài Mã Minh để truyền bá, ấy là pháp sanh diệt, chẳng phải Phật pháp. Tại sao nói vậy? Vì chơn như Phật tánh chẳng thọ huân nhiễm, thường giữ bản tánh, chẳng có biến đổi. Phẩm Hồi Hướng kinh Hoa Nghiêm nói: “Vô minh vốn chẳng thể tánh, như hoa đốm trên không chẳng từ chơn như sanh khởi”, nếu nói vô minh nương chơn như sanh khởi, trừ bỏ vô minh trở về chơn như Phật tánh tức là kiến tánh thành Phật, nói vậy thì ban sơ có thể sanh khởi, tương lai cũng có thể tái khởi, lúc vô minh tái khởi, lại trở thành chúng sanh, lúc thì thành Phật, lúc lại thành chúng sanh, thế thì Phật cũng có luân hồi sanh diệt, thành Phật đâu có giá trị gì?

Thuyết của Lý Cao tình với tánh thông nhau, khi tình chẳng sanh là tánh, là bậc Thánh, đến khi tình sanh, lại là phàm phu, vậy một hồi bậc Thánh một hồi phàm phu, tức là luân hồi sanh diệt. Bởi “Tánh” của Lý Cao nói là vô thỉ vô minh, “tình” là nhất niệm vô minh, chỉ là tác dụng của bộ não. Bộ não khi tịnh là vô thỉ vô minh, bộ não khi động là nhất niệm vô minh, cùng trong một phạm vi, “ức chế tình, khôi phục tánh” là muốn khiến nhất niệm vô minh trở về vô thỉ vô minh, vô thỉ vô minh chính là nguồn gốc của sanh tử, là bản thể của vọng tâm. Nếu vô thỉ vô minh chưa phá tan thì chẳng thể kiến tánh thành Phật, như học thuyết của Lý Cao đâu thể cho là Thiền tông!

12/ Tham Thiền Lầm Nhận Lý “Sâu Xa Mịt Mù, Trong Đó Có Tinh” Của Lão Tử Là Thiền Tông:

Nhiều người cho rằng chơn không diệu hữu, diệu hữu chơn không, tĩnh tĩnh tịch tịch, tịch tịch tĩnh tĩnh, chẳng chấp hữu chẳng chấp vô, cũng chẳng chấp phi hữu, cũng chẳng chấp phi vô, chẳng khởi niệm cũng chẳng dứt niệm, tựa như hữu mà phi hữu, tựa như vô mà phi vô, khởi niệm động niệm chẳng bị ngoại duyên xoay chuyển, cho đó là đạo lý của Thiền tông. Kỳ thật là đạo lý của Lão Tử nói: “Thể của Đạo mập mờ nhấp nhoáng, trong đó có tượng, mập mờ nhấp nhoáng trong đó có vật, sâu xa mịt mù, trong đó có tinh”, còn “chẳng chấp hữu, chẳng chấp vô, chẳng chấp phi hữu, chẳng chấp phi vô” là đạo lý của Bà La Môn, hoàn toàn là tác dụng của bộ não, có sanh diệt luân hồi, chẳng phải phương pháp tham thiền.

13/ Tham Thiền Nhận Lầm Ba Thứ Pháp Môn Dụng Công Của Giáo Môn Là Thiền Tông:

Ba thứ pháp môn của giáo môn tức là Thiền quán Sa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na. Sa ma tha dịch là tịch tịnh, Tam ma bát đề dịch là nhiếp niệm, Thiền na dịch là tịnh lự. Ba thứ thiền quán này ở trong kinh Viên Giác, Phật đã có giải thích rất kỹ càng, dù trong kinh Viên Giác có nói: “Ba pháp môn này mười phương Như lai do đó thành Phật, mười phương Bồ tát đủ thứ phương tiện, tất cả đồng dị, đều nương theo ba thứ sự nghiệp này, nếu được viên chứng tức thành Viên giác”, ấy chỉ là nói cách tu trong phạm vi giáo môn, nên chính trong kinh này có nói “Chỉ trừ người đốn ngộ, và Xiển đề chẳng tin”, nói chỉ trừ người đốn ngộ tức là chỉ trừ Thiền tông đốn ngộ, chẳng phải giáo môn, nên xưng giáo ngoại biệt truyền.

Phương pháp dụng công của Đại thừa tên gọi rất nhiều mà ý nghĩa chẳng khác, nhưng đều chẳng phải Thiền tông. Thiền tông tham thoại đầu, công án, cần nhất là nghi tình (tức là dùng cái tâm không biết để chấm dứt tất cả biết), cho đến hoát nhiên đốn ngộ, dứt hẳn nghi căn, kiến tánh thành Phật. Khi đã minh tâm kiến tánh, nếu có Thiện tri thức mắt sáng thì tìm đến Thiện tri thức ấy ấn chứng, nếu chẳng có người mắt sáng thì lấy Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Chỉ Nguyệt Lục, hoặc các kinh như Lăng Già, Hoa Nghiêm, Duy Ma cật… xem kỹ để làm ấn chứng cũng được.

14/ Dụng Công Lầm Nhận Tam Chỉ Tam Quán Là Thiền Tông:

Vân Cốc Thiền Sư Truyện trong Mộng Du Tập của ngài Hàn Sơn có nói: “Vân Cốc thiền sư 19 tuổi bỗng quyết chí đi tham học bốn phương, nghe nói pháp môn Tiểu chỉ quán của Thiên Thai, bèn chuyên tâm tu tập, khi gặp Pháp Châu Tế thiền sư đang nhập thất tại Thiên Ninh, sư bèn đi tham vấn, trình sở tu của mình, Châu nói: “Pháp yếu của chỉ quán chẳng nương thân tâm hơi thở, trong ngoài đều bặt cách tu của người là lạc nơi hạ thừa, chẳng đúng ý của tổ Đạt Ma, người học nên lấy tâm ngộ làm chủ”. Vân Cốc kích động chảy nước mắt, lại xin chỉ giáo, Châu dạy tham thoại đầu chơn thật, bảo ngay bây giờ hạ thủ công phu phát khởi nghi tình. Vân Cốc vâng lời ngày đêm tham cứu, cho đến ăn ngủ đều quên, một hôm dùng cơm, cơm hết cũng chẳng tự biết, chén bỗng rơi xuống đất, hoát nhiên đốn ngộ như trong mộng được thức tĩnh, lại thưa với Pháp Châu, được Ngài ấn khả “Xem qua nhân duyên ngộ đạo của Vân Cốc thiền sư, có thể làm mô phạm cho chúng ta dụng công tham thiền”.

Có Tăng hỏi Tử Hồ thiền sư: Thế nào là nhất tâm tam quán?
Sư nói: Ta còn chẳng thấy có nhất tâm, ngươi gọi cái gì là tam quán!

Xưa kia có một Pháp sư chỉ quán hỏi Huệ Hải thiền sư: Nhất niệm tam quán là thế nào?
Sư đáp: Tâm quá khứ đã qua, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại chẳng trụ, trong đó dùng tâm nào để khởi quán?
Pháp sư đáp: Thiền sư chẳng hiểu chỉ quán.
Sư nói: Tọa chủ hiểu chăng?
Pháp sư nói: Hiểu.
Sư nói: Như Trí Giả đại sư nói chỉ phá chỉ, nói quán phá quán, trụ chỉ thì chìm nơi sanh tử, trụ quán thì tâm bị rối loạn. Vậy nên lấy tâm chỉ tâm hay là khởi tâm để quán? Nếu có tâm quán là pháp thường kiến, nếu chẳng tâm quán là pháp đoạn kiến, nếu cũng có cũng không thì thành pháp nhị kiến, xin Tọa chủ nói thử xem!
Pháp sư nói: Nếu hỏi như thế thì đều chẳng nói được.
Sư nói: Vậy đâu từng chỉ quán!

15/ Chấp Thật “Phân Biệt Là Thức, Chẳng Phân Biệt Là Trí” Thành Bệnh:

Hám Sơn đại sư nói: “Phân biệt là thức, chẳng phân biệt là trí”, hai câu này hình như mơ hồ, vì thức với trí một là bộ não, một là Phật tánh, lúc chưa chuyển thức thành trí, thì phân biệt tất nhiên là thức, khi đã chuyển thức thành trí thì chẳng phân biệt là trí, phân biệt cũng là trí. Phân biệt hay chẳng phân biệt không thể dùng để phán đoán thánh hay phàm.

16/ Chấp Thật “Nhiễm Với Tịnh” Thành Bệnh:

Nhiễm với tịnh là pháp tương đối, vì có nhiễm mới có tịnh, kinh Lăng Già nói: “Đại Huệ! Sanh diệt là thức, chẳng sanh diệt là trí, lại nữa đọa tướng, vô tướng và hữu vô mỗi mỗi làm nhân với nhau là thức, siêu việt tướng hữu vô là trí. Lại nữa, tướng vô ngại là trí, đủ thứ cảnh giới do tướng ngại trí là thức. Lại nữa, ba việc căn, trần, thức hòa hợp sanh tướng phương tiện là thức, chẳng có việc phương tiện của tướng tự tánh là trí. Lại nữa, đắc tướng là thức, chẳng đắc tướng là trí”.

Theo lời kinh kể trên thì được rõ, vừa nói có tịnh thì phải có nhiễm, đồng như sự sanh diệt, vì có sanh mới nói có diệt, nhiễm tịnh sanh diệt đều là tác dụng của kiến, văn, giác, tri. Có một số người cho “chẳng khởi niệm là tịnh, tức là Phật tánh, khởi niệm là nhiễm, tức là vọng tưởng” thế là sai lầm. Chẳng khởi niệm là tịnh duyên của vô thỉ vô minh, chẳng phải Phật tánh, Phật tánh bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, ấy là tuyệt đối, chẳng dính dáng với nhiễm tịnh. Hám Sơn đại sư nói “nhiễm là thức, tịnh là trí”, ấy là sai lầm. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Tịnh chẳng hình tướng mà lại lập tướng tịnh, nói là công phu, có kiến giải này tự chướng bản tánh, lại bị tịnh trói”.

Tăng hỏi Huệ Trung quốc sư: Tọa thiền khán tịnh là thế nào?
Sư nói: Bất cấu bất tịnh, đâu cần khởi tâm mà khán tướng tịnh!

17/ Chấp Thật “Như Như Bất Động Là Phật Tánh” Thành Bệnh:

Nói “như như bất động” là hình dung để diễn tả chơn như Phật tánh. Ý nói chơn như Phật tánh vốn sẵn sàng, chẳng có thêm bớt, cũng chẳng động tịnh, thêm bớt động tịnh là tác dụng của bộ não, chẳng dính với bản thể chơn như.

Có một số người tu hành, suốt ngày ngồi không như cây khô, miễn cưỡng đè nén suy nghĩ cho dừng lại, giống như nước biển lóng lặng, cho làm như thế tức là như như bất động của Phật tánh, ấy là sai lầm lớn. Suy nghĩ của con người chẳng thể dừng nghỉ mãi mãi, muốn vĩnh viễn dừng nghỉ chỉ có người chết mới làm được. Nếu người sống miễn cưỡng đè nén suy nghĩ, chỉ có thể dừng lại trong vòng mấy mươi phút hoặc mấy tiếng, nhiều nữa là mấy ngày, cuối cùng sẽ có một hôm tái khởi. Nếu cùng trong một ngày khi suy nghĩ dừng là Phật, qua một hồi suy nghĩ khởi dậy lại thành chúng sanh, vậy trong một ngày bỗng thành Phật bỗng thành chúng sanh, mỗi ngày đều ở trong luân hồi, như thế làm Phật có lợi ích gì? Nếu người thật đã minh tâm kiến tánh thì dẫu cho cầm dao ra trận vẫn là như như bất động.

18/ Chấp Thật “Ngũ Uẩn Giai Không” Thành Bệnh:

“Ngũ uẩn giai không” là nói sau khi kiến tánh, ngũ uẩn đều biến thành Phật tánh, đầy khắp hư không, vạn tượng sum la đều là Phật tánh, nên Kinh nói: “sắc chẳng khác với không, không chẳng khác với sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức, đều cũng như thế”.

Một số người tu hành cho là chẳng chấp trước tất cả tướng, chẳng trụ tất cả tướng, đối cảnh vô tâm, tất cả vô ngại gọi là ngũ uẩn giai không, ấy là sai lầm lớn. Chẳng chấp trước tất cả tướng, chẳng trụ tất cả tướng, đối cảnh vô tâm, tất cả vô ngại là mặc kệ cho ngũ uẩn khởi hay diệt, chẳng màng đến nó, nhưng ngũ uẩn vẫn là ngũ uẩn, chưa biến thành Phật tánh, nó vẫn hay làm việc xấu. Nếu ông suốt ngày phải giữ cái niệm “chẳng màng đến nó” không buông, há chẳng tự làm cho tâm mình lao nhọc, đâu thể vô tâm vô ngại mà được ngũ uẩn giai không ư!

19/ Chấp Thật “Chơn Như Duyên Khởi” Thành Bệnh:

Một số người nói: “Chơn như vốn chẳng động, vì chẳng giữ bản tánh, nên nhất niệm bất giác bèn khởi vọng niệm, tạo tội làm phước, luân hồi sanh tử, nếu nhất niệm giác ngộ chơn tâm, trở lại thường giữ gìn chẳng biến đổi thì chẳng bị luân hồi, gọi là thành Phật”. Ấy là kiến giải của ngoại đạo.

Bản thể chơn như vốn viên mãn sẵn sàng, chẳng biến chẳng đổi. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ví như chơn như, thường giữ bản tánh, chẳng có biến đổi”, nếu chơn như mà có biến đổi tức là pháp sanh diệt. Đại Thừa Khởi Tín Luận nói: “Chơn như duyên khởi”, chỉ bốn chữ này có thể phán đoán rằng luận này là do ngoại đạo ngụy tác, gán tên ngài Mã Minh truyền bá. Tại sao? Vì chơn như chẳng có duyên khởi, chẳng bị huân nhiễm, nếu có duyên khởi thì phải có sanh diệt, pháp sanh diệt nhất định chẳng phải Phật pháp vậy.

20/ Chấp Thật “Tánh Là Không, Tâm Là Vọng” Thành Bệnh:

“Tánh là không, tâm là vọng” là nói Phật tánh đầy khắp hư không, chẳng thể dùng bộ não để nhận biết, những gì có thể nhận biết đều là vọng tưởng. Một số người hiểu lầm ý này, cho có tư tưởng đều là vọng tâm, đem vọng tâm dứt sạch thành không, tức là kiến tánh thành Phật. Nếu dạy người như thế này là lọt vào đoạn kiến của ngoại đạo, tội lỗi chẳng phải nhỏ.

21/ Chấp Thật “Đã Sanh Là Vọng, Chưa Sanh Là Tâm” Thành Bệnh:

Có người truyền khẩu quyết Thiền rằng: “Đã sanh là vọng, chưa sanh là tâm”, cho rõ được hai câu này thì được ngộ đạo thành Phật, ấy là lời yêu quái, quyết chẳng thể tin. “Đã sanh” là nhất niệm vô minh, tất nhiên là vọng, “chưa sanh” là vô thỉ vô minh, cũng chưa lìa vọng, đều chẳng phải chơn tâm.

22/ Chấp Thật “Chuyển Thức Thành Trí” Thành Bệnh:

Người tu Pháp môn Duy Thức, điều cần nhất là tìm ra chủng tử vô thỉ vô minh đã tiềm ẩn nơi A lại da thức (tức Bạch tịnh thức) đập cho tan nát thì Bát thức được Bát giải thoát, Tam tánh biến thành Tam vô tánh, Bát thức biến thành Tứ trí, sau khi chuyển thức thành trí, chẳng trở lại làm thức.

Khi chưa chuyển thức thành trí thì bị A lại da làm chủ, khi đã chuyển thức thành trí thì chơn như Phật tánh làm chủ, chơn như Phật tánh chẳng biến đổi, nên thành Phật rồi chẳng trở lại làm chúng sanh, chẳng bị luân hồi. Một số người tu hành lầm nhận cho một niệm mê là thức, một niệm ngộ là trí, chuyển thức thành trí là đem cái niệm mê chuyển thành cái niệm ngộ, ấy là sai lầm lớn, cái tâm niệm biến đổi chẳng định, nếu suốt ngày bỗng mê bỗng ngộ, bỗng trí bỗng thức, có lúc là Phật, có lúc lại là chúng sanh, vậy thành Phật có giá trị gì?

23/ Chấp Thật “Tựa Hữu Phi Hữu, Tựa Không Phi Không” Thành Bệnh:

Có một số người buông bỏ vạn duyên tĩnh tọa quán tâm, quán đến cảnh giới “tựa hữu phi hữu, tựa không phi không”, như thế cho là chẳng lọt nhị biên, chẳng trụ hữu vô, là cảnh giới Phật tánh, ấy là sai lầm lớn. “Tựa hữu phi hữu, tựa không phi không” là tác dụng của bộ não, chẳng phải Phật tánh, bản thể Phật tánh dùng bộ não suy lường thì chẳng thể đến. Lục Tổ nói: “Dẫu cho tận sức đo lường lại càng xa xôi”, người tu hành chớ nên dùng bộ não để do lường Phật tánh, chỉ có thể dùng bộ não tìm ra vô thỉ vô minh, rồi một búa đập nát thì Phật tánh tự nhiên hiển hiện.

24/ Chấp Thật “Chẳng Cầu Chơn, Chẳng Dứt Vọng” Thành Bệnh:

Chứng Đạo Ca nói” “Chẳng cầu chơn, chẳng dứt vọng, liễu tri hai pháp vốn chẳng tướng”. Một số người tu hành cho là chẳng cầu chơn tâm cũng chẳng dứt vọng niệm, chơn vọng mặc nó tức là công phu đến mức, ấy là sai lầm lớn. “Chẳng cầu chơn” là nói Phật tánh chẳng thể cưỡng cầu, chơn với vọng là tương đối, vì có vọng mới nói có chơn, bản thể Phật tánh vốn chẳng chơn vọng, nên chơn chẳng thể cầu, vọng cũng chẳng cần dứt, hai tướng chơn vọng vốn không. Nếu cho niệm vọng niệm đều chẳng màng đến, ấy là lọt vào bệnh nhậm (bệnh mắc kệ), càng mặc kệ thì càng hồ đồ, dụng công như thế này giống như nấu cát làm cơm, đâu thể thành tựu!

25/ Chấp Thật “Trung Đạo” Thành Bệnh:

Một số người cho “niệm trước đã diệt, niệm sau chưa khởi, giữa niệm trước với niệm sau tức là trung đạo”, lại nói “Chẳng lập nhị biên, chẳng chấp hữu vô tức là Trung đạo” ấy là sai lầm lớn. Niệm trước đã diệt, niệm sau chưa khởi, giữa niệm trước và niệm sau là Vô ký không, chẳng lọt nhị biên, chẳng chấp hữu vô là bệnh mặc kệ, đều là tác dụng của bộ não, chẳng phải Trung đạo. Trung đạo là chơn như Phật tánh. Kinh Niết Bàn nói: “Trung đạo gọi là Phật tánh, do nghĩa này Phật tánh luôn luôn chẳng biến đổi, nếu có đắc Đệ nhất nghĩa không, thì chẳng hành Trung đạo”. Lục Tổ nói: “Hai chữ Phật tánh là ở nơi phàm phu mà chẳng bớt, ở nơi Thánh hiền mà chẳng thêm, trụ nơi phiền não mà chẳng loạn, ngay nơi thiền định mà chẳng tịch, chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng khứ, chẳng lai, chẳng ở khoản giữa và bên trong bên ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như thường trụ chẳng dời, ấy là Đạo”.

26/ Chấp Thật Lời Thí Dụ “Nước Với Sóng” Thành Bệnh:

Đại Thừa Khởi Tín Luận lấy nước dụ cho chơn như, lấy sóng dụ cho sanh diệt, ấy là sai lầm. Chơn như là bản thể của Phật tánh, sanh diệt là các dụng vọng tưởng của bộ não, hai thứ chẳng dính dáng với nhau, chơn như là như như bất động, chẳng có biến đổi, chẳng khởi vọng niệm, nếu chơn như hay khởi vọng niệm sanh diệt như nước nổi làn sóng thì chơn như cũng có sanh diệt luân hồi, chẳng phải bản thể cùng tột của Phật tánh. Kinh Lăng Già dùng nước biển dụ cho thức thứ tám, làn sóng dụ cho thức thứ bảy mới đúng với chánh lý, nên nói Đại Thừa Khởi Tín Luận là tác phẩm của ngoại đạo.

Ngài Khuê Phong lấy băng nước dụ cho vọng tâm với Phật tánh là xuất phát từ Khởi Tín Luận cũng là sai lầm. Nói vọng niệm khởi như nước đóng thành băng, vọng niệm diệt như băng tan thành nước, ấy là sai lầm, trong Phật tánh vốn chẳng vọng niệm, cũng chẳng khởi vọng niệm, nói nước đóng thành băng, băng tan thành nước, đóng tan bất thường là pháp sanh diệt, chơn như Phật tánh thì chẳng sanh diệt, nên chữ nước chỉ có thể dụ cho linh tánh kiến, văn, giác, tri, chứ chẳng thể dụ cho Phật tánh.

27/ Chấp Thật “Tâm Với Pháp Đều Quên Là Phá Ngã Chấp Và Pháp Chấp” Thành Bệnh:

Một số người cho “Tâm với pháp đều quên thì ngã chấp, pháp chấp đã bị phá tức là Phật tánh”, ấy là sai lầm. Tâm cùng Pháp đều quên là vô ký không; ngã chấp, pháp chấp đã phá là lọt vào Không chấp, tức là hầm sâu vô minh, đáy thùng sơn đen, chẳng phải Phật tánh, phải phá luôn Không chấp rồi mới thấy được Phật tánh. Phật tánh là chơn tri giác (Bản tri bản giác), tâm pháp đều quên là cảnh giới say sưa của bộ não, hai thứ khác nhau.

28/ Chấp Thật “Hung Trung Bất Lưu Nguyên Tự Cước” Thành Bệnh:

Người xưa nói “Hung trung bất lưu nguyên tự cước (ở trong lòng chẳng còn bước chân đầu tiên) tức ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, ý nói một chữ chẳng còn, kỳ thật chơn như Phật tánh chẳng phải suy nghĩ văn tự có thể đến, phàm còn suy nghĩ văn tự đều là kiến, văn, giác, tri, chẳng thể kiến tánh.

Người ta thường hiểu lầm “hung trung bất lưu nguyên tự cước” là khán một niệm đầu tiên từ đâu sanh khởi, diệt một niệm này chẳng còn dấu tích tức gọi là “hung trung bất lưu nguyên tự cước”, ấy là hiểu lầm. Kỳ thật “một niệm chẳng còn” là lạc nơi vô thỉ vô minh, vì niệm khởi niệm diệt đều là tác dụng của bộ não, chẳng dính dáng với Phật tánh, nếu quả thật ngộ đạo, đã minh tâm kiến tánh thì niệm khởi niệm diệt đều là Phật tánh, nên gọi là “niệm đồng vô niệm”, đâu cần dứt nó mà nói một niệm chẳng còn!

29/ Chấp Thật “Lìa Vọng Duyên Tức Như Như Phật” Thành Bệnh:

Ngài Bá Trượng nói: “Hễ lìa vọng duyên, tức như như Phật”, ý nói bản thể chơn như chẳng thọ huân nhiễm, chẳng chỗ phan duyên, tự tánh như như, chẳng có chơn vọng, nên vọng duyên chẳng lìa mà tự lìa. Nay người ta hiểu lầm cho là hễ lìa vọng duyên tức là ngộ đạo, lý này chẳng đúng, vọng duyên, chơn duyên đều là tác dụng của bộ não, nếu còn bộ não thì vọng duyên chẳng thể lìa. Thật ra vọng duyên của bộ não với chơn như Phật tánh vốn chẳng dính dáng, người ngộ thì chẳng lìa tự lìa, kẻ chưa ngộ dù lìa cũng chẳng thể lìa, biết như thế thì mới có thể xem Ngữ lục của Tổ sư.

30/ Lầm Nhận “Chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn” Thành Bệnh:

Có người nói “Chứng vô sanh pháp nhẫn chẳng phải kiến tánh, cần phải tu nữa mới được thành Phật”, ấy là sai lầm. Kỳ thật chứng Vô sanh pháp nhẫn tức là thấy Phật tánh, chứng là chứng ngộ, vô sanh là chẳng sanh chẳng diệt, nhẫn là muôn đức viên mãn, nói cách khác tức là chứng ngộ Phật tánh chẳng sanh chẳng diệt, là cảnh giới viên mãn. Kinh Lăng Già nói “Chứng vô sanh pháp nhẫn rồi thì được ý sanh thân” có thể làm chứng vậy.

31/ Lầm Nhận “Vô Tự Giáp Lý” Thành Bệnh:

Tổ sư ngày xưa thường khuyên người chớ trụ nơi “vô tự giáp lý” (trống rỗng chẳng có vật gì), “vô tự giáp lý” tức biệt danh của hầm sâu vô minh, đáy thùng sơn đen, là cảnh giới vô thỉ vô minh, trống rỗng chẳng có gì cả. Cảnh này rất kiên cố khó phá, nên gọi là vô tự giáp (giáp nghĩa là thiết giáp của chữ vô). Người tu hành đến cảnh giới vô thỉ vô minh, chớ nên sợ khó mà lui sụt, cần phải nỗ lực xung phong, xung phá vô tự giáp, liền được kiến tánh thành Phật.

32/ Chấp Thật “Vạn Pháp Duy Tâm, Ngoài Tâm Chẳng Pháp” Thành Bệnh:

Phật với pháp chẳng đồng, Phật là tuyệt đối, chơn như; pháp là tương đối, vọng tưởng, phàm tất cả đều là vô minh vọng tâm sở tạo, nên nói vạn pháp duy tâm, ngoài tâm chẳng pháp. Nói duy tâm là duy một vọng tâm tạo ra, nên điều thứ mười sáu trong mười tám pháp Bất cộng nói “Chẳng có sự đã biết mà không bỏ”, vạn pháp đã biết phải bỏ liền, vì đó là vọng tâm, vọng tâm biến đổi vô thường, nên pháp cũng vô thường, gọi là nhân duyên, cũng gọi là phương tiện.

Phật thuyết pháp dụ như chiếc bè qua sông, đến bờ thì phải bỏ bè, vì pháp ấy là vọng, biết pháp vọng mà vẫn còn thuyết là muốn dùng vọng trừ vọng, dùng huyễn phá huyễn, chẳng thuyết thì chẳng thể độ chúng sanh, chẳng bỏ thì phải bị pháp trói, chẳng thể thành Phật. Nên nói “Chẳng có một chút pháp để đắc được”, lại nói “Ta thuyết pháp 49 năm chưa từng thuyết một chữ”. Vì lời nói văn tự với bản thể chơn như vốn chẳng dính dáng, bản thể chơn như vốn chẳng tên gọi mà gượng gán tên là Phật, chữ Phật nên bỏ, vì đó là giả danh, bản tánh của Phật chẳng bỏ, vì đó là chơn thể, đã được cái chơn thì chữ Phật là dư, nên ngài Triệu Châu nói: “Một chữ Phật, ta chẳng muốn nghe; Lão Tăng niệm Phật một tiếng, súc miệng ba ngày”. Mã Tổ nói: “Phi tâm phi Phật, chữ Phật còn bỏ, huống chi là pháp!”

Phật và pháp đều phá, tương đối đã tẩy sạch thì nhất chơn nhất thiết chơn, Phật cũng chơn, pháp cũng chơn, tất cả đều là Phật tánh, đều là chơn tâm, lúc bấy giờ nói “Vạn háp duy tâm, ngoài tâm chẳng pháp” thì đúng. Đồng một chữ tâm, xưa vọng nay chơn; cùng một lời nói, trước sai sau đúng, chữ thì mỗi mỗi đồng nhau mà ý nghĩa thì hoàn toàn khác hẳn, nên Phật pháp rất khó hiểu là vậy, xin người học hãy cẩn thận.

#5 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 02/08/2011 - 20:49

33/ Lầm Nhận “Ngồi Nhập Định Như Cây Khô” Thành Bệnh:
Nói “nhập định” là pháp dụng công của người Tiểu thừa, ngồi lâu như cây khô để đoạn dứt suy nghĩ của lục căn, dụng công của Đại thừa chẳng trụ tâm, chẳng khán tịnh, chẳng trầm không, chẳng nhập định. Nay thường có một số người xuất gia hoặc tại gia, ngồi không như cây khô, mười hôm, tám hôm chẳng ăn cơm, giống như ông Địa, gọi là nhập định, cho dụng công như thế thì được thành Phật, ấy là sai lầm lớn.

Xưa kia Trí Hoàng thiền sư ngồi mãi trong am 20 năm, Huyền Sách thiền sư đến am hỏi: Ông ở đây làm gì?
Hoàng nói: Nhập định.
Sách nói: Ông nói nhập định là có tâm nhập hay vô tâm nhập? Nếu vô tâm nhập thì tất cả vô tình, cây cối, ngói đá đều được đắc định; nếu có tâm nhập thì tất cả chúng sanh hữu tình cũng phải đắc định.
Hoàng nói: Khi tôi đang nhập định chẳng thấy có tâm hữu hay vô.
Sách nói: Chẳng có tâm hữu hay vô tức là thường định, đâu có xuất nhập? Nếu có xuất nhập thì chẳng phải đại định.
Hoàng chẳng thể trả lời, giây lâu nói: Sư nối pháp ai?
Sách nói: Thầy tôi là Tào Khê Lục Tổ đại sư.
Hoàng hỏi: Lục Tổ lấy gì làm thiền định?
Sách nói: Thầy tôi nói “Diệu trạm viên tịch, thể dụng như như, ngũ uẩn vốn không, lục trần phi hữu, chẳng xuất chẳng nhập, chẳng định chẳng loạn, tánh thiền vô trụ, lìa trụ nơi thiền định, tánh thiền vô sanh, lìa sanh có thiền tưởng. Tâm như hư không, cũng chẳng có số lượng của hư không”.
Bởi sau khi kiến tánh, tự tánh như như bất động, đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, tất cả đều ở trong định mới là đại định.

Hoài Nhượng thiền sư ghi trong Truyền Đăng Lục rằng:
Có Sa môn Đạo Nhất ở viện Truyền Pháp suốt ngày tọa thiền, Sư (Hoài Nhượng) đến hỏi: Đại đức tọa thiền muốn làm gì?
Nhất nói: Muốn làm Phật.
Sư lấy cục gạch mài trước cửa am.
Nhất hỏi: Mài gạch làm gì?
Sư nói: Mài gạch làm gương.
Nhất nói: Mài gạch đâu thể làm gương!
Sư nói: Mài gạch chẳng thể làm gương thì tọa thiền đâu thể thành Phật!
Nhất nói: Vậy phải làm thế nào?
Sư nói: Như bò kéo xe chẳng chịu đi, đánh xe phải hay đánh bò phải?
Nhất không đáp được.
Sư nói: Ông học ngồi thiền hay học làm Phật? Nếu học ngồi thiền thì thiền chẳng phải ngồi, nằm; nếu học làm Phật thì Phật chẳng có tướng nhất định, nơi pháp vô trụ, chẳng nên thủ xả. Ông nếu ngồi Phật tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi thì chẳng đạt lý đạo.
Nhất nghe sư dạy bảo như uống nước đề hồ.

Ngài Lâm Tế nói: “Ta nói bên ngoài chẳng có pháp, người học chẳng hội, lại hiểu lầm cho là bên trong, liền hướng vách ngồi không, lưỡi để hàm trên, trạm nhiên chẳng động, cho đó là Phật pháp của chư Tổ, rất là sai lầm”.

Một số người lầm nhận tham thiền phải lúc tĩnh tọa mới tham, ấy là sai lầm. Tham thiền chẳng phân biệt đi, đứng, nằm, ngồi. Mã Tổ nói: “Tham thiền chẳng chấp ngồi, chấp ngồi tức bị dính mắc”. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Kẻ mê kẹt nơi pháp tướng, chấp Nhất hạnh Tam muội, cứ nói thường ngồi chẳng động, vọng tâm chẳng khởi tức là Nhất hạnh Tam muội, hiểu như thế này tức đồng như vô tình, lại thành nhân duyên chướng đạo”.

34/ Chấp “Bất Đảo Đơn” Thành Bệnh:

Trong Tùng lâm có một số hành giả ngồi mãi chẳng nằm, gọi là bất đảo đơn. Dù nói bất đảo đơn, lại ngồi có ngủ gục, cho đó là công phu nổi bật, sai lầm biết bao!

Theo giới luật của Phật, Tỳ kheo tu hành bốn việc đầy đủ là: quần áo, ăn uống, ngọa cụ, y dược, vậy chứng tỏ Phật chẳng dạy người bất đảo đơn. Nếu ngồi không ngủ gục, sao chẳng nằm xuống ngủ một giấc ngon, cho tinh thần đầy đủ rồi công phu lại! Có người chê cười kẻ bất đảo đơn là nhập định bí đao, chưa nhập định đã biến thành bí đao, dù thành Phật có ích lợi gì!

Ngài Lâm Tế nói: “Dẫu cho ở cô độc trên đỉnh núi, ngày ăn một bữa, ngồi mãi chẳng nằm, suốt ngày hành đạo, đều là người tạo nghiệp, cho đến đem đầu, mắt, tủy, não, gia tài, vợ con, voi, ngựa, thất bửu thảy đều bố thí, có kiến giải như thế đều là tự làm khổ cho thân tâm, lại tự chiêu cảm quả khổ, chẳng bằng người vô sự chẳng làm việc gì, thuần nhất chẳng nhiễm, như Thập Địa Mãn Tâm Bồ tát đều cầu đạo này, tìm dấu tích trọn bất khả đắc, cho nên chư Thiên hoan hỷ, Địa Thần ôm chân, mười phương chư Phật cùng nhau tán thán. Tại sao như thế? Vì đạo nhơn này chỗ dùng chẳng dấu tích”.

Phật Nhãn thiền sư nói: Gần đây có người chỉ ham ngồi, ban sơ thì tĩnh bơ, ngồi lâu thì ngủ gục, mười người có chín người ngồi ngủ gục, luôn luôn chẳng chịu hạ thủ công phu tham cứu, đạo này đâu thể trong ngồi ngủ mà ngộ được! Những người như thế làm sao hội được. Đơn Hà dựng phất trần, Bàng cư sĩ giơ cây búa, Đơn Hà quăng phất trần, cư sĩ buông cây búa xuống! Lại nói: “Công án hôm qua như thế nào? Đơn Hà nằm xuống, cư sĩ liền ra đi, việc này chẳng phải người tri âm chơn thật, đâu thể cho ông chú giải bậy bạ được!”

Lại ngài Nham Đầu nói: “Bậc Sa môn tất cả đều nên mỗi mỗi từ trong lòng mình lưu xuất, che thiên ngập địa mới được, đâu thể do tĩnh tọa suy nghĩ mà được đâu!” Tiên sư (Pháp Diễn thiền sư) nói: “Lúc ngủ lúc ngủ tham cứu, lúc ăn cơm lúc ăn cơm tham cứu”. Lại người xưa nói: “Lúc ngồi có đạo lý lúc ngồi, lúc đứng có đạo lý lúc đứng”, há chẳng thấy Đầu Tử hỏi Thúy Vi rằng: Mật chỉ từ Ấn đến, có thể cho nghe chăng?
Thúy vi đứng đó ngó nhìn, Đầu Tử nói: Đem mai nói nữa, xin sư tái chỉ.
Thúy Vi nói: Còn muốn thêm gáo nước độc thứ hai chi nữa!
Đầu Tử liền ngộ.
Thế thì các ngươi chẳng được thọ dụng là tại ngày đêm ngồi không, bỏ qua việc tốt biết bao!

35/ Tham Thiền Lầm Nhận “Chăn Trâu” Là Dụng Công:

“Chăn trâu” là sau khi đã kiến tánh dùng để tẩy trừ tập khí, điều chỉnh tánh tình, chẳng phải là tu hành. Bởi khi đã kiến tánh, nhất ngộ vĩnh ngộ, chẳng cần tu nữa, nhưng vẫn còn tập khí chưa dứt sạch, nên cần phải điều chỉnh lại. Qui Sơn hòa thượng nói: “Các ngươi nếu đã hoát nhiên thông suốt thì tu với chẳng tu là lời hai đầu, chỉ cần trừ bỏ tập khí gọi là tu”.

Xưa kia trong hội Qui Sơn có Đại An thiền sư nói: “Ta ở Qui Sơn 30 năm, ăn cơm Qui Sơn, ỉa cứt Qui Sơn, mà chẳng học thiền Qui Sơn, chỉ chăn một con trâu, nếu lạc đường vào đám cỏ liền kéo ra, nếu phạm lúa mạ của người liền lấy roi điều phục, như thế lâu ngày, nay biến thành con lộ địa bạch ngưu (Chơn như Phật tánh), thường ở trước mắt, suốt ngày luôn luôn hiển lộ rõ ràng (Phật tánh hiện hành), đuổi cũng chẳng đi”. Phổ Minh Thiền Sư Mục Ngưu Đồ, lấy vọng niệm dụ con trâu, Phật tánh dụ cho người chăn trâu, vọng niệm khởi như con trâu chạy bậy, đem vọng niệm sửa thành chánh niệm, như cỡi trâu về nhà, nói trở về bản nguyên, ấy là sai lầm. Con trâu dụ cho vọng niệm thì không sai, người chăn trâu dụ cho Phật tánh thì sai, người chăn trâu nên dụ cho kiến, văn, giác, tri, chẳng phải Phật tánh, Phật tánh chẳng khởi vọng niệm.

36/ Tham Thiền Lầm Nhận Tệ Đoan Của Thiền Là Dụng Công:

Cổ Đức có luận về tệ đoan của thiền rằng: “Từ đời Tống đến nay, tệ đoan của thiền đặc biệt nhiều, nay thử đề ra có loại gọi là xướng họa tọa thiền, công án tọa thiền, niệm Phật tọa thiền, ông địa tọa thiền, điều phục tọa thiền…”

Nói xướng họa tọa thiền là: người thầy lấy một câu thoại đầu truyền thọ cho người học, người học vừa ngồi vừa xướng, ví như truyền cho một chữ vô của Triệu Châu, thì tất cả chúng người học cũng xướng lên “vô, vô, vô, vô, vô…”, giống con tú hú kêu mưa vậy. Nếu truyền cho núi tu di của Vân Môn, thì bọn chúng cùng nhau xướng lên “núi tu di, núi tu di…”, giống như con ve kêu. Nếu như thế được khai ngộ thì con tu hú với con ve cũng được khai ngộ.

Còn công án tọa thiền thì người thầy truyền cho một công án, bảo người học làm công phu, làm rồi lại đến trình thầy, thuật lại cảnh giới của mình thấy, nếu hợp với ý thầy thì được ấn khả chứng minh, rồi truyền cho một công án khác. Từ công án này qua công án kia, gọi là “Thấu công án”, ngoài ra còn bày đặt việc kỳ dị, dùng lời nói tỏ vẻ quái lạ, như trong mộng nói mơ, chẳng biết hổ thẹn, cũng như con khỉ vượn chụp trăng nước. Nếu làm như thế mà đắc đạo thì con khỉ vượn cũng đắc đạo.

Còn niệm Phật tọa thiền thì người thầy xưa nay thật chẳng tham thiền, lại chưa hiểu Phật pháp, nhờ có phước si được làm trụ trì; hoặc thầy có theo qui tắc ngồi thiền mà chưa dạy bảo người học một việc gì, chỉ thỉnh Di Đà, Quan Âm, Văn Thù, Di Lặc, chư Phật, chư Bồ tát để làm bản tôn, ngồi im niệm danh hiệu hoặc niệm chú nói nhờ tha lực, kiếp này ngộ đạo, kiếp sau sanh Tịnh độ, tự lầm và dạy người, chùm đầu mà ngồi, giống như con sứa nhờ mắt tôm để tìm món ăn. Nếu làm như thế mà được ngộ thì người đá, người gỗ, ông Địa cũng phải đại ngộ.

Còn nói điều phục tọa thiền, ví như ngựa rừng gắn yên; rắn rừng vào ống tre, chỉ biết giữ theo lời dạy của thầy, dùng công phu tọa thiền để hàng phục phiền não vọng tưởng. Nếu làm như thế mà khai ngộ thì ngựa rừng, rắn rừng cũng phải khai ngộ.

Những tệ đoan của loại thiền này hiện nay vẫn còn giữ trong tùng lâm, như niệm thoại đầu, đả ngạ thất (ngồi luôn bày ngày đêm nhịn đói), bất đảo đơn… Thậm chí có người đặt ra thần thoại, nói là mười ngày, tám ngày chẳng ăn, thì được nhìn thấu qua vách tường mà thấy sự vật bên ngoài thấy thần thấy ma… Sự bày đặt ma quái ngày càng tăng thêm để làm hại cho người học.

37/ Lầm Nhận “Một Đường Hướng Thượng, Ngàn Thánh Chẳng Truyền” Là Pháp Môn Để Dụng Công:

Người xưa nói: “Một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng truyền”, ý là phàm nói được, truyền được thì chẳng phải chơn như, chơn như Phật tánh phải tự chứng lấy, chẳng thể nói cho người. Nay người ta hiểu lầm rằng pháp tham thiền chẳng thể truyền thọ, chỉ có thể tự mình đi tìm tòi, ấy là sai lầm lớn. Phật tánh dù chẳng thể ngôn truyền, nhưng pháp dụng công tham thiền thì do ngàn Thánh sở truyền, Phật Phật tự tay thân thọ nhau. Thế Tôn thuyết pháp 49 năm, hoặc quyền hoặc thật, hoặc đốn hoặc tiệm, đời đời kế thừa nhau, Thánh Thánh nối tiếp nhau, Tổ sư hét, gậy, chửi mắng, dựng phất trần, giơ cây chỉa đều là thân thiết bảo cho người, nhưng phải xem người ấy có thể thừa đương hay không, chớ đâu phải chẳng truyền!

38/ Lầm Nhận “Dẫu Cho Biển Xanh Biến Thành Ruộng Dâu Cũng Chẳng Vì Ông Nói Trắng Ra” Là Pháp Môn Dụng Công:

Người xưa nói: “Dẫu cho biển xanh biến thành ruộng dâu cũng chẳng vì ông nói trắng ra”, ý nói Phật tánh chơn như chỉ có thể tự chứng ngộ, chẳng thể dùng ngôn ngữ nói cho người biết.

Xưa khi khi Hương Nghiêm chưa ngộ, cứ xin Qui Sơn nói trắng ra, Qui Sơn nói: “Ta nói là của ta, chẳng dính dáng với ngươi”, sau ở Nam Dương đang cuốc đất quăng miếng ngói trúng nhầm cây tre phát ra tiếng, mới phát minh Tâm địa. Còn Phái Nguyên Phù thượng tọa giảng kinh Niết Bàn, tỏ bày diệu lý của Pháp thân, có thiền khách nghe xong nói: “Ông dù giảng hay, nhưng thật thì chẳng biết”. Bèn ngưng giảng, tham cứu, nửa đêm nghe tiếng trống mới ngộ Pháp thân. Người đời nay hiểu lầm ý chỉ rằng “Dẫu cho biển xanh biến thành ruộng dâu, cũng chẳng vì ông nói trắng ra” là sự bí mật truyền thọ của tông môn, chẳng thể dạy người, ấy là sai lầm lớn. Há chẳng nghe Lục Tổ nói: “Ngươi nếu phản chiếu, mật ở bên ngươi” sao!

39/ Hiểu Lầm “Tâm Tịnh Thì Độ Tự Tịnh” Thành Bệnh:

“Tâm tịnh thì độ tự tịnh” là nói sau khi minh tâm kiến tánh, tất cả đều biến thành Phật tánh, trong Phật tánh chẳng cấu chẳng tịnh, nên uế độ tức là Tịnh độ. Người đời nay hiểu lầm ý này, nói đem ác niệm sửa lại thành thiện niệm, đem nhiễm duyên biến thành tịnh duyên, trong tâm trong sạch tự nhiên thế giới trong sạch gọi là tâm tịnh thì độ tự tịnh, ấy là sai lầm lớn.

Tâm niệm biến đổi vô thường, khởi diệt chẳng định, nếu trong tâm trong sạch một hồi thì là Tịnh độ, vọng niệm sanh khởi một hồi lại biến thành uế độ, như thế sáng tịnh, chiều uế, ngày thiện đêm ác, thay phiên tuần hoàn khi nào mới hết? Kỳ thật tâm tịnh tâm nhiễm là tác dụng của bộ não, chẳng liên quan đến Tịnh độ, nếu là Tịnh độ chơn chánh thì chẳng biến chẳng đổi, chẳng cấu chẳng tịnh, tức Thường Tịch Quang Tịnh Độ, cũng là Pháp thân của chư Phật. Nếu được đốn ngộ chơn như ngay đó liền sanh Thường Tịch Quang Tịnh Độ, với chư Phật cùng một Pháp thân thì vĩnh viễn siêu thoát sanh tử luân hồi, khi ấy tìm tâm tìm độ bất khả đắc, còn gì để nói tịnh hay uế ư!

40/ Lầm Nhận “Chẳng Sợ Vọng Khởi, Chỉ E Giác Chậm” Là Pháp Dụng Công:

Có người thường cho “Chẳng sợ vọng khởi, chỉ e giác chậm” là phương pháp tu hành, ấy là sai lầm. Nếu khởi giác niệm để phá vọng niệm thì giác đồng như vọng, cũng là nhất niệm vô minh. Huỳnh Bá thiền sư nói: “Nay khi ngươi giác biết vọng khởi, giác chính là Phật, nếu vốn chẳng vọng niệm thì cũng chẳng có. Tại sao? Vì ngươi khởi tâm chấp Phật mới nói có Phật tánh để thành, chấp chúng sanh mới nói có chúng sanh để độ, phàm khởi tâm động niệm đều là chỗ kiến chấp của ngươi, nếu không có tất cả kiến chấp thì Phật đâu có xứ sở! Cũng như Văn Thù vừa khởi kiến chấp có Phật liền bị đày nơi núi Nhị Thiết vi, cho nên nói “Chẳng sợ vọng khởi, chỉ e giác chậm!” Bổn lai chẳng vọng, nói chi là giác? Nếu lấy giác bỏ vọng, giác cũng thành vọng.

Kinh Viên Giác nói: “Tất cả thế giới, thủy, chung, sanh, diệt, trước, sau, có, không, tụ, tán, khởi, dừng, niệm niệm tương tục, tuần hoàn xoay chuyển, đủ thứ thủ xả đều là luân hồi, nếu chưa ra khỏi luân hồi mà phân biệt Viên giác, thì tánh Viên giác kia cũng đồng như luân hồi, vậy muốn khỏi bị luân hồi thì chẳng có chỗ đúng”.

41/ Lầm Nhận “Gót Chân Chấm Đất” Là Pháp Dụng Công:

“Gót chân chấm đất” là lời nói sau khi đã ngộ, người đã minh tâm kiến tánh, siêu xuất sanh tử luân hồi, đạt đến bản thể tuyệt đối thì việc lớn đã xong, gọi là gót chân chấm đất. Nay có người hiểu lầm ý này, cho là làm một ông Tăng chơn thật, siêng năng tu hành, bước chân vững vàng tức gót chân chấm đất ấy là sai.

42/ Dụng Công Lầm Nhận “Vô Tâm Là Đạo”:

Huỳnh Bá thiền sư nói: “Tức tâm là Phật, vô tâm là đạo”, Tổ sư nói: “Phật thuyết tất cả pháp, vì trừ tất cả tâm, ta chẳng tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp”, đây là lời sau khi đã ngộ, ý nói Phật phương tiện thuyết pháp độ người tam thừa, người thượng thượng căn tự minh tâm địa, tự thấy bản tánh thì đâu cần tất cả pháp. Ý chỉ đồng với kinh Kim Cang nói: “Biết ta thuyết pháp ví như chiếc bè qua sông, đến bờ thì phải bỏ bè, vậy pháp còn phải bỏ, huống là phi pháp!” với kinh Viên Giác nói: “Tất cả chúng sanh tu tập tâm này nếu được thành tựu, mới biết ngay đó chẳng tu cũng chẳng thành tựu”. “Ngay nơi chứng ngộ chẳng năng chẳng sở, rốt cuộc chẳng chứng, cũng chẳng kẻ chứng” chính là đồng nhau. Mà người đời sau hiểu lầm ý này, cho là đem vọng tâm dừng nghĩ tư tưởng dứt sạch tức là vô tâm, tức là ngộ đạo, ấy là sai lầm lớn. Vọng tâm là nhất niệm vô minh, nhất niệm vô minh dừng nghỉ tức là cảnh giới đen tối của vô thỉ vô minh, cảnh giới này chưa phá tan thì chưa thể thấy Phật tánh, chẳng phải ngộ đạo. Nên người xưa nói: “Chớ cho vô tâm tức là đạo, vô tâm còn cách núi muôn trùng”, chính là chỉ ngay thứ hiểu lầm này.

43/ Dụng Công Lầm Nhận “Bình Thường Tâm Là Đạo”:

Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: Thế nào là đạo?
Tuyền nói: Bình thường tâm là đạo.
Châu nói: Có xu hướng chăng?
Tuyền nói: Tính hướng thì sai.
Châu nói: Chẳng tính sao biết là đạo?
Tuyền nói: Đạo chẳng thuộc biết, chẳng thuộc không biết; biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu chơn đạt đến cái đạo “chẳng tính” thì giống như không, mênh mông trống rỗng, đâu có thể cưỡng cho là đúng sai ư!
Châu ngay đó đại ngộ.

Lời “Bình thường tâm là đạo” của Nam Tuyền, ý nói sau khi kiến tánh, khởi niệm động niệm đều là Phật tánh, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, cuộc sống hằng ngày đều là chơn như, ấy là cảnh giới sau khi chứng ngộ. Nay người ta hiểu lầm câu “Bình thường tâm là đạo” tức là bình bình thường thường để qua ngày, bình bình thường thường làm một người tốt, chẳng làm thiện, chẳng tạo tác, mặc kệ tùy duyên uổng qua một đời tức là ngộ đạo, như vậy khác chi người lời biếng, ăn no suốt ngày chẳng làm việc gì! Thật đáng thương xót!

44/ Dụng Công Lầm Nhận “Trực Tâm Là Đạo Tràng”:

Kinh Duy Ma cật nói: “Trực tâm là đạo tràng”, ý nói sau khi kiến tánh, khởi tâm động niệm đều là Phật tánh hiện hành, chỉ một tâm ngay thẳng chẳng biến đổi. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Nếu trong tất cả nơi, đi, đứng, nằm, ngồi, chỉ một tâm ngay thẳng, là đạo tràng chẳng động, là Tịnh độ chơn thật, gọi là Nhất hạnh tam muội”. Người đời sau hiểu lầm cho con người chỉ cần ngay thẳng tức là ngộ đạo, ấy là sai lầm.

45/ Dụng Công Lầm Nhận “Đầu Sào Trăm Thước”:

Trường Sa Sầm thiền sư dẫn dụ lời Cổ Đức rằng: “Người trụ nơi đầu sao trăm thước, mặc dù đắc nhập chưa phải chơn, đầu sào trăm thước cần tiến tới, mười phương thế giới hiện toàn thân”. Đây là lời khẩn yếu của sự dụng công để khuyên bảo người hậu học, đầu sào trăm thước là dụ cho quá trình dụng công của người tu hành, được leo tới đầu sao trăm thước công phu đã khá rồi, hễ lên nữa tức là hư không, là việc rất khó tiến lên, nếu được tiến thêm một bước thì ngay đó kiến tánh thành Phật mà chứng đắc Pháp thân, nên nói “Đầu sào trăm thước cần tiến tới, mười phương thế giới hiện toàn thân”.

Chỗ đầu sào này dụ cho cảnh giới vô thỉ vô minh, người dụng công đến nơi cảnh giới trống rỗng đen tối chẳng có gì cả, tức là đầu sào trăm thước, cũng là vô thỉ vô minh, chớ nên lầm nhận cho cảnh giới này là Chơn như Phật tánh, đến đây cần phải tiến lên để phá tan vô thỉ vô minh mới được kiến tánh thành Phật. Nay có người hiểu lầm cho dứt trừ vọng niệm là đến đầu sào trăm thước, rồi luôn cả cái niệm dứt trừ cũng tiêu sạch tức là “Đầu sào trăm thước cần tiến tới” ấy là sai.

46/ Hiểu Lầm “Bất Nhị Pháp Môn” Thành Bệnh:

“Pháp môn bất nhị” là nói Phật tánh tuyệt đối, chẳng có năng sở đối đãi là bất nhị, xưa kia trong hội Tỳ Da, Văn Thù Bồ tát để ý chỉ bất nhị, khi ấy sở thuyết của ba mươi hai vị Hiền triết đều sai, chỉ có Duy Ma Cật im lặng chẳng nói, Văn Thù Bồ tát khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Đến chỗ chẳng có văn tự lời nói mới thật là nhập pháp môn bất nhị”. Nên biết tuyệt đối của Phật tánh chẳng phải văn tự lời nói có thể đến, nên nói ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt. Hiện nay các chùa chiền, trên cửa thường để bốn chữ “Bất Nhị Pháp Môn”, bắt chước nhau từ lâu, Kinh nói: “Vô môn là pháp môn”, thì cửa chùa làm sao so bằng được!

47/ Lầm Nhận “Tọa Vong” (Ngồi Quên) Trong Đại Tông Sư Thiên Của Trang Tử Là Phật Pháp:

Nhan Hồi nói: Hồi được ích rồi!
Khổng Tử hỏi: Là thế nào?
Hồi nói: Hồi đã quên nhân nghĩa rồi.
Khổng Tử nói: Được, nhưng còn chưa.
Hôm khác Hồi lại trình: Hồi được ích rồi.
Khổng Tử nói: Là thế nào?
Hồi nói: Đã quên lễ nhạc rồi.
Khổng Tử nói: , Được rồi, nhưng còn chưa.
Hôm khác lại trình rằng: Hồi được ích rồi.
Khổng Tử hỏi: Là thế nào?
Hồi nói: Hồi tọa vong rồi.
Khổng Tử hỏi: Thế nào là tọa vong?
Hồi nói: Đọa cơ thể, bặt thông minh, lìa hình bỏ trí, dụng nơi đại đạo gọi là tọa vong.
Khổng Tử nói: Đồng thì chẳng hai, hóa thì vô thường, Hồi quả thật là bậc Hiền, ta xin theo sau.
Như thế lý đạo của tọa vong tức là cảnh giới vô thỉ vô minh của nhà Phật vậy.

48/ Dụng Công Lầm Nhận “Đại Thủ ấn”:

Đại thủ ấn tức là thể tánh của bản tâm của tất cả chúng sanh với chư Phật bình đẳng chẳng khác, bản tâm bình đẳng vốn trong sạch thường trụ, dù bị vô minh che khuất, nhưng thể tánh chơn tâm vẫn tự sáng tỏ trong sạch, dẫu ở nơi lục đạo luân hồi vẫn chẳng thêm chẳng bớt. Cái bản thể vi diệu này, có khi gọi là Bản giác Như lai, Phổ Hiền Như lai, Bổn kiến thanh tịnh… tên khác thể đồng, tức một tâm này là căn bản của Đại Thủ Ấn.

Phái cũ của Mật tông có nói: Phổ Hiền Như Lai này là Phật nguyên thỉ, chẳng cần dùng sức tẩy trừ nghiệp chướng, ví như nước biển bị gió khơi động mà sanh khởi làn sóng, nếu còn khuấy động (dùng sức tẩy trừ) thì làn sóng không khi nào được dừng lại mà thành trong lặng. Cũng như mây mù trôi nổi trên không, khi mây mù tan rã thì trong sạch của hư không tự hiện; lúc mây mù che khuất hư không, tánh không vẫn là tánh không, chưa hề giảm bớt chút nào. Nếu tâm của con người vốn chẳng có thể tánh sáng tỏ trong sạch thì bất cứ dùng phương tiện nào cũng chẳng thể tẩy sạch, vì bản tâm vốn sẵn trong sạch diệu minh mới có thể dùng phương tiện tẩy trừ vọng niệm cho đến thành Phật”.

“Bản tâm vốn trong sạch” là Phật tánh, Phật tánh chẳng thể sanh khởi vô minh, sanh khởi vô minh là do linh tánh của kiến, văn, giác, tri; linh tánh chẳng phải Phật tánh, như nước biển kia vì bị gió khơi động mà sanh làn sóng, nước biển là dụ cho linh tánh của kiến, văn, giác, tri, nếu lầm nhận cho là Phật tánh thì tu cũng vô ích.

49/ Dụng Công Lầm Nhận “Minh Đế” Của Bà La Môn:

Các nhà Phật học Trung Quốc xưa nay rất nhiều Đại đức cao Tăng lầm nhận “Minh Đế” cho là Phật tánh, Minh đề phi không phi hữu, là bản tánh của thế gian, vì Minh Đế khởi một niệm sanh giác, do giác sanh hai mươi lăm đế, từ hai mươi lăm đế trở về bản thể Minh Đế, tức là vô thỉ vô minh, cũng là chỗ lầm nhận của một số cao Tăng Trung Quốc nói từ Phật tánh sanh khởi vô minh, đoạn dứt vô minh trở về Phật tánh, ấy là sai lầm từ căn bản, tu hành vô ích.

Kỳ thật Minh Đế của Bà La Môn tức là vô thỉ vô minh, sanh giác tức là kiến, văn, giác, tri sanh khởi một niệm, do một niệm này sanh ra tám mươi bốn ngàn niệm, cũng gọi là tám mươi bốn trần lao phiền não vậy.

#6 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 03/08/2011 - 10:14

CHƯƠNG III
THỈNH ÍCH (HỎI ĐẠO)
Tăng hỏi: Lúc con ngồi tham thiền dứt vọng niệm, nhưng vọng niệm càng dứt càng nhiều, ví như một chén nước, khi đục thì thấy đất cát không rõ, khi lắng thì thấy đất cát rõ ràng. Cho nên khi chẳng dứt vọng niệm, vọng niệm lại ít hơn, hễ dứt vọng niệm thì càng dứt càng nhiều. Trước kia có Thiện tri thức bảo con: “Vọng niệm dứt sạch tức là Phật tánh”, tại sao càng dứt càng nhiều? Làm thế nào mới dứt sạch được? Con nhiều nhất dứt được năm phút thì vọng niệm lại khởi nữa, đức Phật nói: “Pháp cũng là vọng”, tại sao Phật chẳng dứt vọng niệm mà bảo chúng con dứt vọng niệm? Lại ngồi lâu thì nhức đầu, vậy dụng công như thế nào mới học cách tu của Thiền tông? Xin Sư từ bi khai thị”.

Sư nói: Ông đã đi lầm đường, niệm khởi niệm diệt chẳng phải Phật tánh, Phật tánh là như như bất động, chẳng khởi vọng niệm; khởi vọng niệm là nhất niệm vô minh, hễ lay động liền phân làm hai mặt: tức là chánh niệm và bất chánh niệm. Bất chánh niệm là vọng, chánh niệm cũng là vọng, đều là tác dụng của kiến, văn, giác, tri, chẳng liên quan với Phật tánh. Nếu vọng niệm từ bên ngoài đến thì chẳng dính dáng với ông, đâu cần đoạn dứt nó! Nếu vọng niệm từ bên trong ra thì cũng như nguồn suối luôn luôn có nước ra, dứt rồi lại sanh, sanh rồi lại dứt, đến khi nào mới hết? Vậy tu hành dứt vọng niệm, lý này thật chẳng thông. Thật ra kiến, văn, giác, tri có hai mặt: nhiễm duyên và tịnh duyên đều là vọng niệm của nhất niệm vô minh. Người tu hành suy nghĩ điều lành, hành việc thiện là tịnh duyên; suy nghĩ điều ác, hành việc tà là nhiễm duyên, hai thứ đều là vọng. Đem nhiễm duyên, tịnh duyên dứt sạch, kiến, văn, giác, tri chẳng còn, ấy là chỗ đen tối trống rỗng của vô thỉ vô minh. Nay Phật tánh bị vô thỉ vô minh che khuất, muốn thấy Phật tánh ắt phải đập tan vô thỉ vô minh mới thấy được.

Muốn đập tan vô thỉ vô minh, cần phải dùng lục căn của vọng niệm hướng vào chỗ hầm sâu đen tối nhìn thẳng đi, chớ nên gián đoạn, nhìn đi nhìn lại, khi thời tiết đã đến, “ồ” lên một tiếng thì vô minh tan rã, cái bản thể cùng khắp hư không của Phật tánh ngay đó liền hiện ra. Sau kiến tánh thì sanh tử, thiện ác, thị phi từ vô lượng kiếp trọn mâm trình ra, lúc bấy giờ kiến, văn, giác, tri, lục căn, vọng niệm, tất cả đều biến thành Phật tánh. Phật thuyết pháp là Phật niệm, chẳng phải vọng niệm, người chưa kiến tánh mới là vọng niệm.

Mã Tổ nói: “Tham thiền chẳng thuộc ngồi, chấp ngồi thì bị dính mắc”, đi, đứng, nằm, ngồi đều phải dụng công, ngồi lâu sẽ bị nhức đầu. Ông cho kiến, văn, giác, tri nghiệp thức là Phật tánh thì vĩnh viễn chẳng thể kiến tánh, há chẳng nghe Trường Sa Sầm thiền sư nói: “Sao người học đạo chẳng biết chơn? Chỉ vì xưa nay nhận thức thần, nguồi gốc sanh tử từ vô thỉ, si mê cho là bổn lai nhơn (Phật tánh) ư!”

٭

Tăng hỏi: con dụng công tu Thiền tông đã nhiều năm, trước kia ở núi Chung Nam, khi tĩnh tọa thân tâm hoàn toàn quên mất, ban sơ trống rỗng được mười phút, sau kéo dài đến hai mươi phút, cái không của thân tâm với cái không của hư không hợp lại, khi ấy thân tâm rỗng không như gương chiếu gương, cảnh giới này phải là minh tâm kiến tánh chăng?

Sư nói: Minh tâm kiến tánh là việc vĩnh viễn vô tận, chẳng thể mê trở lại, cảnh giới của ông thấy như ngồi chẳng phải Phật tánh, ấy là vô ký không của Lục Tổ nói, cũng gọi là hầm sâu vô minh. Ông cho khi ngồi thấy cảnh giới này thì ngộ, khi đứng dậy thì mê, vậy bỗng mê bỗng ngộ thì Phật tánh cũng thành có luân hồi. Theo phương tiện dụng công của ông là cảnh giới ngoại đạo Tiểu thừa. Ông chớ nên dứt niệm, phải lợi dụng lục căn hướng vào chỗ cảnh giới mênh mông trống rỗng nhìn thẳng đi, khi công phu thuần thục, cơ duyên bỗng đến, “Ồ” lên một tiếng thì hầm sâu vô minh bị phá tan, liền thấy Phật tánh. Dụng công như thế này mới hợp với phương pháp của Thiền tông.

٭

Tăng hỏi: Trước kia con ở Đại Triệt Đường trong chùa Kim Sơn, khi tĩnh tọa dụng công, chẳng chấp có cũng chẳng chấp không; nếu chấp có Phật tánh thì ngoài pháp sanh tâm, nếu chấp không có Phật tánh là phế bỏ nhân quả, con có với không đều chẳng chấp, cũng chẳng dứt niệm, vậy hợp với cách dụng công của Thiền tông chăng?

Sư nói: Ông chẳng chấp Có, Không là tác dụng suy nghĩ của kiến, văn, giác, tri, với Phật tánh trọn chẳng dính dáng. Phật tánh là như như bất động, ông phải buông bỏ cái niệm “chẳng chấp có chẳng chấp không” ấy, rồi đề thoại đầu khởi nghi tình, khi công phu đến mức, hễ vô thỉ vô minh được phá tan, liền thấy Phật tánh.

٭

Tăng hỏi Lục Tổ nói chẳng suy nghĩ thiện ác thì có thể minh tâm kiến tánh, con hiện nay chẳng suy nghĩ thiện ác, tại sao không được kiến tánh?

Sư nói: Lục Tổ nói “Chẳng suy nghĩ thiện ác, đang lúc ấy ai là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Ý của Lục Tổ là bảo ngay chỗ chẳng suy nghĩ thiện ác ấy phát khởi nghi tình tham cứu thì được thấy bản lai diện mục. Ông chỉ là chẳng suy nghĩ thiện ác, không có tham cứu thì đâu thể kiến tánh được!

٭

Có Cư sĩ hỏi: Phật tánh vô sanh, vậy Phật tánh từ chỗ nào đến? Nếu Phật tánh từ vô sanh đến lúc đang dụng công, khởi niệm là sanh, niệm dứt rồi là chẳng sanh, tức là Phật tánh vô sanh, dụng công như thế này hợp với cách tu của Thiền tông chăng?

Sư nói: Phật tánh là như như bất động, bổn lai vô sanh nên vô diệt. Theo lời giải thích của ông thì Phật tánh biến thành có sanh có diệt rồi, dụng công như thế này giống như Lão Tử nói “Vạn vật sanh nơi hữu, hữu sanh nơi vô”, ấy là luân hồi. Phật tánh là muốn siêu thoát luân hồi, đâu còn muốn chui vào luân hồi như ông vậy! Dụng công như thế thành người Tiểu thừa, Nhị thừa, nhà lý học, chẳng hợp với Thiền tông. Vô sanh của ông nói tức là hầm sâu vô minh, ông hãy dùng niệm hướng vào chỗ vô sanh phát khởi nghi tình nhìn thẳng đi, như ngọn dao đâm vào, phá tan vô thỉ vô minh, liền thấy Phật tánh, tức là chứng Vô sanh Pháp nhẫn. Vô sanh Pháp nhẫn nghĩa là Phật tánh chẳng sanh chẳng diệt, vạn tượng trang nghiêm, muôn đức tròn đầy, khi ấy vũ trụ vạn vật tất cả đều biến thành Phật tánh.

٭

Tăng hỏi: Lúc con ở Thiền đường chùa Cao Mân, một hôm đang tĩnh tọa, thân tâm vọng niệm tạm dứt sạch, bỗng thấy một tia sáng màu trắng, đại khái có hai phút mới tan mất. Lúc sau cách vách tường thấy vật, có một lần qua sông bị trôi xa năm dặm gặp người cứu, chẳng bị chết chìm; có một lần hai tay ôm cục đá sáu trăm cân chẳng thấy phí sức; có một lần tĩnh tọa nhập định bảy ngày chẳng ăn uống; có một lần nhập định hai mươi mốt ngày chẳng ăn cơm. Những cảnh giới kể trên có phải là thần với ngộ đạo chăng?

Sư hỏi: Nay ông cách tường còn thấy vật chăng? Còn có thể bảy ngày chẳng ăn cơm và ôn lên cục đá sáu trăm cân được chăng?

Tăng nói: Hiên nay thì không thể được.

Sư nói: Tham thiền ngộ đạo là muốn minh tâm kiến tánh, liễu thoát sanh tử. Trong Phật tánh vốn sẵn đủ ngũ nhãn, lục thông, chẳng cần cầu bên ngoài; nếu người đã kiến tánh thì đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, cuộc sống hằng ngày đều ở trong định. Thuở xưa ngoại đạo có một phương pháp bí truyền, mỗi ngày uống một tách mật ong hoặc nước muối, có thể luôn bảy ngày chẳng ăn cơm. Ông là Phật tử, sao lại học ngoại đạo tà ma! Nay ông đem tư tưởng cảnh giới ngoại đạo đã kể trên đều quăng hết xuống biển, trở lại dụng công tham cứu, khi thân tâm diệt chớ nên dứt hẳn tư tưởng tham cứu, cần phải tham mãi, khi cơ duyên đến, “ồ” lên một tiếng thì vô thỉ vô minh phá tan, liền được kiến tánh. Phật tánh là đại định, đâu có xuất nhập!

Tăng nghe Sư nói, cảm kích rơi lệ, lễ tạ rồi ra đi.

٭

Tăng hỏi: Khi con dụng công, quán xét thế giới thân tâm đều là giả là không, con lìa không với giả, đem tâm niệm ngưng nơi chính giữa của không với giả, dụng công như thế này hợp với pháp tu của Thiền tông không?

Sư nói: Dụng công như thế chẳng hợp cách tu của Thiền tông, giữa không với giả là tương đối, Phật tánh là tuyệt đối. Ông đem tâm niệm ngưng nơi khoảng giữa, khoảng giữa chẳng phải Phật tánh. Ông hãy đem tâm niệm ngưng nơi khoảng giữa này nhìn thẳng vào hầm sâu vô minh (tức là khởi nghi tình), khi vô minh tan rã mới được thấy Phật tánh, ấy mới là phương pháp dụng công của Thiền tông.

٭

Cư sĩ hỏi: Xưa nay con tu Duy Thức Quán, theo Duy Thức, trí với thức chứa trong thức thứ tám, nay con dùng đậu trắng dụ cho trí, đậu đen dụ cho thức. Sức trí mạnh thì thức biến thành trí, sức của thức mạnh thì trí biến thành thức, đậu trắng nhiều hơn đậu đen tức là sức trí mạnh hơn, đậu đen nhiều hơn đậu trắng tức là sức của thức mạnh hơn, trí huân thức, thức huân trí, dụng công nhiều thì đậu trắng nhiều hơn đậu đen, dụng công ít thì đậu đen trở lại nhiều hơn đậu trắng, vậy hợp với cách tu của Thiền tông chăng?

Sư nói: Ông dụng công như thế vĩnh viễn chẳng thể kiến tánh. Chủng tử của trí với thức chứa trong thức thứ tám là đã sẵn đủ từ vô lượng kiếp, dẫu cho ông đem tất cả thức biến thành trí, cái trí này chẳng phải Phật tánh, Phật tánh là trí thể của pháp giới, chẳng có biến đổi, chẳng thọ huân nhiễm. Ông đã phát tâm học Phật, mục đích là muốn liễu thoát sanh tử, phải thấy trí thể của pháp giới mới là cứu cánh. Trí thể của pháp giới tức là Phật tánh, Thiền tông gọi là Bản lai diện mục, ông nên dùng Tiền ngũ thức chuyển thức thứ sáu, thức thứ sáu chuyển thức thứ bảy, thức thứ bảy chuyển thức thứ tám, thức thứ tám chuyển Bạch tịnh thức (hầm sâu vô minh), khi “ồ” lên một tiếng, Bạch tịnh thức tan rã, bèn thấy trí thể của pháp giới. Diệu dụng của trí thể pháp giới hiện ra thì thức thứ tám chuyển thành Đại viên cảnh trí, thức thứ bảy chuyển thành Bình đẳng tánh trí, thức thứ sáu chuyển thành Diệu quan sát trí, Tiền ngũ thức chuyển thành Thành sở tác trí, như thế mới vĩnh viễn là Trí, chẳng thể trở lại làm Thức. Dụng công như thế này mới hợp với chánh pháp, theo cách tu của ông bỗng trí, bỗng thức, trở đi trở lại thì khi nào mới xong!

٭

Tăng hỏi: Ý nghĩa chữ Phật là giác, chỉ cần trong tâm luôn luôn giác ngộ chẳng mê tức là minh tâm kiến tánh, như thế hợp với cách dụng công của Thiền tông chăng?

Sư nói: Ý nghĩa chữ Phật là Đại giác, là cái giác tuyệt đối, tìm sự mê ngộ trọn bất khả đắc. Cái giác của ông nói là cái giác của kiến, văn, giác, tri, là tác dụng của bộ não, thuộc về tương đối. Ông luôn luôn muốn giác là dùng bộ não để làm việc, dụng công như thế vĩnh viễn chẳng được kiến tánh. Ông nên dùng cái tư tưởng giác chiếu ấy nhìn thẳng vào hầm sâu vô minh, khi vô minh tan rã, liền thấy Phật tánh. Sau khi kiến tánh, giác và mê trong bộ não đều biến thành Phật tánh. Nên Duy Ma cật nói: “Pháp lìa kiến, văn, giác, tri; nếu hành theo kiến, văn, giác, tri thì chẳng phải cầu pháp”.

٭

Tăng hỏi: Cách con dụng công, đi, đứng, nằm, ngồi, tất cả cuộc sống tiếp xúc hàng ngày đều chẳng chấp trước; ví như ăn cơm chẳng chấp trước ăn cơm, mặc áo chẳng chấp trước mặc áo, nói chuyện chẳng chấp trước nói chuyện, tất cả tiếp xúc chẳng chấp trước tiếp xúc, như thế thì được đại giải thoát đúng như phá chấp trước của Phật nói. Vậy cái chẳng chấp trước của con phải minh tâm kiến tánh chăng? Hợp với lý Thiền tông chăng?

Sư nói: Phật nói phá chấp trước là phá chấp trước “có tu Tứ Đế” của Tiểu thừa, ấy là hóa thành chẳng phải bửu sở, khích lệ họ tu Nhị thừa; Phật lại phá Nhị thừa chớ nên chấp trước Thập Nhị Nhân Duyên, lọt vào Không chấp, ấy chỉ là phương tiện tạm thời, chưa thể kiến tánh, cần tu Lục Độ của Đại thừa mới được kiến tánh. Cái phá chấp trước của Phật là bảo Tiểu thừa, Nhị thừa chớ chấp trước ngã chấp, pháp chấp, không chấp, chẳng phải muốn họ giữ cái “không chấp trước” ở trong bộ não. Cái chẳng chấp trước của ông tức là chấp trước, nếu chẳng chẳng chấp trước phân biệt, làm sao nhận được mặc áo nói chuyện, ăn cơm? Nói tóm lại, cái chẳng chấp trước của ông đều là tác dụng của kiến, văn, giác, tri, thật ra đối với bản thể của Phật tánh, phàm sanh, tử, hữu, vô… mỗi mỗi danh tướng đều chẳng có chỗ nương tựa, như thế mới là chơn thật chẳng chấp trước. Huỳnh Bá thiền sư nói: “Suốt ngày ăn cơm chưa từng ăn một hạt gạo, suốt ngày mặc áo chưa từng mặc một sợi chỉ, suốt ngày đi đường chưa từng dẫm nửa tấc đất”, như thế này mới có thể nói: “Được đại giải thoát”. Sau khi kiến tánh thì tất cả tư tưởng chấp trước hay chẳng chấp trước đều biến thành Phật tánh, đi, đứng, nằm, ngồi đều là diệu dụng của Phật tánh, khi ấy chẳng cần ông nghĩ đến chẳng chấp trước, nó tự nhiên chẳng chấp trước. Bản thể Phật tánh mới là thật chẳng chấp trước, theo kiến, văn, giác, tri thì phải có chấp trước. Nay ông nên đem cái niệm chẳng chấp trước ấy đề thoại đầu khởi nghi tình, nhìn thẳng chỗ đen tối mịt mù là cái gì, đi, đứng, nằm, ngồi chớ nên gián đoạn, cơ duyên thuần thục “ồ” lên một tiếng, hầm sâu đen tối phá tan, liền thấy bổn lai Phật tánh, tức là được giải thoát và chẳng chấp trước rồi.

٭

Tăng hỏi: Con dụng công than thiền luôn luôn chẳng lìa cái này, “cái này” tức là thoại đầu, như tham niệm Phật là ai, đi, đứng, nằm, ngồi suốt ngày cũng chẳng lìa câu “niệm Phật là ai?” này, tại sao dụng công nhiều năm mà chẳng minh tâm kiến tánh?

Sư nói: Ông dụng công như thế là niệm thoại đầu, chẳng phải tham thoại đầu, tham thoại đầu phải hướng vào nội tâm tham cứu, tức là khởi nghi tình, đâu phải dùng miệng niệm mà được kiến tánh, Phật tánh vốn là Phật, Phật chẳng niệm Phật, nay ông nên dùng cái tư tưởng niệm thoại đầu này hướng vào chỗ Phật chẳng niệm Phật nhìn thẳng đi, xem coi là cái gì, đi, đứng, nằm, ngồi chớ nên gián đoạn, một hôm hầm sâu vô minh bị phá tan, liền được kiến tánh.

٭

Tăng hỏi: Con tham thiền dụng công “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” Đem muôn niệm gom thành một niệm, một niệm này rõ ràng tinh minh, vậy phải là kiến tánh chăng?

Sư nói: Muôn niệm từ kiến, văn, giác, tri sanh khởi, ông đem muôn niệm gom thành một niệm, một niệm này cũng là kiến, văn, giác, tri, với Phật tánh trọn chẳng dính dáng, ông nên dùng cái niệm “muôn pháp về một” nhìn coi một về chỗ nào? Chớ nên gián đoạn, hễ cơ duyên đến thì hầm sâu vô minh tan rã, liền thấy Phật tánh. Khi kiến tánh rồi, như người uống nước, lạnh nóng tự biết, chẳng cần hỏi người.

٭

Tăng hỏi: Con dụng công tham câu thoại đầu “Giảng kinh là ai?” Con cho rằng giảng kinh thuyết pháp là dùng vọng niệm của lục căn mà giảng, nghe cũng dùng vọng niệm của lục căn mà nghe, nếu đem lục căn đoạn dứt thỉ giảng chẳng thể giảng, nghe chẳng thể nghe. Vậy là minh tâm kiến tánh chăng?

Sư nói: Lục căn có hai cái dụng là kiến, văn, giác, tri, lục căn không nên đoạn dứt, nếu minh tâm kiến tánh thì lục căn biến thành Ứng thân. Nay ông chớ nên đoạn dứt lục căn, phải đem cái niệm đoạn dứt lục căn ấy dùng để tham cứu Bổn lai diện mục, Phật tánh vốn không có lục căn, nên chẳng cần dứt nó, dụng công như thế mới hợp với cách tu của Thiền tông. Theo cách tu của ông là phương pháp Tiểu thừa, chẳng được cứu cánh.

٭

Tăng hỏi: Con tham câu thoại đầu là “Trước khi cha mẹ chưa sanh, thế nào bổn lai diện mục?” Con cho là trước khi cha mẹ chưa sanh là thanh thanh tịnh tịnh, vì có vọng niệm mới đến đầu thai, nếu dứt hết vọng niệm thì được khôi phục cái thanh tịnh của bổn lai diện mục kia, như vậy có hợp với lý của Thiền tông chăng?

Sư nói: Trước khi cha mẹ chưa sanh chẳng phải bổn lai diện mục, ấy là thân Trung ấm, một niệm bất giác mới đến đầu thai; nếu đầu thai là bổn lai diện mục thì Phật tánh cũng là luân hồi, chẳng phải cứu cánh. Nay ông dứt hết vọng niệm, đến cảnh giới thanh thanh tịnh tịnh (vô thỉ vô minh), cần phải khởi nghi tình nhìn thẳng cảnh giới này, nhìn đến sơn cùng thủy tận, hầm sâu vô minh phá tan, tức là bản lai diện mục. Bản lai diện mục chẳng khởi vọng niệm, vọng niệm từ kiến, văn, giác, tri đã biến thành Bản lai diện mục rồi, vậy mới được gọi là minh tâm kiến tánh.

٭

Tăng hỏi: Con dụng công theo kinh Đại Bát Nhã, trong Kinh nói: “Kiến vô sở kiến tức chơn kiến, tri vô sở tri tức chơn tri, tất cả trí huệ trong sạch, chẳng hai chẳng khác, chẳng phân biệt hai và chẳng hai, cũng chẳng đoạn diệt”. Con dụng công như thế. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, tất cả tiếp xúc, lúc thấy chẳng phân biệt sở thấy, lúc biết chẳng phân biệt tâm biết, tư tưởng chẳng cần dứt sạch, chỉ cần không phân biệt, vậy phải là minh tâm kiến tánh chăng? Hợp với lý Thiền tông chăng?

Sư nói: Ông thật quá ngu dại, mấy lời này trong kinh Bát Nhã là lời của người đã kiến tánh, lời ấy phát huy từ trong trí huệ Bát nhã, nói “Kiến vô sở kiến tức chơn kiến” là thấy vũ trụ vạn vật đều là Phật tánh, khi đã kiến tánh, khởi tâm động niệm, suy nghĩ đều là Phật tánh. “Tất cả trí huệ trong sạch, chẳng hai chẳng khác, chẳng phân biệt hai và chẳng hai, cũng chẳng đoạn diệt” là nói khi kiến tánh rồi, khởi tâm động niệm đều chẳng lìa Phật tánh, tất cả chẳng hai chẳng khác chẳng đoạn, những lời này là người đã kiến tánh mới được nói vậy. Ý Kinh nói vũ trụ vạn vật đều là trí huệ, khởi tâm động niệm đều là trí huệ, trong Kinh nói: “Tất cả sắc vô biên, nên bát nhã cũng vô biên”, Bát nhã dịch là trí huệ, cách dụng công của ông phân biệt và chẳng phân biệt đều là tác dụng của kiến, văn, giác, tri, với Phật tánh chẳng dính dáng. Nếu thật chẳng phân biệt, đâu biết mặc áo ăn cơm. Dụng công như ông muôn kiếp chẳng thể kiến tánh. Ông nên đem cái niệm chẳng phân biệt ấy sửa lại là “đời này quyết định phải thấy Bát nhã Phật tánh” rồi khởi nghi tình nhìn thẳng đi, khi nhân duyên đến, hầm sâu vô minh phá tan thì được thấy Bát nhã của Phật tánh, rồi mới thấu rõ cái lý “Kiến vô sở kiến tức chơn kiến, tri vô sở tri tức chơn tri” vậy.

٭

Tăng hỏi: Con ở núi Chung Nam bốn mươi mấy năm, dụng công như thế này: Niệm đã sanh là vọng niệm, niệm chưa sanh là Phật tánh chơn tâm, mỗi ngày khởi niệm động niệm mỗi mỗi rõ ràng, lúc niệm chẳng khởi thì tịch mà chiếu, lúc động niệm thì chiếu mà thường tịch, cũng đều mỗi mỗi rõ ràng, dụng công như thế hợp với cách tu của Thiền tông chăng?

Sư nói: Ông tu nhiều năm là bậc lão Tôn túc, nhưng dụng công như thế thật là sai lầm lớn. Ông cho nghiệp thức của kiến, văn, giác, tri là Phật tánh, Phật tánh như như bất động, đâu thể khởi vọng niệm! Cái tịch mà thường chiếu với cái chiếu mà thường tịch mỗi mỗi rõ ràng của ông nói, đều là tác dụng của bộ não, với Phật tánh trọn chẳng dính dáng, nay ông nhận giặc làm con, Phật nói bọn này thật đáng thương xót! Ông nên đem cái niệm mỗi mỗi rõ ràng đó nhìn thẳng chỗ hầm sâu vô minh, khi nhân duyên đến, hầm sâu vô minh tan rã, liền thấy bổn lai Phật tánh. Khi kiến tánh rồi, khởi niệm động niệm, tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch thảy đều là Phật tánh, chẳng cần phân biệt nữa.

٭

Tăng hỏi: Người xưa nói “Nhận lấy tự tánh, bổn lai thành Phật, chẳng nhờ tu trì, chẳng thuộc đốn, tiệm, vạn đức viên mãn, thể tự như như”. Con từng theo ý này dụng công, một niệm chẳng khởi tức là Phật tánh, chẳng nhờ tu trì, như thế có phải minh tâm kiến tánh chăng?

Sư nói: “Lời của người xưa nói ấy là lời đã kiến tánh, người chưa ngộ chẳng thể dùng suy nghĩ để đoán mò. Ông cho một niệm chẳng khởi tức là như Phật tánh, nhưng một niệm chẳng khởi chỉ là tạm thời, chẳng phải Phật tánh, ông nên khởi một niệm này hướng vào chỗ chẳng khởi niệm nhìn thẳng, đến khi công phu thuần thục, “ồ” lên một tiếng, vô thỉ vô minh phá tan, liền thấy Phật tánh, mới biết tự tâm vốn là Phật, chẳng nhờ tu trì, chẳng thuộc đốn tiệm, cảnh giới này mới thật là vạn đức viên mãn”.

٭

Tăng hỏi: cách dụng công của con là ban đêm bất đảo đơn, đến bốn giờ sáng thì buồn ngủ, ban ngày dụng công thì theo phương pháp của Cổ Đức nói “Chẳng sợ vọng khởi, chỉ e giác chậm”, luôn luôn chiếu cố một niệm, một niệm mê rồi liền mau mau đề khởi, dụng công như thế hợp với pháp Thiền tông chăng?

Sư nói: Vọng niệm khởi là từ kiến, văn, giác, tri, ông muốn giác ngộ cũng phải dùng kiến, văn, giác, tri, cho nên mê với ngộ chẳng ngoài tác dụng kiến, văn, giác, tri; nơi phạm vi của kiến, văn, giác, tri chẳng liên quan với Phật tánh. Trong bản thể Phật tánh chẳng có mê với giác, ông dùng cái niệm “chẳng sợ vọng khởi, chỉ e giác chậm” ấy nhìn ngay chỗ mịt mù đen tối, nhìn đến sơn cùng thủy tận, được thấy bản thể Phật tánh mới biết rõ mê ngộ trọn chẳng dính dáng, khởi niệm diệt niệm đều là tác dụng của Phật tánh. Bất đảo đơn có ảnh hưởng sức khỏe, buồn ngủ thì phải ngủ, có sức khỏe dụng công mới tốt hơn.

٭

Tăng hỏi: Cách dụng công của con là theo kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri là căn bản của vô minh, tri kiến vô kiến ấy là Niết bàn”. Con cho rằng tri kiến lập tri là ấn tượng trong bộ não, đã gieo hạt giống tức là căn bản vô minh, tri kiến vô kiến là nói cái tâm giống như cái gương trơn, vật gì in vào cũng không dính, vậy tâm không trụ tức là Niết bàn.

Sư nói: “Tri kiến lập tri tức là căn bản của vô minh” là nói người chưa kiến tánh tất cả đều do kiến, văn, giác, tri làm chủ, tất cả tri kiến lập ra đều là căn bản vô minh. “Tri kiến vô kiến ấy tức Niết bàn” là nói người đã kiến tánh rồi thì Phật tánh làm chủ, tất cả tri kiến đều biến thành Phật tánh, giống như hai câu Kinh “Kiến vô sở kiến tức chơn kiến, tri vô sở tri tức chơn tri” vậy. Cách dụng công của ông nói chẳng trụ chẳng chấp trước, cái tâm muốn chẳng trụ chẳng chấp trước đó tức là trụ, là chấp trước rồi. Sau khi kiến tánh, trụ và chấp trước đều là Phật tánh, cho nên chấp trước và chẳng chấp trước chẳng dính dáng với sự thành Phật, ông nên dùng cái niệm chẳng trụ chẳng chấp trước ấy chuyên tâm nhìn thẳng đi, hễ công phu đến mức, liền thấy Phật tánh, lúc ấy mới thấu rõ tất cả tri kiến đều là Phật tánh.

٭

Cư sĩ hỏi: Con cảm thấy con người ở đời làm việc thiện chớ nên cầu phước báo, con làm việc thiện chẳng có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, như thế phải minh tâm kiến tánh chăng?

Sư nói: Kinh Hoa Nghiêm nói “Quên mất tâm Bồ đề tu các pháp thiện ấy là nghiệp ma”. Ông làm việc thiện chẳng cầu phước báo đâu phải minh tâm kiến tánh! Làm việc thiện là bổn phận nên làm của con người, làm thiện thì được phước báo là chẳng lìa nhân quả, trong Phật tánh thì thiện với ác trọn bất khả đắc, phải thấy Phật tánh mới là minh tâm kiến tánh, ông chẳng cầu minh tâm kiến tánh mà chuyên làm việc thiện, đâu thể liễu thoát sanh tử! Ông hãy dùng cái niệm làm việc thiện ấy hồi quang phản chiếu, ngay đó nhìn thẳng đi, khi thấy được bản thể Phật tánh mới là liễu thoát sanh tử.

٭

Cư sĩ hỏi: Con dụng công theo kinh Niết Bàn nói: “Các hạnh vô thường là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt làm vui”. Lúc đang dụng công, cảm thấy vũ trụ vạn vật đều là sanh sanh diệt diệt, nếu đem tư tưởng dứt sạch, chẳng khởi một niệm thì tất cả đều chẳng sanh diệt, tức là tịch diệt làm vui, dụng công như thế hợp với pháp Thiền tông chăng?

Sư nói: “Các hạnh vô thường là pháp sanh diệt” là nói người chưa kiến tánh, tất cả đều do kiến, văn, giác, tri làm chủ, Phật tánh bị vô minh che khuất, nên mới có sanh tử luân hồi. “Sanh diệt diệt rồi” là nói hầm sâu vô minh đã phá tan thì thấy Phật tánh. “Tịch diệt làm vui” là nói sau khi thấy Phật tánh, tất cả đều biến thành Phật tánh, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng động chẳng tịnh. Theo cách dụng công của ông lúc thì sanh diệt, lúc thì tịch diệt, trở đi trở lại xoay chuyển không ngừng, muôn kiếp chẳng thể kiến tánh. Ông chớ nên diệt niệm, vẫn nên khởi một chánh niệm (nghi tình) ngay đó nhìn thẳng đi, hễ hầm sâu vô minh phá tan, liền thấy tịch diệt của Phật tánh, mới biết Phật tánh vốn chẳng sanh diệt, như thế mới là phương pháp dụng công của Thiền tông.

٭

Tăng hỏi: Con dụng công tu hồi quang phản chiếu, từ ý căn khởi niệm phản chiếu niệm, niệm niệm rõ ràng, vậy hợp với pháp tu của Thiền tông chăng?

Sư nói: Khởi niệm là do kiến, văn, giác, tri khởi, hồi quang phản chiếu cũng là tác dụng của kiến, văn, giác, tri, ông dùng ý căn quán xét giác và mê, đều ở trong phạm vi kiến, văn, giác, tri. Phật tánh là như như bất động, giác và mê trọn chẳng dính dáng. Ông nên đem cái niệm hồi quang phản chiếu giác và mê ấy ngay đó nhìn thẳng chỗ đen tối mịt mù, khi hầm sâu vô minh phá tan, liền thấy Phật tánh, mới biết giác và mê trọn chẳng dính dáng.

٭

Tăng hỏi: Con dùng hai câu “Diệu hữu chơn không, chơn không diệu hữu” để dụng công; người Tiểu thừa lọt nơi hữu, Trung thừa lọt nơi không, con cho rằng Phật tánh nói là hữu cũng là không, nói là không cũng là hữu, chẳng thể nói là không, cũng chẳng thể nói là hữu, tức là phi không phi hữu của trung đạo, như thế hợp với lý của Thiền tông chăng?

Sư nói: Ông dụng công như thế muôn kiếp chẳng thể kiến tánh. Không với hữu là tác dụng kiến, văn, giác, tri của bộ não, cách ông nói là hai bên đều chẳng cứu cánh, giống như lý “mập mờ nhấp nhoáng, trong đó có tinh” của Lão Tử nói. Kỳ thật Phật tánh vốn là sẵn sàng, diệu hữu chơn không, chơn không diệu hữu đối với Phật tánh trọn chẳng dính dáng. Ông cho “không” và “hữu” tác dụng của kiến, văn, giác, tri là Phật tánh đó là sai, ông nên đem cái niệm hay nhận diệu hữu chơn không ấy ngay đó nhìn thẳng chỗ hầm sâu đen tối, khi hầm sâu vô minh phá tan thì tất cả đều là Phật tánh, còn nói chi “diệu hữu chơn không” nữa!

٭

Tăng hỏi: Con theo cái lý “Tất cả pháp chẳng sanh, tất cả pháp chẳng diệt, nếu được hiểu như thế, chư Phật thường hiện tiền” trong kinh Hoa Nghiêm để dụng công. Con cho rằng vũ trụ vạn hữu đều có sanh có diệt, nếu đem tư tưởng dứt hết thì chẳng sanh chẳng diệt, tức là Phật tánh, dụng công như thế hợp lý Thiền tông chăng?

Sư nói: Lời trong kinh Hoa Nghiêm là lời của người đã ngộ, nếu ông được kiến tánh thì chư Phật với ta chẳng khác. Người xưa nói: “Chẳng những ta nay tự liễu đạt, hằng sa chư Phật thể cùng đồng”. Ông dụng công như thế này là sai lầm. Ông nói tư tưởng dứt là Phật, tư tưởng khởi là chúng sanh, tức là Phật vẫn có luân hồi, sai lầm biết bao! Nay ông chớ nên dứt niệm, nên khởi một niệm hướng vào nguồn gốc chẳng sanh diệt ngay đó nhìn thẳng đi, hễ hầm sâu vô minh tan rã thì thấy tất cả đều là Phật tánh, tức là chư Phật thường hiện tiền rồi.

٭

Tăng hỏi: Kinh Lăng Nghiêm nói “Nếu được chuyển vật tức đồng Như lai”, con cho rằng con người trong vũ trụ thảy đều bị vật chuyển, cho nên có sanh diệt luân hồi, sanh diệt là xuất phát từ vọng niệm, nếu chuyển được vọng niệm thì chuyển được vạn vật, vật tức đồng Như lai. Cách dụng công của con là đem một niệm sơ khởi luôn luôn tĩnh giác không cho nó mê muội, như thế hợp với sự tu hành của Thiền tông chăng?

Sư nói: “Nếu được chuyển vật tức đồng Như lai” là lời của người đã ngộ, hễ ánh sáng của Phật tánh chiếu khắp thì kiến, văn, giác, tri, ngũ uẩn, lục căn, thập nhị xứ, thập bát giới, nhị thập ngũ hữu, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mỗi mỗi khởi tâm động niệm, cho đến trần lao phiền não, núi sông đất đai, vũ trụ vạn vật, tất cả đều biến thành Phật tánh, nên Kinh nói: “Ngũ uẩn lục trần đều là chơn tâm diệu minh của Như lai, núi sông, đất đai đều là chơn tâm diệu minh của Như lai”. Phật tánh mới có thể chuyển vạn vật, hễ được chuyển thì vĩnh viễn viên mãn, cái chuyển vật của ông là chuyển bằng bộ não, chuyển đi chuyển lại khi nào mới hết? Vậy làm sao kiến tánh được! Ông nên dùng cái niệm chuyển vạn vật ấy ngay đó nhìn thẳng đi, hễ hầm sâu vô minh phá tan thì thấy vạn vật với Như lai chẳng hai chẳng khác”.

٭

Tăng hỏi: “Cái nhân của các khổ, do tham dục làm gốc, nếu diệt hết tham dục, liền ra khỏi luân hồi”. Con dụng công theo bốn câu này, tham dục xuất phát từ vọng tưởng, nếu vọng tưởng dứt sạch thì chẳng có tham dục, liền được thoát khỏi cái khổ của luân hồi, dụng công như thế hợp với lý Thiền tông chăng?”

Sư nói: Bốn câu này là pháp môn dụng công của Tiểu thừa, vì trong tâm người Tiểu thừa phiền não tham dục quá nhiều, nên Phật bảo trừ tham dục trước, nhưng đó chỉ là Hóa thành, chẳng phải Bửu sở, ông chớ nổi niệm muốn dứt sạch vọng tưởng, nên đem cái niệm diệt tham dục ấy ngay đó nhìn thẳng đi, hễ hầm sâu vô minh tan rã, liền thấy bản thể Phật tánh, mới biết Phật tánh vốn trong sạch chẳng có tham dục. Người hành đạo Bồ tát mong chúng sanh thành Phật, ham muốn chúng sanh lìa biển khổ, ấy là tham dục chánh, sau khi minh tâm kiến tánh thì tham dục chánh là Phật tánh, tham dục bất chánh cũng là Phật tánh, Tiểu thừa và Đại thừa ở trong Phật pháp xê xích tơ hào thì cách xa ngàn dặm, ông nên theo phương pháp dụng công của Đại thừa mới có thể đến nơi Bửu sở.

٭

#7 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 03/08/2011 - 20:07

PHỤ LỤC
NGUYỆT KHÊ PHÁP SƯ
CAO NGỌA XỨ BI VĂN

Sư húy Tâm Viên, hiệu Nguyệt Khê, họ Ngô, tổ tiên là người Tiền Đường tỉnh Triết Giang, lập nghiệp ở Côn Minh tỉnh Vân Nam, truyền được ba đời đến Sư, cha là Tử Trang, mẹ là Lục Thánh Đức, sanh được năm con, Sư là út. Sư yếu đuối nhưng thích học, sớm đã thông minh đĩnh ngộ, theo học Nho với Uông Duy Dần tiên sinh. Năm 12 tuổi đọc Lan Đình Tập Tự đến câu “Tử sanh diệc đại hỷ, khí bất thống tai” (Tử sanh là việc lớn, há chẳng đau khổ ư!), bỗng nhiên có giải ngộ; mới hỏi thầy rằng: “Làm thế nào có thể sanh chẳng tử được?” Uông tiên sinh bảo: “Nhà Nho nói: “Chưa biết sanh làm sao biết tử, lời này phải hỏi nhà Phật học”.

Bèn đến hỏi nhà Phật học, nhà Phật học bảo: “Nhục thể và linh tánh của kiến, văn, giác, tri đều ở trong lục đạo sanh tử luân hồi, Phật tánh thì như như bất động, bất sanh bất tử. Nếu chưa thấy Phật tánh thì Phật tánh luân hồi theo linh tánh của kiến, văn, giác, tri; nếu thấy Phật tánh tràn đầy hư không thì linh tánh của kiến, văn, giác, tri biến thành Phật tánh”.

Sư hỏi: “Dùng cách nào mới thấy được Phật tánh?” Nhà Phật học không đáp được, mới trao cho sư các kinh Bốn Mươi Hai Chương và kinh Kim Cang. Từ đó nhân dịp theo học trường ở Thượng Hải, Sư kiêm thêm Phật học, cũng chuyên tâm nghiên cứu các sách của Lão Trang, xem hết Lục Kinh của nhà Nho, tham học hết các danh sư ở Giang Tô, Triết Giang, lễ bái các Đại đức, trình câu của nhà Phật học bảo “Dùng cách nào mới có thể minh tâm kiến tánh” ra hỏi, nhưng các đáp án Sư đều chưa thỏa mãn.

Bấy giờ Tôn túc Diệu Trí dạy hãy khán thoại đầu “Niệm Phật là ai?” và nghiên cứu Đại Trí Độ Luận. Năm 19 tuổi, Sư quyết chí xuất gia xiển dương chánh pháp, hồi nhỏ cha mẹ đã đính hôn cho Sư, Sư kiên quyết không lấy vợ. Vào năm ấy lễ Tỉnh An hòa thượng ở nơi đó xin xuống tóc thọ đại giới. Vừa xuất gia đã tinh tiến dũng mãnh, nơi Phật tiền đốt hai ngón út và áp út tay trái, cùng cắt miếng thịt to bằng bàn tay, trên đó đốt bốn mươi tám liều cúng dường Phật, phát ba đại nguyện:

1. Chẳng ham ăn ngon, mặc đẹp, siêng tu khổ hạnh chẳng bao giờ lui sụt.
2. Tham duyệt khắp tất cả kinh điển, khổ công tham cứu.
3. Đem hết sở đắc diễn giảng chỉ dạy để quảng lợi quần sanh.

Mỗi ngày trừ việc xem Kinh ra, Sư còn tụng Phật hiệu năm ngàn tiếng, luôn tụng Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Lăng Nghiêm. Lúc rãnh rỗi có khóa lễ bái kinh Viên Giác, Sư ông của Sư bảo rằng: “Tu như ngươi thì tại gia cũng được, cần gì phải xuất gia! Chẳng cần hiện Tăng tướng, cần phải chuyên tu pháp môn hướng thượng (Tổ sư thiền) mới là việc lớn bổn phận người xuất gia”, rồi dạy khán thoại đầu “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” và trao cho Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Chỉ Nguyệt Lục; Sư xem qua có cái biết có cái không. Sư rất thích Lâm Tế Ngữ Lục, nhưng cách dụng công như thế nào vẫn còn chưa rõ. Sư về sau theo Ngộ Tham pháp sư học giáo lý của các tông Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân.

Năm 22 tuổi liền ra giảng kinh thuyết pháp, thính giả rất đông. Đáp lời mời của Pháp hội Lăng Già ở Nam Kinh, Sư thị chúng rằng: “Chúng sanh bản lai là Phật, chỉ vì vọng niệm vô minh nên không liễu thoát sanh tử được, nếu phá một phần vọng niệm vô minh thì được chứng một phần Pháp thân, vọng niệm vô minh phá hết thì Pháp thân hiển lộ”.

Bấy giờ trong Pháp hội có Tôn túc Khai Minh hỏi rằng: Nếu vọng niệm vô minh từ ngoài đến, không có dính dáng gì với ông thì cần gì dứt nó? Nếu vọng niệm từ bên trong sanh ra, ví như nguồn suối luôn luôn có nước chảy, dứt rồi lại sanh, sanh rồi lại dứt, đến khi nào mới hết! Tu hành như thế thật chẳng có chỗ đúng! Vọng niệm dứt là Phật tánh, vọng niệm khởi là chúng sanh, vậy thành Phật cũng có luân hồi ư?

Sư không trả lời được.

Lại hỏi tiếp: Pháp sư chưa từng minh tâm kiến tánh, trong Kinh chẳng có những lời này, những lời này là có được từ các chú giải; người kiến tánh chú giải thì chẳng sai, người chưa kiến tánh chú giải nói Nam ra Bắc, lôi Đông bỏ Tây, thị phi điên đảo có phải không?

Sư đáp: Phải. Sư đảnh lễ Tôn túc và trình lời nhà Phật học nói về “Dùng cách nào mới có thể minh tâm kiến tánh?”

Tôn túc bảo: Lời này Pháp sư nên đến hỏi Tông sư Thiết Nham ở Ngưu Đầu Sơn là người đã chứng ngộ.

Ngay đêm ấy, Sư đến hỏi Thiết Nham rằng: Lão Hòa thượng ở đây làm gì?
Nham bảo: Mặc áo, ăn cơm, ngủ nghỉ, dạo núi, ngắm sông.
Sư nói: Đáng tiếc cho sự uổng qua ngày tháng của Ngài!
Nham nói: Ta uổng qua thì được, nhưng ngươi không thể học ta uổng qua. Nếu ngươi đến được miếng điền địa kia thì cũng có thể học ta uổng qua vậy!
Sư nói: Thế nào là miếng điền địa kia?
Nham dựng một ngón tay lên.
Sư đáp lại: Con không biết! Sư hỏi “Hiện nay con đem vọng niệm dứt sạch, chẳng trụ hữu vô, vậy có phải miếng điền địa kia không?”
Nham bảo: Không phải, đó là cảnh giới vô thỉ vô minh.
Sư hỏi: Lâm Tế tổ sư nói đó là hầm sâu đen tối của vô minh thật đáng sợ, có phải vậy không?
Nham bảo: Phải.
Sư trình câu nói của nhà Phật học về: Dùng cách nào mới có thể minh tâm kiến tánh được?
Nham bảo: Ngươi chớ nên dứt vọng niệm, nên dùng nhãn căn nhìn thẳng vào chỗ hầm sâu đen tối chẳng trụ hữu vô ấy, đi, đứng, nằm, ngồi chẳng được gián đoạn, khi nhân duyên đến, “ồ” lên một tiếng, hầm sâu đen tối của vô minh tan rã thì được minh tâm kiến tánh.

Sư nghe lời này như uống nước cam lồ, từ ấy ngày đêm khổ tham, hình dung tiều tụy, ốm như cây củi, một đêm nghe tiếng gió thổi lá cây ngô đồng thì hoát nhiên chứng ngộ, mồ hôi như tắm, rằng “ồ” là vậy là vậy! Chẳng xanh chẳng trắng cũng chẳng tham thiền, cũng chẳng niệm Phật, cũng chẳng sanh tử đại sự, cũng chẳng vô thường tấn tốc, liền thuyết kệ rằng:
Bản lai chẳng Phật chẳng chúng sanh,
Thế giới chưa từng thấy một người,
Thấu liễu cứu cánh là cái này,
Tự tánh vẫn là tự mình sanh.

Nhìn ra ngoài cửa sổ chính là vào canh tư, trăng treo trên nền trời xanh tít không dợn chút mây. Mấy ngày sau Sư đến Thiết Nham, nói: Chẳng cầu pháp môn dụng công, chỉ cầu lão Hòa thượng ấn chứng.
Thiết Nham đưa cây gậy lên ra thế đánh hỏi Sư rằng: Tào Khê chưa gặp Hoàng Mai, ý chỉ như thế nào?
Sư đáp: Lão Hòa thượng muốn đánh người.
Thiết Nham lại hỏi: Sau khi gặp ý chỉ như thế nào?
Sư vẫn đáp rằng: Lão Hòa thượng muốn đánh người.
Nham gật đầu.
Sư đem sở ngộ trình Thiết Nham.
Nham bảo: Ngươi chứng ngộ rồi, nay ta ấn chứng cho, ngươi có thể đem Truyền Đăng Lục để ấn chứng thêm. Đại sự ngươi đã xong, có nhân duyên thì thuyết pháp độ sanh, chẳng nhân duyên có thể tùy duyên qua ngày.
Sư bèn đem Truyền Đăng Lục, Chỉ Nguyệt Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên và kinh Hoa Nghiêm để ấn chứng, tất cả thấu rõ như nói chuyện việc nhà vậy, chẳng có việc lạ.

Từ đó về sau, Sư giảng Kinh thì theo trong Kinh nói: “Thường giữ Phật tánh, không có biến đổi, Phật tánh chẳng nhiễm chẳng loạn, chẳng ngại chẳng chán, chẳng thọ huân nhiễm, chẳng khởi vọng niệm, vì vọng niệm sanh khởi từ linh tánh của kiến, văn, giác, tri trừ bỏ bốn bệnh chỉ, tác, nhậm, diệt, chẳng dứt vọng niệm, dùng một niệm để phá tan vô thỉ vô minh làm chủ yếu”.

Sư giảng kinh thuyết pháp đều trong tự tánh nói ra, chẳng xem chú giải của người khác. về sau thể theo lời mời của các tỉnh Trung Quốc cho đến Hương Cảng, Áo Môn; Sư đăng đàn thuyết pháp liên tiếp mấy chục năm, giảng kinh hơn hai trăm năm mươi hội, cứ một kinh là một hội.

Tánh Sư siêu nhiên, hành cước các nơi như Chung Nam, Thái Bạch, Hương Sơn, Hoa Sơn, Nga Mi, Cửu Hoa, Phổ Đà, Ngũ Đài, Thái Sơn, Hoàng Sơn, Võ Đang, Lư Sơn, Mao Sơn, Mạc Can, Lao Sơn, Hằng Sơn, La Phú Sơn… Mỗi khi hành cước nơi rừng sâu núi cao mấy tháng quên về, đến danh sơn nào cũng có thi đối. Sư giỏi đàn thất huyền, hành cước đều mang đàn theo, Sư tiết tháo cao cả, độ lượng rộng lớn, chẳng ứng thú theo thói đời, hình dáng sáng suốt hùng vĩ, đến bậc túc Nho thông đạt cũng hạnh trang nghiêm đơn giản của Sư, trứ tác thi văn bày tỏ bản sắc siêu việt pháp thế gian.

Sư lúc già đưa một ngón tay vì môn đồ thuyết pháp rằng: “Đến từ cùng khắp hư không đến, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca; đi từ cùng hư không đi, Quan Thế Âm, Phật Di Đà. Chư Phật cổ kim đều ở trên đầu ngón tay của lão Tăng, chẳng đi chẳng đến; lão Tăng cũng ở trên đầu ngón tay, chẳng đi chẳng đến. Các ngươi nếu nhận được thì đó là chỗ an thân lập mạng của các ngươi!”

Thuyết kệ rằng:
Giảng kinh thuyết pháp mấy mươi năm,
Độ sanh, vô sanh muôn muôn ngàn.
Đợi khi một ngày thế duyên hết,
Đầy khắp hư không đại tự tạ.

Sư phó chúc đệ tử rằng: Tứ đại theo nhân duyên, có sanh ắt có diệt; tự tánh vốn vô sanh, vô sanh cũng vô diệt. Nay nói có sanh ắt có diệt là tứ đại phải có chỗ về. Chỗ về chọn trên đỉnh Bảo Mã Sơn, sau làng Đỗ Gia Dinh, ngoài cửa nam thành phố Côn Minh nhìn xuống, ngay hồ Côn Minh làm cao ngọa xứ.

Suốt đời sư chưa độ một đệ tử xuất gia, đệ tử tại gia hơn một trăm sáu mươi ngàn người. Sư tùy theo căn cơ đệ tử mà dạy tu pháp môn khác nhau, trong đó có tham thiền ngộ đạo có tám người: Ngũ Đài Tịch Chơn, Minh Tịnh Tôn Túc, cư sĩ Lý Quảng Quyền ở Bắc Bình, cư sĩ Chu Vận Pháp ở Thượng Hải, còn bốn người đã qua đời từ trước.

Sư có trứ tác: Duy Ma Cật Kinh Giảng Lục, Lăng Già Kinh Giảng Lục, Viên Giác Kinh Giảng Lục, Kim Cang Kinh Giảng Lục, Phật Giáo Nhân Sinh Quan, Phật Pháp Vấn Đáp Lục, Đại Thừa Bát Tông Tu Pháp, Đại Thừa Tuyệt Đối Luận, Nguyệt Khê Ngữ Lục, Tham Thiền Tu Pháp, Niệm Phật Tu Pháp, Vĩnh Phong Đường Cầm Khóa.

Ngày rằm tháng hai năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 60 (1971 CN).

Đệ tử Trí Viên kính soạn và viết.
(nguồn:http://quangduc.com)

Sửa bởi HKVSH: 03/08/2011 - 20:09


#8 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 04/08/2011 - 10:04

LỜI GIỚI THIỆU PHÁP MÔN TỔ SƯ THIỀN
Thích Duy Lực



Từ Ân Thiền Đường chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, là pháp thiền trực tiếp do Phật Thích Ca đích thân truyền cho sơ tổ Ma Ha Ca Diếp, rồi truyền cho nhị tổ Anan, Tam Tổ Thương Na Hòa Tu, từ tổ từ tổ truyền xuống, đến tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma truyền sang Trung Quốc làm sơ tổ Trung Quốc rồi truyền cho người Trung Quốc là Nhị Tổ Huệ Khả, Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Lục Tổ Huệ Năng v.v. Đến Thầy Thích Duy Lực là đời thứ 89 (kể từ tổ Ca Diếp).
Theo thực tế mà nói, Phật Giáo là giáo dục, truyền dạy Tâm Pháp dẫn đến giác ngộ cuối cùng, nhưng hiện nay nhiều người hiểu lầm cho là một tôn giáo mê tín. Nói giáo dục là bao gồm vũ trụ vạn vật, chẳng có một sự vật nào thiếu sót gọi là vạn pháp duy tâm. Vì nguồn gốc của vạn sự vạn vật là tâm linh, nên Phật Thích Ca nói tất cả do tâm tạo. Vậy tâm là thế nào? Tâm là một danh từ ai cũng nói được, nhưng tâm là gì thì chẳng ai biết. Tổ thứ 14 của Thiền Tông Ấn Độ là Ngài Long Thọ dùng "hư không vô sở hữu" để thí dụ cho tâm. Tâm linh vốn không có hình thể số lượng. Do đó dùng bộ óc suy nghĩ chẳng thể tiếp xúc, nên chẳng thể dùng lời nói văn tự để diễn tả. Phật Pháp chỉ có thể miễn cưỡng nói là tánh KHÔNG. Dù nói KHÔNG, KHÔNG này tức là để hiển bày sự dụng của tâm. Cũng như hư không vô sở hữu mà dung nạp tất cả vật, tất cả vũ trụ vạn vật từ mặt trăng, mặt trời, cho tới núi sông, đất đai, nhà cửa, cây cối, bất cứ cái gì đều phải nhờ cái "vô sở hữu" này dung nạp và ứng dụng. Cuộc sống hằng ngày của con người như ăn cơm, mặc áo, nói năng, tiếp khách, làm việc đều phải nhờ cái "vô sở hữu" này mới được hiển bày, chỉ tiếc rằng chúng ta ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết. Nên Phật Thích Ca dạy pháp thiền trực tiếp để mọi người đều được tự hiện toàn vẹn chính tâm mình. Cái giờ phút hiện ra tâm mình gọi là kiến tánh thành Phật. Dù nói thành Phật thực chẳng có Phật để thành, chỉ là ở trong mở mắt chiêm bao tỉnh dậy mà thôi. Cũng như ở trong nhắm mắt chiêm bao tỉnh dậy thì tự chứng tỏ tất cả sự vật trong chiêm bao (người và thế giới chiêm bao) đều chẳng thật gọi là chứng ngộ.

Nay nói sơ về cách thực hành Tham Tổ Sư Thiền: Tức là tham thoại đầu và khán thoại đầu. Thoại là lời nói, đầu là đầu tiên lời nói. Nghĩa là chưa khởi ý niệm muốn nói, mới được gọi là thoại đầu. Hễ khởi niệm muốn nói là thoại vĩ rồi. Tham là hỏi câu thoại để kích thích sự không hiểu không biết. Khán là nhìn chỗ không biết, muốn xem chỗ không biết đó là gì? Chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, nên nhìn mãi không thấy gì, vẫn còn không biết, chính cái không biết đó Thiền Tông gọi là nghi tình.

Hành giả tham thiền, cứ hỏi và nhìn đồng thời đi song song để giữ cái nghi tình. Nghi tình này sẽ đưa hành giả đến thoại đầu. Thoại đầu tức là vô thuỷ vô minh, cũng gọi là đầu sào trăm thước, cũng là nguồn gốc của ý thức. Từ đầu sào trăm thước tiến lên một bước ngay đó liền lìa ý thức, cái sát na lìa ý thức đó gọi là kiến tánh thành Phật - bỗng dứt hết nghi. Tức là trí Bát Nhã được hiện hành khắp không gian thời gian, sự hiểu biết chẳng có gì thiếu sót. Giáo môn gọi là "Chánh Biến Tri".

Westminster, CA 12-21-96

Thích Duy Lực

12-22-1996 04:13:29

(nguôn:http://quangduc.com)

ĐƯỜNG LỐI THỰC HÀNH
THAM TỒ SƯ THIỀN
Tác giả: THÍCH DUY LỰC

--------------------------------------------------------------------------------

Tổ Sư Thiền này là do đường lối chánh thức của Tổ Sư truyền xuống, gọi là tham thiền. Tham thiền không phải là ngồi thiền, ngồi thiền cũng không phải là tham thiền. Nhiều người lầm tưởng rằng ngồi thiền tức tham thiền kỳ thực tham thiền không cần ngồi cũng được. Như Tổ dạy: Phải khi lao động mà tập tham được mới tốt, nếu chỉ thích ngồi yên một chỗ vắng lặng mà tập tham thì khó hy vọng kiến tánh.
Lục Tổ nói: "Đạo do tâm ngộ, bất tại tọa". Phẩm Tọa thiền trong Pháp Bảo Đàn Kinh nói đến Tọa thiền là tâm tọa (chứ không phải thân tọa) nghĩa là: ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là tọa, trong thấy tự tánh chẳng động gọi là thiền. Vậy thế nào là tham thiền? Chữ tham tức là Nghi, Nghi tức là không hiểu, một việc gì đã hiểu rồi thì hết nghi, hết nghi tức là không có tham, cho nên tham thiền rất chú trọng cái nghi gọi là nghi tình. Muốn khởi lên cái nghi tình phải nhờ câu thoại đầu, gọi là tham thoại đầu. Thế nào là thoại đầu? Theo Ngài Hư Vân giải thích rằng khi muốn nói một câu thoại thì phải khởi niệm rồi mới nói được, lúc chưa khởi niệm muốn nói gọi là thoại đầu, nếu đã khởi niệm muốn nói, mặc dù chưa nói ra cũng đã là thoại vĩ rồi. Hiện nay bắt đầu tham thiền thì chưa đến thoại đầu nhưng cũng không phải ở thoại vĩ, là từ thoại vĩ tiến đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường một ngày kia sẽ tiến tới thoại đầu. Lúc ấy câu thoại tự mất, nếu còn câu thoại thì chưa đến thoại đầu. Ngài Hư Vân có thí dụ rằng: "Thoại đầu là cây gậy, nghi tình là đi, như người cụt chân muốn đi phải nhờ cây gậy, cũng như muốn khởi nghi tình phải nhờ câu thoại đầu vậy.

Nói tham thoại đầu, thoại đầu thì nhiều lắm, muôn muôn ngàn ngàn kể không hết, bây giờ tôi chỉ đề ra 5 câu thoại đầu để cho người tham thiền tự mình lựa một câu, câu nào tự mình cảm thấy rất khó hiểu, hiểu không nổi thì câu đó thích hợp cho mình tham. Chỉ được lựa một câu không cho lựa hai câu và sau khi quyết định câu nào rồi không cho đổi qua đổi lại, thẳng tới mà tham đến kiến tánh mới thôi.

Năm câu thoại đầu là:

Khi chưa có trời đất, ta là cái gì?

Muôn pháp về một, một về chổ nào?

Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao?

Sanh từ đâu đến, chết đi về đâu?

Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?

Câu thoại đầu là câu hỏi, có hỏi thì phải có đáp, cũng như câu: "Khi chưa có Trời đất, ta là cái gì?" hỏi thầm trong bụng cảm thấy không hiểu thì đáp không ra, đáp không ra thì càng thấy thắc mắc, chính cái thắc mắc đó gọi là nghi tình. Hỏi câu thứ nhất đáp không ra thì tiếp tục hỏi câu thứ nhì, đáp không ra, tiếp tục hỏi câu thứ ba, cứ tiếp tục hỏi mãi, ngày đêm không ngừng, bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, đang làm công việc tay chân hay bằng trí óc, đi bộ, đi xe, đang ăn cơm, đang đi cầu, đang ngủ mê, đều phải tiếp tục hỏi tới hoài, không giây phút gián đoạn. Người sơ tham thì hay quên cũng như một ngày 24 tiếng đồng hồ, gián đoạn 23 tiếng, tập tham dần dần thì sự gián đoạn giảm bớt còn 22 tiếng, rồi tiếp tục còn 21 tiếng, 20 tiếng v.v... dần dần đến công phu miên mật tức là ngày đêm 24 giờ không giây phút gián đoạn. Khi công phu được thành khối cũng gọi là đến thoại đầu, cũng gọi là đến đầu sào trăm thước. Từ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước nữa là kiến tánh, đạt đến chỗ tự do tự tại, được giải thoát vĩnh viễn tất cả khổ.

Người tham Tổ Sư Thiền phải chú ý những điều sau đây:

1 - PHÁ NGÃ CHẤP

Theo Phật pháp, bất cứ tiểu thừa, trung thừa, đại thừa, cho đến tối thượng thừa, chẳng có thừa nào là không phá ngã chấp cả. Nếu không phá ngã chấp thì không được giải thoát cái khổ sanh tử, không được ra khỏi sanh tử luân hồi. Vậy tham thiền phải phá ngã chấp bằng cách nào? Là bằng chín chữ: "Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ" đó là cái căn bản để thực hành phá ngã chấp. Nếu có sở đắc là còn chấp ngã, có sở cầu là còn chấp ngã, có sở sợ là còn chấp ngã.

2 - PHÂN BIỆT HỔ NGHI VÀ CHÁNH NGHI

Tham thiền là chánh nghi. Chánh nghi là chỉ cho tâm nghi, chứ không cho tâm đi tìm hiểu so sánh, để nuôi cái nghi tình cho thật mạnh. Khi nghi tình mạnh tới cùng tột, thình lình bùng nổ gọi là kiến tánh. Kiến tánh là giác ngộ, là biết được chính mình mới làm chủ được mình. Tự làm chủ được mới tự do tự tại được. Tự do tự tại là vĩnh viễn giải thoát tất cả khổ, cho nên gọi là kiến tánh thành Phật. Còn hồ nghi là lấy tâm đi tìm hiểu, hoặc giải thích câu thoại đầu cho ra đáp án, đó không phải là tham thiền, hồ nghi chỉ có thể được giải ngộ, chứ không được chứng ngộ, cũng như nhà khoa học Newton thấy trái táo từ trên cây rơi xuống mà sanh ra nghi vấn: Tại sao trái táo rớt xuống đất mà không bay lên trời? Từ đó, ông lấy tâm đi nghiên cứu tìm hiểu, cuối cùng ngộ được: Lực hấp dẫn vạn vật. Đó là hồ nghi. Hồ nghi chỉ có thể phát minh được đồ dùng của thế gian, chỉ có giá trị đối với thế gian vì không ngộ được chính mình nên không làm chủ mình được, không đạt đến tự do tự tại được.

3- CHẲNG CHO KHỞI BIỆT NIỆM

Ngoài nghi tình ra không cho khởi niệm khác, không cho đè nén vọng tưởng, không cho buông bỏ vọng tưởng, cũng không cho trừ vọng tưởng, vọng tưởng khởi lên bao nhiêu cũng mặc kệ không cần biết tới có vọng tưởng hay không có vọng tưởng, vì nghi tình chính là cây chổi automatic, không cần sự tác ý, tự nó quét sạch tất cả. Vó vọng tưởng cũng quét, không có vọng tưởng nó cũng quét. Nếu nghi tình được miên mật thì tất nhiên vọng tưởng không có kẽ hở mà nổi lên, hễ có khởi lên một niệm khác tức là đã có kẽ hở rồi.

4 - NHÂN QUẢ, NGHI NGỘ

Phải biết nghi là nhân, ngộ là quả. Không có nhân thì không có quả cho nên bất nghi bất ngộ, nhân nhỏ, quả nhỏ, cho nên tiểu nghi, tiểu ngộ, nhân lớn, quả lớn, cho nên đại nghi, đại ngộ. Nếu tham thiền lúc nghi tình nặng, ảnh hưởng đến nhức đầu, tức ngực, khó thở, đó là đại nghi. Khi đó, thì nhức nhiều chừng nào thì tốt chừng nấy, chớ nên sợ, đó là tình hình tốt bởi vì đại nghi sẽ được đại ngộ. Nhưng lúc ngồi mà có tình trạng như vậy thì không được.

Không được thì phải làm sao? Phải mau mau đứng dậy kiếm công việc làm nhưng vẫn phải tiếp tục tham cứu. Nếu tham tới cảm thấy thần kinh căng thẳng quá chịu không nổi thì câu thoại đầu phải đề chậm lại từng chữ một, chậm thật chậm, mỗi chữ kéo dài độ mười giây như vậy sự căng thẳng thần kinh sẽ dần dần được giải tỏa.

5- CHẲNG PHÂN BIỆT TƯ CÁCH

Tham Tổ Sư Thiền không kể sơ tham, lão tham, thông minh, dốt nát, ngu si, người già hay trẻ con. Trong Kinh Pháp Hoa: Long Nữ 8 tuổi được thành Phật. Truyền Đăng Lục (lịch sử thiền tông Trung Hoa) có một cô họ Trịnh 13 tuổi kiến tánh, một cô họ Tô 15 tuổi được kiến tánh và nhiều Tổ ngu si dốt nát cũng tham thiền được kiến tánh. Người tham thiền chỉ cần thống thiết vì việc sanh tử, dũng mãnh tham cứu thì bất cứ người nào cũng có thể kiến tánh thành Phật, không nên tự khinh khả năng thành Phật của mình.

6 - THÂM TIN TỰ TÂM

Tham thiền phải tin tự tâm, nếu chỉ tin pháp môn tham thiền mà không tin tự tâm thì dù tinh tiến đến mức nào cũng không được kiến tánh, nên Ngài Bác Sơn nói: tin có chánh, tà; tin "tự tâm tức Phật" là chánh, ngoài tâm chấp có pháp gọi là tà; "tức Phật" là cần phải tham cứu cho sáng tỏ tự tâm và phải đích thân dẫm đến tới chỗ chẳng nghi mới gọi là chánh tín, còn như mập mờ, lầm lạc, đoán mò chỉ nói "tức tâm tức Phật" mà thật không muốn tham cứu rõ tự tâm thì gọi là tà tín."

7 - PHẢI NGỘ TỰ TÁNH

"Hàn lu trục khối, sư tử giảo nhân" (Chó Hàn đuổi cục xương, sư tử thì cắn người). Đây là hai câu thí dụ của Tổ Sư, nghĩa là: Một người quăng cục xương, con chó đuổi theo cục xương mà cắn còn con sư tử thì không ngó tới cục xương cứ cắn ngay người đó. Người đó dụ cho tự tánh, cục xương dụ cho lời nói của Tổ, của Phật. Nếu hướng vào lời nói của Tổ, của Phật mà ngộ là con chó, hướng vào tự tánh mà ngộ là con sư tử.

Cổ Đức nói: "Tử ư cú hạ" (chết trong ngữ cú), hướng cử khởi xứ thừa đương (hướng vào chỗ lời nói mà nhận lấy)", nghĩa là lời nói của Tổ vừa nói ra, vừa

nghe hiểu liền cho đó là ngộ, nhưng sự hiểu ngộ đó còn nằm trong ý thức phân biệt, mặc dù đúng lý thế gian rất lô-gích, nhưng vì chẳng biết cần phải lìa ý thức mới chứng ngộ được. Cho nên bị Tổ chê là Hàn lu (loại chó mực rất thông minh ở nước Hàn).

8 - KHÔNG LỌT VÔ KÝ

Tham thiền nên tránh lọt vào "Vô ký-không". Pháp môn khác chỉ cầu được dứt niệm, nhưng tham thiền trái lại không cho dứt niệm tức là nghi tình phải luôn luôn tiếp tục, không cho gián đoạn. Nếu không có nghi tình cũng không có vọng tưởng thì lọt vào Vô ký-không là một thứ thiền bệnh, Tổ Sư gọi là "ngâm nước chết", mặc dù lúc ấy cảm thấy được thanh thanh tịnh tịnh, trong mình cảm thấy nhẹ nhàng nhưng chấp lấy cái đó thì vĩnh viễn không được kiến tánh, chẳng thà có nghi tình, có vọng tưởng còn tốt hơn. Vậy tham thiền nếu chưa đến thoại đầu chớ nên bỏ câu thoại. Có người bỏ câu thoại vẫn còn nghi tình cho là tốt, thực thì không đúng vì có thể bị gián đoạn một khoảng thời gian lâu mà tự mình không hay, lại cũng dễ bị lọt vào vô Ký không nữa.

9 - HÀNH KHỞI GIẢI TUYỆT

Theo giáo-môn thông thường, sự tu hành phải trải qua bốn giai đoạn là: tín, giải, hành, chứng. Ban đầu do tin rồi đi tìm hiểu (giải), theo sự hiểu mà thực hành, vừa thực hành vừa tìm hiểu thêm, vừa hiểu thêm vừa thực hành thêm từng bậc tiến lên chứng từ thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa cho đến đẳng giác, diệu giác. Đó là cách tu thông thường. Còn Tổ Sư thiền thì không phải vậy. Trước tiên cũng phải có tin, có hiểu, nhưng khi bắt đầu thực hành thì không được tìm hiểu nữa. Thiền môn gọi là "Hành khởi giải tuyệt" tức là đã bắt đầu tham thiền rồi thì sự tìm hiểu kiến giải phải chấm dứt.

Cho nên tham thiền không cho hiểu thiền, hiểu đạo. Tại sao vậy? Vì đang tham thiền là đã có thiền, có đạo rồi. Nếu đi tìm hiểu thiền hiểu đạo nữa thì cũng như mình đã có một cái đầu rồi còn sinh thêm một cái đầu thứ hai nữa. Tổ Sư gọi: "Đầu thượng an đầu" (trên đầu thêm đầu) thì cái đầu thứ hai, không những không có ích cho cái đầu bổn lai, lại còn làm chướng ngại khổ sở cho cái đầu bổn lai nên phải mời Bác sĩ cắt bỏ mới được khôi phục sức khỏe lại.

Vậy hiểu thiền hiểu đạo còn không cho huống là đi tìm hiểu cái khác nữa. Phải biết rằng ham tìm hiểu rất chướng ngại cho sự chứng ngộ. Thế nên "Hành khởi giải tuyệt" là vậy.

10 - CHÚ TRỌNG THỰC HÀNH

Tổ Sư Thiền chỉ chú trọng thực hành không cần lý luận, nhưng khi đang thực hành sẽ tùy theo căn cơ trình độ khác biệt, tình chấp nặng nhẹ, kiến giải cao thấp và sự ham thích bất đồng của mỗi người mà sinh ra muôn ngàn lối tẻ sai biệt, cho nên quyển sách này chỉ được nêu ra những điều thực hành chung,

còn nhiều chi tiết vi tế không thể kể hết ở trong này, phải tùy bệnh mà cho thuốc, vì thế mặc dù cách tham thoại đầu rất dễ nhưng cũng phải có người lão tham hướng dẫn mới được. Nếu tự làm tài khôn mà không đi đúng với tôn chỉ chính xác tủa Tổ Sư Thiền thì sẽ có thể trở thành phỉ báng Phật pháp, tạo tội địa ngục mà tự mình không biết, xin người học thiền để ý cho.




CƠ BẢN THỰC HÀNH
TỒ SƯ THIỀN

Muốn đạt đến kiến tánh giải thoát, hành giả tham tổ sư thiền cần phải thực hành đúng theo cơ bản như sau:

1 - TIN TỰ TÂM

Thế nào là TIN TỰ TÂM? Phải tin tự tâm mình đồng với Chư Phật chẳng hai chẳng khác, tức là thần thông trí huệ của bản tâm mình không kém hơn Chư Phật một tí nào cả. Vì bản thể và diệu dụng của bản tâm mình cũng như Chư Phật, cùng khắp không gian và thời gian, nên nói tự tánh bình đẳng bất nhị. Nếu kém Phật một tí thì Phật cao hơn chúng sanh, là bất bình đẳng, có cao có thấp là nhị.

Nếu đã tin tự tâm sẳn đầy đủ tất cả năng lực thần thông trí huệ, bản thể và diệu dụng cùng khắp không gian và thời gian, như Phật nói "Ngoài tâm chẳng có pháp" thì đương nhiên thực hành được 9 chữ "VÔ SỞ ĐẮC, VÔ SỞ CẦU, VÔ SỞ SỢ". Vì đắc là đắc ngoài tâm, cầu là cầu ngoài tâm, bản tâm cùng khắp không gian và thời gian, ngoài không gian chẳng có không gian, ngoài thời gian chẳng có thời gian, vậy thì ngoài còn chẳng có, còn có gì để cho mình đắc để cho mình cầu! Không đắc không cầu thì không còn gì để sợ, như thế không phá ngã chấp cũng tự phá ngã chấp rồi, vì VÔ SỞ ĐẮC, VÔ SỞ CẦU, VÔ SỞ SỢ là dùng để phá ngã chấp, phá hết ngã chấp thì được giải thoát cái khổ sanh tử luân hồi.

Lại nếu không tin tự tâm, chỉ tin pháp môn Tổ Sư Thiền thì dù siêng năng tu tập cách mấy cũng không thể đạt đến kiến tánh. Tại sao? Vì không tin tâm mình thì làm sao tự hiện được bản tâm mình! Tự hiện bản tâm tức là kiến tánh, nên nói tin tự tâm là cơ bản của chánh pháp.

2 - NGHI TÌNH.

Thế nào là NGHI TÌNH? Tức là đề câu thoại đầu hỏi thầm trong bụng, cảm thấy không biết, thiền môn gọi là Nghi Tình. Bất cứ đi đứng nằm ngồi, làm việc bằng tay chân hay trí óc, cho đến lúc ăn cơm, đi cầu, nói chuyện, ngủ mê đều phải có nghi tình. Có nghi tình mới được gọi là tham thiền, nói một cách khác tức là dùng cái tâm không biết (Nghi Tình) của bộ não để chấm dứt tất cả biết của bộ não (1). Dù nói chấm dứt, kỳ thật khỏi cần tác ý chấm dứt, có

nghi tình thì đương nhiên tự nó chấm dứt, vì tất cả biết của bộ não đều là tướng bệnh, cũng là cái biết của người mù. Ví như người mù không thấy mặt trời, hỏi người mắt sáng, người mắt sáng nói "mặt trời có tròn có nóng", người mắt sáng diễn tả mặt trời thì đúng, nhưng người mù chấp tròn với nóng cho là mặt trời thì không đúng rồi.

Muốn giữ nghi tình trước tiên phải chấm dứt những tìm hiểu biết và ghi nhớ biết, sau chấm dứt luôn cái tùy duyên biết (tùy duyên biết là khỏi cần tìm hiểu cũng biết, như đi đứng nằm ngồi, mặc áo ăn cơm v.v...). Nên Ngài Lai Quả nói "lúc công phu đến thoại đầu thì đi chẳng biết đi, ngồi chẳng biết ngồi". Công phu đến thoại đầu thì câu thoại tự mất, tất cả biết của bộ não đều hết, khi ấy tham thiền không biết tham thiền, ăn cơm không biết ăn cơm, luôn cả cái không biết cũng không biết luôn. Công phu đến đây là gần kiến tánh, người đời coi mình như người khờ ngốc, nhưng sự thật thì sẽ phát đại trí huệ, cuối cùng cái nghi tình bùng nổ, cái tâm không biết của bộ não cũng tan rã. Bấy giờ cái biết và không biết của bộ não đều sạch, tướng bệnh (tác dụng của bộ não) đã hết, trong sát na đó tướng mạnh (cái biết của bản thể Phật tánh) hiện ra, gọi là kiến tánh thành Phật.

Tổ nói "Tri chẳng có hai người, pháp chẳng có hai thứ". Tại sao tri chẳng có hai người? Vì cái tri của bản thể gọi là Chánh Biến Tri, cùng khắp không gian và thời gian, chỉ có một cái tri(2), nếu có thêm cái tri của bộ não (không cùng khắp) thì thành hai cái tri, tức là hai người. Sao nói pháp chẳng có hai thứ? Vì tất cả pháp đều do tâm tạo, bản thể của tâm đã cùng khắp không gian và thời gian thì pháp của tâm tạo ra cũng phải cùng khắp như bản tâm, nên nói pháp chẳng hai thứ. Nếu có pháp nào do bộ não chấp nhận là pháp thật thì pháp thứ hai này cũng là tướng bệnh.



GHI CHÚ:

(1) CÁI TÂM KHÔNG BIẾT CỦA BỘ NÃO:

Khi hỏi câu thoại đầu cảm thấy không biết, thì cái tâm ham biết của tập khí lâu đời bất tri bất giác tự mống khởi, rồi tự thành nghi tình. Cái tâm không biết này khác với cái không biết của người khờ ngốc, bệnh tâm thần và sự ngủ mê hay chết giấc, nên nói cái tâm không biết của bộ não là cơ bản của nghi tình. Muốn giữ nghi tình là phải dùng cái tâm không biết, nếu tâm có biết thì không phải nghi tình, tức là không có tham thiền.

(2) Tự tánh bất nhị vốn chẳng phải một, nay nói MỘT chỉ là phương tiện, nếu thật có một thì phải có hai, ba cho đến muôn ngàn.



Ghi chú hết

Sửa bởi HKVSH: 04/08/2011 - 10:07


#9 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 04/08/2011 - 22:00

TIỂU SỬ
Thiền Sư Thích Duy Lực
Tọa Chủ Từ Ân Thiền Đường Hoa Kỳ

THỜI THƠ ẤU

Sư hiệu DUY LỰC, tự GIÁC KHAI, thế danh LA DU sanh ngày 05 tháng 05 năm 1923, là người làng Long Yên, huyện Phong Thuận phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Cha tên là La Xương và mẹ tên là Lưu Thị, làm nghề nông. Sau khi tốt nghiệp phổ thông cấp 1, thì Sư phải nghỉ học, theo cha sang Việt Nam sinh sống, lúc đó Sư được 16 tuổi (1938). Trú tại tỉnh Cần Thơ, Sư thường tranh thủ tự học trong lúc rảnh rỗi. Đến năm 26 tuổi (1948), thi đậu bằng giáo viên Hoa Văn và được mời dạy ở các trường tiểu học tỉnh Tà Keo Cao Miên (nay là Campuchia), và trường Khải Trí ở Cần Thơ, Trường Cái Vồn ở Vĩnh Long, Việt Nam trải qua 10 năm. Năm 1958, sau khi lấy bằng Đông Y Sĩ cấp 1, Sư được mời làm đông y sĩ cho tiệm thuốc Tế Ngươn Đường Cà Mâu và Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm tỉnh Cần Thơ để khám bệnh miễn phí cho dân trong thời gian 8 năm.

Trong tủ sách của Cư Sĩ Lâm có bộ Kinh Tục Tạng gồm 150 quyển, lúc đầu Sư định đọc hết toàn bộ, nhưng trải qua một năm chỉ xem được 7 quyển, sau quyết định chỉ xem phần Thiền Tông. Lúc đó Sư theo Pháp sư DIỆU DUYÊN tham học Tổ Sư Thiền (Pháp Sư Diệu Duyên đã nhiều năm thân cận Lai Quả Thiền Sư và Hư Vân Thiền Sư, và ngài tịch vào năm 1976 tại Chùa Thảo Đường Việt Nam).

THỜI KỲ XUẤT GIA HỌC ĐẠO

Vào mùng 08 tháng 02 năm 1973, Sư được Hòa Thượng, thượng Hoằng hạ Tu cho xuất gia tu học tại chùa Từ Aân Quận 11 Chợ Lớn. Tháng 05 năm 1974, Sư thọ giới Tam Đàn Cụ Túc tại Chùa Cực Lạc Malaysia.

Từ đó Sư chuyên tham câu thoại đầu "Khi chưa có trời đất ta là cái gì" trải qua nhiều năm, một hôm do đọc quyển "Trung Quán Luận" đến câu "Do có nghĩa KHÔNG nên thành tựu tất cả pháp" đốn ngộ ý chỉ "TỪ KHÔNG HIỂN DỤNG", lại tỏ ngộ câu KHÔNG sanh nơi đại giác, như biển nổi non bọt, vô số nước hữu lậu, đều từ KHÔNG sanh khởi trong Kinh Lăng Nghiêm, với câu "Lấy VÔ TRỤ làm gốc" của Ngài Lục Tổ; "Từ gốc VÔ TRỤ lập tất cả pháp" của Ngài Duy Ma Cật vốn cùng một ý chỉ, VÔ TRỤ tức TÁNH KHÔNG, thể Chơn Như vốn KHÔNG mà tự hiển bày sự dụng; thể và dụng của Chư Phật với chúng sanh vốn chẳng hai chẳng khác, cùng khắp không gian thời gian, nơi thánh chẳng thêm, nơi phàm chẳng bớt, dù là phàm phu mà sức dụng của Phật tánh chẳng kém hơn Phật, cũng chẳng từng gián đoạn, chỉ vì chúng sinh ứng dụng hàng ngày mà chẳng tự biết.

THỜI KỲ HOẰNGPHÁP

Ngày mùng 2 tháng 4 năm 1977 Sư thừa lệnh ân sư (Hòa Thượng Hoằng Tu) ra hoằng pháp Tổ Sư Thiền tại chùa Từ Aân đường Hùng Vương Quận 11 TP H-C-M. Hai năm sau, tứ chúng phật tử qui tụ ngày càng đông, Phật tử người Việt theo tu học pháp Tổ Sư Thiền hơn 4000 người, mỗi lần tham dự thiền thất đều vượt trên 300 người.

Tháng 02 năm 1989, Sư di cư đến tiểu bang California nước Hoa Kỳ và sáng lập Từ Ân Thiền Đường tại Orange County. Đến thiền đường học đạo có người Tây Phương và người Á Châu, trong đó người Việt Nam đông nhất. Những năm gần đây, Sư thường được thỉnh đến các nước như Chùa Chánh Giác ở Toronto, Canada, Chùa Quan Aâm ở Brisbane Australia, Hồng Kông, Tịnh Xá Đại Bi ở Đài Loan để hoằng pháp và các thiền đường ở Mỹ để giảng dạy pháp Tổ sư Thiền.

Riêng ở Việt nam, bất cứ nơi nào mời, Sư đều tùy duyên giảng dạy, như đả Thiền Thất tại chùa Từ Aân Quận 11, chùa Hưng Phước đường Cách Mạng Tháng 8 quận 3, Chùa Pháp Thành Quận 6, Chùa Sùng Đức Quận 6, Chùa Huệ Quang Quận Tân Bình, , Đại Tòng Lâm, Ni Viện Thiện Hòa Bà Rịa Vũng Tầu, và tại các tỉnh Long An, Sóc Trăng, Tây Ninh Khánh Hòa, Bình Định..

Năm 1996 Sư lập một nông thiền trồng rau sạch không dùng phân bón và thuốc sát trùng tại Củ Chi, Sai Gòn.

Đến năm 1998, Sư đã được Ban Hoằng Pháp Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, mời thỉnh vào Ban Hoằng Pháp Trung Ương, với cương vị Uûy Viên Ban Hoằng Pháp Trung Ương, Sư đã được Giáo Hội phân thỉnh giảng tại các Khóa Bồi Dưỡng Hoằng Pháp ngắn hạn cho các tỉnh Miền Trung tổ chức tại Bình định, cho các tỉnh Miền Đông, TP Saigon và Miền Nam tại Văn Phòng 2 Trung Ương Giáo Hội.

Đến năm 1999 Sư thành lập phòng khám bệnh và phát thuốc miễn phí tại huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai cũng nhằm tùy duyên hóa độ chúng sinh, trong hoàn cảnh khó khăn của sự phát triển tôn giáo tại Việt Nam.

DỊCH THUẬT CÁC KINH SÁCH VÀ TRƯỚC TÁC

Ngoài ra Sư còn truớc tác, dịch thuật và chú giải từ tiếng Hán sang tiếng Việt các kinh điển và ngữ lục của Tổ sư hơn 20 loại, lượng sách phát hành tại Việt nam trên mấy mươi ngàn quyển. Các kinh sách tiếng Việt và một số bằng tiếng Hoa được phát hành bao gồm:

DỊCH THUẬT và CHÚ GIẢI:

Kinh Lăng Nghiêm
Kinh Lăng Già
Kinh Pháp Bảo Đàn
Kinh Viên Giác
Kinh Duy Ma Cật
Đại Huệ Ngữ Lục
Tham Thiền Cảnh Ngữ (tác giả: Hòa Thượng Bác Sơn)
Thiền Thất Khai Thị Lục (tác giả: Lai Quả Thiền Sư)
Bá Trượng Quảng Lục và Ngữ Lục
Truyền Tâm Pháp Yếu
Trung Phong Pháp Ngữ
Cội Nguồn truyền Thừa
Chư Kinh Tập Yếu
Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải
TRƯỚC TÁC:
Góp Nhặt Lời Phật Tổ và Thánh Hiền
Công Aùn Của Phật Thích Ca & Tổ Đạt Ma
Phật pháp với Thiền Tông
Đường Lối Tham Tổ Sư Thiền
Danh Từ Thiền Học
Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21
Yếu Chỉ Trung Quán Luận
Yếu Chỉ Phật Pháp...
VIÊN TỊCH
Sư biện tài vô ngại, tùy duyên hóa độ và tận tụy với hoằng pháp lợi sanh, chẳng kể gian lao, không từ khó nhọc. Người xưa có nói "Bồ Tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài", (Bồ Tát luôn luôn vì lợi ích chúng sanh mà cứu giúp) thật khế hợp với Sư biết bao.

Hóa duyên kỳ tắc, Sư thị tịch vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 07-1-2000 tại California Hoa Kỳ,tức ngày mùng 01 tháng 12 năm Kỷ Mão, nhằm lúc 01 giờ 30 phút giờ Việt Nam ngày 02tháng 12 năm Kỷ Mão (tức ngày 08 tháng Giêng năm 2000).

#10 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 04/08/2011 - 22:10

HOÀ THƯỢNG DUY LỰC
KHAI THỊ BAN ĐẦU TẠI HOA KỲ
Xuất Bản tại Saigon, Việt Nam 2004


ML 01 02 03 04 05 06 07 08 09

MỤCLỤC


01
-Lời khai thị I
-Thoát Thập Nhị Nhân Duyên
-Thân xác bay trên đất
-Phiền não tức Bồ đề
-Qua 3 quan ải
-Cách thực hành tham thiền
-Thiền thoại đầu có thời nào
-Tọa thiền ngồi cách nào
-Thức tỉnh mở mắt chiêm bao
-Không biết có ích lợi gì
-Phương pháp được tự tại
-Quán nhất niệm hay vô niệm
-Nghe nổ một tiếng “trắc
-Lòng tin – Tánh không
-Ngồi thiền và gặp thầy
-Cảnh tương lai hiện giờ ở đâu
-Tham thiền cần ăn chay không
-Qua Mỹ khi Ngài hiểu thiền
-Thoại đầu và Tịnh độ kết hợp
-Xuất hồn bay trên đất
-Thầy mở một đường đi
02
-Không biết các cháu làm được
-Lạnh dưới 0 độ mà không sao
-Phải giải thích thế nào
-Vô niệm chân hay giả
-Thấy cành hoa rồi mỉn cười
-Thế Tôn tu pháp nào
-Thiền đầu tiên của Phật
-Cúng 100 ngày
-Linh hồn đi đầu thai
-Mang theo chuổi tràng hạt
-Chỗ hầm sâu đen tối
-Không sợ làm sai sao đi đúng
-Kiến tánh được trình độ nào
-Quá khứ, hiện tại, vị lai tâm
-Câu thoại đầu cũng vọng niệm
-Thế nào là nổi nghi tình
-Thập mục ngưu đồ
-Đọc chú nào trong lúc thiền?
-Pháp tổng hợp và phân tích
-Hợp hay không hợp
-Vô lượng quang thọ
-Thế Âm, Văn Thù - Thể, tướng, dụng
-Đi theo tôn giáo khác
-Mạt na thức, đệ bát thức
-Chia rẽ trong gia đình
-Thế nào là trạch pháp
-Nghiên cứu - Khán và niệm
-Bản lai chân diện mục
-Chứng pháp vô sanh
-Nhẫn - Từ bi và bác ái
-Phương pháp tự ngộ
-Đâu là chánh pháp
-Chứng ngộ của Thầy

03
-Chưa giải thoát, mất thân
-Thiền không thông dụng
-Thành tựu của Thầy
-Đời sống an lành
-Giữ nghi tình khỏi quên
-Nghi đến lúc nào vỡ
-Trực chỉ nhân tâm
-Sao Thầy thông kinh điển
-Điều tâm vào không
-sở tri và phiền não
-Công đức và phước đức
-Truyền tâm ấn
-Thành Phật làm chi
-Phương tiện đánh hét
-Đủ sáu thần thông - Công hiệu nhất
-Lời khai thị II
-Không thiền mà tu Tịnh độ
-Nhược hữu chúng sanh
-Thắc mắc nguyện vọng
-Thắc mắc cõi Cực Lạc
-Đè nén và không đè nén
-Thu và rời tất cả niệm
-Cầu siêu, cầu an, cầu phước

04
-Thiền lợi ích cho người
-Nóng và lo có bớt không
-Bị tẩu hỏa nhập ma
-Câu thoại thấy nhạt nhẽo
-Cách gì tâm khỏi bị phân tán
-Ngồi thiền bao nhiêu lâu
-Nghi của Thiền sư và khoa học
-Chú phải công án không
-Hiểu câu chú - Chưa đắc đã chết
-Tin thọ mạng của Như lai
-Niệm Phật tạo nhân duyên
-Định ở trong động
-Làm sao tu cho đúng
-Căn cơ chúng con yếu
-Thiền ảnh hưởng đến hành giả
-Chưa thanh tịnh có hại không
-Vai trò của các thức
-Thiền của mình đúng nhất
-Phẩm nào, nói nhân nghi quả ngộ
-Ngộ rồi cần phải tu
-Huệ Năng tu pháp môn gì
-Thiền nên niệm Phật cầu tha lực
-Thiền lúc lái xe và đi bộ
-Nghiệp di chuyển
-Minh định cho việc này
-Thi tiển thần thông
-Hạ, trung căn theo thượng thừa
-Cuồng vọng thuyết pháp
-Lời khai thị III
-Hương công và Thái cực quyền
-Bộ lạc Nam Mỹ
-Trường sanh - Chân lý

05
-Cầu cơ
-Bộ lạc Cogy ngồi 9 năm
-Giống như đại ngã
-Thái cực như Phật giáo
-Phải do nghiệp lực không
-Cùng cái khó, sau hết khó
-Giác ngộ là gì
-An thân lập mạng – Không
-Thái cực quyền
-Tâm linh và Linh hồn
-Tứ tướng
-Vô ngã - Phương tiện
-Càng biết càng khổ
-Thời gian không có chăng?
-Vì sao Thầy trở nên tu sĩ
-Cái gì quan trọng nhất
-Tuyệt đối là đối đãi
-Biết của Thượng Đế vô hạn
-Đại nhân bất nhân
-Phẩm Phổ Môn
-Xưa ngộ nhiều hơn nay
-Pháp tu khác để phù hợp
-Sao nay không dùng cơ xảo
-Tịnh độ Đài Loan
-Thiền thỏa mãn người trí không
-Tìm đến đạo Phật
-Nhìn không được
-Tinh tấn, dãi đãi và vô ký
-Giết hại cho là anh hùng
-Tu hai ba pháp cùng lúc
06
-Phản văn văn Tự tánh
-Ở nhà giữ cháu
-Thế nào là tham thiền
-Tâm tánh - Chuyện cần
-Cần ngồi thiền không
-Chết trẻ và chết già
-Không tội lại chết sớm
-Tự tử - Đầu thai
-Chánh niệm - Khó truyền
-Mật tông - Thiền quán
-Điên đảo của Nhị thừa
-Bình thường tâm - Chánh pháp nhãn
-Hiện lượng
-Đương thể - Đuổi vọng tưởng
-Lập đi lập lại câu thoại đầu
-Bồ tát - Sau có Bát nhã
-Thiền Phật với ngoại đạo
-Tu giống như cây khô
-Điều thân
-Bảy tuần thất thừa
-Độ chúng sanh không chúng sanh
-Bốn loài chúng sanh
-Minh và vô minh
-Luật tông
-Giới luật
-Thường kiến và đoạn kiến
-Không biết pháp mà biết đạo
-Không phương tiện sao đi
-Chấp thật phá chấp thật
-Thiên thượng thiên hạ
-Nói hay nín - Tri chi nhứt tự
-Thiên thai và Duy thức
-Long Thọ
-Thực hành vô trụ
-Cành hoa - Công án
-Ngộ Bồ tát và Phật
07
-Tiểu ngộ - Bảo nhậm
-Tập khí xuất thế gian
-Bất lạc và bất muội
-Gõ đầu cá ba cái
-Dùng pháp chiêm bao thức tỉnh
-Pháp khác để thích hợp
-Tùy duyên - Không Phật thì tới
-Cấm địa - Giúp người
-Ai làm ra luật nhân quả
-Gà và trứng - Kiếp không
-Hơi thở
-Lục Tổ dạy đồ chúng
-Tối thượng thừa thiền
-Vô sở hữu
-Sắc chẳng khác không
-Thập mục ngưu đồ
-Kiến tánh chưa thành Phật
-Kiến tánh chưa ấn chứng
-Chưa bảo nhậm - Đốt thành tro
-Không và không đại
-Đúng pháp Tổ sư thiền
-Vọng tưởng, nhức đầu
-Cái áo, cây gậy
-Tánh không
-Tịnh độ
-Bình đẳng còn ăn thịt
-Thiền giản dị sao thành Phật
-Tiểu thừa và Đại thừa
-Thuận chúng sanh - hơi thở trút hết
-Đại thừa là nhập thế

08
-Không ai độ ai - Hóa thành
-Niết bàn - Tăng sửa đường lộ
-Đại khai viên giải
-Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa
-Y pháp bất y nhân
-Y trí bất y thức
-Dứt phiền não - Nghĩa ba câu
-Đọc sách với tham thiền
-Ghiền đọc sách
-Về một- Vô thủy vô minh
-Đa tâm đến thiểu tâm
-Nghi tình từ từ thành khối
-Chiêm bao theo Duy thức
-Phá Sơ quan rồi chết
-Bùi Hưu ngộ cái gì
-Đến gần kiến tánh
-Sơ tham có lão tham hướng dẫn
-Bồ tát giới
-Độ chủ nợ - Làm từ thiện
-Tam luân thể không
-Khất thực
-Cần nghi tình, không cần đáp
-Tham và khán thoại - An lạc hiện tại
-Niệm chú
-Chùa Cao Mân
-Chùa đó thuộc của ai
-Nghĩ đến câu thoại đầu
-Tham thiền ở công sở
-Tổ sư thiền kèm trì chú
-Sao nhất định tái sanh 7 lần
-Bói toán - Quan trọng Tổ sư thiền

09
-Dụng công sai - muốn là sở cầu
-Tự tâm là bẩm sanh- Tu để làm chi
-Gạt bỏ ý thức
-Nhà có đèn dụ tánh biết
-Lục Diệu Môn
-A La Hán - chấp có và không
-Bố Đại Hòa Thượng
-Phá công án
-Không sợ chết
-Viên Ngộ - Đại Thông Trí Thắng Phật
-Thúc đẩy để tinh tấn
-Thấy mất tất cả
-Năm xưa nghèo
-Tổ sư thiền và Như lai thiền
-Hiểu giáo lý
-Bắc Câu Lưu châu- Tình thức
-Thông minh từ cảnh
-Bạch tượng đeo chuổi ngọc
-Các tướng đều thường trụ
-Số lượng chúng sanh chẳng biết
-Lửa tắt - Định nghiệp
-Thằng chết- Niệm Phật
-Không nói chỗ nào ăn chay
-Bát Quan Trai và người Tòng Lâm
-Sao biết mình kiến tánh
-Muốn xuất gia - Xuất gia dễ ngộ
-Dành cho người khờ ngốc
-Chẳng chấp lý bỏ sự
-Nhân khổ quả phước - Diệt tận định
-Đạo lợi hành vô tận



LỜI NÓI ĐẦU

Thiền là gì?

Đối với pháp tương đối mà nói, Thiền là một tổng danh làm phương pháp đình chỉ vọng tâm; nhưng đình chỉ vọng tâm có hai đường lối:

-Thiền ngoại đạo và Thiền phàm phu (có tính chất chấp ngã).

-Thiền tiểu thừa,Thiền trung thừa, Thiền đại thừa và Thiền tối thượng thừa (có tính chất phá ngã chấp).

Đối với pháp tuyệt đối, Thiền là tất cả các pháp, các pháp tức là Thiền; cảnh giới này chỉ có người chứng ngộ triệt để mới thấy rõ. Còn người chưa chứng ngộ, có người không tin hay có tin nhưng còn nghi ngờ.

Bởi vậy, Hòa thượng Duy Lực mang Thiền tối thượng thừa (Tổ sư thiền) gieo duyên những người phương tây và giải đáp thắc mắc cho họ được có niềm tin vững chắc nơi tự tâm mình, rồi thực hành để đạt đến cảnh giới tuyệt đối.
Nay chúng tôi chép lại những cuồn băng đầu của Ngài thuyết giảng tại Hoa Kỳ, việc làm này không khỏi sự sai sót; nếu các vị độc giả phát hiện, xin chỉ giáo cho.

Người thực hiện: Thích Đồng Thường.


ML 01 02 03 04 05 06 07 08 09

Xem Thêm:
Duy Lực Ngữ Lục Quyển Thượng
Duy Lực Ngữ Lục Quyển Hạ
Khai Thị Thiền Thất Tại Chùa Tam Bảo, HT. Duy Lực

(nguồn:http://quangduc.com)

Sửa bởi HKVSH: 04/08/2011 - 22:11


#11 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 04/08/2011 - 22:16

Lời khai thị I:
Tôi chuyên tu Tổ sư thiền và chuyên hoằng Tổ sư thiền. Hôm nay, giảng về đề tài “Phương Pháp Tự Ngộ Của Thiền Tông”. Thiền tông khác hơn các thiền khác, do đức Phật Thích Ca đích thân truyền, là pháp thiền trực tiếp không qua văn tự lời nói. Các thiền nói trong kinh điển đều qua văn tự lời nói, gọi là pháp thiền gián tiếp.
Pháp thiền trực tiếp do đức Phật Thích Ca đích thân truyền cho Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp truyền cho A Nan, A Nan truyền cho Thương Na Hòa Tu, từ Tổ từ Tổ truyền xuống Bồ Đề Đạt Ma là thứ 28. Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Quốc làm sơ tổ, truyền cho nhị tổ Huệ Khả, Huệ Khả truyền cho tam tổ Tăng Xán, Tăng Xán truyền cho tứ tổ Đạo Tín, Đạo Tín truyền cho ngũ tổ Hoằng Nhẫn, Hoằng Nhẫn truyền cho lục tổ Huệ Năng.
Tổ Huệ Năng danh tiếng truyền khắp Trung Quốc, tính từ Ấn Độ đến Trung Quốc thì Huệ Năng là Tổ thứ 33. Trước kia mỗi Tổ kiến tánh chỉ truyền năm bảy người, đến Lục Tổ có 43 người kiến tánh, cháu của Lục Tổ là Mã Tổ có 139 người kiến tánh. Cho nên, Thiền tông gọi là Tổ sư thiền với 4 chữ “từ nghi đến ngộ”.
Nghi là nhân, ngộ là quả; có nghi mới có ngộ, nên nói bất nghi bất ngộ; nghi nhỏ ngộ nhỏ, nên nói tiểu nghi tiểu ngộ; nghi lớn ngộ lớn, nên nói đại nghi đại ngộ. Muốn ngộ phải có nghi, nếu không có nghi thì không được ngộ; không những pháp xuất thế gian có nghi có ngộ, mà pháp thế gian cũng vậy.
Như nhà khoa học Newton thấy trái bôm từ trên cây rớt xuống đất, ông nghi tại sao không rơi trên trời? Từ đó, ông nghiên cứu phát minh được hấp dẫn lực của vạn hữu. Phát minh của nhà khoa học cũng do nghi mới ngộ, nhưng cái nghi của nhà khoa học gọi là hồ nghi. Cái nghi của Thiền tông gọi là chánh nghi.
Tại sao gọi là hồ nghi? Hồ nghi phải qua bộ óc nghiên cứu tìm hiểu được ngộ. Còn chánh nghi không qua bộ óc nghiên cứu tìm hiểu mà giữ nghi tình, cuối cùng nghi tình bùng vỡ thì ngộ. Vì vậy, gọi là phương pháp tự ngộ.
Tại sao nói là phương pháp tự ngộ? Tự ngộ giống như thức tỉnh chiêm bao. Chiêm bao có hai thứ: mở mắt chiêm bao và nhắm mắt chiêm bao. Nhắm mắt chiêm bao là một thức thứ 6 biến hiện (độc đầu ý thức biến hiện). Mở mắt chiêm bao do hai thức đồng thời biến hiện. Nói chung là “nhất thiết duy tâm tạo”.
Tại sao gọi là nhắm mắt chiêm bao? Nhắm mắt chiêm bao mà quý vị đều có kinh nghiệm, ban đêm ngủ trên giường, chiêm bao thấy thân chiêm bao tiếp xúc thế giới chiêm bao. Như tiếp xúc cái tách, cái bàn… đều có thật chất, tiếp xúc cái gì đều có thật chất cái nấy, tiếp xúc nóng lạnh biết nóng lạnh, thân chiêm bao bị đánh cũng biết đau.
Giả sử trong chiêm bao có một vị thiện tri thức giải thích cái tách, cái bàn… đều không thật, luôn cả thân chiêm bao của ông cũng không thật. Người chiêm bao không thể tin. Tại sao? Người chiêm bao nói “tôi tiếp xúc cái nào cũng thật chất, nếu nói thân tôi không thật, vì sao người ta đánh tôi biết đau?” Nhưng khi thức dậy, tự mình chứng tỏ, hồi nảy những cái thật đó bây giờ ở đâu! Tìm không ra, luôn cả thân chiêm bao cũng không tìm được.
Đang chiêm bao, đồ vật trong phòng không thấy, lại thấy xa, thấy bên Tây, Việt Nam… Vì 5 thức trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) ngưng nghỉ hoạt động, 5 thức trước là đối với tiền trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc). Ý căn (thức thứ 6) biết xa, biết quá khứ, biết vị lai; nên biến hiện nhắm mắt chiêm bao.
Tôi đang giảng, các vị đang nghe là ở trong mở mắt chiêm bao. Mở mắt chiêm bao gọi là đồng thời ý thức biến hiện. Tại sao gọi là đồng thời ý thức biến hiện? Vì 5 thức trước đang hoạt động, như nhĩ thức nghe được tiếng, nhưng không biết tiếng gì, tiếng người, tiếng chim, tiếng đàn bà, tiếng đàn ông… đều không biết; phải có thức thứ 6 đồng thời nổi lên, mới phân biệt được tiếng đàn ông, tiếng đàn bà, tiếng chim…Nếu chỉ có thức thứ 6 thì không nghe được tiếng, lấy cái gì để phân biệt? Cho nên phải có nhĩ thức nghe tiếng, rồi thức thứ 6 phân biệt. Hai cái thức đồng thời nổi lên biến hiện mở mắt chiêm bao.
Nhưng nhắm mắt chiêm bao, mình ngủ đã rồi tự thức dậy; còn mở mắt chiêm bao không bao giờ thức tỉnh, phải trải qua tu đúng lời dạy của Phật Thích Ca (pháp thiền trực tiếp là Tổ sư thiền), sau này tự thức tỉnh gọi là kiến tánh thành Phật.
Chưa thức tỉnh tiếp xúc cái gì cũng thấy thật chất, như nhắm mắt chiêm bao vậy. Dẫu cho Phật Thích Ca giải thích cái này cái kia đều không thật, chúng ta không thể tin. Như Phật nói trong Bát Nhã Tâm Kinh “vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”. Cái nào cũng không có, nhưng tuyệt đối không phải không có. Chữ vô là không thật, có mà không thật. Lục căn, lục trần, lục thức đều chẳng thật; cho đến Tứ Diệu Đế (khổ, tập, diệt, đạo) của Phật dạy chẳng thật, Thập Nhị Nhân Duyên (từ vô minh đến lão tử) dùng chữ vô quét sạch là không thật, trí huệ Bồ tát cũng vô (vô trí diệc vô đắc); tức theo bộ óc nhận thức đều phải tẩy sạch.
Cái biết chân thật của Phật tánh, gọi là chánh biến tri. Tại sao gọi là chánh biến tri? Chánh là đúng với thực tế, biến là phổ biến khắp không gian thời gian, tri là biết. Cái biết của bộ não biết được chỗ này lại không biết chỗ kia, nên không cùng khắp không gian thời gian. Biết cùng khắp không gian không có khứ lai, gọi là Như lai; biết cùng khắp thời gian không có gián đoạn, không có sanh diệt nên gọi là Niết bàn.
Tại sao Thiền tông phải tự ngộ? Phật Thích Ca đã ngộ nói cho biết được thì mình khỏi tu. Vì cái này không thể nói, tự mình phải tự ngộ. Như ở trong chiêm bao tự thức tỉnh, tất cả khổ trong chiêm bao tự dứt, đạt đến tự do tự tại.
Sơ lược phương pháp tự ngộ, cơ bản có 2 yếu tố: tin tự tâm và phát nghi tình.
Thế nào là tin tự tâm? Mình phải tin tự tâm như lời Phật Thích Ca nói “Phật tánh bình đẳng bất nhị”, Phật tánh của mình và Phật tánh của Phật Thích Ca bằng nhau, không khác. Cho nên, tất cả thần thông trí huệ của Phật tánh mình bằng với Phật Thích Ca, không kém hơn một chút nào. Nếu kém hơn một chút thì có cao thấp là không bình đẳng. Có cao thấp là nhị, trái với lời Phật Thích Ca. Vì vậy, mình phải tin tự tâm đầy đủ, mới phát huy hết tự tâm. Nếu không tin làm sao phát huy hết tự tâm, phát hiện tự tâm gọi là tự ngộ.
Muốn phát hiện tự tâm phải làm sao? Yếu tố thứ nhì là khởi nghi tình. Tại sao gọi là nghi tình? Nghi là không hiểu không biết, một việc gì đã hiểu đã biết thì hết nghi, hết nghi không phải tham thiền. Tham thiền rất chú trọng cái nghi, Thiền tông gọi là nghi tình. Cho nên, tham là nghi, nói một cách khác là dùng cái không biết của bộ óc, để chấm dứt tất cả biết của bộ óc.
Muốn phát khởi nghi tình, phải hỏi câu thoại đầu. Như “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Bây giờ có trời đất có ta ở đây, khi chưa có trời đất ta là cái gì? Không biết, không biết là nghi tình. Thiền tông chỉ giữ cái không biết của bộ óc để chấm dứt tất cả biết của bộ óc, đến chừng cái biết của bộ óc chấm dứt hết, cuối cùng cái không biết của bộ óc bùng vỡ thì cái không biết của bộ óc cũng tan rã, biết và không biết đều sạch hết thì cái biết Phật tánh hiện lên, gọi là kiến tánh thành Phật.
Cái biết của bộ óc là tướng bệnh, nên không cùng khắp, biết chỗ này không biết chỗ kia. Cái biết Phật tánh cùng khắp không gian thời gian. Cái biết bộ óc ngủ mê không biết, chết giấc không biết, chết rồi không biết. Cái biết Phật tánh thì ngủ mê vẫn biết, chết giấc cũng biết, chết rồi cũng biết.
Nếu chết rồi không biết thì không cùng khắp thời gian, cùng khắp thời gian nên lúc nào vẫn biết. Cùng khắp không gian cũng vậy, như kinh Phật nói “ở ngoài hằng sa thế giới, có một giọt mưa cũng biết; vô lượng chúng sanh có một chúng sanh nổi lên một niệm cũng biết”. Nếu không biết là thiếu sót, không phải cùng khắp không gian.
Phương pháp tự ngộ Thiền tông rất giản dị, rất dễ. Trong lịch sử Thiền tông có “con nít sáu bảy tuổi và bà già tám chín chục tuổi đều tham thiền được”. Vì muốn biết rất khó, còn không biết rất dễ, người nào cũng làm được; chỉ giữ cái không biết là hỏi câu thoại đầu.
Nếu giữ cái không biết được một phút thì một phút không phiền não, giữ được một tiếng thì một tiếng không phiền não… Tại sao? Vì Bộ óc không biết, làm sao có phiền não để cho mình biết! không biết phiền não tự nhiên không có phiền não.
Nhưng lúc thực hành phải hỏi khít khít, vừa hỏi dứt hỏi nữa; nếu hỏi rồi một hồi hỏi nữa thì có kẻ hở, phiền não ở nơi kẻ hở nổi lên. Vọng tưởng nổi lên không được thì tâm mình được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh hiện ra cái dụng, cái dụng là do cái tâm.
Người đời coi “không môn” là tiêu cực, cho rằng tu sĩ chán đời đi xuất gia. Sự thật, chữ không của Phật pháp rất tích cực hiển bày cái dụng. Nếu không có không thì không có dụng. Cho nên, ngài Long Thọ nói “vì có nghĩa không nên được thành tựu tất cả pháp”.
Như cái tách lấp bít, không có khoảng trống thì không để đựng nước, sữa… vì có cái không mới dùng được. Cái bàn không có cái không chẳng thể để đồ, cái ghế không có cái không chẳng thể ngồi… Muốn dùng phải có cái không, không rộng chừng nào thì cái dụng nhiều chừng nấy.
Tin tự tâm cùng khắp không gian thời gian, không gian thời gian mênh mông, làm sao chứng tỏ cùng khắp. Tâm mình không có hình tướng, không có âm thanh, làm sao cho mình biết cùng khắp? Tôi mượn ánh sáng đèn thí dụ cho quý vị hiểu được cùng khắp không gian thời gian. Ánh sáng đèn ở đây có một hai, ba, bốn… mỗi cây đèn có ánh sáng đều cùng khắp không gian (người học khoa học cũng biết ánh sáng cùng khắp không gian).
Bây giờ, chỉ nói ánh sáng cùng khắp hội trường này. Nếu đã cùng khắp thì sự tương đối không có (Đại Thừa Tuyệt Đối Luận nói là tuyệt đối). Nguồn gốc của tương đối là có và không có, tất cả phát sanh tai họa do có ngã chấp, ta muốn hơn người, ta muốn hưởng nhiều hơn người, cái gì cũng muốn hơn người, nên tranh giành với nhau, xẩy ra xung đột đổ máu.
Phát hiện được bản thể cùng khắp không gian thời gian thì sự tương đối không còn. Như ánh sáng đèn nào cũng cùng khắp, có ngã và vô ngã không thể thành lập. Tại sao? Thay cho đèn số 1 là ta (ngã), nếu có ngã thì quý vị chỉ ra ánh sáng nào thuộc về cây đèn số 1 của ta? Vì ánh sáng cùng khắp nên chỉ không ra, vậy ngã không thể thành lập. Nói vô ngã thì chỉ chỗ nào không có ánh sáng đèn số 1 của ta? Cũng chỉ không ra, vì đã cùng khắp.
Hiện nay, có một hai trăm người là một hai trăm Phật tánh, một hai trăm cái đều cùng khắp như ánh sáng đèn vậy, khi cùng khắp thì không có chỗ để chỉ. Cái biết của Phật tánh là chánh biến tri cùng khắp không gian thời gian, không có hình tướng để nhận biết. Cái biết của bộ óc không cùng khắp không gian thời gian.
Tôi lấy cơ thể này mà quý vị thấy trước mắt, có thể nhận biết được. Cái biết của lớp da là cảm giác của lớp da. Cảm giác lớp da của cơ thể có cùng khắp cơ thể không? Cảm giác lớp da có phải là biết không? Nếu cảm giác lớp da là biết cùng khắp cơ thể này thì không có chỗ búng. Tại sao? Nếu có chỗ búng, vậy búng tay tay biết, búng đầu đầu biết, những chỗ không búng không biết. Những chỗ không búng mà không biết, làm sao gọi là cùng khắp! Đây thuộc về không gian.
Cùng khắp thời gian thì không có lúc búng. Nếu lúc búng mới biết, không búng không biết không được gọi là cùng khắp thời gian. Do nhận thức của bộ óc sai lầm cho là chỗ búng mới có cảm giác, chỗ không búng thì không có cảm giác. Kỳ thật, chỗ búng có cảm giác, chỗ không búng cũng có cảm giác; luôn luôn ngày đêm có cảm giác, búng hay không búng cũng có cảm giác khắp không gian của cơ thể.
Nhưng bộ óc có thói quen cho là chỗ búng mới biết, chỗ không búng không biết; lúc búng mới biết, lúc không búng không biết. Đó là do bộ óc nhận thức sai lầm. Cái biết của Phật tánh cũng vậy, luôn luôn cùng khắp, không có lúc nào không biết, không có chỗ nào không biết.
Quý vị muốn thực hành phương pháp tự ngộ của Thiền tông, phải tin tự tâm cùng khắp không gian thời gian, tất cả thần thông trí huệ năng lực sẵn sàng, không kém hơn Phật Thích Ca một chút nào. Nhưng Phật Thích Ca dùng ra cùng tột khắp không gian thời gian, vì không có cái gì làm chướng ngại. Còn của mình mặc dù có sẵn đầy đủ, nhưng có cái không thể dùng ra; vì bị tham sân si, phiền não nhét đầy; không còn chỗ trống để hiện ra cái dụng.
Tham Tổ sư thiền là hỏi câu thoại đầu khởi lên nghi tình (không biết), là cây chổi tự động quét trống tất cả; mình khỏi cần khởi niệm muốn quét. Quét trống bao nhiêu có sức dụng hiện bấy nhiêu.
Như Trương Quốc Anh là túc cầu viên làm thủ môn, lúc khởi nghi tình thì bộ óc không biết, không thấy trái banh mà chụp được trái banh, nên không có trái nào lọt vào cửa.
Cô Hằng Thiền thợ may, vừa cắt vải vừa tham thiền khởi nghi tình mà không cắt lộn; người em hỏi mấy phân mấy tấc, cô trả lời không biết. Vô lý! Không biết làm sao cắt? Sự thật, bộ óc không biết nhưng không cắt lộn.
Chứng tỏ cái biết của Phật tánh hiện ra dùng, không qua bộ óc mà hoàn thành công việc của bộ óc. Như Ở Việt Nam có Phật tử đang tham thiền mà dạy anh văn, tự mình giảng bài không biết giảng cái gì; nhưng học trò nghe giảng rất hay, không có giảng lộn.
Vì vậy, Phật Thích Ca đích thân truyền pháp môn này, gọi là pháp thiền trực tiếp, rất giản dị, dễ thực hành, thấy mau có kết quả, cuối cùng được tự do tự tại, giải thoát tất cả khổ. Bây giờ, mình không được tự do tự tại, vì không biết mình là gì? Tham thiền đến giác ngộ, biết mình là gì thì làm chủ được mình, nên tự do tự tại.
Ông Newton phát minh lực hấp dẫn, chỉ có giá trị ở thế gian; nhưng không phát minh chính mình, nên không tự chủ được, không giải thoát tất cả khổ. Thiền tông phát minh được chính mình, làm chủ cho mình thì tự do tự tại, giải thoát tất cả khổ.
Hỏi:
Làm sao thoát khỏi Thập Nhị Nhân Duyên?

Đáp:
Thập Nhị Nhân Duyên ở trong bốn thừa, thuộc Trung thừa, thừa này còn ở trong giai đoạn không chấp. Nếu tham Tổ sư thiền được một thời gian ngắn vượt qua Thập Nhị Nhân Duyên. Thập Nhị Nhân Duyên gồm có 2 thứ: Độc giác và Duyên giác.
Độc giác là ở trong thời kỳ không có Phật, tự mình quán hiện tượng vũ trụ đều xoay chuyển trong 12 nhân duyên từ vô minh đến lão tử. Phật nói trong Bát Nhã Tâm Kinh “vô vô minh, diệc vô vô minh tận; vô lão tử, diệc vô lão tử tận”. Vốn không có vô minh làm sao có vô minh hết! Có vô minh là chúng sanh, vô minh hết là thành Phật. Phật nói rõ ràng không có vô minh, cũng không có vô minh hết; không có lão tử, cũng không có lão tử hết. Có lão tử là sanh tử luân hồi, hết sanh tử luân hồi gọi là Niết bàn.
Nhưng sự thật, vốn không có vô minh, không có lão tử thì lấy cái gì để hết! Phương tiện của Phật đối với những người không tin Đại thừa, nên bất đắc dĩ giảng Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên. Nếu tham Tổ sư thiền là vượt qua Thanh văn, Duyên giác, vì bước đầu tiên là nhìn chỗ thoại đầu. Tại sao gọi là thoại đầu? Thoại là một lời nói, đầu là trước khi chưa khởi niệm muốn nói câu thoại, gọi là thoại đầu; tức là trước khi một niệm chưa sanh là thoại đầu.
Khi một niệm chưa sanh, ở trong Phật pháp gọi là vô thỉ vô minh. Tham thiền là nhìn ngay vô thỉ vô minh, vô minh là không sáng (đen tối), nhìn chỗ mịt mù đen tối, rồi đề lên câu thoại đầu. Như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” để kích thích niệm không hiểu không biết (nghi tình).

Hỏi:
Có bao nhiêu loại thiền? Có người ngồi thiền, thân xác bay bổng trên mặt đất, việc ấy ra sao? Làm sao để biết tu có kết quả?

Đáp:
Tổ sư thiền khác hơn tất cả thiền, gọi là pháp thiền trực tiếp. Còn các thiền kia phải qua văn tự lời nói và thường ngồi. Tổ sư thiền không qua văn tự lời nói, như Phật Thích Ca truyền cho sơ tổ Ma Ha Ca Diếp, chỉ đưa lên một cành hoa không nói, rồi Ma Ha Ca Diếp ngộ cũng không nói, chỉ mỉn cười.
Pháp thiền gián tiếp rất nhiều, người ta thường nói là ngồi thiền; Tổ sư thiền không cần ngồi, đi đứng năm ngồi, làm việc bằng tay chân hay làm việc bằng trí óc đều tham thiền được, cho đến ăn cơm, đi cầu, ngủ mê vẫn tham.
Như Trương Quốc Anh đang đá banh vẫn tham, cô thợ may đang cắt vải cũng tham, bác sĩ Thuận đang lái xe vẫn tham, từ Rạch Giá đến Sài Gòn, không để ý xe nhưng không bị đụng xe. Tôi biết có 2 tài xế lái xe khách Sài Gòn - Chợ Lớn chở mười mấy người, khởi lên nghi tình không để ý xe, nhưng không bao giờ đụng xe. Trước kia chưa tham thiền thường bị bị cảnh sát thổi phạt, sau này tham thiền không những không đụng xe, mà không bị thổi phạt.

Hỏi:
Thế nào phiền não tức Bồ đề?

Đáp:
Tự tánh bình đẳng bất nhị, Phật tánh của mình cùng khắp không gian thời gian; ngoài không gian không có không gian, ngoài thời gian không có thời gian. Nói bất nhị không phải là một, nếu có một thì phải có hai, có ba cho đến muôn ngàn. Phiền não do bộ óc nhận thức rồi biết thành có phiền não. Nếu tham thiền có nghi tình thì bộ óc không biết nên không có phiền não, Bồ đề cũng không biết thì không có Bồ đề. Vậy phiền não và Bồ đề không khác.
Do bộ óc nhận biết phân biệt thành ra khác, giữ được nghi tình thì phiền não tức Bồ đề, Bồ đề là phiền não. Vì không biết nên không còn phân biệt, không có tương đối; như ánh sáng của đèn vậy. Ánh sáng cùng khắp, không còn tương đối; Bồ đề, sanh tử, Niết bàn, có và không… đều là tương đối. Cho nên, nói phiền não tức Bồ đề.

Hỏi:
Trên đường muốn chứng ngộ thiền, hành giả phải vựợt qua 3 trở ngại là 3 quan ải: Đối thiện quan, Sơn hải quan và Nhạn môn quan. Xin Thiền sư cho biết có phải đúng như vậy hay không? Nếu đúng, nói như thế có nghĩa gì? Về lý, tại sao đặt ra những cái tên gọi như vậy? Về sự, khi vượt chướng ngại thì món chứng cảnh là những món gì, mà cho là ngộ thiền hay là chứng thiền?

Đáp:
Ba danh từ đó là những người không biết Tổ sư thiền mà nói, chứ không phải Tổ sư thiền. Ba cửa ải của Tổ sư thiền là Sơ quan, Trùng quan, Mạt hậu lao quan. Trong Thiền Thất Khai Thị Lục của ngài Lai Quả có nói 3 quan ải này. Tham câu thoại đầu đến nghi tình bùng vỡ được phá Sơ quan, cũng gọi là phá bổn tham; rồi tiến lên một bực nữa là phá Trùng quan, tiến lên một bực nữa là phá Mạc hậu lao quan.
Đó là tùy theo mỗi người mỗi khác, có người ngộ một cái là thấu 3 cửa; tức là thấu qua Mạc hậu lao quan. Có người chia làm 3 lần, Sơ quan, Trùng quan rồi Mạc hậu lao quan. Có người thấu trước 2 quan rồi thấu 1 cái, có người thấu trước 1 cái rồi sau thấu thêm 2 cái, mỗi người mỗi khác.
Nói đến chỗ này phải nói đại ngộ và tiểu ngộ. Ví dụ cây viết, đầu trên cây viết là thoại đầu, đầu dưới cây viết là thoại vỉ. Bắt đầu tham là rời thoại vỉ nhưng chưa đến thoại đầu, ở giữa đường, đường này là đường đi ý thức. Một ngày kia đến thoại đầu, câu thoại tự mất, chỉ còn có nghi tình, đến chỗ này là đường đi ý thức đã hết, ở trước thanh thanh tịnh tịnh, không còn cái gì, chỗ này gọi là vô thỉ vô minh, cũng là nguồn gốc của ý thức, Thiền tông gọi là đầu sào trăm thước.
Chỗ này còn dính líu ý thức, nhưng ngộ thì lìa ý thức. Lúc sát na lìa ý thức là kiến tánh, ngài Lai Quả nói “lìa ý thức là lọt vào hư không té xuống cho chết, rồi sống lại”, Thiền tông gọi là “tuyệt hậu tái tô”.
Chết có 2 thứ: tiểu tử tiểu hoạt và đại tử đại hoạt.
Tại sao gọi là tiểu tử tiểu hoạt? Tức là tiểu ngộ chỉ phá Sơ quan hay Trùng quan, té mặc dù chết nhưng còn xác, rồi sống gọi là tiểu tử tiểu hoạt. Đại tử đại hoạt là té xuống chết, cái xác tan rã hết.
Cái xác không phải cái xác thật là để thí dụ cảnh giới ngộ, nhưng ngộ rồi còn ôm cảnh giới ngộ, nên chướng ngại cái dụng, gọi là tiểu tử tiểu hoạt. Đại tử đại hoạt là ngộ triệt để không còn cảnh giới ngộ. Cho nên, nói ngộ rồi đồng như chưa ngộ.
Vì có ngộ phải có mê, đã triệt ngộ là hết mê thì hết ngộ; nếu còn ngộ tức còn mê, còn tương đối. Đại ngộ không còn ngộ là không trụ nơi Niết bàn, vì có sanh tử nên có Niết bàn.
Đến chỗ cứu kính, Niết bàn cũng không còn. Trụ nơi Niết bàn, kinh Kim Cang gọi là thọ giả tướng, kinh Viên Giác gọi là thọ mạng tướng, trong Thiền tông gọi là mạng căn chưa dứt (mạng căn còn ở trong thời gian). Người triệt ngộ được vô sở trụ hiển bày cái dụng.
Cái tay dụ cho Phật tánh của mình là hoạt bát vạn năng, muốn lấy cái tách, mặt kiến… đều được. Nếu tay có sở trụ, như trụ mặt kiến thì hoạt bát vạn năng bị mất, lấy cái tách, cái bóp… đều không được. Tay buông mặt kiến để khôi phục hoạt bát vạn năng lại, lấy cái gì cũng được.
Cái này là pháp có, nhưng lại trụ nơi không, trong tay không có cái gì, cũng là đánh mất hoạt bát vạn năng của tay, nên muốn lấy cái gì không được. Cho nên, cái không cũng phải quét, mới khôi phục hoạt bát vạn năng trở lại.
Không trụ chỗ nào thì dùng ra cái hoạt bát vạn năng của tự tánh, nếu có sở trụ thì cái hoạt bát vạn năng tự tánh bị mất. Vì vậy, Pháp Bảo Đàn nói “lấy vô trụ làm gốc”, Vô trụ là bản thể của Phật tánh cùng khắp không gian thời gian, dụng cũng cùng khắp không gian thời gian. Nếu có sở trụ nên bị chướng ngại, ngộ rồi còn trụ nơi ngộ bị cái ngộ làm chướng ngại, gọi là tiểu tử tiểu hoạt.

Hỏi:
Thiền sư nói phương pháp tự ngộ của Thiền tông rất dễ thực hành, xin Thiền sư cho biết muốn thực hành mỗi ngày phải làm thế nào?

Đáp:
Cách thực hành tham thiền rất giản dị, chỉ tối ngày sáng đêm tự hỏi câu thoại đầu, hỏi chứ không phải niệm. Như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Cảm thấy không biết, gọi là nghi tình. Không biết này khác hơn không biết của người ngủ mê, người bệnh tâm thần, người chết giấc.
Những cái không biết kia không phải nghi tình. Không biết phối hợp với tánh ham biết của mình, tánh con người tự nhiên ham biết; hỏi câu thoại đầu cảm thấy không biết, mà không biết đụng chạm với tánh ham biết thành nghi tình; cho nên khác hơn không biết kia.
Không biết của ngủ mê, chết giấc, bệnh tâm thần đều không phải không biết của tham thiền. Đi cầu, tắm rửa, ăn cơm, ngủ mê, làm công việc bằng tay chân hay trí óc đều hỏi câu thoại. Rất khó là tính sổ, ở Việt Nam có một Phật tử tính sổ vẫn tham được, không lộn số.
Tính sổ không có nguy hiểm, lái xe nguy hiểm, bác sĩ Thuận lái xe mà tham thiền không bao giờ đụng xe. Không phải mới tham mà làm được, phải tập qua một thời gian đến chừng nghi tình liên tục thật không biết, tự nhiên lái xe không đụng xe.

Hỏi:
Thiền thoại đầu do Trung Hoa sáng lập hay đã có từ thời đức Phật ở Ấn Độ?

Đáp:
Phật ở Ấn Độ truyền từ nghi đến ngộ, cái nghi đó không phải tham thoại đầu mới có nghi. Trước đời nhà Tống ở Trung Quốc không có tham công án, tham thoại đầu. Chư Tổ dùng cơ xảo đặc biệt để cho người tham thiền phát khởi nghi tình. Phật giáo Việt Nam đều là dòng Lâm Tế, tổ Lâm Tế tên là Thiền sư Nghĩa Huyền.
Ban đầu Ngài ở trong hội Hoàng Bá, Hoàng Bá là thầy truyền pháp của Lâm Tế. Ở đó 3 năm chuyên tham thiền không hỏi pháp, có một ngày Ngài gặp Thủ tọa Mộc Châu. Mộc Châu biết Lâm Tế sau này là một pháp khí lớn, nên ngày thường Mộc Châu đối với Lâm Tế rất tốt, Lâm Tế lấy làm cảm kích.
Mộc Châu hỏi: đến đây bao lâu rồi?
Lâm Tế đáp: được 3 năm.
Mộc Châu hỏi: có đi hỏi Phật pháp với Hòa thượng Hoàng Bá không?
Lâm Tế đáp: không có.
Mộc Châu hỏi: tại sao không đi hỏi?
Lâm Tế đáp: không biết hỏi gì.
Mộc châu nói: hỏi “thế nào là đại ý của Phật pháp?”
Lâm Tế nghe lời đi hỏi: thế nào là đại ý của Phật pháp?
Câu hỏi vừa dứt, Hoàng Bá đánh đập đuổi ra.
Lúc bị đánh đập đuổi ra là phát khởi nghi tình, nhưng tự mình không biết. Trong tâm cứ nghi tại sao tôi hỏi Phật pháp có lỗi gì, mà đánh đập đuổi ra?
Hôm sau gặp Mộc Châu, Mộc Châu hỏi: có đi hỏi không?
Lâm Tế đáp: có.
Mộc Châu hỏi: tại sao vậy?
Lâm Tế đáp: tôi vừa hỏi thì bị đánh đập đuổi ra, không biết tại sao?
Mộc Châu nói: nên đi hỏi lần nữa.
Lâm Tế nói: bị đánh đập đuổi ra, còn đi hỏi gì nữa!
Mộc Châu nói: kỳ này lại khác.
Lâm Tế hỏi: thế nào là đại ý của Phật pháp?
Câu hỏi vừa dứt thì Hoàng Bá đánh đập đuổi ra, nghi tình tăng thêm nhưng tự mình không biết.
Hôm sau nữa gặp Mộc Châu hỏi: có đi hỏi không?
Lâm Tế đáp: có.
Mộc Châu hỏi: thế nào?
Lâm Tế đáp: kỳ này giống như kỳ trước là bị đánh đập đuổi ra, cũng không biết tại sao?
Mộc Châu nói: hãy hỏi lần nữa!
Lâm Tế nói: thôi, còn hỏi gì nữa, đã hai lần bị đánh đập đuổi ra.
Mộc Châu nói: làm cái gì phải ba lần mới được, kỳ này chắc là đặc biệt.
Lâm Tế hỏi: thế nào là đại ý Phật pháp?
Câu hỏi vừa dứt, Hoàng Bá giận dữ đánh mạnh đuổi ra.
Lâm Tế không đợi gặp Mộc Châu, mà tự mình đến gặp Mộc Châu để từ giả “tôi không muốn ở đây nữa”, lúc đó nghi tình muốn bùng vỡ.
Mộc Châu đã biết và nói: muốn đi cũng được, nhưng phải từ giả Hòa thượng.
Lâm Tế đến Hoàng Bá từ giả ra đi.
Hoàng Bá nói: muốn đi đâu?
Lâm Tế đáp: chưa biết.
Hoàng Bá nói: khỏi cần đi chỗ khác, tôi chỉ cho: đến Cao An Thăng là chỗ ở Thiền sư Đại Ngu sẽ có ích cho ông.
Lâm Tế đến Đại Ngu. Đại Ngu hỏi: từ đâu đến?
Lâm Tế đáp: từ Hoàng Bá.
Đại Ngu hỏi: Hoàng Bá có dạy bảo gì chăng?
Lâm Tế kể ba lần hỏi Phật pháp, ba lần bị đánh đập đuổi ra, không biết lỗi ở chỗ nào?
Đại Ngu nói: Hoàng Bá vì ngươi mà từ bi như thế, lại hỏi lỗi chỗ nào!
Lâm Tế nghe liền ngộ thấu qua ba cửa, tức là phá luôn Mạc hậu lao quan.
Lâm Tế lập tức trở về Hoàng Bá, Hoàng Bá nói: đi đâu về mau vậy?
Lâm Tế đáp: ở Đại Ngu.
Hoàng Bá hỏi: Đại Ngu có nói gì không?
Lâm Tế kể chuyện Đại Ngu, Hoàng Bá nói: Đại Ngu sao nhiều chuyện quá! Sau này tôi gặp sẽ cho bạt tai.
Lâm Tế nói: khỏi cần đợi sau này.
Lâm Tế liền bạt tai Hoàng Bá, Hoàng Bá cười lên. Tại sao? Vì được một đệ tử để nối huệ mạng của Phật. Đó là cơ xảo của Tổ sư, lúc đó không dạy tham thoại đầu. Đánh đập mạnh làm cho người tham học phát nghi mà tự mình không biết, gọi là vô tham hay chân tham. Ngài Lai Quả nói “vô tham tức là chân tham”, vô tham không phải không tham, lúc tham thiền mà không biết mình tham, gọi là chân tham. Mặc dù, không biết các thứ khác, mà còn biết mình tham thiền, không phải chân tham.
Bây giờ, tham thiền đến chân tham trải qua nhiều năm là do tham công án hay tham thoại đầu. Tham công án hay tham thoại đầu có sau này, vì cuốn sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục phổ biến; trong cuốn sách nói rõ các cơ xảo của các Tổ sư, người tham thiền đọc hiểu; Chư Tổ dùng cơ xảo cho người tham thiền không phát nghi được.

Thầy của Sùng Tín là Đạo Ngộ, Sùng Tín làm thị giả cho thầy đã mấy năm, thầy không có dạy bảo gì, ở trong tâm đã khởi nghi tình nhưng tự mình không biết. Một ngày kia, nghi tình nặng quá nên chịu không nổi, rồi từ giả thầy nói “con muốn đi chỗ khác học đạo, đi xuất gia là để giải thoát, mà ở đây mấy năm không thấy thầy dạy đạo, làm sao con giải thoát?”
Đạo Ngộ nói: tại sao nói tôi không khai thị? Ngày nào tôi cũng khai thị, mà nói tôi không khai thị!
Sùng Tín nói: Thầy khai thị gì đâu?
Đạo Ngộ nói: ngươi bới cơm thì ta ăn, rót trà thì ta uống, đảnh lễ thì ta gật đầu, chỗ nào mà chẳng khai thị!
Sùng Tín nghe liền ngộ triệt để.
Không khai thị cũng là một cơ xảo, chỉ cần người tham thiền khởi lên nghi tình. Có nghi là được ngộ. Trước kia mình tham nhưng không biết mình tham, nên mới mau ngộ; sau này những chuyện này đã ghi trong Truyền Đăng Lục, người tham thiền coi rồi, thầy có dùng cơ xảo cũng không có thể phát nghi được. Vì vậy, bất đắc dĩ dạy tham công án, tham thoại đầu. Bây giờ, người tham thiển đã biết mình tham phải trải qua nhiều năm mới được ngộ.
Ngài Lai Quả xuất gia 24 tuổi, 28 tuổi kiến tánh; còn ngài Hư Vân phải trải qua mấy mươi năm mới được ngộ. Hiện nay, mình tham thiền đã biết mình tham thiền nên khó ngộ, người ngộ lại ít. Tuy ít người ngộ nhưng mỗi đời đều có người ngộ, như gần đây có ngài Nguyệt Khê, ngài Lai Quả, ngài Hư Vân; còn những người ngộ, mà không biết cũng nhiều.

Hỏi:
Tọa thiền có bắt buộc phải ngồi kiết già không hay ngồi cách nào cũng được?

Đáp:
Tổ sư thiền không cần ngồi, ngồi thiền không phải tham thiền, tham thiền không phải ngồi thiền. Tham thiền không cần ngồi, ngồi cách nào cũng được. Khi đả thiền thất là nửa tiếng ngồi nửa tiếng đi, hồi trước không có đồng hồ nên dùng cây nhang đốt để ngồi, rồi hết cây nhang đốt cây nhang khác để đi.
Lúc ngồi gọi là tọa hương, lúc đi gọi là đi hương; mà khỏi cần kiết già, muốn ngồi cách nào cũng được; tức là đi mỗi chân rồi lại ngồi, ngồi tê chân rồi đi. Ngồi và đi là điều thân, nên Lục Tổ trong Pháp Bảo Đàn nói “tâm tọa chứ không phải thân tọa”. Vì thân sau khi chết biến thành tro biến thành đất, ngộ là do tâm; tâm là không sanh không diệt, cho nên khỏi cần ngồi.

Hỏi:
Làm thế nào để thức tỉnh trong mở mắt chiêm bao?

Đáp:
Theo Đường Lối Thực Tham tổ Sư Thiền, theo đúng tông chỉ của Tổ sư truyền xuống, được thức tỉnh trong mở mắt chiêm bao (kiến tánh thành Phật), làm chủ cho mình được tự do.
Có hai công án sanh tử tự do:
-Có một Thiền sư kiến tánh đem cái hòm sẵn, cùng đại chúng dùng tiệc trai; ăn xong Ngài vô trong hòm nằm, bảo để tử đậy nắp lại đóng đi đem đi thiêu; đệ tử thấy còn sống, đâu dám đóng đinh đem đi thiêu! Để hai ba ngày sau, đệ tử lén mở nắp hòm thấy Ngài ngồi dậy, mắng các đệ tử: tại sao các người theo tôi nhiều năm mà không tin lời tôi? Nếu tôi không được tự do sanh tử, làm sao tôi bảo các người đậy nắp đóng đinh đem đi thiêu? Sao các người ngu si vậy!
Rồi đãi tiệc ngu si, ăn xong, Ngài nói “kỳ này tôi vô đậy nắp lại, người nào mở nắp ra không phải đệ tử của tôi”. Ngài vô hòm rồi đệ tử đậy nắp lại, đóng đinh đem đi thiêu. Chứng tỏ Ngài được sanh tử tự do.

-Một Thiền sư kiến tánh ở trên núi, danh tiếng vang tới kinh thành, vua nghe được rồi sai một vị quan lớn, đến mời Thiền sư về kinh thành để vua hỏi pháp; mời hai lần không đi, vua nổi giận nói với quan lớn “lần này, mời Thiền sư không đi thì đem cái đầu ông ấy về, còn không lấy cái đầu của ông thay thế”.
Ông quan lên núi găp Thiền sư năn nỉ “hai kỳ trước Thiền sư không đi không có sao, lần này nếu Thiền sư không đi, nhà vua bảo tôi đem cái đầu Ngài về; Tôi không dám lấy đầu của Ngài, nên lần này ráng cố gắng đi”.
Thiền sư hứa đi, hỏi các môn đồ: lần này tôi đi, có người nào muốn đi theo tôi không?
Một đệ tử nói: con muốn theo thầy đi.
Thiền sư hỏi: một ngày, ngươi đi bao nhiêu dặm?
Đệ tử đáp: được 50 dặm.
Thiền sư nói: không được.
Đệ tử khác nói: con theo thầy đi.
Thiền sư hỏi: một ngày, ngươi đi bao nhiêu dặm?
Đệ tử ấy đáp: được 70 dặm.
Thiền sư nói: không được.
Cứ như thế các đệ tử lần lượt hỏi đi đều không được, nhưng cuối cùng có thị giả nói: con muốn theo thầy đi.
Thiền sư hỏi: một ngày ngươi đi bao nhiêu dặm?
Thị giả đáp: không biết bao nhiêu dặm, thầy đến đâu thì con đến đó.
Thiền sư nói: được.
Rồi Thiền sư ngồi trên ghế tịch và thị giả đứng một bên cũng tịch theo. Tịch trước mặt quan làm cho ông ta kính sợ. Oai quyền của vua chỉ dùng cho người thường, đối với Thiền sư không thể dùng được; vì Thiền sư sanh tử tự do. Mình chưa kiến tánh nghe nói chết rất sợ, đến chừng kiến tánh thấy việc sanh tử không còn sợ, tự do đi lại.

Hỏi:
Nếu đạt đến trình độ như cầu thủ Trương Quốc Anh, mà bộ óc không biết, sống như vậy có phải như người nằm chiêm bao sao? Nếu làm được như vậy có ích lợi gì?

Đáp:
Cuộc sống hàng ngày bây giờ do bộ óc làm chủ, là xuất phát từ ngã chấp thì có tương đối; có lợi phải có hại, thường thường cái hại nhiều hơn cái lợi. Mặc dù, khoa học tiến bộ nhưng không giải quyết được, không làm cho người hạnh phúc nhiều hơn. Như Khoa học phát minh xe hơi để giúp cho phương tiện giao thông được dễ dàng. Bây giờ, xe hơi nhiều quá làm cho giao thông thường bị tắt nghẽn, lại tai nạn mỗi ngày tăng thêm. Nước Mỹ thống kê mỗi ngày chết vì tai nạn xe hơi trên 50 người, bị thương chưa tính.
Có lợi phải có hại, vì có ngã chấp nên tranh giành với nhau, tôi muốn hưởng nhiều hơn, tôi muốn có tiền nhiều hơn; từ anh chị em trong gia đình tranh giành, cho đến gia đình này với gia đình kia, đoàn thể này với đoàn thể kia, chủng tộc này với chủng tộc kia, nước này với nước kia. Từ chửi mắng, xung đột, chiến tranh nhỏ, chiến tranh lớn, xung đột đổ máu đều tạo ra tai họa, làm cho con người không được an cư lạc nghiệp. Đó là do bộ óc làm chủ.
Phật muốn sửa lại đem Phật tánh làm chủ mà thông qua bộ óc dùng ra, bộ óc làm nô lệ cho Phật tánh thì không có tương đối, không xẩy ra tai họa; cái dụng lớn hơn trăm triệu ngàn lần, chứ không phải người khờ ngốc không biết gì. Như tài xế đang tham thiền bộ óc không biết, ở giữa đường có cục đá hay có một cái lỗ, tự động tránh tuy không thấy. Đó là tác dụng của Phật tánh.

Hỏi:
Xin Thiền sư chỉ cho phương pháp làm thế nào được tự tại?

Đáp:
Phật tánh của mình là bình đẳng bất nhị, vốn là tự tại; không phải do ai tạo ra cho mình, vốn sẵn có từ lâu đời; không có sự bắt đầu, nên Phật nói là vô thỉ. Vô thỉ là vô sanh, một việc gì đã sanh thì có sự bắt đầu. Vô sanh là cái nghĩa Niết bàn (không sanh không diệt). Cho nên, người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, như Tịnh độ nói là “hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”.
Tham thiền đến kiến tánh phát hiện bản thể cùng khắp không gian thời gian là được tự do tự tại. Nếu dùng bộ óc luyện cũng có thần thông, thần thông này còn bị thời gian không gian hạn chế, không được tự do tự tại.
Trong kinh Lăng Nghiêm nói 50 thứ ma ngũ ấm có thần thông, như bên này bay về Việt Nam 5 phút. Tuy bay có 5 phút, nhưng 5 là số lượng, phút là thời gian, từ đây đến Việt Nam là không gian, cũng còn bị thời gian không gian hạn chế. Thần thông của Phật tánh khỏi cần bay, được tự do tự tại; không bị không gian thời gian hạn chế.

Hỏi:
Khi tham thiền nên quán nhất niệm hay vô niệm? Và thế nào là tịch chiếu? Trong khi hành thiền có dấu hiệu nào mình chứng ngộ được tịch và chiếu?

Đáp:
Nếu khởi lên một niệm gọi là nhất niệm vô minh, một niệm chưa khởi lên gọi là vô thỉ vô minh. Mục đích tham thiền phá tan vô thỉ vô minh thì được tự do tự tại. Cho nên, không phải quán một niệm hay vô niệm. Hỏi câu thoại đầu kích thích lên niệm không biết, không biết là vô tướng, không có sự đối đãi; không phải nhất niệm cũng không phải vô niệm, chỉ có nghi tình là không biết. Cuối cùng nghi tình bùng vỡ thì vô thỉ vô minh bị phá tan, tức trong sát na đó kiến tánh thành Phật.

Hỏi:
Mỗi lần ngồi thiền khoảng 2 tiếng đồng hồ, con nghe nổ một tiếng “trắc” mà người ngoài cũng có thể nghe được. Xin Thiền sư chỉ dạy?

Đáp:
Ngồi thiền đến chừng vọng tưởng bớt, có nhiều thứ cảm giác, thấy cảnh giới này thấy cảnh giới kia, cho đến thấy Phật Thích Ca đến rờ đầu an ủi thọ ký cho mình thành Phật, đều phải quét sạch. Vì ma có thể hiện Phật để làm việc. Thường thường có cảm giác như kiến bò, điện chạy hay cảm giác thấy thân cứng, cả thân mềm, cả thân lạnh, cả thân nóng…Đó là do ảo tượng, do vọng tưởng sanh ra.
Tham thiền có những cảnh giới ấy không cần biết tới. Ngồi thiền để ý cảnh giới ấy thì sau này bị tẩu hỏa nhập ma. Để ý hơi thở, dùng câu chú đè nén vọng tưởng, dùng câu A Di Đà Phật để đè nén vọng tưởng, đến mức độ cao thì có thể xẩy ra 3 kết quả không tốt. Ở Việt Nam, tôi đã gặp nhiều người như vậy. Bởi vì, người ta không biết đường lối thực hành do Tổ sư từ đời từ đời truyền xuống. Các môn các phái đều có thiền đặc biệt của môn phái đó.
Tôi bây giờ hoằng pháp môn Tổ sư thiền của Phật Thích Ca thân truyền, còn tông Thiên thai có Chỉ quán thiền, tông Hiền thủ có Pháp giới quán thiền, tông Duy thức có Duy thức quán thiền, tông Tam luận có Tánh không quán thiền, mỗi tông mỗi phái đều có thiền riêng của tông phái đó. Mình muốn thực hành phải đúng theo tông chỉ của tông phái đó, không xẩy ra sự nguy hiểm.
Mình coi sách rồi tự đặt ra đường lối tu, có người dùng niệm Phật để đè nén vọng tưởng, có người dùng niệm chú để đè nén vọng tưởng; ban đầu thấy trong người nhẹ nhàng sung sướng, hay trong cơ thể có bệnh gì cũng hết, rất mừng.
Nhưng đến mức độ cao, có người phát lên thần thông; theo vật lý đè nhiều chừng nào thì phản lực mạnh chừng nấy, vì chỉ đè nén mà không phá ngã chấp. Cho nên, tham sân si còn nguyên, lại đè lâu ngày có phản lực mạnh, đến khi phát lên không khống chế được, thường xẩy ra 3 kết quả: ói máu, phát điên, phá giới.

Hỏi:
Tôn giáo dựa nơi lòng tin, Thiền học dựa trên nghi tình để đến thoại đầu. Xin Thiền sư khai thị?

Đáp:
Vừa rồi tôi đã nói 2 cơ bản tham thiền, tại sao nói không có tin! Chữ tin là mẹ tất cả công đức, tham thiền cũng vậy, phải tin tự tâm mới phát hiện được tự tâm. Còn nghi tình chỉ là phương pháp tạm thời, nhờ nghi tình để đưa mình đến chỗ giác ngộ. Như chiếc bè qua sông, đến bờ phải bỏ bè; nếu đến bờ còn vác chiếc bè đi chơi thì không thể được.

Hỏi:
Thế nào gọi là tánh không?

Đáp:
Tánh không là biệt danh của tự tánh, thường thường người đời hiểu lầm 2 chữ “tánh không”; cho rằng tiêu diệt cái có mới thành không, sự thật không phải như vậy. Nếu trụ nơi có chẳng được gọi tánh không, tức là không chấp thật có là tánh không, không chấp thật không là tánh không, không chấp thật chơn là tánh không, không chấp thật giả là tánh không.
Như thế lìa tứ cú, không trụ nơi tứ cú, gọi là tánh không. Tứ cú không phải có đối với không, như nói đối với nín: nói là cú thứ nhất, nín là cú thứ nhì, chẳng nói chẳng nín là cú thứ ba, cũng nói cũng nín là cú thứ tư. Không lọt vào cú nào gọi là tánh không.

Hỏi:
Tu Tổ sư thiền cần mỗi ngày ngồi thiền bao nhiêu phút và mỗi năm phải gặp thầy bao nhiêu lần?

Đáp:
Tổ sư thiền rất thích hợp cho người tại gia để tu, vì rất tự do; một ngày 24 tiếng đều tu được, bất cứ nơi nào cũng tham thiền. Cho nên, không cần ngồi, đang làm việc, đang đi xe, đang đi bộ, đang giặt đồ, đang nấu cơm, bất cứ làm việc gì đều tham thiền được, hỏi thầm trong bụng. Tin tự tâm đầy đủ 100 % là đã thực hành được “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”, nên ở nhà cũng tu được, khỏi cần gặp tôi.
Nếu chưa tin tự tâm đầy đủ, có thắc mắc hỏi, tôi giải đáp để tăng lòng tin tự tâm, hay coi những cuốn sách của tôi sáng tác và dịch, cũng để tăng cường lòng tin tự tâm; chứ không có giáo lý cao siêu.
Như kinh Đại thừa liễu nghĩa của Phật cũng để tăng cường lòng tin tự tâm cho chúng sanh, không có giáo lý cao siêu. Nếu có giáo lý cao siêu thì Phật không nói “49 năm thuyết pháp, tôi chưa từng nói một chữ”. Phật đã tự phủ định, chỉ là phương tiện tạm thời, rồi phát hiện tự tâm của mình để làm chủ, giải thoát tất cả khổ.

Hỏi:
Nếu trong vô thức chiêm bao đôi khi nhìn được cảnh quá khứ hay tương lai thì cảnh tương lai hiện giờ đang ở đâu?

Đáp:
Nếu đã cùng khắp không gian thì không có chỗ, cùng khắp thời gian thì không có lúc. Có người hỏi: kiến tánh rồi đi về đâu? Nếu có chỗ trở về thì chưa kiến tánh, vì kiến tánh rồi cùng khắp không gian thời gian, nên không cần đi. Ở đây bay về Việt Nam 5 phút, không phải thần thông của Phật tánh; thần thông của Phật tánh không cần bay. Ngoài không gian không có không gian.

Hỏi:
Tham thiền có cần ăn chay không?

Đáp:
Ăn chay thuộc về nhân quả, giết một mạng phải trả một mạng, ăn cục thịt phải trả cục thịt. Tôi không có khuyên người ta ăn chay, tôi nói “nếu quý vị chịu cho người ta ăn thì cứ ăn người ta, sợ người ta ăn mình thì đừng ăn người ta”. Trong kinh Lăng Nghiêm nói “kiếp này mình ăn thịt dê, con dê kiếp sau thành con người; mình thành con dê thì nó ăn trở lại”, ăn đi ăn lại là ăn thịt mình chứ đâu phải người khác!

Hỏi:
Tại sao Thiền sư qua Mỹ khi Ngài đã am hiểu về thiền?

Đáp:
Tôi chưa kiến tánh, đáng lẽ chưa ra hoằng Tổ sư thiền, chỉ được giải ngộ, may mắn được truyền phương pháp tự của Thiền tông. Ngài Lai Quả đã kiến tánh, nhưng thầy của ngài Lai Quả chưa kiến tánh; ngài Hư Vân kiến tánh, thầy của ngài Hư Vân không kiến tánh. Mặc dù, thầy chưa kiến tánh, nhưng trò kiến tánh trước. Bởi vì đi đúng đường lối của Tổ truyền xuống, nếu quyết tâm tu sẽ được kiến tánh. Thầy bận việc dạy đồ chúng nên chậm trể kiến tánh.
Tại sao tôi ra hoằng dương Tổ sư thiền thiền? Ngày mùng 1 tháng 4 năm 1977, tôi ở chùa Từ Ân được người ta mời thọ trai, lúc đó không có ở chùa. Khi cúng ngọ, thầy tôi tuyên bố với Phật tử là ngày mai có sư Duy Lực ra dạy Tổ sư thiền, mời tất cả Phật tử đến chùa nghe giảng thiền. Thầy của tôi không nói cho tôi biết trước, đến sáng mùng 2 tháng 4, thầy tôi mới nói cho tôi biết. Trong lúc đó Phật tử đã đến chùa, bảo tôi ra dạy thiền. Tôi có muốn từ chối cũng không thể nào được, nếu từ chối làm mất mặt thầy của tôi. Bất đắc dĩ tôi phải ra hoằng Tổ sư thiền.
Trước kia, tối ngày tôi ở trong phòng, không ai biết; ngày mùng 2 tháng 4 năm 1977. Ban đầu, tôi giảng bằng tiếng Quảng, chỉ có người Hoa đến học hơn ba mươi người, giảng một tuần lễ, tôi hỏi người nào thích thiền? Chỉ có một người, sau này từ từ tăng thêm, người Hoa tăng lên hai ba trăm người; đến khi tôi mở thiền thất, người Việt ban đầu đến coi rồi xin dự; sau ngày càng đông, yêu cầu tôi giảng tiếng Việt; người Việt theo học thiền ba bốn ngàn. Ra hoằng Tổ sư thiền không thể nghĩ được nên phải tiếp tục; tuy hoằng pháp rất khó khăn.

Hỏi:
Sự khác biệt giữa pháp môn tham thoại đầu và Tịnh độ? Và có thể kết hợp hai pháp môn này để tu được không?

Đáp:
Pháp thực hành của tham thoại đầu phải nghi, còn pháp Tịnh độ cần phải tin; hai cái nghịch với nhau. Nghi có dấu hỏi, nghi là nhân, ngộ là quả. Đường lối thực hành Tịnh độ không có nghi, chỉ thực hành đến chỗ bất thối (không lui sụt); nhưng phải thực hành đúng theo tông chỉ của Tịnh độ mới được. Trước kia, tôi hoằng dương Tịnh độ được mười mấy năm, nhưng chưa gặp một người nào tu đúng theo tông chỉ Tịnh độ.
Tông chỉ của Tịnh độ là gì? Là tín, nguyện, hành. Tín có thứ 3 tin, có 2 thứ nguyện (đại nguyện và tiểu nguyện), 2 thứ hành (nhứt tâm niệm Phật và tán tâm niệm Phật). Tôi giảng đường lối thực hành của Tịnh độ rất kỹ, rõ ràng. Sao gọi là 3 thứ tin? Sao gọi là 3 thứ nguyện? Sao gọi là 2 thứ hành? Thực hành thế nào đến chỗ nhứt tâm bất loạn, đến chỗ không niệm mà niệm, niệm mà chẳng niệm, từ bước từ bước.
Tôi hỏi những người dạy Tịnh độ và người tu Tịnh độ: ba tông chỉ của Tịnh độ là gì? Nhiều người không trả lời được. Đó cũng không lạ gì! Tại sao? Như Thiền tông truyền đến Việt Nam có tổ Liễu Quán, tổ Vô Ngôn Thông từ Trung Quốc truyền qua Việt Nam. Tịnh độ có Tổ nào truyền từ Trung Quốc qua Việt Nam không? Những người tu Tịnh độ đều không biết.
Sơ tổ của Tịnh độ là người Trung Quốc đời nhà Tấn ở Trung Quốc sáng lập tông Tịnh độ. Không có Tổ nào từ Trung Quốc truyền qua Việt Nam, vậy có Tổ nào ở Việt Nam sáng lập tông Tịnh độ không? Hỏi người nào cũng không biết, nên mỗi người coi sách tu theo ý của mình cho ăn chay, tụng kinh là Tịnh độ; chứ không biết đường lối thực hành tông chỉ của Tịnh độ, thành ra không có một người nào được thành tựu vãng sanh.
Nhiều người nói biết ngày giờ chết là vãng sanh, nhưng sự thật nhiều người không có niệm Phật cũng biết ngày giờ chết. Người được sanh cõi người có thể biết ngày giờ chết, người sanh cõi trời cũng có thể biết ngày giờ chết; nhưng không phải vãng sanh Cực Lạc. Nếu lấy cái đó để làm bằng chứng không đúng.
Bởi vì không tu đúng theo tông chỉ Tịnh độ, nên khó thành tựu. Theo kinh nghiệm của tôi hoằng dương Tịnh độ mười mấy năm biết là Tịnh độ khó hơn Tổ sư thiền cả trăm ngàn lần. Cái khó là tại chỗ nào? Khó là chỗ phát đại nguyện mà không thực hành đại nguyện của mình phát.
Sơ lược 2 thứ nguyện: tiểu nguyện và đại nguyện.
Phát tiểu nguyện chỉ cho mình được vãng sanh thì không hợp với nhân quả. Thiện quả được phước báo, sanh cõi người được giàu sang phú quý. Tự mình hỏi mình từ nhỏ đến lớn có giết chết một con kiến không? Có giết chết một con muỗi không? Có ăn thịt gà thịt heo không? Nếu có phải đầu thai trả lại. Vậy làm sao được vãng sanh? Vì vãng sanh không có chết nữa, là không hợp với nhân quả. Cho nên, tiểu nguyện không được vãng sanh.
Phải phát đại nguyện, đại nguyện không phải một mình được vãng sanh. Làm tất cả phước thiện đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh được vãng sanh. Hai chữ hồi hướng mà người ta cũng hiểu lầm. Hồi hướng là phá ngã chấp, trong Giáo môn hết Thập hồi hướng thì lên bực Bồ tát.
Bây giờ, người ta dùng hồi hướng tăng thêm ngã chấp, tức tất cả là công đức của tôi; tôi thương người này hồi hướng cho người này, tôi thương người kia hồi hướng cho người kia là theo ngã chấp; không phải tất cả công đức của tôi hồi hướng cho tất cả chúng sanh, tôi chỉ là một trong chúng sanh.
Đó mới là đại nguyện, tức tất cả chúng sanh bình đẳng; tôi được vãng sanh thì tất cả chúng sanh đều được vãng sanh. Những người nợ thịt nợ mạng mà tôi ăn lúc trước đều cùng tôi được vãng sanh. Nếu những người ấy không được vãng sanh thì tôi thành Phật trở lại độ họ. Nhưng đối với tất cả chúng sanh phải bình đẳng mới là thực hành đại nguyện của mình phát. Nếu chỉ miệng nói tâm nghĩ gọi là nguyện suông nguyện giả, vậy làm sao được vãng sanh?
Muốn thực hành đại nguyện của mình phát không phải dễ! Đừng nói mình đối với người bình đẳng, mình đối với súc sanh, đối với con chó, con chuột, con mèo… mình có coi là bình đẳng hay không? Đây thực hành rất khó. Nếu không thực hành đại nguyện của mình phát là nguyện suông nguyện giả không được vãng sanh.
Như mình không có tiền để trả nợ, nhưng trương mục ngân hàng của mình không có tiền, mình ký ngân phiếu là ba bốn năm sau trả; mỗi ngày mình phải nạp vô ngân hàng, người ta sau này mới nhận được. Nếu mình chỉ nói suông, ký ngân phiếu cho người là gạt người phải bị ở tù.
Người ta không hiều chỗ khó của Tịnh độ, cho niệm Phật là nhờ tha lực mà được vãng sanh. Tất cả pháp môn nào đều phải nhờ tự lực và tha lực; Thiền tông cũng nhờ tha lực và tự lực, chứ không không phải chỉ nhờ tự lực mà được.
Phật nói nhân duyên, tự lực là nhân, tha lực là duyên. Như hạt lúa là nhân, sanh ra cây lúa là quả. Nếu để hạt lúa trong vựa một trăm năm vẫn là hạt lúa, không thể sanh ra cây lúa; phải có người lấy ra ngoài bỏ trên đất tưới nước rồi mọc lên cây lúa.
Nhân công và đất đều là trợ duyên, nên nói là nhân duyên hòa hợp được thành tựu. Không có nhân mà có duyên, như không có hạt lúa làm sao sanh ra cây lúa! Phải có hạt lúa, nhân công, đất, nước mới sanh ra cây lúa.
Pháp môn nào cũng vậy, trong Phật pháp gọi là nhân duyên; có nhân phải có duyên, có duyên phải có nhân; nhân duyên hòa hợp được sanh khởi. Thường thường người tu Tịnh độ nói nhờ tha lực được vãng sanh, chỉ biết như vậy, thành ra khó thành tựu.

Hỏi:
Người có tu thiền và người không tu thiền đều cảm thấy xuất hồn bay bổng trên mặt đất. Trạng thái đó là gì?

Đáp:
Năm mươi thứ ma ngũ ấm trong kinh Lăng Nghiêm có thần thông cao hơn cái này nhiều lắm, như ở đây về Việt Nam lấy một món đồ chỉ có 5 phút, tà ma ngoại đạo đều làm được thần thông này.
Những người không tọa thiền vì kiếp trước họ tu cũng có thần thông. Súc sanh cũng có thần thông, như con kiến, con chuột biết trước trời bão, ngập nước, rồi nó dời chỗ khác. Bản năng của con thú vật không phải do tập luyện và học, mà tự có.
Nhà khoa học phát minh ra đa là học theo con dơi, con dơi không có con mắt, không học, không nghiên cứu, nhưng có bản năng ra đa, nó bay khắp nơi không đụng mọi vật. Nhà kiến trúc giỏi học kiến trúc con ong, con ong không học, không nghiên cứu mà làm tổ rất kiên cố.
Bản năng đó ở nơi Phật tánh mình sẵn có, tất cả chúng sanh đều bằng nhau; kiếp này không tu, kiếp trước có tu vẫn hiện ra được. Kiếp này mình không tu nhưng sẵn có bằng như Phật, không phải bị mất.
Cho nên, tham thiền lần lần phát hiện ra cái dụng, như vừa nói: túc cầu viên, cô thợ may, tài xế… hiện ra cái dùng một phần nào của mình, cho đến hiện ra vô lượng vô biên bằng như chư Phật.

Hỏi:
Đệ tử cảm thấy hình như thế hệ sắp tới không thấy Thầy cho mở một đường đi. Cái gương của người Tàu, người Nhật, người Cao Ly… sau hai mươi năm Phật giáo đi vào con đường diệt vong. Bây giờ, nếu chúng ta không vạch ra lối đi thích hợp thì e rằng hết đời chúng con thì Phật giáo cũng đi vào con đường của những người đi trước. Xin cảm tạ Thầy?

Đáp:
Đường lối thực hành Tổ sư thiền do Phật Thích Ca thân truyền duy nhất. Phật nói những pháp ở trong kinh chỉ qua văn tự lời nói, không phải đích thân truyền. Những lời nói văn tự trong gọi là pháp thiền gián tiếp, Tổ sư thiền là pháp thiền trực tiếp.
Pháp này thích hợp với mọi người, nên con nít sáu bảy tuổi cũng tham được, bà già tám chín chục vẫn thực hành được. Đường lối này thực hành rất giản dị, chỉ là nhờ câu thoại đầu hỏi thầm trong bụng để khởi lên thắc mắc gọi là nghi tình. Giữ được nghi tình là thực hành rồi, Thiền tông chỉ chú trọng nghi tình.
Hôm qua, tôi coi đài số 50, các nhà khoa học thí nghiệm: lúc không biết của bộ óc hiện lên, ngồi hay đi trên bàn đinh không bị đâm và không bị đau, khi mình biết thì bị đinh đâm vô. Chứng tỏ cái không biết của Phật dạy rất đúng với khoa học hiện nay.
Đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, cơm, mặc áo, đi cầu…người nào cũng thực hành được. Các thiền khác phải ngồi yên một chỗ, Tổ sư thiền bất cứ ở chỗ nào, ở chỗ náo động đều tham được; đang làm việc tay chân hay trí óc cũng tham được.
Như cô Trì Hằng Thiền đang cắt may mà tham thiền, không cần qua bộ óc vẫn làm được. Bất cứ kiểu áo mới nào, cô không cần suy nghĩ nhưng cắt được. Có người ở đây chứng tỏ đàng hoàng, chứ không phải tôi nói suông. Có người ở Pháp và ở Việt Nam cũng có sức dụng như vậy.

#12 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 05/08/2011 - 22:46

Hỏi:
Các giới trẻ thanh thiếu niên ở nước Mỹ, muốn có một cái gì thích thú vui vẻ trong đời sống hằng ngày, cũng như trong việc tu tập. Nếu bảo các em các cháu tham thiền đi, không biết các em các cháu làm được điều đó hay không. Kính xin Thầy khai thị thêm?
Đáp:
Phật pháp là để giải quyết tất cả khổ sanh tử luân hồi, đây chỉ Phật giáo mới có, các tôn giáo khác không có. Giải thoát tất cả khổ đạt đến tự do tự tại là điểm chính của Phật pháp. Những cái hứng thú ở ngoài đời có thiếu gì! Như âm nhạc, nghệ thuật, khiêu vũ, đánh banh, đá banh…
Chuyện Trương Quốc Anh thủ môn đang tham thiền, trái banh nào đến cầu môn đều chụp được. Không những chỉ cái này mà bất cứ làm cái gì cũng vậy. Trước kia chưa tham thiền, một ngày may một bộ; lúc đang tham thiền, một ngày may được hai bộ.
Bao hàm niệm Phật, niệm chú, giới định huệ, lục độ vạn hạnh và tất cả pháp thế gian đều ở trong nghi tình. Vì tự tánh của mình cùng khắp không gian thời gian, năng lực vô lượng vô biên; chỉ cần mình phát hiện thì dùng chỗ nào cũng được. Lúc dùng ra mà bộ óc không biết, nếu bộ óc biết thì không hiện ra để dùng.

Hỏi:
Xin Thiền sư bình phẩm các vị tu ở Tây Tạng, dùng trí nào tu để thay đổi sinh lý có thể tăng sức nóng của cơ thể lên 50 độ, có thể ở trần trên núi Hy mã lạp sơn lạnh lẽo dưới 0 độ mà không sao?

Đáp:
Trương Quốc Anh ở Việt Nam qua Ba Lê, đi xe về nhà chị bị lật xe, cả xe đều bị thương, lúc y đang tham thiền nên bộ óc không biết. Nhân viên hồng thập tự lại cứu ra, y còn không biết, lại hỏi “việc gì vậy?” Người nào cũng bị thương, phải chở đến bệnh viện rọi kiến; bảo y rọi kiến, y nói “khỏi, tôi không có bị thương”. Nhân viên bệnh viện nói “tuy bên ngoài không thấy, nhưng bên trong có thể bị thương”. Rồi y rọi kiến, nhưng không bị thương chỗ nào. Hôm qua, tôi nói đài 50 cũng chứng tỏ như vầy.
Do lý này mà bộ óc không biết thì lạnh cũng không biết, nóng cũng không biết. Nếu không biết làm sao biết lạnh! Làm sao biết nóng! Nhà khoa học nói những người không biết dù đi trên đinh chông, không bị đinh đâm lũng chân; lúc biết thì bị đâm lũng. Giữ được không biết của óc tự nhiên hiện ra cái dụng của tự tánh, khỏi cần mình mong; nếu mình mong tức là mình biết, biết rồi không thấy lạnh rất khó.
Mục đích của Phật pháp là giải thoát tất cả khổ, để đạt đến sanh tử tự do vĩnh viễn; chứ không phải dùng làm mấy cái này, đó chỉ là tạm thời. Chú trọng mấy cái này làm mất tác dụng căn bản, tức là được cái nhỏ mà mất cái lớn. Như mình mua vé số là muốn trúng độc đắc, nhưng lại trúng an ủi.

Hỏi:
Xin thầy giảng rõ nghi tình và sự không biết, nếu như biết nhiều quá thì bị sở tri chướng. Vậy một đứa trẻ không biết gì, có phải là nhiều nghi tình và dễ ngộ hay không? Lại nữa, theo Thiền tông tránh dùng cái biết của bộ óc, đối với thanh thiếu niên phải giải thích như thế nào về thế học và Phật học?

Đáp:
Tham thiền là nhờ câu thoại đầu tự hỏi trong bụng cảm thấy không biết, không biết này đụng với với tánh ham biết của mình thành nghi tình; nhưng không để ý đụng chạm, chỉ cần cái không biết. Cho nên, nghi tình khác hơn người ngủ mê không biết, chết giấc không biết, bệnh tâm thần không biết, khờ ngốc không biết, những cái không biết này không phải là nghi tình.

Hỏi:
Giữa hai ý niệm là khoảng không tức là vô niệm, vô niệm này chân hay giả vô niệm?

Đáp:
Trong Pháp Bảo Đàn giải thích hai chữ vô niệm: vô niệm không phải không có một niệm nào hết, tức là bản niệm không sanh diệt. Thiền tông nói vô tâm là vô niệm: Chớ nói vô tâm là cao nhất, vô tâm cũng còn cách rất xa.
Nếu trụ chỗ vô niệm thì không thể đến chỗ giác ngộ cuối cùng. Vô niệm là vô thỉ vô minh, chỗ này không có khởi lên một niệm. Khi vô thỉ vô minh bị kích thích thì nổi lên một niệm, gọi là nhất niệm vô minh. Nhất niệm vô minh đã khởi thì có cuộc sống hằng ngày.
Ngài Nguyệt Khê nói trong Đại Thừa Tuyệt Đối Luận “mình gặp việc vui cho vui là nhất niệm vô minh, gặp việc buồn cho buồn là nhất niệm vô minh”, tức là gặp việc gì cho là gì là hóa thân của nhất niệm vô minh. Dứt hết nhất niệm vô minh trở về vô niệm thành vô thỉ vô minh.
Thiền tông đến chỗ vô thỉ vô minh cần phải tiến lên một bước, phá tan vô thỉ vô minh được kiến tánh thành Phật, tức giác ngộ cuối cùng; cũng là bản tánh của mình hiện ra cùng khắp không gian thời gian, bằng như chư Phật không hơn kém một chút nào cả.

Hỏi:
Ca Diếp nhìn thấy cành hoa rồi mỉn cười có ý gì? Vì sao một mình Ngài thấy mà các vị khác không thấy?

Đáp:
Tất cả hơn triệu người, người nào cũng thấy, không phải chỉ ngài Ca Diếp mới thấy. Ngài Ca Diếp đã có nghi tình sẵn, lúc thấy thì nghi tình bùng vỡ được ngộ. Những người kia tuy thấy nhưng nghi tình chưa đến mức, nên không ngộ. Có người chưa có nghi tình cũng không thể ngộ.
Chư Tổ, có người thấy con khỉ leo cây được ngộ, có người thấy hoa nở được ngộ, có người nghe người ta ca hát được ngộ, có người đi ngang chỗ bán thịt thấy người mua thịt nói “bán cho tôi một miếng thịt nạt”, người bán thịt chặt mạnh con dao xuống bàn, nói “chỗ nào không phải thịt nạt!” Người đi ngang nghe người bán thịt nói liền ngộ.
Nghi tình đến mức thì bất cứ gặp nhân duyên nào cũng ngộ. Có một vị thăm Mã Tổ, Mã Tổ nói: đảnh lễ đi. Người ấy vừa lạy xuống, Mã Tổ đá một cái thì người ấy liền ngộ. Ở trong Thiền tông đủ thứ, như thấy cành hoa, nghe tiếng hát, bị đá… đều ngộ, ngộ không phải do những cảnh ấy; vì nghi tình đến mức nên ngộ, những cảnh ấy tạm thời trợ duyên.

Hỏi:
Đức Thế Tôn tu pháp môn nào ngồi dưới gốc cây bồ đề 6 ngày đắc đạo?

Đáp:
Phật Thích Ca là Phật xưa trong kinh Pháp Hoa có nói, đã tự nói thành Phật không biết bao nhiêu kiếp rồi, gọi là trần điểm kiếp. Thí dụ trần điểm kiếp là: đem tam thiên đại thiên thế giới mài thành mực, một ngàn tam thiên đại thiên thế giới thì chấm một giọt mực, chấm hết mực này không biết bao nhiêu thế giới, mình không thể đếm được.
Vậy Phật đã thành Phật không biết bao nhiêu kiếp, không phải Phật mới thành Phật cách 2534 năm. Kiếp này Phật Thích Ca thành Phật chỉ là thị hiện.
Trong kinh có tám thứ thị hiện: 1-Trên Trời Đâu Suất giáng sanh xuống thọ thai, 2-Xuất thai, 3-Đi học, 4-Đi tu, 5-Xuất gia, 6-Thành đạo, 7-Thuyết pháp, 8-Nhập Niết bàn. Phật nói trong kinh “không phải chỉ làm giáo chủ cõi Ta Bà này, mà làm giáo chủ thiên bá ức thế giới cùng một thời gian, cùng một thời gian thuyết pháp”, nên gọi là thiên bá ức hóa thân. Việc này mình ngộ rồi mới chứng tỏ được.

Hỏi:
Pháp thiền đầu tiên của Phật là gì?

Đáp:
Phật truyền pháp môn Tổ sư thiền có bốn chữ là “từ nghi đến ngộ”, nghi là nhân, ngộ là quả; nên nói bất nghi bất ngộ là không có nhân thì không có quả; nghi nhỏ ngộ nhỏ, gọi là tiểu nghi tiểu ngộ, tức là nhân nhỏ thì quả nhỏ; nhân lớn thì quả lớn, nên nói đại nghi đại ngộ.
Đầu tiên truyền pháp này chỉ đưa cành hoa, chứ không nói gì, Ma Ha Ca Diếp được ngộ, Phật phó chúc “Chánh pháp nhãn tạng cho Ma Ha Ca Diếp để truyền cho đời sau”.

Hỏi:
Con người sau khi chết phải cúng 7 thất. Tại sao mỗi thất linh hồn phải chết thêm một lần nữa? Chết rồi linh hồn như thế nào? 49 ngày là định nghiệp, mà sao còn cúng 100 ngày?

Đáp:
Làm tuần 49 ngày (7 tuần), nếu có thân trung ấm thì 7 ngày thay đổi một lần. Cho nên, người ta căn cứ theo chỗ đó mới có làm tuần từ tuần đầu đến tuần thứ bảy. Còn 100 ngày hay 3 năm là do con cháu muốn kỷ niệm thêm cho đến ngày giỗ. Việc đó là theo phong tục ngày xưa, chứ không phải Phật pháp có nghi lễ quy định như vậy.

Hỏi:
Khi nào linh hồn đi đầu thai làm kiếp người vào tháng thứ mấy trong bào thai mẹ?

Đáp:
Đầu thai có hai thứ: khi có thai thì thức thứ 8 (a lại da thức) vào thai và có thai đến gần sanh ra thì thức thứ 8 mới vào. Thường thường ở đây chết ở kia sanh là cùng một thời gian.
Huỳnh Đình Kiên lúc 26 tuổi làm huyện trưởng, ở dinh huyện ăn sinh nhật, rồi ngủ trưa thấy chiêm bao, một mình đi ra ngoài không có ai theo, đi trên con đường nhỏ đến một làng quê, gặp một bà già mời vô nhà ăn cơm, ăn xong rồi về.
Lúc thức tỉnh chiêm bao, sao thấy việc này rõ ràng quá, không biết có sự thật như vậy không! Một mình đi, cũng có con đường đó đến một làng xóm gặp bà già đó, hỏi bà già: hôm nay nhà bà có làm gì không?
Bà già nói: có đám giỗ con gái, con gái đã chết 26 năm; lúc chưa chết nó tu và trước khi chết dặn tôi “kiếp sau con sẽ mở cái rương này”, rồi tự mình cất chìa khóa.
Huỳnh Đình Kiên nghe đến chỗ này liền nhớ lại kiếp trước, hỏi: Bà biết chìa khóa để chỗ nào không?
Bà già đáp: không biết.
Huỳnh Đình Kiên nói: tôi biết.
Rồi lấy chìa khóa mở cái rương ra, trong đó chỉ có những văn chương tú tài, cử nhân giống như kiếp trước của ông đã làm. Ông biết bà già này là mẹ kiếp trước của ông, bà già không có con cháu nên ông đưa bà già về dinh huyện trưởng để nuôi.
Việc này chứng tỏ ngày sinh nhật là ngày chết, tức là chỗ này chết chỗ kia sanh, cùng một thời gian. Sau này Huỳnh Đình Kiên tham thiền cũng được kiến tánh, pháp danh là Sơn Cốc.

Hỏi:
Khi người chết có mang theo chuổi tràng hạt mà lúc sống đã từng niệm Phật?

Đáp:
Đúng theo tông chỉ Tịnh độ thì sợi chuổi dùng để tập cho lúc đầu tiên, nếu đã quen thuộc chớ nên dùng, huống là chết còn muốn đem theo! Tôi muốn giải thích phải nói đến hành của Tịnh độ: ngài Ấn Quang là Tổ thứ 13 của tông Tịnh độ dạy có 2 thứ hành: nhiếp tâm niệm Phật và tán tâm niệm Phật.
Tán tâm niệm Phật một ngàn tiếng không bằng nhiếp tâm niệm Phật một tiếng.
Làm sao được nhiếp tâm? Ngài dạy ghi nhớ niệm Phật, tức là nhớ số, từ 1 nhớ tới 10. Niệm A Di Đà Phật nhớ 1, niệm A Di Đà Phật nhớ 2, niệm A Di Đà Phật nhớ 3. Người ta thường tới 3 hay 4 là quên, quên phải từ đầu lại; nếu quên hoài phải chia làm 2 đoạn: là từ 1 nhớ tới 5, từ 6 nhớ tới 10; nếu còn hay quên thì chia làm 3 đoạn: từ 1 nhớ tới 3, từ 4 nhớ tới 6, từ 7 nhớ tới 10. Như vậy đã ngắn không thể bị lộn, 3 đoạn quen rồi tiến lên 2 đoạn; 2 đoạn quen rồi tiến lên từ 1 tới 10.
Từ 1 tới 10 thì trở ngược lại, là nhớ 10, 9, 8, 7… Trở ngược quen thuộc, khỏi cần nhớ nữa. Một thời gian tiến tới không niệm nó vẫn niệm, tức là miệng không niệm nhưng bốn chữ A Di Đà Phật ở trong tâm không mất, không niệm mà niệm, niệm mà không niệm thì tiến đến nhất tâm bất loạn.
Đó là cách thực hành niệm Phật rõ ràng, tôi hoằng Tịnh độ mười mấy năm dạy cho người ta thực hành. Nếu cứ nhờ sợi chuổi thì vĩnh viễn không đến chỗ nhất tâm bất loạn, không thể tiến lên được. Dùng sợi chuổi để thực hành, chưa đến lâm chung đã bỏ trước; huống là lâm chung còn muốn đem theo!

Hỏi:
Tham thoại đầu là nhìn chỗ hầm sâu đen tối tức là chỗ vô thỉ vô minh mà đề câu thoại đầu, chỗ hầm sâu đen tối là chỗ nào, xin Thầy giảng rõ?

Đáp:
Chỗ hầm sâu đen tối là thoại đầu, ngài Hư Vân giải thích: tại sao gọi là thoại đầu? Thoại là một lời nói, đầu là trước khi muốn nói một lời nói này, gọi là thoại đầu. Bởi vì, mình muốn nói một lời nói phải khởi niệm lên mới nói ra miệng, khi chưa khởi niệm muốn nói câu thoại gọi là thoại đầu. Nếu đã khởi niệm muốn nói, mặc dù chưa nói ra miệng gọi là thoại vỉ (đuôi). Vậy nghĩa thoại đầu là một niệm chưa sanh khởi, cũng là vô thỉ vô minh; tức không có niệm, chỉ là thanh thanh tịnh tịnh.
Chỗ đó không có gì gọi là vô minh, nên chư Tổ gọi đó là hầm sâu đen tối. Nói chỗ hầm sâu đen tối tại mình không biết, không biết cho đó là hầm sâu đen tối, vì đen tối là không thấy gì. Tham thiền là dùng tâm nhìn ngay chỗ hầm sâu đen tối (chỗ không biết), chỗ một niệm chưa sanh là cái gì? Vừa nhìn vừa đề câu thoại đầu để tăng cường nghi tình, nhìn chỗ không biết. Đó là thực hành Tổ sư thiền.

Hỏi:
Vô sở sợ là gì? Nếu mình không sợ làm điều sai làm sao đi đúng chánh pháp, xin Thầy giảng rõ và thí dụ cụ thể?

Đáp:
Chín chữ “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” là để phá ngã chấp. Phàm chánh pháp: Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa đều lấy phá ngã chấp làm gốc. Tiểu thừa phá nhân ngã chấp chứng quả A la hán, Đại thừa phá nhân ngã chấp và pháp ngã chấp (pháp của mình tu chứng được).
Nếu tin tự tâm cùng khắp không gian thời gian thì tất cả đồ vật tài sản đều của mình, không phải của người khác. Vì ngoài không gian không có không gian, ngoài thời gian không có thời gian. Mình muốn đắc là đắc ở ngoài, muốn cầu là cầu ở ngoài. Đã hoàn toàn không có thì mình muốn đắc cái gì? Cầu cái gì? Nếu không có đắc có cầu thì đâu còn sợ! Tự nhiên không có sợ.
Tin tự tâm cùng khắp không gian thời gian tự nhiên thực hành được 9 chữ “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”. Nếu không tin tự tâm có muốn miễn cưỡng thực hành 9 chữ này cũng rất khó. Tin tự tâm mà không thực hành thì tự động thực hành được. Tin tự tâm và giữ nghi tình thì không biết đắc, không biết cầu, không biết sợ. Cho nên, có nghi tình khi lái xe không bị đụng xe, nếu sợ đụng xe thì sẽ đụng xe.

Hỏi:
Theo con biết có 5 trình độ chứng quả tùy theo căn cơ của người Phật tử, thứ nhất là nhập lưu, thứ nhì là nhất lai, thứ ba là bất lai, thứ tư là A la hán và thứ năm là Bồ tát. Người Phật tử theo thiền Tổ sư, khi kiến tánh đã được chứng quả ở trình độ nào?

Đáp:
Sơ quả là Tu đà hoàn gọi là nhập lưu. Tại sao gọi là nhập lưu? Nhập thánh lưu, nếu chạy ra ngoài là đuổi theo lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), không đuổi theo lục trần lại trở về gọi là nhập lưu, tức là dứt được lục trần. Quả vị này dứt được kiến hoặc trong Dục giới và còn thọ sanh 7 lần trong Dục giới.
Nhị quả là Tư đà hàm gọi là nhất lai. Tại sao gọi là nhất lai? Là hết tư tưởng sai lầm (tư hoặc) của Dục giới, nhưng chỉ được 6 phẩm trong 9 phẩm, còn lại 3 phẩm chưa dứt được, nên phải đến Dục giới thọ sanh thêm một lần.
Tam quả là A na hàm gọi là bất lai. Tại sao gọi là bất lai? Là dứt luôn cả 3 phẩm sau, tức là kiến hoặc và tư hoặc không còn, nên không trở lại Dục giới thọ sanh; có thể thọ sanh Sắc giới hay Vô sắc giới.
Tứ quả là A la hán dứt hết kiến hoặc và tư hoặc của tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới).
Đây là pháp Tiểu thừa (thừa Thanh văn có 4 cấp).
Bồ tát là Đại thừa gồm có từ Sơ địa đến Thập địa. Pháp môn Tổ sư thiền không qua Tiểu thừa hay Đại thừa. Đại thừa có Thập trụ, Thập tín, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, tổng cộng gồm 50 cấp, rồi đến Đẳng giác, Diệu giác là từ cấp từ cấp tiến lên. Tổ sư thiền là giáo ngoại biệt truyền, ở ngoài Giáo môn, nên không có từ cấp từ cấp, mà từ địa vị phàm phu thẳng chứng Đẳng giác, giác ngộ bằng Phật.
Bồ tát Thập địa chứng Đẳng giác và phàm phu chứng Đẳng giác, cái ngộ bằng nhau, nhưng cái dụng cách xa rất nhiều. Bồ tát Thập địa đã dứt hết tập khí thế gian và tập khí xuất thế gian còn ít, nên có thần thông diệu dụng rất nhiều. Phàm phu chứng Đẳng giác, nhưng tập khí thế gian và xuất thế gian còn nguyên. Có người dứt tập khí thế gian được phần nào thì cái dụng hiển bày phần nấy. Như bác sĩ Thuận và Trương Quốc anh, do sự tinh tấn quét không bao nhiêu thì hiện ra dụng bấy nhiêu.

Hỏi:
Xin Thầy giảng câu “quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”?

Đáp:
Trong Thiền tông có công án Đức Sơn Phản (người hỏi đạo vào cửa, cây gậy liền đập trên đầu): Đức Sơn lúc chưa tham thiền là một Pháp sư rất danh tiếng, nhất là về kinh Kim Cang mà ngài thông suốt hết, có làm sớ giải kinh Kim Cang, tự cho mình hay hơn mọi người, mọi người cũng biết Ngài giảng kinh Kim Cang rất hay. Ngài họ Châu, nên người ta gọi là Châu Kim Cang.
Ngài ở miền bắc Trung Quốc, nghe người tham thiền ở miền nam chỉ tham câu thoại đầu được ngộ, hay do cơ xảo của Tổ sư làm cho ngộ; trong tâm rất giận, Ngài nói “muôn kiếp học oai nghi và tế hạnh của Phật, làm sao người tham thiền nói sát na thành Phật? Bây giờ tôi phải đi tảo thanh những người ấy mới được”. Rồi Ngài gánh sớ giải kinh Kim Cang từ miền bắc xuống miền nam, đến nửa đường gặp bà già bán điểm tâm hỏi mua.
Bà già hỏi: Ngài gánh gì vậy?
Đức Sơn đáp: Sớ Giải Kinh Kim Cang.
Bà già hỏi: để làm gì?
Đức Sơn đáp: Dạy người ta tu thành Phật.
Bà già nói: nếu Ngài trả lời được thì tôi cúng dường điểm tâm, trái lại không trả lời được thì tôi không cúng dường và cũng không bán!
Đức Sơn đáp: xin bà cứ hỏi.
Bà già nói: Trong kinh Kim Cang nói “quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”, xin hỏi Thượng tọa muốn điểm tâm nào?
Đức Sơn không trả lời được, mặt đỏ hết, ban đầu muốn đi tảo thanh những người tham thiền; nhưng gặp bà già hỏi không trả lời được, Ngài gánh sớ giải Kim Cang trở về, không đi miền nam nữa.
Bà già gọi lại và nói: Tôi giới thiệu Ngài đến Thiền sư Sùng Tín sẽ có ích lợi.
Sau này Ngài được ngộ, rồi dùng cây gậy độ người rất có danh tiếng, nên gọi là Đức Sơn phản.
Ba câu này là phá chấp thời gian (quá khứ, hiện tại, vị lai). Không gian, thời gian, số lượng là ba danh từ, nhưng chúng sanh cho đến nhà khoa học, triết học đều chấp thật. Chấp thật ba danh từ nên bị ba danh từ này trói buộc, không được tự do tự tại. Sự thật ba danh từ này là cái gì? Chỉ là ba khái niệm ở trong vọng tâm của mọi người. Thời gian, không gian và số lượng đều không có bản thể, chỉ là tên gọi.
Vũ trụ không có ba khái niệm này thì phải sụp. Vũ trụ ví như một căn nhà, ba khái niệm là ba cột nhà; nếu ba cột nhà rút ra thì căn nhà liền sụp. Như tôi ngồi đây, nếu rời khỏi ba khái niệm này thì không có tôi. Tại sao? Chỗ ngồi của tôi là không gian, năm nay tôi 68 tuổi, 68 là số lượng, tuổi là thời gian. Ba khái niệm này rút ra thì tôi ở đâu? Vì nhờ ba khái niệm nên có tôi đây.
Bây giờ, mọi người đều bị ba khái niệm này trói buộc. Cho nên, Thiền tông kiến tánh là đập bể hư không là phá khái niệm không gian. “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc” là phá khái niệm thời gian. Giáo môn nói “nhứt niệm muôn năm, muôn năm nhứt niệm” là phá khái niệm số lượng.
Người kiến tánh là phá khái niệm không gian thì khái niệm thời gian và số lượng cũng tan rã. Kinh Lăng nghiêm nói “người phát chân quy nguyên thì tất cả vũ trụ đều tiêu diệt”, cũng là phá khái niệm không gian.

Hỏi:
Câu thoại đầu là dùng để ngăn chận các vọng niệm, nhưng theo con hiểu câu thoại đầu cũng từ bản chất vọng niệm. Kính xin thầy giải thích?

Đáp:
Nhờ câu thoại đầu để khởi lên nghi tình tức là không biết của bộ óc, chứ không phải để dẹp vọng niệm. Bởi vậy, Thiền tông không cho dẹp vọng niệm và không cho biết vọng niệm, vọng niệm nổi lên cứ mặc kệ cho nổi lên, chỉ cần hỏi câu thoại đầu. Nếu giữ được nghi tình thì vọng niệm tự nhiên sẽ hết, vì không biết vọng niệm làm sao có vọng niệm! Cho nên dẹp vọng niệm không đúng cách tu của Phật.
Ý của Phật muốn mình giữ nghi tình, Phật nói từ nghi đến ngộ, nghi là nhân, ngộ là quả, có nhân mới có quả; pháp thế gian cũng phải do nghi rồi có ngộ, pháp thế gian dùng bộ óc đi nghiên cứu suy tìm; mặc dù ngộ được chỉ có giá trị thế gian, không phát minh được chính tâm mình; nên không làm chủ tâm mình, không được sanh tử tự do; tự do tự tại dứt hết tất cả khổ.
Nghi của Thiền tông không phải muốn giải thích câu thoại đầu, chỉ nhờ câu thoại đầu phát lên nghi tình để phát hiện bản tâm của mình. Còn vọng tưởng hay phiền não nổi lên đừng biết tới. Vì không biết tự động quét tất cả vọng tưởng hay không vọng tưởng. Cho nên Thiền tông không cho quét vọng tưởng, không cho đè nén vọng tưởng, không cho buông bỏ vọng tưởng.
Nghi tình là không biết thì chân lý không biết, vọng tưởng cũng không biết; không biết thì không thành lập vọng tưởng, không biết chân lý thì không thành lập chân lý, không biết năng thì không thành lập năng, không biết sở thì không thành lập sở. Đã nói là không biết thì cái này cái kia, tất cả đều không biết. Cho nên tất cả không thành lập, vọng tưởng cũng không thành lập.

Hỏi:
Thế nào là nổi nghi tình?

Đáp:
Tham câu thoại đầu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Cảm thấy không biết, cái không biết đó là nổi nghi tình rồi. Hôm qua tôi coi đài 50, thấy nhà khoa học nghiên cứu bộ óc của con người, nghiên cứu động vật, thực vật, trên bờ, dưới biển đều chứng tỏ cái không biết này rất hay. Tham thoại đầu chỉ cần nổi lên cái không biết.

Hỏi:
Phật giáo Thiền tông chế ra thập ngưu đồ, xin Thượng tọa giải thích và áp dụng cho lối thiền này?

Đáp:
Thập Ngưu Đồ do một Thiền sư tự làm tài khôn đặt ra, rồi Giáo môn không hiều, lấy cái đó để tu; nhưng sự thật không đúng. Tại sao? Ngưu là con trâu, họ dụ con trâu là vọng tưởng, người giữ trâu dụ cho Phật tánh, như vậy là không đúng. Nếu dụ trâu là lục căn, người giữ trâu là nhứt niệm vô minh, về tới nhà là vô thỉ vô minh thì đúng. Nhưng tu hành không nhờ cái đó tu được.
Giữ trâu là sau khi ngộ, tức là ngộ rồi dứt tập khí. Con trâu đi trên đường, giữ cho không cho ăn lúa mạ; tức là không cho tập khí tiếp tục nữa, Thiền tông gọi là bảo nhậm (giữ trâu), chứ không phải chưa ngộ mà nhờ giữ trâu để tu là không đúng. Ngài Nguyệt Khê cũng có nói về vấn đề này.

Hỏi:
Kính xin Thượng tọa cho biết phải đọc chú nào trong lúc thiền?

Đáp:
Thần chú là pháp môn Mật tông, Thiền tông chỉ nhờ câu thoại đầu khởi lên nghi tình, tức là tâm không biết; mà lại nghi tình có dấu hỏi là nhân, đến chừng ngộ là phá dấu hỏi này là quả, đúng với nhân quả. Niệm chú có tác dụng cho bộ óc không biết, vì tất cả chú đều không cho dịch nghĩa; những thần chú đều là tên của Phật, Bồ tát, muốn cho người ta niệm để cho bộ óc không biết, tác dụng cũng giống như tham thiền.
Nhưng tham thiền có cái nhân nghi, từ nghi mới đến ngộ. Niệm chú dẹp được vọng tưởng nhưng không có nghi, nên không thể ngộ. Sau này đến một mức nào chuyển thành cái nghi rồi được ngộ. Nghĩa chữ Phật là giác ngộ, muốn giác ngộ phải nghi. Cho nên, Phật Thích Ca truyền từ nghi đến ngộ là vậy.

Hỏi:
Trong các bộ kinh của Phật pháp, như các kinh: Bát Nhã Ba La Mật, Diệu Pháp Liên Hoa, có phải được viết với hình thức và nội dung bằng những phương pháp tổng hợp và phân tích. Kính mong Thượng tọa giải thích chứng minh cụ thể?

Đáp:
Phật thuyết pháp theo khế cơ, tức là khế hợp đương cơ; cho nên tiếng phạn gọi là Tu đa la, dịch nghĩa chữ Hán là khế cơ. Chữ khế là khế hợp đương cơ (những người nghe). Có cái đối với Tiểu thừa mà thuyết, có cái đối với phàm phu mà thuyết, có cái đối với ngoại đạo mà thuyết; không phải có nghĩa tổng hợp. Thật ra không có một pháp nào gọi là Phật pháp, nên kinh Kim Cang nói “không có pháp nhất định để cho Như lai thuyết, ai nói Phật có thuyết pháp là người ấy phỉ báng Phật”.
Nghe như vậy thấy mâu thuẩn quá! Chính kinh Kim Cang của Phật thuyết, tại sao nói Phật có thuyết pháp là phỉ báng Phật? Vì không có một pháp nào gọi là Phật pháp, chỉ do chúng sanh có bệnh thì Phật lập ra thuốc để trị. Nếu bệnh hết thì thuốc phải bỏ, nên kinh Kim Cang nói “ pháp của ta như chiếc bè để qua sông, đến bờ phải bỏ bè”. Vì dùng chiếc bè tạm thời để qua sông, không phải chiếc bè là chân lý, khi đến bờ thì chiếc bè không còn tác dụng nữa.
Cho nên không có ý tổng hợp, chỉ là chúng sanh chấp cái này thì Phật phá cái này, chúng sanh chấp cái kia thì phá cái kia; tùy theo bệnh chấp của chúng sanh mà phá chấp, chứ không phải có pháp nhất định để cho Phật thuyết. Nếu chúng sanh chấp Phật thì Phật phá Phật, chúng sanh chấp Bồ tát thì Phật phá Bồ tát. Vì vậy, Thiền tông nói “ma đến chém ma, Phật đến chém Phật”. Chém Phật là không phải chém đức Phật mà chém tâm chấp Phật; chứ không phải phỉ báng Phật hay khinh Phật, nên nói là chém Phật.

Hỏi:
Theo con hiểu tất cả các pháp là những phương tiện chỉ bày để cho chúng sanh tu được giải thoát, chứ không có thấp hay cao như Đại thừa và Tiểu thừa gì cả, chỉ có hợp hay không hợp với căn cơ mà thôi. Kính xin Thầy chỉ dạy?

Đáp:
Như vậy là đúng.

Hỏi:
Đức Phật A Di Đà là đức tính sáng suốt hằng có của mỗi chúng sanh còn gọi là Phật tánh, vì chỉ có Phật tánh mới có vô lượng thọ, vô lượng quang. Kính xin Thầy chỉ giáo?

Đáp:
Vô lượng thọ là khắp thời gian, vô lượng quang là khắp không gian. Chữ A Di Đà không dịch ra nghĩa chữ Việt, vì để bao gồm thời gian, không gian. Nếu có dịch A Di Đà là vô lượng quang thọ mới đúng. Không những A Di Đà, mà tất cả Phật đều là bản tâm của mình (Phật tánh), không có khác. Nếu có khác là nhị, Phật đã nói Phật tánh là bình đẳng bất nhị, không có khác. Như bao nhiêu đèn cũng cùng chung một ánh sáng, chứ không phân biệt đèn số 1, đèn số 2, đèn số 3… cho đến đèn số muôn ngàn.

Hỏi:
Bồ tát Quán Thế Âm. Văn Thù, Phổ Hiền là những hạnh nguyện đại bi, đại trí, đại hạnh; bất cứ ai tu theo thành tựu trở thành Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền; chứ không phải chỉ có một Phổ Hiền, một Quán Âm hay một Văn Thù mà thôi. Kính xin Thầy khai thị?

Đáp:
Nói như vậy cũng đúng, những danh từ: Quán Âm, Phổ Hiền, Văn Thù là biểu thị cái dụng trí huệ của Phật, cho nên danh từ vô lượng vô biên.

Hỏi:
Tất cả các pháp gồm có 3 phần: thể, tướng, dụng. Thể là bản tánh của sự vật, tướng là hình tướng của sự vật, dụng là công dụng của sự vật. Thể là Phật tánh bất sanh bất diệt, tướng là hình thể có thay đổi, dụng là tùy theo tướng mà có. Tu là trở về với thể, tức là Phật tánh bất sanh bất diệt; muốn trở về phải phá những chấp trước của chấp ngã và chấp pháp, khi tâm đến với cảnh mà không sanh niệm dính mắc chấp trước, tức là được giải thoát. Kính xin Thầy cho biết sự hiểu biết của con có đúng hay sai?

Đáp:
Theo lời nói của Giáo môn thì đúng, nhưng Thiền môn thì khác. Bởi vì Thiền là giáo ngoại biệt truyền, không chia ra thể, tướng, dụng. Thể với dụng không khác, thể tức là dụng, dụng tức là thể. Giáo môn chia là tánh, tướng hay là thể, dụng; còn Thiền môn tất cả đều bất nhị.
Giáo môn muốn cho người ta dễ hiểu, đáng lẽ Phật tánh cùng khắp không gian thời gian (vô lượng thọ, vô lượng quang), nhưng người ta khó hiểu khó tin, nên phải giảng theo sự tương đối ở thế gian, gọi bản thể của Phật tánh là tánh để thay mặt.
Như nói: Phật tánh, Không tánh, Tự tánh, Thật tánh… đều là biệt danh của Phật tánh, cái nghĩa không khác. Nói tướng thì Phật có thuyết minh tư tưởng sai lầm của chúng sanh được chia làm 4 cấp ở trong kinh Kim Cang: ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Nói chúng chung là “phàm sở hữu tướng đều là hư vọng”.
Nhưng đến kiến tánh thì không phân biệt tánh với tướng, cho nên có một danh từ gọi là Thật tướng, cũng là biệt danh của Phật tánh. Nhưng chưa kiến tánh nên Giáo môn phân biệt tánh là tánh, tướng là tướng, thể là thể, dụng là dụng. Kiến tánh phát hiện bản thể cùng khắp không gian thời gian thì sự tương đối tự tiêu diệt, không còn sự phân biệt.

Hỏi:
Khi người Trung Hoa sang Hoa Kỳ, họ đem theo văn hóa và tôn giáo của họ, chắc chắn là những nhà truyền giáo giỏi; thế mà hai mươi năm, con cháu của người Trung Hoa không còn tha thiết tôn giáo của ông bà họ nữa, mà đi theo các tôn giáo khác gần như là 90 %. Như vậy có lý do nào đó, kính xin Thầy cho biết ý kiến?

Đáp:
Theo Giáo môn có chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp. Nói chánh pháp có 1.000 năm, tượng pháp có 1.000 năm và mạt pháp có 10.000 năm. Năm nay Phật lịch là 2.534 thì bây giờ là thời kỳ mạt pháp, người tin Phật nhiều nhưng không thực hành, nên chứng ngộ ít, thành ra người ta bỏ lần lần.
Tu sĩ không sản xuất, nên ăn, mặc, ở… đều nhờ sự cúng dường của tứ chúng Phật tử. Mục đích sự cúng cường của Phật tử là để cho tu sĩ có thời giờ tu hành giải thoát, rồi giải thoát cho chúng sanh, đó là bổn phận của tu sĩ.
Nếu tu sĩ bỏ bổn phận đi làm các phước thiện, cũng như người ta không có áo mặc thì cho người ta áo mặc, người ta không có cơm ăn thì cho người ta cơm ăn… nghịch với nghĩa chữ Phật. Nghĩa chữ Phật là tự giác, giác tha là tự độ cho mình được giải thoát, rồi độ cho người khác cũng được giải thoát. Ăn cơm của Phật phải có bổn phận làm việc của Phật.
Những người lấy tiền của mười phương Phật tử, mặc dù đi bố thí cho người ta, mà người đời khen ngợi là Phật sống hay Bồ tát sống; chính người đó bỏ bổn phận tu giải thoát, lại đi làm những việc đó để tăng cường địa vị danh dự cá nhân; chứ không phải vì mục đích chúng sanh thoát khổ, để cho chúng sanh đạt đến tự do tự tại. Đó là cắt đứt huệ mạng của Phật. Trong giới luật nói “tu sĩ bỏ bổn phận mà đi làm từ thiện, gọi là thiện nhân chiêu ác quả”. Nếu nhiều người làm như vậy, tất nhiên người ta thấy không được nên phải bỏ đạo mình theo đạo khác.

Hỏi:
Kính xin Tôn sư giảng giải những chữ: Mạt na thức, đệ bát thức?

Đáp:
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiêt, thân đối với sắc, thinh, hương, vị, xúc, sanh ra nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức (tiền ngũ thức). Ý căn đối với pháp trần sanh ra ý thức có pháp sanh pháp diệt.
Mạt na thức (thức thứ 7) có hai nhiệm vụ:
- Chấp thức thứ 8 là ngã, ngày đêm chấp chặt, không buông giờ phút nào.
- Truyền tống thức là thức thứ 6 lãnh đạo 5 thức trước (tiền ngũ thức) làm những việc gì có những cảm thọ như buồn vui mừng giận đều truyền vô thức thứ 8 làm chủng tử. Khi chủng tử thuần thục gặp được nguyện duyên từ thức thứ 8 được truyền ra cho thức thứ 6 lãnh đạo 5 thức trước thực hành.
Thức thứ 8 (đệ bát thức) chỉ là một kho tàng, chủng tử ác bỏ vô thì nó cũng nhận, chủng tử thiện bỏ vô thì nó cũng nhận, không phân biệt. Lục căn tạo cái gì dù thiện hay ác thì thứ 7 cũng truyền vô, khi nào ờ ngoài thích hợp truyền ra hiện hành. Đó là nhân quả, chủng tử là nhân, hoàn cảnh là trợ duyên. Nhân duyên thuần thục hiện ra, như gieo thiện nhân được thiện quả, gieo ác nhân chịu ác quả.

Hỏi:
Sự chia rẽ trong gia đình của người tỵ nạn giữa vợ chồng, con cái, ông bà quá trầm trọng, Phật giáo có đóng góp gì để hàn gắn lại của sự đổ vỡ đó?

Đáp:
Tất cả đều phát xuất từ ngã chấp, có ngã chấp là tôi muốn hơn người khác, mặc dù anh em ruột, vợ chồng cũng vậy, như anh muốn hơn em, em cũng muốn hơn anh, chửi mắng, đánh lộn, xung đột đổ máu. Anh chị em trong gia đình tranh giành với nhau, gia đình này với gia đình kia tranh giành với nhau, đoàn thể này với đoàn thể kia tranh giành với nhau, chủng tộc này với chủng tộc kia tranh giành với nhau, quốc gia này với quốc gia kia tranh giành với nhau. Cho nên chửi mắng, xung đột đổ máu, cho đến chiến tranh nhỏ chiến tranh lớn cứ xẩy ra hoài.
Phật muốn chấm dứt những thứ đó, nếu người nào đều tham Tổ sư thiền giữ được nghi tình thì những thứ đó tự động chấm dứt. Tại sao? Vì giữ nghi tình là không biết, đã không biết làm sao có tôi muốn hơn ông, ông muốn hơn tôi! Không biết thì không có phân biệt tự nhiên những tranh giành đó chấm dứt. Cái này rất đơn giản, chỉ thực hành Tổ sư thiền giữ nghi tình làm được tất cả.

Hỏi:
Thế nào là trạch pháp?

Đáp:
Trạch pháp là lựa chọn ở bên giáo môn mới có, Thiền môn không phân biệt, chỉ là giữ tâm không biết, không có lựa chọn.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là:
-Tứ niệm xứ: quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.
-Tứ chánh cần: ác đã sanh nên dứt, ác chưa sanh không nên sanh, thiện chưa sanh nên sanh, thiện đã sanh khiến cho tăng trưởng.
-Tứ thần túc: dục thần túc (thỏa nguyện), cần thần túc (tinh tấn), tâm thần túc (chánh niệm), quán thần túc (bất loạn).
-Ngũ căn: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.
-Ngũ lực là lực xuất phát từ ngũ căn trên.
-Thất Bồ đề phần: 1-Trạch pháp, 2-Tinh tấn, 3-Hỷ, 4-Khinh an, 5-Niệm, 6-Định, 7-Xả.
-Bát chánh đạo phần: 1-Chánh kiến, 2-Chánh tư duy, 3-Chánh ngữ, 4-chánh niệm, 5-Chánh mạng, 6-Chánh tinh tấn, 7-Chánh nghiệp, 8-Chánh định.
Trong 7 thứ Bồ đề phần, điều thứ nhất là trạch pháp (chọn pháp), tức là chọn pháp lành để thực hành, pháp ác phải bỏ. Trong 37 phẩm có nhiều thứ trùng nhau.

Hỏi:
Nghiên cứu kinh sách hay theo học các Phật học viện có tăng trưởng trí huệ không?

Đáp:
Trong Giáo môn có học tự nhiên giúp ích, nhưng Giáo môn thời xưa, học và thực hành đi song song, nên có người chứng quả. Nhưng hiện nay các lớp cơ bản, trung đẳng, cao đẳng, chỉ có học nhưng không có thực hành. Học biết để dạy học trò, tác dụng giải thoát không còn; đáng lẽ tác dụng của Phật pháp là giải thoát tất cả khổ sanh tử luân hồi.
Cho nên, tôi có ý lập Phật học viện để học và thực hành song song, không phải tôi bài xích cái học. Nếu chỉ có học mà không thực hành thì tác dụng Phật pháp không còn.

Hỏi:
Khán thoại đầu có khác niệm thoại đầu hay không, nếu khác thì khác nhau ở chỗ nào?

Đáp:
Khán thoại đầu là có nghi tình, tức là nhìn ngay chỗ vô thỉ vô minh. Thoại đầu (vô thỉ vô minh) là một niệm chưa sanh khởi. Vô minh là đen tối, có cảm giác chỗ đen tối mà không biết là cái gì, chính cái đó là nghi tình. Niệm là không có nghi tình, nên ngài Hư Vân nói “niệm thoại đầu không bằng niệm Phật”.

Hỏi:
Thiền sư Thiết Nhãn có nói về bản lai chân diện mục, xin Thầy giải nghĩa có phải là chân thiện mỹ cuộc đời?

Đáp:
Bản lai chân diện mục là Phật tánh không hình, không tướng, không âm thanh, không để cho mình nhận biết được; tư tưởng không thể tiếp xúc, lời nói văn tự không thể diễn tả. Cho nên, Phật Thích Ca thuyết 49 năm tự nói không có một chữ. Vì không thể nói được, nếu Phật Thích Ca nói được thì nói cho biết mình khỏi tu, khỏi chứng ngộ. Bởi cái biết này là cái biết của Phật tánh gọi là chánh biến tri, phải tự tu tự chứng, tự ngộ mới được; chứ nhờ người khác không thể nói cho mình biết, mà cũng không thể nói.

Hỏi:
Sự chứng ngộ của Thiền tông với sự chứng pháp vô sanh có khác không?

Đáp:
Phật nói vô thỉ là không có sự bắt đầu, cũng là hiển bày nghĩa vô sanh. Nếu có sanh thì có sự bắt đầu, tất cả vũ trụ vạn vật đều không có sự bắt đầu. Như trái dừa không phải cây dừa, nếu nói cây dừa bắt đầu được không? Không được. Tại sao? Không có trái dừa làm sao mọc lên cây dừa. Rồi nói trái dừa có trước được không? Không được. Tại sao? Không có cây dừa làm sao sanh ra trái dừa. Cây dừa và trái dừa đều không có bắt đầu, tức là hiển bày nghĩa vô sanh.
Đây là việc ở ngoài, bây giờ nói thân tôi: Rõ ràng có cha mẹ sanh tôi, cha mẹ cũng có cha mẹ nữa, cứ từ đời từ đời truy cứu mãi có cha mẹ đầu tiên không? Giả thiết có cha mẹ đầu tiên, tôi xin hỏi cha mẹ đầu tiên có cha mẹ đầu tiên không? Nếu có cha mẹ thì không phải đầu tiên, mà không có cha mẹ vậy từ đâu ra?
Nhà khoa học nói là từ một hạt nguyên tử từ từ diễn biến thành, cuối cùng thành con người. Như vậy cho là được đi. Tôi hỏi: bào thai con người một tháng thì có hình tượng một tháng, hai tháng có hình tượng hai tháng, ba tháng có hình tượng ba tháng, đến mười tháng sanh ra đầy đủ ngũ tạng lục phủ, lục căn đều đủ. Từ một hạt nguyên tử diễn biến thành một con người, giả thiết cho 1 triệu năm, mỗi năm lên một cấp, cũng như thai của con người mỗi tháng một cấp. Nhưng bây giờ mình chỉ thấy cấp thứ nhất là nguyên tử với cấp 1 triệu là con người, không thấy mấy cấp kia.
Có người nói mình chỉ sống mấy chục năm làm sao thấy 1 triệu năm được? Tôi nói khỏi cần, bây giờ mình sống 5 năm cũng được, 5 cấp đến 1 triệu gần thành con người thì mình phải thấy chứ! Vậy có ai thấy 5 cấp gần thành con người không? Nếu không có thì lý do này không thành lập được. Truy cứu cách nào cũng không có sự bắt đầu, nên Phật nói trắng ra là vô thỉ, vô thỉ là nghĩa vô sanh; người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn.

Hỏi:
Chữ nhẫn trong vô sanh pháp nhẫn là gì?

Đáp:
Chữ nhẫn là nhẫn khả, như Giáo môn nói “người uống nước nóng lạnh tự biết”. Tách nước nóng, nếu quý vị không uống thì không thể biết. Nhẫn khả là thình lình biết, cũng như mình bị mất một món đồ, không nhớ ở chỗ nào, thình lình nhớ lại “ồ”. Chữ Hán là chữ lực ở trong chữ khẩu, Thiền tông hình dung chữ này là ngộ; tức là trước kia mình không biết, thình lình biết được “ồ”.

Hỏi:
Thế nào từ bi trong nhà Phật? Lòng từ bi có giống như bác ái không?

Đáp:
Từ bi là phá ngã chấp, bác ái là ngã chấp; hai thứ nghịch với nhau. Từ bi của nhà Phật, chữ từ là vô duyên từ, chữ bi là đồng thể bi. Tại sao nói là vô duyên từ? (Duyên là nhân duyên đối đãi) Tôi không phải năng từ, ông là sở từ nhận cái từ của tôi; có năng sở đối đãi không phải từ bi.

Hỏi:
Thế nào là phương pháp tự ngộ?

Đáp:
Phật Thích Ca truyền pháp môn này là pháp thiền trực tiếp, không qua văn tự lời nói, nên gọi là giáo ngoại biệt truyền. Thiền này trực tiếp hiện ra tự tánh, Phật chỉ truyền 4 chữ là “từ nghi đến ngộ”, nghi là nhân, ngộ là quả. Tất cả không ở ngoài nhân quả, có nhân phải có quả.
Thiền tông nói không có nhân thì không có quả, nên nói là bất nghi bất ngộ; nhân nhỏ quả nhỏ, nên nói tiểu nghi tiểu ngộ; nhân lớn quả lớn, nên nói đại nghi đại ngộ. Vậy nghi là gì? Nghi là không biết không hiểu, một việc gì đã hiểu đã biết thì hết nghi là không có tham thiền. Cho nên Thiền tông rất chú trọng cái nghi gọi là nghi tình.
Phật Thích Ca đã ngộ nhưng không thể nói cho mình biết, không có thể ngộ giùm cho mình. Vì nói được là không phải, tự tánh vô hình vô thanh; mà dùng văn tự của thế gian không thể diễn tả được, dùng bộ óc không thể suy nghĩ đến. Cho nên, Phật Thích Ca nói “49 năm thuyết pháp, chưa từng nói một chữ” là vậy. Bởi không thể dùng lời để nói, nên Phật Thích Ca chỉ dạy đường lối thực hành để mỗi mỗi chúng sanh đều được tự ngộ. Vì vậy, nói là phương pháp tự ngộ.
Như mình muốn no phải tự ăn, người nào có ăn được no; chứ chí thân như cha mẹ không thể ăn giùm cho con cái, con có hiếu cũng không thể ăn giùm cho cha mẹ; tức là ai ăn nấy no. Phật pháp cũng vậy, người nào tu thì người đó chứng; phương pháp thiền phải tự ngộ mới được. Phương pháp thực hành Tổ sư thiền rất dễ, theo kinh nghiệm của tôi dễ hơn Tịnh độ trăm ngàn lần. Trước kia tôi hoằng Tịnh độ mười mấy năm, chưa thấy người nào tu đúng tông chỉ Tịnh độ.
Từ ngày mùng 2 tháng 4 năm 1977 hoằng Tổ sư thiền. Mặc dù, chưa có ai kiến tánh nhưng nhiều người phát trí huệ, Phật tử tham Tổ sư thiền nửa năm một năm có kiến giải cao hơn những người tu học Phật Học Viện mười mấy năm. Tại sao? Vì cái học cần phải ghi nhớ, còn tham thiền là phát hiện cái dụng của mình sẵn có. Phật Thích Ca nói “Phật tánh bình đẳng bất nhị”, Phật tánh của mọi chúng sanh đều bằng với Phật gọi là bình đẳng. Nếu kém hơn Phật một chút thì không bình đẳng, có cao có thấp là nhị.
Tu pháp môn Tổ sư thiền hay pháp môn khác của Phật pháp cũng vậy, điều thứ nhất là tin tự tâm. Cái tin là cần nhất, như Tịnh độ có tín, nguyện, hành, tin có 3 thứ tin. Tin của Tổ sư thiền là tin tự tâm và phát khởi nghi tình.
Nói sơ lược cách thực hành tham Tổ sư thiền: Trước đời nhà Tống của Trung Quốc không có tham công án, tham thoại đầu, đến sau này những cơ xảo của Tồ sư ghi trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, những người tham biết thành ra cơ xảo của Tổ sư không thể dùng được, bất đắc dĩ mới dạy tham công án, tham thoại đầu.
Tham thoại đầu là nhờ câu thoại để khởi lên nghi tình, trong Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền có đề ra 5 câu thoại đầu: câu thứ nhất “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Bây giờ có trời có đất thì mình ở đây, còn khi chưa có trời đất, mình không biết; không biết đó là nghi tình. Hỏi câu thoại đầu cảm thấy không biết, thực hành rất đơn giản, chỉ cần giữ cái không biết. Giữ cái không biết đến khi thình lình bùng vỡ, gọi là kiến tánh thành Phật.
Có người hỏi tôi “suốt ngày giữ cái không biết thành người khờ ngốc sao làm việc?” Ban đầu tham thiền, khi làm việc phải ngưng tham; sau này tham thiền quen tự nhiên hiện ra cái dụng của tự tánh.
Ở Việt Nam có Trương Quốc Anh làm thủ môn đội banh hãng bọt ngọt, lúc khởi lên nghi tình không thấy trái banh, nhưng trái banh nào cũng chụp được, nên trận đấu nào có y tham dự chắc chắn thắng. Bác sĩ Thuận trưởng ty y tế Rạch Giá theo tôi tham thiền, lái xe từ Rạch Giá đến Sài Gòn, lúc khởi lên nghi tình không thấy xe nhưng không đụng xe. Cô Thợ may Trì Hằng Thiền lúc khởi lên nghi tình, không qua bộ óc cũng cắt vải được.
Tôi ở Việt Nam có người hỏi “tôi rất thích tham Tổ sư thiền, nhưng ở trong lu gạo tôi hết gạo làm sao tham được?” Tôi dạy ông tham thiền, không phải của trời rớt xuống cho ông ăn! Ông làm nghề nào thì cứ làm nghề đó, lúc làm việc cũng tham, đi đứng nằm ngồi, mặc áo ăn cơn ngủ nghỉ, đi xe đi bộ… đều tham.
Ngài Lai Quả nói “nhờ câu thoại đầu khởi lên nghi tình bao gồm tất cả giới định huệ, niệm Phật, tụng kinh, lục độ vạn hạnh cho đến công thương kỹ nghệ… đều ở trong đó”. Tại sao? Vì nghi tình là không biết, nếu giữ không biết thì không phạm giới là trì giới. Trong giới luật có 3 cấp trì giới, cấp thứ nhì gọi là thiền giới. Bộ óc không biết thì tất cả phiền não vọng tưởng không có, nên được thanh tịnh gọi là định, định này được lâu sẽ phát ra thần thông.
Trí huệ của nhà Phật khác hơn trí huệ của thế gian, trí huệ của thế gian do bộ óc khởi tâm động niệm mới làm được. Trí huệ của Phật tánh là Bát nhã không cần qua bộ óc. Có sự thật cụ thể chứng tỏ giữ được cái không biết thì tất cả tụng kinh, niệm Phật, trì giới cho đến lục độ vạn hạnh, công thương kỹ nghệ thế gian đều ở trong đó, không có cái nào thiếu sót.
Bởi vì, bản thể Phật tánh cùng khắp không gian thời gian, cái dụng cũng cùng khắp không gian thời gian, gọi là Phật pháp vô biên. Pháp này thực hành rất giản dị, con nít 6, 7 tuổi cũng thực hành được, bà già 8, 9 chục tuổi cũng thực hành được; mà lại khỏi cần xuất gia cũng tu được.
Lịch sử Thiền tông Trung Quốc: vua kiến tánh vẫn làm vua, thừa tướng kiến tánh vẫn làm thừa tướng, thượng thư kiến tánh vẫn làm thượng thư; cho đến bà già bán rong ngoài đường cũng được kiến tánh. Bất cứ làm nghề gì đều có thể kiến tánh, thông minh hay ngu si đều có thể kiến tánh.
Trong kinh nói người nữ có 5 thứ chướng, sự thật có 3 đứa bé gái kiến tánh (Long Nữ 8 tuổi, cô họ Trịnh 13 tuổi, cô họ Tô 15 tuổi). Theo giới luật nhà Phật, thực hành bát kỉnh, Tỳ kheo ni đảnh lễ Tỳ kheo; chứ không có Tỳ kheo đảnh lễ Tỳ kheo ni, nhưng Tỳ kheo ni kiến tánh thì Tỳ kheo đảnh lễ Tỳ kheo ni. Tất cả chướng do mình chấp thật mới có, nếu không chấp thật thì tất cả bình đẳng bất nhị.

Hỏi:
Hiện nay phong trào tu thiền lớn mạnh ở hải ngoại, thiền hơi thở, thiền nhân điện, thiền yoga…không biết đâu là chánh pháp, mặc dù Phật dạy chánh pháp còn phải bỏ, huống là phi pháp?

Đáp:
Quán sổ tức trong Ngũ Đình Tâm Quán là đếm hơi thở từ 1 đến 10, rồi từ 10 ngược lại 1, thiền này là đúng. Tôi hoằng Tổ sư thiền khác hơn tất cả thiền, tất cả thiền khác gọi là tọa thiền; còn Tổ sư thiền đang làm vẫn thiền, không cần phải ngồi, muốn ngồi thì ngồi. Đả thiền thất ngồi nửa tiếng đi nửa tiếng, đi gọi là đi hương, ngồi gọi là tọa hương.
Năm 1974, tôi đi Bangkok đến thăm trung tâm thiền của Thái Lan, có mời Thiền sư Miến Điện dạy Tiểu thừa thiền, ngồi bao nhiêu đi bấy nhiêu, hình thức giống như Tổ sư thiền. Đó là để điều thân, đi mỏi chân lại ngồi, ngồi tê chân lại đi. Các thiền khác chú trọng ngồi kiết già, Tổ sư thiền khỏi cần ngồi kiết già, muốn ngồi cách nào cũng được.
Lục Tổ nói “đạo do tâm ngộ bất tại tọa”, ngộ là do tâm chứ không phải do thân; vì thân này sau khi chết đem thiêu thành tro, chôn thành đất. Tâm mình không sanh không diệt, tu là tu cái tâm; ngộ là ngộ cái tâm, cho nên khỏi cần ngồi.
Trong phẩm Tọa Thiền của Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói “tâm tọa chứ không phải thân tọa”. Tổ sư thiền rất thích hợp cho người tại gia để tu; đi xe, đi bộ, đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, đi cầu, ăn cơm, ngủ nghỉ… lúc nào tham cũng được, chỗ nào tham cũng được.
Muốn phân biệt chánh tà rất dễ, chánh pháp là phá ngã chấp; nếu chấp ngã là tà, phá chấp ngã là chánh. Tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa đều phá chấp thật.
Như Bát Nhã Tâm Kinh phá tất cả chấp; bất cứ chấp cái gì, chấp thật lục căn, lục trần, lục thức cho đến chấp thật Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên đều dùng chữ vô để phá (vô là không có, không phải là không có, vô là vô thật tức là không phải thật, nghĩa là phá chấp thật), trí huệ của Bồ tát cũng phá luôn (vô trí diệc vô đắc), cứu kính Niết bàn cũng xa lìa (xa lìa điên đảo cứu kính Niết bàn). Phá hết tất cả chấp thì được thành Phật.

Hỏi:
Xin Thầy giảng về quá trình chứng ngộ của Thầy?

Đáp:
Đáng lẽ quý vị nghe tôi giảng phương pháp tự ngộ của Thiền tông là tu để tự ngộ, không phải để khảo lại tôi. Nhưng đã hỏi thì tôi phải nói: Ban đầu tôi giảng thiền được một tuần lễ cho ba mươi mấy người, hỏi các vị ấy có thích thiền không? Chỉ có một người thích.
Tôi ra hoằng Tổ sư thiền thì không thể buông, phần nhiều các Phật tử ấy tu Tịnh độ và mê tín. Tôi dạy Tổ sư thiền là vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ, nên người ta cũng công kích. Sau này có sự thật chứng tỏ nhiều người tu phát trí huệ, trong công thương kỹ nghệ đều tham được.
Mới giải phóng không có viết nguyên tử, dùng ruột mực bôm vô xài nữa. Có người làm nghề bôm mực nguyên tử. Một thanh niên 20 tuổi làm nghề này, trước kia chưa có tham thiền một ngày bôm được bốn mươi mấy cây; sau khi tham thiền mỗi ngày bôm được tám mươi mấy cây. Bốn mươi mấy cây bôm mực không đều, tám mươi mấy cây ra mực đều. Chứng tỏ tham thiền không chướng ngại kiếm gạo, còn giúp kiếm gạo nhiều. Vì sản xuất gấp bội, tự nhiên gạo phải nhiều hơn.
Tôi bất đắc dĩ ra hoằng Tổ sư thiền, ban đầu tôi nói tiếng Quảng, chỉ có người Hoa đến dự, sau này người Việt lại coi, vì tôi là người đầu tiên đả thiền thất ở Việt Nam, cho tứ chúng tập thiền liên tiếp 7 ngày. Người Hoa theo tôi học thiền được hai ba trăm người, người Việt theo tôi học thiền hơn bốn ngàn người.
Cho nên, tất cả kinh sách của tôi dịch chữ Việt nhiều, chữ Hán ít hơn. Như hôm nay lại đây tôi giảng bằng tiếng Việt, tháng trước đi Canada cũng giảng bằng tiếng Việt, ở Việt Nam giảng bằng tiếng Việt nhiều hơn. Vì người Việt theo tôi học thiền nhiều, chơn tu nhiều hơn; người Hoa phần nhiều cầu phước.
Tại sao tôi chưa kiến tánh mà ra hoằng thiền? Tôi nghĩ ngài Lai Quả kiến tánh nhưng thầy của ngài Lai Quả chưa kiến tánh, ngài Hư Vân kiến tánh nhưng thầy của ngài Hư Vân chưa kiến tánh; nghĩa là mình tu đúng đường lối thực hành sẽ kiến tánh, tuy thầy chưa kiến tánh nhưng trò kiến tánh trước, trong lịch sử Thiền tông thấy nhiều. Đệ tử kiến tánh rồi trở lại làm thầy, thầy trở lại làm đệ tử.
Tôi chưa kiến tánh, nhưng may mắn biết được đường lối thực hành Tổ sư thiền, do Thiền sư có theo tham học với ngài Lai Quả, ngài Hư Vân truyền dạy cho tôi. Tôi chỉ có giải ngộ, nên các vị hỏi vấn đề gì, tôi khỏi cần qua bộ óc suy nghĩ mà trả lời liền

#13 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 07/08/2011 - 08:06

Hỏi:
Tham Tổ sư thiền đời này chưa giải thoát, mất thân người phải đọa thì làm sao?
Đáp:
Đối với Phật pháp phải tin nhân quả, nhân nào quả nấy; như kinh Pháp Hoa nói “như thị nhân như thị quả”. Tổ sư thiền do Phật Thích Ca truyền là chánh nhân, chánh nhân đã gieo thì chánh quả sẽ đến. Ở Việt Nam, có Phật tử cũng hỏi vậy “ngày nay tôi tu thiền rồi ngày mai chết làm sao?” Tôi nói, mặc dù chỉ tu một ngày, nhưng chánh nhân đã gieo thì chánh quả sẽ đến, kiếp sau sẽ tiếp tục tu.
Thí dụ mục đích kiến tánh là Sài Gòn, Chợ Lớn đi Sài Gòn là 100 bước; tuy mình đi 1 bước thì kiếp sau đi thêm 99 bước, chứ khỏi cần đi 100 bước. Nếu mình đi được 50 bước thì kiếp sau đi thêm 50 bước, kiếp này đi 99 bước thì kiếp sau đi 1 bước là đến nơi. Cho nên, tham thiền không nói sơ tham hay lão tham, sơ tham có thể mau kiến tánh hơn lão tham. Vì kiếp trước đã tu gần tới nơi thì kiếp này chỉ tu thêm ít sẽ tới nơi.

Hỏi:
Tại sao phương pháp thiền này không được thông dụng như trước kia?

Đáp:
Phương pháp thiền thực hành rất dễ, mà tin tự tâm rất khó. Pháp môn này phải tin tự tâm, tức là phải tin tự tâm mình với tâm của Phật Thích Ca bằng nhau (Phật Thích Ca nói Phật tánh bình đẳng bất nhị). Nhưng người ta khó tin, nếu không tin tự tâm thì không phát hiện tự tâm.
Tham Tổ sư thiền là phát hiện tự tâm mình, gọi là kiến tánh thành Phật. Bây giờ tất cả thần thông trí huệ của mình bằng với Phật Thích Ca, cùng khắp không gian thời gian, siêu việt số lượng; nhưng vì bị chôn vùi ở vô thỉ vô minh lâu đời, không thể lấy ra dùng.
Như kinh Pháp Hoa nói “mình có hạt châu như ý để trong chéo áo, cho mình nghèo phải đi ăn xin; được người trí chỉ ra thì được giàu sang”. Nhưng việc này rất khó tin, nên người thực hành rất ít. Mặc dù, rất ít nhưng đời nào cũng có người kiến tánh.
Trước đời nhà Tống của Trung Quốc có người kiến tánh rất nhiều, chùa phần nhiều thuộc về Thiền tông. Sau này Truyền Đăng Lục ra đời, các cơ xảo của Tổ sư ghi trong đó, người tham thiền biết nên cơ xảo của Tổ không dùng được. Bất đắc dĩ dạy người ta tham công án tham thoại đầu, nên người kiến tánh ít lại.
Tuy ít người kiến tánh, nhưng đời nào cũng có người kiến tánh. Như gần đây theo mình biết ngài Hư Vân, ngài Lai Quả, ngài Nguyệt Khê đều kiến tánh. Ngài Nguyệt Khê tịch năm 1965 để lại nhục thân ở Cửu Long (Hồng Kông). Mặc dù người ta tu ít, vì ít người hoằng dương; đó cũng là do tánh của con người, như bây giờ tôi hoằng Tổ sư thiền rất khó khăn.
Ở Việt Nam hoằng Tổ sư thiền có nhiều người công kích, vì tôi dạy tông chỉ Tổ sư thiền là phá ngã chấp (vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ), còn các chùa cần phải nuôi sống nên dạy người ta cầu.
Người ta nói tôi làm như vậy phải bị nhịn đói, hoằng Tổ sư thiền rất khó vì người tin rất ít; nhưng vì hoằng dương chánh pháp, nên tôi phải vậy, nếu có nhịn đói cũng hoằng dương. Tánh của con người rất khó làm theo vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ. Vì vậy, người tu Tổ sư thiền rất ít.

Hỏi:
Mười mấy năm Thầy tu Tịnh độ có thành tựu được gì không? Sau khi chuyển sang Thiền tông, Thầy bảo là thành tựu hơn. Vậy thành tựu của Thầy là thế nào?

Đáp:
Thành tựu của tôi vừa rồi tôi đã kể, tôi chỉ được giải ngộ và tận sức hoằng đúng theo tông chỉ Tổ sư thiền. Trước kia mười mấy năm tôi hoằng Tịnh độ, chính tôi niệm Phật sáng đêm không ngủ, muốn ngưng câu niệm Phật cũng không ngưng được. Ngài Lai Quả ban đầu cũng niệm Phật, ngủ quên niệm lớn tiếng, rồi chuyển qua Tổ sư thiền lúc 28 tuổi kiến tánh.
Những người theo tôi học thiền, trước kia đã tu Tịnh độ rồi chuyển sang Tổ sư thiền. Nếu niệm Phật được vãng sanh Tịnh độ cũng phải chuyển sang Tổ sư thiền mới kiến tánh thành Phật. Mình đợi tới chết rồi chuyển, không bằng mình còn sống chuyển sang thì tốt hơn.

Hỏi:
Tâm hồn con đòi hỏi có một đời sống nội tâm an lành trong sáng hữu ích và giải phóng, nhưng đời sống còn cạnh tranh, tranh chấp, thấp hèn, tàn nhẫn. Con nghĩ rằng giằng co, rách nát giữa tâm, trí tuệ và sự thật đời sống. Kính mong Thầy giúp đỡ?

Đáp:
Cuộc sống hàng ngày của mình do bộ óc làm chủ, bộ óc làm chủ phải dựa theo ngã chấp. Vì bộ óc thì có tương đối, sống trong thế giới tương đối, có lợi phải có hại. Khoa học phát minh xe hơi để tiện lợi cho giao thông, nhưng xe hơi rất nhiều nên giao thông dễ bị tắt nghẽn; có khi có chỗ xe hơi đi còn chậm hơn đi bộ, mỗi ngày toàn nước Mỹ chết vì xe hơi hơn 50 người; chưa kể người bị thương, số này có thể tiếp tục tăng thêm.
Do bộ óc làm chủ phải tranh giành với nhau, như con mắt muốn sắc đẹp, lỗ tai thích nghe âm thanh khen ngợi hay âm nhạc, cái lưỡi muốn ưa đồ ngon… Muốn thỏa mãn dục vọng của mình phải tranh giành với người khác. Anh chị em ruột trong gia đình cũng có tranh giành với nhau, gia đình này với gia đình kia cũng tranh giành với nhau, đoàn thể này với đoàn thể kia cũng tranh giành với nhau, chủng tộc này với chủng tộc kia cũng tranh giành với nhau, quốc gia này với quốc gia kia cũng tranh giành với nhau.
Cho nên, từ chửi mắng, đánh lộn, xung đột đổ máu, chiến tranh nhỏ đến chiến tranh lớn đều do ngã chấp (bộ óc làm chủ). Phật Thích Ca dạy phát hiện Phật tánh của mình để cho Phật tánh làm chủ, Phật tánh làm chủ chỉ làm lành chứ không có làm ác, mà thông qua bộ óc để dùng, không cho bộ óc làm chủ, bộ óc làm nô lệ cho Phật tánh. Bây giờ Phật tánh bị bộ óc che khuất nên không được hiện ra. Vì vậy, Phật Thích Ca nói trong Bát Nhã Tâm Kinh là phủ định lục căn, lục trần, lục thức.

Hỏi:
Cách nào để giữ nghi tình khỏi quên?

Đáp:
Ngài Nhuyệt Khê nói “một niệm chưa sanh khởi gọi là vô thỉ vô minh, đã sanh khởi một niệm rồi gọi là nhứt niệm vô minh”, sanh khởi một niệm thì kế tiếp niệm thứ hai, thứ ba tiếp tục hoài tới ngày sáng đêm, cũng trong phạm vi nhứt niệm vô minh.
Tham thiền là phá vô thỉ vô minh, vô minh là đen tối, tham thiền là nhìn ngay chỗ mịt mù chỗ đen tối, không biết là cái gì, tức là nhìn ngay vô thỉ vô minh, cũng gọi là thoại đầu.
Thoại đầu là khi chưa nổi một niệm. Đã nổi niệm muốn nói mặc dù chưa nói ra gọi là thoại vỉ, chứ không phải thoại đầu. Tham thiền là nhìn ngay chỗ một niệm chưa sanh khởi, tức là chỗ vô thỉ vô minh, nhìn ngay chỗ mịt mù không biết là cái gì, mà vừa nhìn vừa đề câu hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” để tăng cường cái không biết (nghi tình). Đó là thực hành Tổ sư thiền.
Khi hỏi phải hỏi liên tiếp, không có cho kẽ hở; tức là vừa hỏi dứt phải hỏi nữa, nếu hỏi rồi cách một hồi hỏi nữa thì có kẽ hở; có kẽ hở thì vọng tưởng phiền não từ kẽ hở nổi lên. Nếu hỏi khít khít thì phiền não vọng tưởng, không có kẽ hở để nổi lên. Phiền não không nổi lên thì tâm mình được thanh tịnh.
Cho nên, tham thiền được 5 phút thì 5 phút này hết phiền não, tham thiền 1 tiếng thì 1 tiếng này hết phiền não, tham thiền được 1 ngày thì 1 ngày không có phiền não. Tâm thanh tịnh lâu ngày sẽ phát trí huệ. Như có nhiều Phật tử, trước khi chưa tham thiền coi kinh không hiểu, tham thiền một thời gian rồi coi kinh tự nhiên hiểu.
Ở chùa Từ Ân đả thiền thất, thanh niên theo cha dự thiền thất, người mẹ khuyên y ở nhà học bài để thi, nếu không lên lớp phải đi lính. Nhưng y không chịu nghe, cứ đến dự thiền thất. Qua thiền thất không có thời giờ học bài, lúc làm bài mà y không biết (vì không có học làm sao biết), rồi y tham thiền được 10 phút, tự nhiên làm được bài và nộp lên trước.
Kỳ thật, mình có công phu đến mức thì cái dụng của tự tánh hiện ra. Như Trương Quốc Anh không thấy trái banh mà chụp được trái banh, bác sĩ Thuận không thấy xe mà không đụng xe, cô Hằng Thiền không cần qua bộ óc mà cắt được cái áo.
Sự thật chứng tỏ cái biết của tự tánh dùng ra hay hơn trí huệ của bộ óc rất nhiều. Có hai tài xế lái xe khách Sài gòn - Chợ Lớn, trước khi chưa tham thiền thường hay bị cảnh sát thổi phạt, sau này tham thiền không đụng xe và không bị cảnh sát thổi phạt.
Đang lái xe mà tham thiền rất nguy hiểm, công phu của mình chưa đến mức là còn sợ, còn biết thì làm không được, nên phải đụng xe. Lúc nghi tình liên tục là lúc đó tự mình không biết nên không biết sợ, tự nhiên không đụng xe, chứng tỏ tự tánh được dùng ra.
Tự tánh được dùng ra là nghĩa không của nhà Phật. Thường thường người ta nói tu sĩ là chán đời mới vô cửa không đi tu. Chữ không của Phật pháp rất tích cực, bởi vì có nghĩa không mới hiển bày cái dụng.
Trung Quán Luận nói “vì có nghĩa không nên tất cả pháp mới được thành tựu”. Như cái tách lấp bít hết, không có cái không (trống rỗng), không phải không có gì hết. Nếu cái tách không có cái không thì không đựng sữa, nước, trà… được, vì là cái tách chết. Cái tách có cái không nên hiển bày cái dụng. Cái bàn có cái không nên để đồ được, cái ghế có cái không nên ngồi được, cái nhà có cái không nên ở được.
Cái không rộng chừng nào thì dụng rộng chừng nấy. Tại sao dụng của Phật Thích Ca có vô lượng vô biên? Vì Phật Thích Ca đã không có cái không nào để không nữa, nên cái dụng cùng khắp không gian thời gian. Còn cái không của mình nhét đầy tham sân si… nên cái dụng không hiện ra.
Tham câu thoại đầu khởi lên nghi tình tự động quét tất cả. Quét không bao nhiêu thì cái dụng hiện ra bấy nhiêu. Có nghi tình là bao gồm giới, định, huệ, lục độ vạn hạnh, cho đến công thương kỹ nghệ thế gian, không có cái nào thiếu sót.

Hỏi:
Khối nghi tình đến lúc nào bùng vỡ?

Đáp:
Khối nghi tình cuối cùng sẽ bùng vỡ tức là kiến tánh. Ví dụ đầu trên cây viết là thoại đầu, đầu dưới cây viết là thoại vỉ. Bắt đầu tham là từ thoại vỉ đến thoại đầu, khởi lên nghi tình là rời khỏi thoại vỉ, nhưng chưa đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường.
Một ngày kia đến thoại đầu (nguồn gốc của ý thức, Thiền tông gọi là đầu sào trăm thước, cũng là vô thỉ vô minh) thì đường đi ý thức đã hết, trước mắt không còn cái gì, chỉ có thanh thanh tịnh tịnh; ngoại đạo đi tới chỗ này cho là Niết bàn. Nhưng sự thật chưa phải, còn dính líu với ý thức.
Cho nên, Thiền tông từ đầu sào trăm thước tiến lên một bước nữa mới rời khỏi ý thức. Rời khỏi ý thức, ngài Lai Quả nói là lọt vào hư không té xuống, té phải cho chết; chết rồi sống lại gọi là “tuyệt hậu tái tô”. Sống lại có 2 thứ: tiểu tử tiểu hoạt và đại tử đại hoạt.
Té xuống chết rồi sống lại nhưng còn cái xác, gọi là tiểu tử tiểu hoạt. Đại tử đại hoạt thì luôn cái xác cũng không còn, rồi sống lại gọi là đại tử đại hoạt.
Đây là thí dụ, không phải xác thân này; tức là tiểu ngộ còn ôm cảnh giới ngộ cho mình đã ngộ, không buông cảnh giới ngộ. Do trụ cảnh giới ngộ nên bị chướng ngại, cái dụng không được dùng ra.
Đại tử đại hoạt là cảnh giới ngộ cũng tan rã, Thiền tông gọi là ngộ rồi đồng như chưa ngộ. Vì có ngộ thì còn mê, tại sao? Có mê nên mới có ngộ. Đã ngộ rồi hết mê, hết mê phải hết ngộ.
Cái tay ví dụ Phật tánh của mình hoạt bát vạn năng, muốn lấy cây viết, cái máy, cái tách… đều được. Nếu trụ cây bút thì hoạt bát vạn năng bị mất, muốn lấy cái gì không được. Cho nên, tay trụ cây viết cần buông ra, khôi phục hoạt bát vạn năng của tay, muốn lấy cái gì cũng được. Đây là trụ nơi có làm chướng ngại cái dụng. Lại chấp trụ nơi không, tức trong tay không có gì thành chướng ngại, muốn lấy cái gì cũng không được. Vì vậy cái không phải quét để khôi phục hoạt bát vạn năng của tay.
Cái dụng của tự tánh cũng vậy, nên Pháp Bảo Đàn nói “lấy vô trụ làm gốc”, kinh Duy Ma Cật nói “từ gốc vô trụ lập tất cả pháp”. Nếu có sở trụ thì chướng ngại dụng của tự tánh. Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” liền ngộ đạo. Ưng vô sở trụ là bản thể của tự tánh, sanh kỳ tâm là hiển bày cái dụng. Nếu có sở trụ, mặc dù trụ nơi Niết bàn cũng quét (xa lìa điên đảo cứu kính Niết bàn), nếu còn trụ Niết bàn cũng là điên đảo mộng tưởng. Bản thể Phật tánh là bất nhị, nghĩa bất nhị là vô trụ.
Tất cả tên gọi của Phật đều do cái dụng mà lập danh, như Phật tánh cùng khắp không gian không khứ lai, nên gọi là Như lai; Phật tánh cùng khắp thời gian không gián đoạn (không sanh diệt), nên gọi là Niết bàn. Vô trụ, Bát nhã, tánh không… đều như vậy. Tuy nói danh từ muôn ngàn sai biệt nhưng nghĩa không khác, chỉ muốn hiển bày cái dụng của Phật tánh.
Phật Thích Ca muốn mỗi chúng sanh đều được tự ngộ, để hiển bày cái dụng của mình sẵn có từ lâu đời. Nếu cứ chôn vùi hoài rất uổng, Phật Thích Ca dạy thực hành Tổ sư thiền cho mọi người hiển bày cái dụng của mình sẵn có bằng như Phật. Cho nên, nói bình đẳng bất nhị là vậy.

Hỏi:
Câu tuyên bố bất hủ của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma “giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Xin Thượng tọa giảng cho về tâm và tánh theo Phật giáo trong câu trên?

Đáp:
Bất lập văn tự không phải phế bỏ văn tự, mà không qua văn tự lời nói, gọi là pháp thiền trực tiếp; cho nên chỉ cần cái nghi tình (không biết). Giáo ngoại biệt truyền là ở ngoài Giáo môn, vì Giáo môn có giai cấp từ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa và Đẳng giác, Diệu giác.
Pháp thiền trực tiếp do Phật Thích Ca đích thân truyền không có giai cấp, phàm phu ngộ và Thập địa Bồ tát ngộ bằng nhau, chỉ là cái dụng không bằng (cái lý thì bằng, cái sự không bằng). Cái dụng không bằng do phàm phu có tập khí thế gian và xuất thế gian còn nguyên. Thập địa Bồ tát hết tập khí thế gian, tập khí xuất thế gian còn ít, nên cái dụng lớn hơn nhiều, chỉ không bằng Phật. Phàm phu bị tập khí phiền não nhét đầy nên không hiển bày cái dụng. Phàm phu kiến tánh, những tập khí dứt lần lần sẽ bằng dụng của Phật.

Hỏi:
Nếu bất lập văn tự, sao Thầy thông thuộc kinh điển? Tại sao Tổ sư thiền trái lại đã viết rất nhiều sách vở nhất so với các tông phái khác?
Đáp:
Trong Tục tạng kinh có tác phẩm của Tổ sư thiền rất nhiều. Bất lập văn tự chứ không phế bỏ văn tự, chỉ là không qua văn tự, trực tiếp ngộ. Trực chỉ nhân tâm là phải tin tự tâm là Phật, ngoài tâm không có Phật. Mặc dù nói kiến tánh thành Phật, nhưng chưa phải quả vị Phật. Phàm phu và Bồ tát Thập địa đều ngộ tới Đẳng giác bằng nhau, cái dụng cách nhau rất xa.
Cái dụng quả Phật vô lượng vô biên, vì tất cả tập khí phiền não không còn. Có người kiến tánh chưa có thần thông, nhưng thần thông bản thể của mình sẵn có bằng với Phật Thích Ca; chỉ là chưa hiển bày để dùng, khi nào tập khí mình quét sạch bao nhiêu hiện ra cái dụng bấy nhiêu.

Hỏi:
Mười sáu năm nay, con tụng kinh niệm Phật vừa thiền và quán. Con được biết các chư Tổ nói “gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma”, nghĩa là không trụ các cảnh giới để tu lên, nhưng con không gặp cảnh giới đó, mà con chỉ điều tâm vào chỗ không để được an lạc. Vậy con có thể giữ mãi trạng thái đó hay là phải bỏ để đi lên, nếu bỏ thì làm sao?

Đáp:
Theo chánh pháp, nếu tu pháp môn nào phải đúng tông chỉ của pháp môn đó. Phật nói trong kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác có 3 thứ thiền quán: Sa ma tha, Tam ma bát đề, Thiền na. Giáo môn của Trung Quốc có: tông Thiên thai có Chỉ quán thiền, tông Hiền thủ có Pháp giới quán thiền, tông Duy thức có Duy thức quán thiền…
Nếu tự mình coi sách mà tu rất nguy hiểm. Ở Việt Nam, tôi gặp những người tự coi sách để tu xẩy ra rất nguy hiểm, có sự thật chứng tỏ. Nhiều khổ công tu phát được thần thông, đến mức độ cao xẩy ra nguy hiểm là: ói máu, phát điên, phá giới.
Có một tu sĩ ở Rạch Giá phá giới. Tại sao? Người ấy không tu đúng theo chánh pháp, tức là không phá ngã chấp, nên tham sân si chỉ là đè nén, do dùng lục tự Di Đà để đè nén, niệm chú để đè nén hoặc dùng quán tưởng đề đè nén vọng tưởng. Theo vật lý, nếu đè nén mạnh chừng nào thì phản lực mạnh chừng nấy. Đè nén lâu ngày đến mức độ cao bộc phát lên không thể kiềm chế được, xẩy ra 3 kết quả trên.

Hỏi:
Thế nào là sở tri chướng và phiền não chướng?

Đáp:
Tất cả do bộ óc nhận thức được gọi là sở tri chướng, cho nên Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn thức giới cho đến ý thức giới, cho đến vô khổ, tập, diệt, đạo (Tứ Diệu Đế của thừa Thanh văn); cho đến vô vô minh tới lão tử (Thập Nhị Nhân Duyên của thừa Duyên giác); cho đến trí huệ của Bồ tát; cho đến cứu kính Niết bàn, tất cả đều quét”.
Vì do cái biết của bộ óc là sở tri chướng làm chướng ngại, nên tự tánh không được hiện ra. Cứ cho bộ óc làm chủ thì ở trong tương đối, có lợi phải có hại; thường hại nhiều hơn lợi. Cho nên, Phật dạy mình phải quét sạch sở tri chướng thì chánh biến tri của Phật mới hiện ra.
Phiền não chướng là tất cả tham sân si, mình ham thích cái gì đều là phiền não chướng; ham thích ăn ngon, mặc đồ đẹp, muốn thỏa mãn dục vọng của mình đều là phiền não chướng.

Hỏi:
Xin Thầy giải thích sự lợi ích giữa công đức và phước đức?

Đáp:
Phước đức có thể hưởng hết, như trong kinh cuối cùng đều có thí dụ: lấy tiền tài thất bảo chất đầy tam thiên đại thiên để bố thí, chỉ được phước đức chứ không phải công đức; cho đến vô biên thế giới thất bảo để bố thí được phước đức, nhưng phước đức có thể hưởng hết. Còn công đức của tự tánh sẵn có, chỉ cần mình phát hiện; tự tánh không sanh không diệt nên công đức hưởng không bao giờ hết.
Lương Võ Đế hỏi tổ Đạt Ma: Tôi cất chùa, bố thí, cúng ường chư Tăng rất nhiều, vậy có công đức không?
Đạt Ma đáp: không có công đức, chỉ là phước đức của trời người.
Nhưng phước báo đó hưởng lâu ngày cũng phải hết, còn công đức hưởng không thể hết. Vì công đức là tự tánh không sanh diệt, không diệt làm sao hết! Cho nên, công đức và phước đức khác nhau.
Tham thiền là muốn phát hiện công đức của mình, không muốn phước đức. Muốn cứu kính vĩnh viễn, tức là giải thoát tất cả khổ, cái khổ không thể trở lại; không phải kiếp này hay kiếp sau, muôn triệu ngàn kiếp cũng không cần. Tại sao? Nếu muôn triệu ngàn kiếp, khổ còn trở lại thì không được gọi là chân thật bất hư.

Hỏi:
Trong các sách có nói Tổ sư trong Thiền môn truyền tâm ấn, vậy tâm ấn là cái gì? Và truyền tâm ấn là thế nào?

Đáp:
Bổn tâm không có hình thể, không có âm thanh; dùng bộ óc không thể tiếp xúc, văn tự lời nói cũng không diễn tả được. Vậy làm sao lấy cái gì để truyền! Thiền tông nói truyền tâm ấn là dùng tâm ngộ của thầy ấn chứng tâm của trò đã ngộ, chứ không phải có tâm ấn để cho người này cho người kia. Tâm vô hình vô thanh cùng khắp không gian thời gian, như ánh sáng đèn cùng khắp không gian thời gian làm sao truyền! Nếu có truyền được là không cùng khắp.

Hỏi:
Lục Tổ nói “bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”, thế thì tu để làm gì? Thành Phật để làm chi?

Đáp:
Bài kệ của Lục Tổ là để phá chấp bài kệ của Thần Tú, lời nói của chư Phật chư Tổ là công cụ phá chấp; chứ không phải chân lý.
Như chúng sanh chấp cái có là thật có thì Phật nói không, dùng cái không để phá cái có; nếu chúng sanh chấp cái không là thật không thì Phật phải nói có, dùng cái có để phá chấp không. Nếu chúng sanh thấy Phật phá có phá không, tưởng là chẳng có chẳng không thì chấp vào chẳng có chẳng không, nên Phật dùng cũng có cũng không để phá chấp chẳng có chẳng không. Cuối cùng chúng sanh cho cũng có cũng không là chân lý, còn chấp cũng có cũng không thì Phật thấy bệnh chấp vẫn còn, phải dùng chẳng có chẳng không để phá cũng có cũng không.
Tứ cú đều phá, có cũng phá, không cũng phá, chẳng có chẳng không cũng phá, cũng có cũng không cũng phá, gọi là lìa tứ cú (vô sở trụ), không phải có câu nào là chân lý. Phật nói có, không phải có là chân lý; Phật nói không, không phải không là chân lý, chỉ là tạm mượn để phá chấp.
Lục Tổ cũng vậy, vì Thần Tú chấp thật có cái tâm để dính bụi nên cần phải quét sạch. Tâm vô hình tướng, tức là không có chỗ đề dính bụi và vốn không có bụi để dính cái tâm. Do bộ óc chấp thật có cái tâm để dính bụi, có cái bụi để dính trong tâm. Đó là nghịch ý Phật và Tổ, tức là nghịch với bản thể Phật tánh. Cho nên Lục Tổ phải phá chấp đó.
Nếu là bổn lai vô nhất vật (không có cái gì) thì muốn thành Phật để làm gì? Kỳ thật, muốn hiển bày cái dụng vô lượng vô biên, chứ không phải tiêu cực, nói là cửa không, không có cái gì! Bởi vì có dụng là tích tực, nhà khoa học, triết học có dụng tích cực không bằng cái dụng tích cực của Phật, do tích cực của Phật không có cuối cùng.
Vừa rồi tôi nói “hiển bày cái dụng muôn triệu ngàn kiếp cũng không cần, là muốn hiển bày cái dụng vĩnh viễn”. Vậy làm sao nói tất cả không có! Tại giải thích trên mặt chữ cho là không có thì không đúng.

Hỏi:
Sau đời Lục Tổ, các Tổ dùng phương tiện đánh hét, xô đẩy… Vậy Thầy có chủ trương như vậy hay không? Và Thầy cũng thuộc dòng Lâm Tế chăng?

Đáp:
Chủ trương nói không được, chủ trương là do bộ óc. Pháp môn là do Phật Thích Ca truyền cho ngài Ca Diếp chỉ đưa cành hoa, không qua lời nói, mà ngài Ca Diếp ngộ chỉ mỉn cười cũng không nói; nên nói pháp thiền trực tiếp bất lập văn tự, nếu bất lập văn tự thì có chủ trương gì! Có chủ trương là có sở trụ. Phật nói “không pháp để thuyết mới là thuyết pháp, ai có nói Phật thuyết pháp thì người ấy phỉ báng Phật”.
Tham Tổ sư thiền là phát hiện cái dụng của mình từ lâu nay sẵn có để dùng ra, chứ không để chôn vùi mãi mãi.

Hỏi:
Thầy có đủ sáu thần thông chưa?

Đáp:
Có người đã kiến tánh cũng chưa có thần thông, hết tập khí hiện ra cái dụng, người ta không biết cho là thần thông. Thần thông do bộ óc luyện ra không phải thần thông của Phật tánh, thần thông của Phật tánh cùng khắp không gian thời gian. Luyện thần thông từ Mỹ bay qua Việt Nam 5 phút, chưa phải thần thông của Phật tánh. Thần thông của Phật tánh không cần bay, vì cần bay không cùng khắp không gian.

Hỏi:
Căn cơ chúng sanh ở đất Mỹ mà đời sống rất phức tạp, xin Thầy chỉ dạy phương pháp tu công hiệu nhất?

Đáp:
Cách tu công hiệu nhất là hỏi câu thoại đầu khởi lên nghi tình. Đây là một công án để cho quý vị hiểu: Có một ni cô tham câu thoại đầu “chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật là cái gì?” Tham nhiều năm không thấy gì, thường hỏi thầy “có phương pháp nào để cho con kiến tánh mau không?” Thầy lắc đầu không trả lời. Đến một ngày, ni cô ấy cũng hỏi như vậy, thầy biết công phu của ni cô ấy gần chín mùi, rồi nói: có.
Ni cô nói: sao không nói cho con biết! Xin thầy nói cho biết.
Thầy nói: chú ý nghe! Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật là cái gì?
Ni cô nghe liền kiến tánh, chính câu thoại đầu của ni cô tham; nhưng cứ cho có pháp đặc biệt để cho mình kiến tánh, thành ra tư tưởng đó làm chướng ngại nên không được kiến tánh. Vì vậy, thầy lắc đầu không trả lời là tăng cường nghi tình. Nghi tình đến gần bùng vỡ, thầy nói ra được ngộ mới biết không có cách khác. Nói cách gì cũng là câu thoại đầu, Phật Thích Ca truyền từ nghi đến ngộ, đến trước đến sau là tùy theo mình, đi nhanh đến trước, đi chậm đến sau.

Lời khai thị II:

Phương pháp tự ngộ của Thiền tông là pháp thiền trực tiếp, do Phật Thích Ca đích thân truyền đến ngày nay. Phật tánh của mình đầy đủ năng lực thần thông trí huệ bằng Phật Thích Ca, không kém hơn một chút nào. Phật Thích Ca nói “Phật tánh bình đẳng bất nhị”, nếu chúng sanh kém hơn Phật một chút thì có cao có thấp là không bình đẳng, cao với thấp là nhị.
Cho nên, mình muốn tham Tổ sư thiền phải tin Phật tánh là tự tâm của mình bằng như Phật. Nếu lòng tin đầy đủ mới phát hiện được Phật tánh của mình, tức là cái dụng vô lượng vô biên đã có từ vô thỉ.
Pháp thiền tự ngộ, vì tổ Đạt Ma truyền sang Trung Quốc, người ta gọi là Đạt Ma thiền; từ Tổ từ Tổ truyền xuống gọi là Tổ sư thiền. Tất cả thiền nói trong kinh điển đều gọi là pháp thiền gián tiếp, khó tu khó chứng; còn pháp thiền trực tiếp dễ tu dễ chứng hơn. Như các phái Giáo môn như: tông Pháp hoa, tông Hoa nghiêm, tông Duy thức, tông Tam luận… đều có thiền riêng.
Tông Pháp hoa còn gọi là tông Thiên thai, vì Đại sư Trí Giả ở núi Thiên thai, nên gọi là tông Thiên thai; vì căn cứ theo kinh Pháp hoa, nên người ta gọi là tông Pháp hoa. Tông Pháp hoa có chỉ quán thiền, bây giờ người tông Thiên thai chỉ học giáo lý của tông Thiên thai, mà không tu chỉ quán thiền của tông Thiên thai; bởi vì phức tạp nên khó tu, nếu tu cuối cùng cũng phải khởi lên nghi tình giống như Tổ sư thiền.
Chỉ quán thiền của tông này có tam chỉ tam quán. Tam chỉ là: Hệ duyên chỉ, Tùy duyên chỉ, Thể chơn chỉ. Tam quán là: Giả quán, Không quán, Trung quán. Ban đầu quán các pháp đều giả, không có cái nào thật, quán riết thì giả cũng không phải thật giả, rồi quán không, nhưng quán riết không chẳng phải thật không, đến quán trung tức là chẳng phải giả, chẳng phải không; trung cũng không có cái trung để trụ, lúc đó tự nhiên phát khởi nghi tình “chẳng phải giả, chẳng phải không, chẳng phải trung, vậy là cái gì?” do cái nghi này mới đạt đến ngộ.
Như thế đã trải qua bao nhiêu tinh thần khổ công phát nghi, còn Tổ sư thiền là bắt đầu đã phát nghi; chỉ nhờ câu thoại đầu, như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Không biết. Cho nên giản dị mau hơn, các thiền khác cuối cùng cũng phải phát nghi rồi được ngộ, vì nghi là nhân, ngộ là quả. Tổ sư thiền do Phật Thích Ca dạy là từ nghi đến ngộ.
Người tu Tịnh độ đã vãng sanh Cực lạc, cũng phải chuyển qua Tổ sư thiền là phát nghi được ngộ. Nghĩa chữ Phật là tiếng Ấn Độ gọi Phật Đà, dịch ra tiếng mình là giác ngộ; người nào giác ngộ thì người ấy là Phật. Có người hỏi Phật “Ngài là người gì?” Phật trả lời “tôi là người giác ngộ”. Đáng lẽ gọi Phật là người giác ngộ, nhưng không gọi mhư vậy mà gọi là Phật.
Nhiều người cho Phật là một thần linh, mình nói tu kiến tánh thành Phật nhưng người ta không tin “tại sao ông dám nói kiến tánh thành Phật!” Kỳ thật, đó là mục đích của Phật độ chúng sanh, Phật muốn mọi chúng sanh đều kiến tánh thành Phật; kiến tánh thành Phật được dứt tất cả khổ. Nếu không kiến tánh thì vĩnh viễn không giải thoát tất cả khổ. Bây giờ không tự do tự tại là không biết mình là cái gì? Nên không làm chủ chính mình.
Hiện nay mình đầu thai làm người, nhưng mình vốn không phải người; người ở trong lục đạo (trời, người, a tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục). Nếu mình sanh tử tự do thì làm cõi nào cũng được, mình không được sanh tử tự do nên theo nghiệp mình tạo mà đầu thai; như tạo nghiệp trời thì sanh cõi trời, tạo nghiệp người thì sanh cõi người… tùy theo nghiệp mà xoay chuyển nên không được tự do.
Phật muốn mọi chúng sanh đều được giác ngộ. Có hai thứ chiêm bao: nhắm mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao. Ban đêm ngủ chiêm bao thấy có thân chiêm bao tiếp xúc thế giới chiêm bao, như tiếp xúc cái tách, cái máy, cái bàn… đều có thật chất; tiếp xúc nóng lạnh biết lạnh nóng, luôn cả thân chiêm bao mà người ta đánh thấy đau; giả sử trong chiêm bao có một thiện tri thức giải thích: cái tách, cái bàn, cái máy… đều không thật; luôn cả thân của ông không thật, người chiêm bao không thể tin.
Tại sao? Vì tiếp xúc cái nào cũng có thật chất rõ ràng. Nói tôi không thật, sao người ta đánh tôi biết đau? Nhưng thức tỉnh tự mình chứng tỏ hồi nảy những cái thật tìm không ra. Thức tỉnh thì những cái trong chiêm bao tự dứt, như trong chiêm bao bị phạm pháp luật phải ở tù, đánh đập… Thức tỉnh rồi thân chiêm bao không còn, chính phủ chiêm bao cũng mất.
Mở mắt chiêm bao cũng vậy, như tôi giảng và các vị đang nghe là trong mở mắt chiêm bao. Bây giờ tiếp xúc cái nào cũng thật, mặc dù Phật Thích Ca giảng là không thật; như Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý và vô sắc thinh, hương, vị, xúc, pháp”. Nhưng mình khó tin, nếu tham thiền được tự ngộ thì chứng tỏ, gọi là chứng ngộ, giống như nhắm mắt chiêm bao thức tỉnh. Nếu còn ở trong chiêm bao thì thấy tất cả các cảnh đều thật.
Theo Duy thức gọi nhắm mắt chiêm bao là độc đầu Duy thức biến hiện. Tại sao? Một mình thức thứ 6 biến hiện ra cảnh giới nhắm mắt chiêm bao. Lúc ngủ thì tiền ngũ thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) ngưng hoạt động, chỉ còn thức thứ 6 hoạt động hiện ra cảnh giới nhắm mắt chiêm bao; những cảnh trong phòng không thấy, nhưng lại thấy các việc ở xa, như ở bên Tây, Việt Nam… Do thức thứ 6 không cần nhờ 5 thức trước (tiền ngũ thức), biết được quá khứ và vị lai trong chiêm bao; nó hoạt động ngày đêm không ngừng, nên một mình biến hiện cảnh giới nhắm mắt chiêm bao.
Mở mắt chiêm bao là 5 thức trước không ngưng nghỉ thì có hai thức cùng biến hiện, gọi là đồng thời ý thức biến hiện mở mắt chiêm bao. Tại sao? Như nhĩ thức nghe được tiếng, nhưng không biết tiếng gì, tiếng đàn ông, tiếng đàn bà, tiếng con nít… phải nhờ thức thứ 6 để phân biệt biết tiếng này là tiếng người đàn ông, đàn bà, con nít… Nếu chỉ có ý thức thì không nghe được tiếng nên lấy cái gì để phân biệt là tiếng gì. Nếu chỉ có nhĩ thức thì chỉ nghe được tiếng nhưng không biết tiếng gì. Cho nên phải hai thức cùng nổi lên, gọi là đồng thời ý thức biến hiện mới thấy rõ ràng.
Nhắm mắt chiêm bao do một thức biến hiện, mở mắt chiêm bao do hai thức đồng thời biến hiện; một thức cũng là tâm, hai thức cũng là tâm. Nên kinh Hoa Nghiêm nói “nhứt thiết duy tâm tạo”. Tham Tổ sư thiền là muốn tự ngộ cái tâm này là cùng khắp không gian thời gian, mà cái dụng cũng cùng khắp không gian thời gian.
Phật Thích Ca có thần thông trí huệ vô lượng vô biên là do Phật Thích Ca quét sạch, không còn cái gì để quét nữa, cái không rộng cùng khắp không gian thời gian, nên cái dụng cùng khắp không gian thời gian. Còn chúng ta có tham sân si rất nhiều nhét đầy thành ra không hiển bày cái dụng.
Tham thiền là nhờ câu thoại đầu khởi lên nghi tình là không biết của bộ óc quét không bao nhiêu thì hiển bày cái dụng được bấy nhiêu. Vì vậy, hôm nay tham thiền thì hôm nay được cái dụng, tham được một ngày thì cái dụng được một ngày, tham được một tháng thì cái dụng được một tháng, quét trống nhiều thì cái dụng nhiều.
Hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Không biết, trả lời không ra thì hỏi nữa, hỏi đến thình lình trả lời ra là được kiến tánh. Nhưng trả lời ra không phải đáp án câu thoại đầu, mà phát hiện bản tâm mình.
Nếu hỏi câu thoại cách một hồi hỏi nữa thì có kẽ hở, phiền não từ kẽ hở nổi lên; hỏi khít khít không có kẽ hở thì không có phiền não nổi lên, nên tâm mình được thanh tịnh. Tham được 5 phút thì 5 phút này không có phiền não, tham được 1 tiếng thì 1 tiếng này không có phiền não… chưa kiến tánh hiển bày cái dụng phần nào. Lúc tham là giữ được không biết nên không biết có phiền não. Vì vậy, chữ nghi có sức mạnh rất lớn, nhà khoa học cũng phải nhờ chữ nghi mới ngộ.
Nhưng cái nghi của nhà khoa học gọi là hồ nghi là qua bộ óc suy nghĩ tìm hiểu, chỉ phát minh các việc thế gian có giá trị của thế gian, không biết được chính mình. Tham thiền là chánh nghi không qua bộ óc suy nghĩ tìm hiểu, phát hiện chính mình làm chủ cho mình nên được tự do tự tại.
Bây giờ không biết mình là cái gì nên không làm chủ cho mình, mình không muốn già cũng phải già, không muốn bệnh cũng phải bệnh, không muốn chết cũng phải chết… Nếu kiến tánh triệt để là sanh tử tự do, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết, muốn lên thiên đường, muốn xuống địa ngục…

Hỏi:
Ngài Diên Thọ nói “không tu thiền mà tu Tịnh độ, một vạn người thì một vạn người về Tây phương thấy đức Phật A Di Đà được khai ngộ”. Xin Thầy giảng giải?

Đáp:
Có bài kệ nói:
Muôn người tuTịnh độ,
Thì muôn người thành tựu.
Tu thiền không Tịnh độ,
Mười người, chín người sai.
Tu thiền tu Tịnh độ,
Như con cọp thêm sừng.
Không thiền không Tịnh độ,
Phải chìm đắm muôn người.
Người tu Tịnh độ thường lấy bài kệ này cho là của ngài Vĩnh Minh để dẫn chứng. Sự thật, ngài Vĩnh Minh là tổ thứ 3 tông Pháp Nhãn của Thiền tông, đệ tử của ngài Vĩnh Minh có truyền đến Đại Hàn, bây giờ vẫn còn. Ở Trung Quốc, hiện nay chỉ còn tông Lâm Tế và tông Tào động; tông Pháp Nhãn đã thất truyền.
Ngài Hư Vân là người kiến tánh gần đây, ngài nói “tìm hết tất cả tác phẩm của ngài Vĩnh Minh không thấy bài kệ này”. Bài kệ này tự mâu thuẩn, Tại sao? Tu thiền mười người, chín người sai, mà tu Tịnh độ muôn người muôn người được. Muôn người muôn người được là tốt nhất, không sánh bằng. Tại sao còn đem thiền vô làm mất chín ngàn, chỉ còn lại một ngàn. Vậy, phải mâu thuẩn không? Chính bài kệ đã tự mâu thuần.
Sự thật, ngài Vĩnh Minh không có làm bài kệ này, vì ngài đã kiến tánh không thể làm bài kệ mâu thuẩn. Đó là người đời sau làm ra bài kệ này làm oan cho ngài Vĩnh Minh. Tông Tịnh độ sáng lập từ Trung Quốc, sơ tổ là Huệ Viễn đời nhà Tấn truyền đến Trung Hoa Dân Quốc, mấy chục năm trước tổ thứ 13 là Ấn Quang, ngài có tác phẩm Ấn Quang Văn Sao có dạy đường lối thực hành rõ ràng, nhưng những người dạy và tu Tịnh độ không biết.
Trong đó có ba thứ tin, hai thứ nguyện và hai thứ hành. Mình pháp môn nào phải đúng tông chỉ của pháp môn đó mới được thành tựu, nếu tu không đúng làm sao thành tựu? Cho nên, ngài Ấn Quang không cho người tu Tịnh độ coi các kinh khác, chỉ được coi 3 thứ kinh của Tịnh độ (kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà). Kinh A Di Đà phổ biến, nhiều chùa thường tụng; kinh Quán Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Thọ ít người biết, mà lại coi những sách thiền.
Tôi dạy Tổ sư thiền cho người ta hỏi tự do, nên tất cả tôi phải biết; nếu tôi không biết thì người ta khó tin. Tất cả ở trong bản tâm đều đầy đủ, không có cái nào thiếu sót. Những cái không có ở trong kinh, mặc dù tôi không có coi kinh nhiều, chỉ hoằng Thiền tông nhưng các tông phái khác, mà các vị hỏi tôi đều trả lời được; ngoài ra Mật tông tôi không thể nói, vì Mật tông là bí mật truyền thọ.
Như quý vị dùng cái tách này nhờ tôi giảng thiền thì tôi giảng thiền, nhờ tôi giảng Thiên thai thì tôi giảng Thiên thai, nhờ tôi giảng Hiền thủ thì tôi giảng Hiền thủ, nhờ tôi giảng Duy thức thì tôi giảng Duy thức, nhờ tôi giảng cái nào thì tôi giảng được. Vì ở nơi tự tánh mình sẵn có, không phải do học mới có, tất cả đều đầy đủ. Do tâm mình chấp thật (có sở trụ) nên không hiện ra cái dụng. Bản tâm mình là vô sở trụ, có hoạt bát vạn năng.
Như cái tay dụ cho tự tánh hoạt bát vạn năng lấy cái máy, cái tách, cái dĩa… đều được. Nếu có sở trụ, như cái tay trụ cái tách thì dụng bị đánh mất, không còn hoạt bát vạn năng, nên lấy cái gì cũng không được. Tay cần buông cái tách thì khôi phục hoạt bát vạn năng, nên lấy cái nào cũng được.
Cái tách này là pháp có, nhưng tay tự làm nắm tay, trong tay không có thứ gì; nhưng cái dụng cũng bị mất, nên lấy cái gì cũng không được. Cho nên cái không này cũng phải quét thì tay được hoạt bát vạn năng. Được hoạt bát vạn năng là do vô sở trụ, khi Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” liền ngộ triệt để.
Ưng vô sở trụ là bản thể, sanh kỳ tâm là cái dụng; bản thể không có sở trụ nên dụng hoạt bát vạn năng, nếu có sở trụ thì bị mắc kẹt. Mặc dù trụ có cũng bị mắc kẹt, trụ không cũng bị mắc kẹt; bất cứ trụ Bồ tát hay trụ Phật cũng đều bị mắc kẹt. Vì vậy, Pháp Bảo Đàn nói “lấy vô trụ làm gốc”, kinh Duy Cật nói “từ gốc vô trụ lập tất cả pháp”. Chư Phật chư Tổ đều phá chấp thật của mình, vì chấp thật là có sở trụ làm mất cái dụng.
Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý” là quét lục căn; “vô sắc, thinh, vị, xúc, pháp” là quét lục trần; “vô nhãn thức cho đến ý thức giới” là quét lục thức; “vô khổ, tập, diệt, đạo” là Tứ Diệu Đế; “vô vô minh diệc vô vô minh tận, cho đến vô lão tử diệc vô lão tử tận” là quét Thập Nhị Nhân Duyên; “vô trí diệc vô đắc” là quét trí huệ của Bồ tát; “xa lìa điên đảo cứu kính Niết bàn” là quét luôn cứu kính Niết bàn.
Tất cả quét sạch mới được thành tựu Bồ đề (thành Phật), có cái dụng vô lượng vô biên. Mình theo đó thực hành, quét từ tri kiến phàm phu, tri kiến Tiểu thừa, tri kiến Đại thừa và tri kiến Phật thì chính thức thành Phật.

Hỏi:
Đức Phật A Di Đà nói “nhược hữu chúng sanh dục sanh ngã quốc, chí tâm tín nhạo nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả bất thủ chánh giác”. Xin Thầy giải thích?

Đáp:
Lúc gần lâm chung có mười câu niệm Phật được vãng sanh Tây phương, nhưng phải tu đúng tông chỉ Tịnh độ; tức là phải phát đại nguyện, thực hành đại nguyện của mình phát. Nếu theo đúng tông chỉ, khỏi cần mười niệm mà chỉ một niệm cũng được vãng sanh.
Trái lại, không đúng tông chỉ, dù có một trăm ngàn niệm cũng không được vãng sanh. Cho nên cần nhất là thực hành đại nguyện. Kinh Di Đà nói “đã phát nguyện thì đã vãng sanh, đương phát nguyện thì đương vãng sanh, sau này phát nguyện thì sau này vãng sanh” là chú trọng cái nguyện. Quyết định được vãng sanh là do cái nguyện.
Nguyện gồm có hai thứ: tiểu nguyện và đại nguyện.
Nếu phát tiểu nguyện là chỉ cầu cho một mình được vãng sanh thì trái với nhân quả, nên không được vãng sanh. Tại sao? Vì vãng sanh là không thể chết nữa, tiếp tục tu đến thành Phật. Bởi vãng sanh ở cõi Cực Lạc nghe gió thổi chim kêu đều làm cho mình thích tu, như mình ở đây ham tiền vậy, tự nhiên rồi sẽ thành Phật. Vãng sanh là không chết, làm sao đi đầu thai để trả nợ?
Từ nhỏ đến lớn, tự xét mình có giết một con kiến không? Có ăn cá ăn tôm không? Có ăn thịt heo thịt gà không? Nếu có phải đầu thai để trả nợ trước, chứ đâu được vãng sanh. Bởi vì theo nhân quả thì nhân nào quả nấy, như kinh Pháp Hoa nói “như thị nhân như thị quả”. Nếu chỉ cầu cho mình vãng sanh là không trả nợ sao? Phải đầu thai để trả nợ trước chứ! Như vậy tiểu nguyện không thể vãng sanh, phải phát đại nguyện.
Đại nguyện là hồi hướng, mà bây giờ nhiều người hiểu lầm hai chữ hồi hướng; hai chữ hồi hướng theo Giáo môn là phá ngã chấp. Giáo môn có Thập hồi hướng, qua Thập hồi hướng lên Sơ địa (phá hết ngã chấp lên Bồ tát Sơ địa).
Người ta lấy hồi hướng để tăng cường ngã chấp. Tại sao? Vì nói là cái này công đức của tôi, tôi thương người này, tôi hồi hướng cho người này; tôi thương người kia, tôi hồi hướng cho người kia; lấy tôi làm chủ muốn cho người nào cũng được. Đó là ngã.
Hồi hướng là tất cả công đức của tôi, làm tất cả phước thiện, cúng dường Tam bảo đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh, tôi chỉ là một trong chúng sanh. Cho nên, phát đại nguyện không phải một mình tôi được vãng sanh, mà tất cả chúng sanh đều được vãng sanh; tất cả chủ nợ mạng, chủ nợ thịt đều cùng với tôi được vãng sanh, không sót một chúng sanh nào mới là đại nguyện.
Phát đại nguyện thì đối với chúng sanh bình đẳng, nếu mình đã vãng sanh rồi tu thành Phật trở lại độ những người chưa vãng sanh. Phát đại nguyện phải thực hành đại nguyện của mình phát.
Tôi đã hoằng Tịnh độ mười mấy năm, gặp nhiều người tu Tịnh độ không coi chúng sanh bình đẳng. Đừng nói đối với thú vật, mà đối với con người cũng không bình đẳng. Vậy đối với con chó, con mèo, con chuột, con kiến, con muỗi… làm sao bình đẳng? Vì muỗi chích tôi nên tôi phải đập nó, con chó dơ dấy gần tôi nên tôi phải đá cho nó đi. Nếu đối với chúng sanh không bình đẳng thì nghịch với đại nguyện mình phát. Như vậy là nguyện suông nguyện giả, làm sao vãng sanh? Cho nên chỗ này rất khó.
Trương mục trong ngân hàng của mình không có tiền, nhưng mình thiếu nợ người ta; mình ký biên nhận cho người ta là năm mười sau mới trả, mỗi ngày có bao tiền nạp vô ngân hàng. Người ta đem biên nhận đến ngân hàng mới lãnh được tiền. Trong ngân hàng không có tiền, sau này người ta đến ngân hàng lấy tiền không có thì mình phải bị bắt ở tù.
Mình không thực hành đại nguyện của mình phát là có tội, không có đức làm sao được vãng sanh! Cho nên phát đại nguyện và thực hành đại nguyện của mình phát (mỗi ngày nạp tiền vô ngân hàng, mình ký biên nhận mới có giá trị). Người ta cho ăn chay, niệm Phật, tụng kinh gõ mõ là Tịnh độ. Kỳ thật không phải Tịnh độ, phải đúng theo tông chỉ Tịnh độ là Tín, Nguyện, Hành.

Hỏi:
Khi còn ở Việt Nam, con tha thiết cầu nguyện Phật cho các con và con đi ra nước ngoài sinh sống. Đã đến lúc con không còn tin gì nữa, bổng một đêm trong giấc ngủ có một tiếng nói văng vẳng, nói với con rằng “con sẽ được ý nguyện”. Cho dù đã mười năm qua, con thắc mắc nguyện vọng của con đã được chư Bồ tát nghe đến hoặc chỉ là tưởng tượng?

Đáp:
Tất cả nguyện thiện hay nguyện ác đều được thỏa mãn. Trong kinh Phật nói, hồi trước Phật Thích Ca theo ngoại đạo 6 năm tu chứng quả ngoại đạo, biết là sai liền bỏ. Uất Đầu Lam Phất chứng quả cõi trời cao nhất là phi tưởng phi phi tưởng, thọ mạng được 8 muôn đại kiếp (1 đại kiếp = 4 trung kiếp, 1 trung kiếp = 20 tiểu kiếp, 1 tiểu kiếp = 16 triệu năm). Phật Thích Ca thành Phật muốn đi đến người đó liền, nhưng trể một ngày, vì người đó đã sanh vào phi tưởng phi phi tưởng.
Uất Đầu Lam Phất tu ở gần sông, cá lội làm cho ông phát giận, ở trong rừng chim kêu làm cho nổi sân; lúc đang giận, ông chỉ nổi lên một niệm “sau này tôi sẽ làm chồn bay vô rừng ăn chim, vào nước ăn cá”. Qua một niệm ấy thì ông quên. Hết 8 muôn đại kiếp của cõi trời phi tưởng phi phi tưởng, ông phải đầu thai làm con chồn bay để thỏa mãn cái nguyện đó. Đó là ác nguyện cũng được thỏa mãn.
Phật nói trong kinh Hoa Nghiêm “tất cả do tâm tạo”, tâm mình tạo là nhân, có nhân phải có quả. Mình khởi tâm động niệm, mặc dù chưa đi làm nhưng đã có nhân rồi.
Những người có tiền mới đi vượt biên được, nhưng người có tiền không sợ chết đói. Vì kiếp trước đã tạo nhân chết đói, kiếp này mặc dù có tiền nhưng cũng phải bị chết đói, Bởi nhân quả không thể trừ với nhau, tạo nhân thiện được quả phước, tạo nhân ác phải chịu quả khổ. Họ tạo nhân ác làm cho người chết đói, kiếp này có tiền vượt biên ở ngoài biển hết lương thực phải chịu chết đói.
Theo nhân quả có thể sửa lại, vì tất cả do tâm tạo. Như thiếu nợ, người chủ nợ có thế lực mạnh phải trả trước, chủ nợ yếu rồi trả sau. Nhân quả cũng vậy, nhân mạnh thì quả đến trước, nhân yếu thì quả đến sau.
Thí dụ người không có tu là tâm lực một độ, người tu thành Phật là tâm lực một triệu độ (sự thật vô lượng vô biên, không phải một triệu độ). Mình đã cho người ta bị chết đói là tâm lực một độ, kiếp này cũng là một độ thì phải chịu cái quả chết đói. Nếu mình có tham thiền thì tâm lực từ một độ lên đến mười độ tuy mới tạo nhân, nhưng quả phải đến trước, vì nhân mạnh hơn. Nhân một độ làm cho người ta chết đói thì yếu, nên cái quả chậm lại sau.
Nếu tham thiền được mười độ, rồi không tham thiền nữa, quả của mười độ đến hết rồi tới chín độ, chín độ hết thì tới quả tám độ…rồi một độ cũng phải đến. Được mười độ, không ngưng tham thiền, tham tới một triệu độ thành Phật. Nhưng nhân một độ làm cho người ta chết đói chưa tiêu được, nên phải trở lại độ người đó. Những người mình đã tạo chết đói thì được ưu tiên độ trước, đó là tự nhiên như vậy. Độ họ hết khổ được tự do thì nhân làm cho chết đói mới được tiêu.

Hỏi:
Con thường nghe nói bây giờ là thời mạt pháp, chỉ có Tịnh độ là thích hợp với căn cơ mọi người; vì Tịnh độ vừa tự lực vừa tha lực. Người tu pháp môn này, ngoài vấn đề niệm Phật cầu vãng sanh còn phải tu thập thiện, giữ thân khẩu ý cho trong sạch, có hiếu với cha mẹ như Phật nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ.
Như vậy, khi quá vãng mới sanh về Cực Lạc, do đó con nhận định rằng vẫn không ra ngoài nhân quả. Nhưng có một điều con còn thắc mắc có một cõi Cực Lạc nào đó không hay chỉ là phương tiện, do đức Phật chỉ dạy chúng sanh như trong kinh Pháp Hoa, phẩm Hóa Thành Dụ chỉ là hóa thành?

Đáp:
“Tất cả do tâm tạo” thì tất cả đều là hóa thành, cho đến Cực Lạc cũng vậy, chỉ là tâm tạo thôi. Cõi Cực Lạc do tất cả người tu Tịnh độ vọng tạo. Bây giờ, mình được thân này giàu sang hay nghèo khổ là biệt nghiệp của mình tự tạo, tất cả đều không ngoài tâm. Kinh Lăng Nghiêm nói “nhiếp cả lục căn, tịnh niệm tương tục”, câu này bao gồm hết thảy.
Làm sao nhiếp cả lục căn? Con mắt không phân biệt xấu đẹp thì nhiếp được nhãn căn, lỗ tai không phân biệt khen chê thì nhiếp được nhĩ căn, cái lưỡi không phân biệt vị ngon hay dỡ thì nhiếp được thiệt căn… tất cả lục căn đều không phân biệt, đúng lời Phật nói là “vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý” ở trong kinh Bát Nhã Tâm Kinh vậy.
Nhưng bây giờ người tu Tịnh độ có được nhiếp lục căn không? Tôi hoằng Tịnh độ mười mấy năm, chưa có gặp một người nào thực hành được. Nhiếp được lục căn rồi thì niệm mới trong sạch (tịnh niệm), mà tịnh niệm liên tiếp khắp thời gian không có gián đoạn, gọi là tịnh niệm tương tục thì mới được vãng sanh; chứ đâu phải dễ!
Vì không hiểu nghĩa trong kinh nói, cứ nói nhờ tự lực nhờ tha lực. Nhưng phải làm sao đúng lời dạy trong kinh Phật mới được. Mình phân biệt xấu đẹp rõ ràng, người ta chê thì mình đã giận, người ta khen ngợi thì mình mừng, vậy đâu có nhiếp được! Nếu không nhiếp được, làm sao đi đúng lời kinh để được vãng sanh!

Hỏi:
Thầy đã giảng kỳ trước, niệm Phật hay trì chú chỉ có tác dụng đè nén vọng tưởng; nhưng con nghĩ mục đích niệm Phật để một lòng không tán loạn, đạt được nhứt tâm bất loạn, con nghĩ đó là tâm bất nhị của Phật tánh. Sự nhận xét của con có đúng không? Xin Thầy phân biệt rõ tác dụng đè nén vọng tưởng của niệm Phật và không đè nén vọng tưởng của tham thoại đầu?

Đáp:
Ai cũng biết do vô minh mới thành chúng sanh. Tại sao gọi là vô minh? Vô minh có hai thứ:
Vô thỉ vô minh (căn bản vô minh) là không có sự bắt đầu. Vô thỉ vô minh đó cảnh giới thế nào? Là một niệm chưa sanh cũng là thoại đầu của người tham thiền. Tham thiền là muốn phá vô thỉ vô minh mới được kiến tánh, cho nên đến thoại đầu phải tiến thêm một bước nữa, tan rã vô thỉ vô minh thì giây phút đó được kiến tánh.
Còn nổi lên một niệm rồi gọi là nhứt niệm vô minh, cuộc sống hàng ngày như: mừng, giận, buồn, vui… đều là hóa thân nhứt niệm vô minh. Trong Đại Thừa Tuyệt Đối Luận, ngài Nguyệt Khê giảng rất rõ về nhứt niệm vô minh. Mình gặp chuyện vui mà cho vui là nhứt niệm vô minh, gặp chuyện buồn cho buồn là nhứt niệm vô minh, gặp chuyện giận cho giận là nhứt niệm vô minh; tức là tâm trạng mình biến đổi mức nào cũng là ở trong nhứt niệm vô minh, đã nổi một niệm thì niệm thứ hai thứ ba cứ tiếp tục hoài, nên gọi là nhứt niệm vô minh.
Vô minh là không sáng, tức tự mình không làm chủ được, mà theo dục vọng mình để thỏa mãn tạo ra đủ thứ nghiệp, phải chịu nghiệp thọ ác báo. Theo nhân quả, tạo nhân lành được phước báo, tạo nhân ác phải chịu khổ báo.
Kinh Hoa Nghiêm nói “tâm mình như một họa sĩ rất hay”, họa thiên đường thì mình thấy vui, họa địa ngục thì mình thấy sợ; nếu mình không họa thì bình an vô sự. Vì do tâm mình muốn họa cái này cái kia là nhứt niệm vô minh, có muốn ngưng cũng không ngưng được.
Nói dùng niệm Phật để ngưng, nhưng niệm Phật cũng là nhứt niệm vô minh. Niệm đến nhứt tâm bất loạn là trở về vô thỉ vô minh thì cũng còn ở trong vô minh, chưa phá được vô minh thì không giải thoát. Uất Đầu Lam Phất sanh cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, sắc thân không có, tất cả tập khí phiền não không có, ông nhập định 8 muôn đại kiếp, không có một chút vọng tưởng, mà người niệm Phật không có được vậy! Nhưng rồi ông mãn hết 8 muôn đại kiếp cũng đầu thai con chồn bay, không được giải thoát.
Niệm Phật không đúng tông chỉ Tịnh độ, làm thập thiện sanh cõi người hưởng vinh hoa phú quý hay sanh cõi trời hưởng thú vui; nhưng hưởng hết rồi cũng phải đọa xuống chịu khổ báo, vì không đúng tông chỉ Tịnh độ thì không vãng sanh cõi Cực Lạc. Bởi làm phước hưởng phước, làm ác cũng phải chịu quả ác vậy!
Làm phước được phát tài mới có tiền đi vượt biên, nhưng làm ác cho người ta chết đói cũng phải chịu quả chết đói; chứ không có thiện và ác trừ với nhau được, vì không ra ngoài chiêm bao; chưa phá được vô thỉ vô minh, phá vô thỉ vô minh là ra ngoài chiêm bao, không bị chiêm bao trói buộc.
Câu hỏi vừa rồi từ nhứt niệm vô minh đến vô thỉ vô minh, vô thỉ vô minh bị kích thích thì sanh nhứt niệm vô minh, đó là còn trong luân hồi.

Hỏi:
Trong Thiền Thất Khai Thị Lục, ngài Lai Quả nói rằng “suốt ngày nổi vọng tưởng bên này, rồi nổi vọng tưởng bên kia, vui vẻ, giận hờn, tất cả phiền não vô minh, gieo những thứ nhân như vậy thì sanh tử có lúc nào dứt không? Niệm Phật có thể dứt được không?” Ngài trả lời: Ta nói có thể được, nhưng niệm Phật chỉ có thể thu tất cả niệm, câu thoại đầu có thể rời tất cả niệm. Kính xin Thiền sư giảng rõ sự khác biệt giữa niệm Phật và câu thoại đầu, thế nào là thu tất cả niệm và thế nào rời tất cả niệm?

Đáp:
Niệm Phật đến nhứt tâm bất loạn là thu tất cả niệm thành một niệm, thành một niệm là nhứt niệm vô minh, chưa tới vô thỉ vô minh; dù đến vô thỉ vô minh, như Uất Đầu Lam Phất cũng còn đọa xuống làm con chồn bay.
Hỏi câu thoại đầu khởi lên nghi tình, nghi tình là cây chổi automatic thì niệm gì cũng quét, cái quét này tự động chứ không có nổi niệm muốn quét. Tại sao? Vì nghi tình là không biết, không biết thì nhứt niệm cũng không biết, nhứt niệm không biết thì đâu có còn niệm gì nữa; tức là quét sạch cái niệm rồi, luôn cả vô minh không biết thì quét luôn cả vô minh. Nhưng cuối cùng cũng phải tới vô thỉ vô minh (thoại đầu), từ thoại đầu (đầu sào trăm thước) tiến lên một bước là kiến tánh.
Niệm Phật gom tất niệm thành một niệm, còn tham thiền bất cứ niệm gì cũng quét, vì nghĩa là vô sở trụ, niệm không cũng quét, niệm có cũng quét, chẳng có chẳng không cũng quét, cũng có cũng không cũng quét. Tại không biết làm sao có biết niệm nào! Có biết là có niệm rồi, không biết thì không có niệm nào hết; không có năng niệm, không có sở niệm, không có tất cả đối đãi thì lìa tất cả niệm. Kỳ thật, niệm Phật và tham câu thoại đầu nghịch với nhau.

Hỏi:
Cầu siêu cho người chết, nếu người tụng kinh A Di Đà với tấm lòng thành thì tâm lực mạnh mẽ chuyển tâm thức người chết được chư Phật tiếp dẫn về cõi Tịnh độ hoặc đi đầu thai đến cảnh giới an lành. Nếu người chết đã đi đầu thai ở các cõi khác, nhờ cầu siêu mà hưởng được nhiều phước báo ở cõi ấy. Như vậy việc cầu siêu, cầu an, cầu phước có phù hợp với chánh pháp không?

Đáp:
Chuyện cầu siêu phải nói thân trung ấm, tôi kể thân trung ấm phát sanh ở Đài Loan: Thường người ta quan niệm người chết biến thành quỷ, nhưng sự thật không phải vậy.
Chết rồi tùy theo nghiệp mà đi đầu thai, nếu tạo nghiệp trời nhiều sanh cõi trời, tạo nghiệp người sanh cõi người, tạo nghiệp súc sanh sanh cõi súc sanh, tạo nghiệp quỷ sanh cõi ngạ quỷ, tạo nghiệp địa ngục đọa xuống địa ngục. Thường thường giờ phút chết là giờ phút sanh, ít có thân trung ấm; nếu người đó làm thiện và làm ác bằng nhau thì không sanh thiện đạo hay ác đạo mới có thân trung ấm.
Tại sao gọi là thân trung ấm? Ấm là ngũ uẩn (thân này), thân ngũ ấm trước đã chết rồi, thân sau chưa sanh, ở trước và sau có chính giữa gọi là thân trung ấm, tức là cái trước đã mất, cái sau chưa sanh, ở giữa trước và sau gọi là trung, có thân trung ấm. Thân trung ấm bảy ngày thay đổi một lần, nếu lúc đó tâm của người đó nghiên về thiện một chút thì sanh về tam thiện đạo, nghiên về ác một chút thì sanh tam ác đạo.
Có Ung Bá Huy từ đại lục Trung Quốc sang Đài Loan, lúc đó ông được 40 tuổi. Đến Đài Loan quy y Pháp sư Nam Đình. Vì muốn người ta tin luân hồi, nên nói người nghe pháp: Tôi có một đệ tử biết kiếp trước đầu thai một con heo, bây giờ ra vô trong chùa mà các vị cũng có thể gặp, nhưng tôi không thể nói ra tên ông đó.
Những người nghe pháp không biết ai đầu thai con heo! Có một hôm trong chùa ăn cơm, có một tay dùng túi bao lại của một ông, một tay bới cơm khó khăn, người bên cạnh thấy vậy muốn bới giùm, mà ông không chịu, hai người giựt qua lại làm túi sút ra, người bên cạnh thấy giò heo, khúc trên là tay người, khúc dưới là chân trước con heo. Ông ấy nhanh tay bao túi lại và nói với người bên cạnh không được nói.
Đến chừng người ta đi hết, đến một chỗ vắng, người bên cạnh hỏi: Có phải Pháp sư Nam Đình nói người đầu thai con heo là ông phải không?
Ung Bá Huy không chịu nói.
Người ấy nói: nếu ông không nói mà tôi cũng biết vậy! Nói cho tôi biết thì không nói với người khác.
Ung Bá Huy kể:
“Tôi biết hai kiếp trước, kiếp đầu tiên tôi dạy học ở thôn quê, lúc tôi chết nhưng không biết chết, đi lang thang ngoài đường thấy trong thân nhẹ nhàng (lúc đó là thân trung ấm, nhưng ông không biết). Một ngày đó đi ngang nhà lớn gặp gió bấc thổi lạnh quá, chịu không nổi thấy trong nhà mở cửa mà không có ai, nên tôi vô trong nhà để tránh gió bấc. Nhưng ở trong nhà cũng còn lạnh, thấy trên vách tường treo mười mấy áo lớn, lạnh quá chịu không nổi nên phải lấy một cái áo mặt vô thấy ấm, ngủ hồi nào không hay, khi thức dậy thấy bên cạnh mình có con heo mẹ và các con heo nhỏ. Lúc ấy biết mình đã thành con heo nhỏ, nghĩ trong bụng nếu heo lớn lên thì người ta làm thịt, bây giờ phải làm sao? Tính tự tử nên không ăn. Người chủ tưởng là bệnh, rồi đem thuốc trộn với sữa cho ăn nhưng heo không chịu.
Qua 7 ngày heo chết thì khôi phục thân trung ấm, thân trung ấm cũng đi lang thang ngoài đường, gặp gió bấc lạnh, đi ngang nhà đó và vô trong nhà cũng thấy mười mấy cái áo lớn, tay muốn lấy một cái áo để mặc, tay vừa đụng áo thì rút tay lại và nói “kỳ trước lấy áo đã đầu thai thành con heo, sao bây giờ còn lấy! Chẳng thà bị lạnh chết”, lạnh đến chịu không nổi rồi bị chết giấc. Đến chừng tỉnh lại nghe người ta nói là sanh con trai (Ung Bá Huy). Cái tay đụng vô cái áo thành chân heo. Mẹ tôi may túi vải bao tay lại lúc tôi còn nhỏ để không cho người ta biết”.
Ung Bá Huy sống được 62 tuổi, bệnh rồi chết tại bệnh viện Diêm Vương, Đài Bắc. Sau khi ông chết, người hỏi ông mới viết sự thật ra đăng lên Phật San, tôi coi mới biết. Ăn cắp là ác nên phải đầu thai con heo, không ăn cắp là thiện nên sanh con người. Tùy theo tạo nghiệp gì thì sanh cõi đó.
Cầu siêu phải làm ảnh hưởng người chết, để tâm lực người đó sửa lại mới được. Cho nên, người chết, cha mẹ hay anh em người đó sát sanh để cúng làm ảnh hưởng người chết nổi lên ác niệm, nên người chết có hại chứ không có lợi ích. Nếu có người chết thì cả gia đình ăn chay, biết tham thiền nên trước linh cửu tham thiền, biết niệm Phật thì trước linh cửu niệm Phật, người chết được ảnh hưởng tốt sanh vào ba đường thiện.

#14 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 08/08/2011 - 09:05

Hỏi:
Thiền có lợi ích cho con người thế nào?
Đáp:
Có đủ thứ thiền, nhưng tôi hoằng Tổ sư thiền là pháp thiền trực tiếp do Phật Thích Ca đích thân truyền. Thiền này rất lợi ích, như tham thiền được 5 phút thì 5 phút này không có phiền não, tham được một ngày thì một ngày không có phiền não, tham được một tháng thì một tháng này không có phiền não, vừa làm là có lợi ích liền. Còn các thiền kia là tọa thiền có rất nhiều nên tôi không thể nói ra được, người tu Phật pháp phải tu đúng tông chỉ của tông phái đó.
Như tông Thiên thai có chỉ quán thiền, tông Duy thức có Duy thức quán thiền, tông Hiền thủ có Pháp giới quán thiền, mỗi tông phái đều có thiền riêng của tông phái đó. Tông Tịnh độ cũng có 16 pháp thiền quán. Nếu tu không đúng theo tông chỉ thì có hại.
Tông chỉ của Tổ sư thiền là có chín chữ “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”. Đúng tông chỉ thì không có thiền bệnh, không bị tẩu hỏa nhập ma. Ma nhập được là do có sở cầu, có sở đắc, có sở sợ; thực hành được chín chữ này nên không thể nhập ma.

Hỏi:
Tánh tình nóng nảy hay lo lắng mà học thiền có thể bớt không?

Đáp:
Những người thích xem hát, tham Tổ sư thiền một thời gian không thích đi xem hát nữa; có người ham mặc đồ đẹp, tham thiền một thời gian không ham mặc đồ đẹp nữa; có người ưa ăn uống, tham thiền một thời gian không ưa ăn uống nữa. Tại sao? Vì nghi tình là không biết, cứ tối ngày giữ không biết hoài thì sự ham thích tự nhiên không còn.
Cái nóng nảy cũng vậy, nếu không biết làm sao biết nóng nảy! Người ta chửi mắng, đánh đập mình, mình nhẫn nhục được nhưng trong tâm thấy rất khó chịu. Tham Tổ sư thiền thì người ta có chửi mắng mình cũng không biết, không thấy khó chịu; ở trong tâm không có nhẫn nhục, đó mới là chân thực nhẫn nhục.

Hỏi:
Con nghe nói người hay lo lắng suy nghĩ nhiều mà tu thiền có thể bị tẩu hỏa nhập ma phải không?

Đáp:
Chính tẩu hỏa nhập ma là do lo lắng suy nghĩ, còn Tổ sư thiền là không cho bộ óc suy nghĩ. Nếu có suy nghĩ không phải tham thiền, không cho bộ óc lo lắng, lo lắng và suy nghĩ là biết. Tham thiền không suy nghĩ, không cho tìm hiểu câu thoại đầu; học thiền học đạo cũng không cho. Tại sao tham thiền mà không cho học thiền học đạo? Vì tham thiền đã có thiền có đạo rồi, nếu còn học thiền học đạo thì ở trong Thiền tông gọi là đầu thượng an đầu (trên đầu mọc thêm đầu).
Mình đã có một cái đầu đủ dùng rồi, nếu mọc thêm một cái đầu nữa làm cho cái đầu này khó chịu, phải mời bác sĩ cắt bỏ mới được, không cắt bỏ thì rất cực khổ. Tìm hiểu thiền tìm hiểu đạo còn không cho, huống là cái khác mà lo lắng gì nữa!

Hỏi:
Chúng con là kẻ sơ cơ tham câu thoại thấy nhạt nhẽo vô vị quá, làm sao câu đó giúp con đạt đến kiến tánh được?

Đáp:
Tổ thứ 18 của tông Lâm Tế là Thiền sư Trung Phong dạy mình phải thống thiết sanh tử, hôm nay mình sống đây, không biết ngày mai còn sống không! Như tôi năm nay 68 tuổi, rồi 10 năm sau 78 tuổi, 10 năm sau nữa là 88 tuổi, 10 năm sau nữa 98 tuổi, 10 năm nữa 108 tuổi, cứ suy nghĩ hoài tới chừng đó làm sao? Nếu trước khi chết, mình không giải quyết vấn đề sanh tử, không biết chết rồi sẽ ra sao?
Trước khi chết, phải giải quyết, phải thống thiết vấn đề sanh tử của mình. Dẩu cho mình ở ngoài thế gian có sự nghiệp bằng vua, thế lực cũng mạnh, tiền tài cũng nhiều hơn cả nước; nhưng kết cuộc bi thảm là phải già phải bệnh phải chết. Nếu giải quyết sanh tử không được thì cái khổ vẫn tiếp tục mãi mãi.
Cho nên, tham thiền không được nhờ hứng thú, nếu nhờ hứng thú để tham thiền thì hết hứng thú lại bỏ tham. Ngài Hư Vân nói “năm đầu là sơ tham, năm thứ nhì là lão tham, năm thứ ba hết hứng thú thì hết tham”. Nếu sanh tử được giải quyết thì sanh tử tự do, không tham nữa. Chưa giải quyết sanh tử nên phải tiếp tục tham. Vì vậy, mình phải thống thiết sanh tử, chứ đừng nhờ hứng thú để tham.

Hỏi:
Khi ngồi thiền, tâm hay bị phân tán thì có cách gì tâm khỏi bị phân tán?

Đáp:
Tâm phân tán là có muốn đắc, có muốn cầu, có sở sợ. Nếu thực hành được 9 chữ “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”, tự nhiên tâm không bị phân tán. Lại chính nghi tình là không biết, không biết làm sao phân tán, biết mới phân tán.
Nghi tình là do Phật Thích Ca truyền rất hay, chỉ giữ một chữ nghi thì được thành tựu tất cả. Khi đã không biết nên tất cả đều được giải quyết. Giới định huệ, lục độ vạn hạnh cho đến công thương kỹ nghệ ở xã hội, niệm Phật, trì chú, sám hối cũng gồm trong đó, chứ không có ở ngoài.

Hỏi:
Tối thiểu ngồi thiền là bao nhiêu lâu?

Đáp:
Tham thiền không phải ngồi thiền, ngồi thiền không phải tham thiền; tham thiền không cần ngồi, Lục Tổ nói “Đạo do tâm ngộ bất tại tọa”, ngộ là do tâm, chứ không phải do thân. Thân này sau khi chết, đi thiêu thành tro, chôn thành đất; còn tâm mình không thể biến thành tro, biến thành đất, vĩnh viễn tồn tại, cho nên mới cần tu, tu cái tâm này; tâm này ngộ thì tất cả khổ đều được giải thoát, tự do tự tự tại, tự làm chủ tâm mình.
Bộ óc làm chủ thì có ngã chấp, tranh giành trong xã hội, chửi mắng, xung đột sanh ra đổ máu. Nếu phát hiện được Phật tánh của mình thì Phật tánh làm chủ, bộ óc làm đầy tớ. Phật tánh làm chủ thông qua bộ óc để dùng ra, nên ngã chấp không còn. Vì vậy tất cả đều được giải quyết. Như tất cả đèn đều chung một ánh sáng, tất cả chúng sanh đều chung một hạnh phúc, không có ta với người làm tương đối để tranh giành với nhau.

Hỏi:
Kính xin Thầy giải thích phân biệt giữa nghi tình của một Thiền sư và nghi tình của một nhà khoa học? Sự ngộ của một Thiền sư và sự khám phá ra của nhà khoa học?

Đáp:
Trong Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền, tôi đề ra ông Newton thấy trái bôm trên cây rớt xuống, ông khởi lên nghi tình “tại sao trái bôm rớt xuống đất, mà không rơi lên trời?” Do nghi tình này, ông nghiên cứu tìm hiểu, phát minh được định luật hấp dẫn lực vạn hữu, đó là hồ nghi, nhà khoa học nghi việc thế gian chỉ phát minh những đồ vật của thế gian, có giá trị thế gian; nhưng không phát minh được chính mình, nên không làm chủ cho mình, không được giải thoát khổ.
Nghi của tham thiền là chánh nghi, không cho bộ óc suy nghĩ, tìm hiểu, nghiên cứu; để cho tự ngộ, tức phát hiện chính mình là Phật tánh. Biết được chính mình mới tự làm chủ, tự do tự tại, giải thoát tất cả khổ.
Cho nên, danh từ nghi thì giống, nhưng sự thực khác. Cái nghi của nhà khoa học là hồ nghi, phải bộ óc suy nghĩ nghiên cứu. Còn cái nghi của Thiền tông không cho bộ óc nghiên cứu, tìm hiểu; chỉ là nuôi cái nghi cho thật mạnh, (giống như bôm bong bóng đến bong bóng căng rồi sẽ nổ) đến lúc nghi tình vỡ gọi là kiến tánh thành Phật.
Mặc dù, cuối cùng ngộ, nhưng hai thứ ngộ có khác. Cái ngộ của nhà khoa học là ngộ pháp thế gian, cái ngộ của Thiền tông là ngộ tâm chính mình cùng khắp không gian thời gian, thần thông trí huệ vô lượng vô biên bằng như Phật, cho nên được tự do tự tại, dứt hết tất cả khổ vĩnh viễn, muôn ngàn kiếp sau cái khổ không thể trở lại.

Hỏi:
Câu kết của kinh Bát Nhã, đức Bồ tát có dạy “ga tê, ga tê, ba ra ga tê, ba ra ga tê, bo di sa va ha”. Câu chú này có phải là một công án không?

Đáp:
Thần chú là muốn cho mình không biết, nhưng không có nghi tình, vì không có dấu hỏi. Còn nghi tình của Thiền tông là không biết nhưng có dấu hỏi, có hỏi thì phải có đáp, mình đáp không ra thấy tức lắm thì phải tiếp tục hỏi nữa, hỏi đến một ngày đáp ra được là kiến tánh. Thần chú không có dấu hỏi, thành ra khác xa với tham công án hay tham thoại đầu.
Công án là một chuyện tích, như tham công án chữ vô của Triệu Châu, chữ vô không có dấu hỏi, dưới đây là công án:
Tăng hỏi Triệu Châu: con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: có.
Tăng khác hỏi: con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: không.
Tại sao một người trả lời có, một người trả lời không? Thì đã có dấu hỏi rồi. Lại kinh Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tại sao Triệu Châu nói không? Vì con chó cũng là chúng sanh vậy. Tại sao con chó không có Phật tánh? Cũng là dấu hỏi. Tham công án thì cả chuyện tích, chứ không phải khán chữ vô. Nếu chữ vô thì không có dấu hỏi, làm sao gọi là nghi tình? Nghi tình phải có dấu hỏi.
Niệm chú chỉ là để cho mình không biết, nếu dịch ra thì thần chú không còn nữa. Thần chú không thể dịch được. Thần chú là thay mặt cho mệnh lệnh, thay mặt cho sự dụng của tâm; cho nên kinh Lăng Nghiêm gọi là tâm chú, tôi dịch kinh Lăng Nghiêm có lược giải tâm chú này.

Hỏi:
Con có thể hiểu câu chú này như là “thả buông, thả buông, con hãy thả buông, mau con hãy thả buông, bồ đề hiện nơi con” không?

Đáp:
Nếu dịch chú ra nghĩa thành kinh, không phải là chú; chú là không cho mình hiểu nghĩa, mới có tác dụng cho mình không biết. Cho nên chú không có dịch nghĩa, như trên đã dịch ra là phá hoại tác dụng của chú.

Hỏi:
Tham Tổ sư thiền chưa đắc thì đã chết, tâm và thân đời sau sẽ ra sao? Nếu như không có duyên gặp lại Phật pháp để tu theo pháp tham thiền Tổ sư rồi mình sẽ như thế nào? Còn Tịnh độ tông ít ra mình cũng có một chỗ đỡ khổ để tu tiếp, có phải dễ không?

Đáp:
Kinh Pháp Hoa nói “như thị nhân như thị quả” (nhân nào quả nấy), mình đã gieo chánh nhân thì được chánh quả. Tại sao gọi là chánh nhân? Vì pháp Tổ sư thiền do Phật Thích Ca thân truyền là chánh nhân. Ở Việt Nam có người hỏi “hôm nay tôi tu Tổ sư thiền, rồi ngày mai chết sẽ ra sao?” Mặc dù chỉ tu có một ngày, nhưng chánh nhân đã gieo thì chánh qiả sẽ đến.
Ở Việt Nam, tôi thường ví dụ Chợ Lớn đi Sài Gòn là 100 bước, mục đích đến là Sài Gòn. Tuy kiếp này mình chỉ đi một bước, nhưng kiếp sau mình tiếp tục đi 99 bước, khỏi cần đi 100 bước. Mình đi 1 bước cũng không uổng công. Nếu mình đi được 50 bước thì kiếp sau tiếp tục 50 bước nữa. Nếu mình đi được 99 bước thì kiếp sau đi thêm 1 bước là đến nơi. Đó là tùy theo sự đi của mình, đi nhanh hay đi chậm, mình quyết tử tham thì mau đến.
Cho nên, pháp môn này không kể sơ tham hay lão tham. Tại sao? Vì sơ tham có thể đi 99 bước rồi, mặc dù kiếp này họ mới tham, chỉ cần bước thêm 1 bước thì đến nơi. Người lão tham kiếp trước chưa đi hay mới một hai bước thì kiếp này phải đi chín mươi mấy bước nữa, nên phải chậm hơn. Vì vậy, người nào đi nhanh thì tới trước.
Từ Chợ Lớn đi Sài Gòn, mình cứ cuối đầu đi, chứ không phải luôn nói “tôi đi Sài gòn”, mình cứ đi sẽ đến nơi; hay giữa đường gặp rạp hát ghé lại để coi, hoặc gặp hồ bơi vô coi người ta tắm… nếu vậy biết bao giờ mới đến Sài gòn! Cho nên mình cứ đi thẳng sẽ đến nơi. Như tham thiền mà còn tìm hiểu cái này cái kia, làm sao mau ngộ!
Nhưng mình gieo chánh nhân thì chánh quả sẽ đến. Tôi hoằng Tổ sư thiền ở Việt Nam, tôi không ngờ tôi đến Hoa Kỳ. Tại sao? Tôi không có làm hồ sơ đến Hoa Kỳ, chỉ có cô Như đến học thiền, ở thiền đường của tôi một tháng. Hôm đó, cô Như đi gặp phái đoàn Mỹ, đến gặp tôi và nói “Sư Phụ đi với con gặp phái đoàn Mỹ, có thể Sư Phụ đi Mỹ”. Chỉ có lấy tên tôi ghi vào hồ sơ của cô Như. Tôi đi với cô Như gặp phái đoàn Mỹ, cô Như vào trước, người Mỹ chỉ tên tôi trong hồ sơ và hỏi cô Như: người này là ai vậy?
Cô Như đáp: cha nuôi tôi.
Người Mỹ nói: ở đâu?
Cô Như đáp: Ở bên ngoài.
Người Mỹ nói: bảo ông ấy vô.
Rồi cho tôi đi, bảo tôi khám sức khỏe và chích thuốc ngừa. Chỉ có mấy tiếng mà đã đi được qua bên này, nên các vị mới gặp tôi giảng Tổ sư thiền. Kiếp trước đã gieo trồng chánh nhân, nên kiếp này nghe tôi giảng Tổ sư thiền. Tôi tự mình không thể biết mình đến Hoa Kỳ.

Hỏi:
Đức Phật bảo rằng “người nào tin tưởng thọ mạng của Như lai là bất khả tư nghì, thì công đức vô lượng gấp trăm ngàn lần, so với công đức của một hành giả tu năm ba la mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định”. Kính xin Thiền sư giảng giải?

Đáp:
Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền, sau cùng có 2 cơ bản: Tin tự tâm và phát nghi tình.
Tin tự tâm là thế nào? Thọ mạng của Phật không có cuối cùng, vì cùng khắp thời gian, không có bắt đầu. Tuy mình chưa kiến tánh, nhưng bản tâm của mình cùng khắp không gian thời gian, không có khác với Phật tánh của Phật, như Phật đã nói Phật tánh bình đẳng bất nhị.
Tôi muốn chứng tỏ cùng khắp không gian thời gian cho các vị dễ hiểu, vì không gian và thời gian mênh mông nên khó hiểu. Tâm là thể tinh thần không có hình tướng, không có âm thanh để mình nhận biết được thì lấy gì để chứng tỏ cùng khắp không gian thời gian?
Những người học khoa học biết ánh sáng cùng khắp không gian. Chỉ nói ánh sáng khắp trung tâm này. Hiện có 1 cây đèn, 2 cây đèn, 3 cây đèn… mỗi cây đèn có ánh sáng cùng khắp, cũng như mình ngồi đây cả trăm người thì có cả 100 tâm cùng khắp, mỗi tâm đều cùng khắp.
Nhưng tâm mình cùng khắp mà không tin vì mình không thấy, còn ánh sáng đèn thì mình thấy cùng khắp; đã cùng khắp nên sự tương đối không còn, như diệu minh là không có sự tương đối nên gọi là diệu minh.
Nếu có năng minh và sở minh thì mất cái diệu, bản thể của mình cũng vậy; nếu đã cùng khắp thì trở thành diệu, không có năng sở. Nguồn gốc của sự tương đối là có và không có, như có ta và không có ta, có ta là hữu ngã, không có ta là vô ngã. Phật pháp là phải phá ngã chấp.
Tôi sắp đèn này là số 1, đèn kia là số 2, số 3, số 4, số 5… bây giờ tôi thay mặt cho đèn số 1 là ta; có ta là có ngã, nếu có ngã thì phải lập cái lý có ngã mới được. Ánh sáng của 5 cái đèn đã cùng khắp, nếu nói có ngã phải chỉ ra ánh sáng nào thuộc về cây đèn số 1 của ta? Nếu chỉ ra được thì chứng tỏ là có ngã, có ánh sáng đèn số 1 của ta. Nhưng tôi biết các vị chỉ không ra, vì nó đã cùng khắp. Chỉ không ra nên cái lý có ngã, ánh sáng đèn số 1 của ta không thể thành lập.
Nếu nói không có ngã, vậy các vị chỉ chỗ nào không có ánh sáng đèn số 1 của ta? Chỉ ra được là vô ngã thì lý vô ngã mới thành lập được. Chỉ ra được không? Chỉ không được. Cho nên, có ngã và vô ngã đều không thể thành lập. Tại sao? Vì ánh sáng đã cùng khắp. Có 100 cây đèn thì ánh sáng cũng cùng chung ánh sáng, chứ không thể phân biệt ánh sáng nào cây đèn số 1, ánh sáng nào của cây đèn số 2…
Vì vậy, khi kiến tánh phát hiện bản thể cùng khắp, không có phân biệt ta với ngươi; không có phân biệt nên không có giành giựt chửi mắng, tất cả mọi người cùng hưởng chung một hạnh phúc. Đây là mục đích của Phật Thích Ca.
Cái biết của bộ óc không cùng khắp không gian thời gian, cái biết Phật tánh cùng khắp không gian thời gian. Cái biết Phật tánh gọi là chánh biến tri nhưng lấy gì để chứng tỏ? Vì cùng khắp không gian thời gian, cái biết cũng không có hình tướng; không gian thời gian mênh mông.
Tôi phải dùng cơ thể này để ví dụ cho quý vị được dễ hiểu chứng tỏ cùng khắp: Cảm giác lớp da này phải cùng khắp cơ thể này không? Cảm giác lớp da có phải gọi là biết không? Vậy cái biết của lớp da này cùng khắp không gian cơ thể. Nếu đã cùng khắp cơ thể thì không có chỗ búng. Tại sao? Có chỗ búng thì búng tay tay biết, búng đầu đầu biết, những chỗ không búng không biết. Những chỗ không búng không biết, làm sao gọi là cùng khắp? Cho nên đã cùng khắp thì không có chỗ búng. Đây là về không gian.
Còn về thời gian thì không có lúc búng, nếu có lúc búng thì lúc búng mới biết, lúc không búng nên không biết. Lúc không búng, cảm giác lớp không mất mà nói không biết! Cảm giác lớp da ngày đêm luôn luôn như vầy, đâu phải nhờ búng mới biết, không búng lại mất! Rõ ràng cảm giác lớp da cùng khắp không gian và thời gian của toàn cơ thể. Nhưng bộ óc mình có thói quen đã nhận thức sai lầm cho là chỗ búng mới biết, chỗ không búng thì không biết; lúc búng mới biết, lúc không búng không biết.
Phật muốn mình đừng cho bộ óc làm chủ, phải cho Phật tánh làm chủ thì những tai họa không còn sanh nữa, mới được hưởng hạnh phúc mà không có sự khổ đối đãi. Như tất cả bao nhiêu đèn cùng chung một ánh sáng, tất cả bao nhiêu chúng sanh cùng chung một hạnh phúc. Lúc đó hạnh phúc mới là chân thật, Đại Thừa Tuyệt Đối Luận nói “nhập vào quốc độ tuyệt đối”.

Hỏi:
Thầy có nói “niệm Phật, trì chú là tạo cho nhân duyên mai sau, tham thiền mới là tu thật sự”. Kính xin Thầy khai thị?

Đáp:
Vấn đề này, ngài Lai Quả đã nói rõ trong Thiền Thất Khai Thị Lục. Pháp thiền trực tiếp của Phật Thích Ca thân truyền, muốn mọi chúng sanh tự ngộ; ngộ mới được giải thoát tất cả khổ.
Muốn ngộ phải có nhân làm cho ngộ, nhân làm cho ngộ là nghi. Cho nên Phật Thích Ca truyền pháp môn này là từ nghi đến ngộ. Còn trì chú, niệm Phật không có nghi, không có nghi thì không có ngộ.
Nếu tu đúng theo tông chỉ của tông phái đó, niệm Phật được bất thối (không lui sụt), ở nơi Cực Lạc chuyển qua thiền là từ nghi đến ngộ; Mật tông cũng vậy, phải có nghi mới có ngộ. Bất cứ tông phái nào cuối cùng phải có nghi rồi được ngộ.
Chỉ có Thiền tông bắt đầu phát nghi trước, còn pháp môn khác như tông Thiên thai đến Thể chơn chỉ rồi phát nghi. Cho nên, các pháp môn khác (ngoài Tổ sư thiền) chỉ gieo cái nhân để sau này được ngộ.

Hỏi:
Thiền phải đến chỗ vắng vẻ, không cho mắt chạy theo cảnh, không cho tai chạy theo tiếng, đó là phương pháp bớt thâu chủng tử mới để có thì giờ loại những chủng tử cũ. Tại sao Thiền tông nói là định ở trong động?

Đáp:
Thiền tông có một câu là “bất phá trùng quan, bất bế quan”. Người Việt gọi bế quan là nhập thất, tức là nhốt mình ở trong phòng, không có tiếp xúc với ai. Đã ngộ (phá trùng quan) mới cho bế quan, bế quan là để bảo nhậm dứt trừ tập khí. Nếu chưa ngộ mà nhập thất rất có hại.
Có một Thầy ở trên núi, nuôi một đứa bé một tuổi; ở trên núi chỉ có hai thầy trò, nuôi đứa bé trai đến 20 tuổi không có gặp người nào khác, chỉ thấy các con thú rừng.
Một ngày, Thầy dẫn đứa bé xuống chợ chơi, đứa bé thấy mọi thứ đều hỏi, Thầy đều trả lời.
Đứa bé thấy con gái rồi hỏiThầy: đây là gì vậy?
Thầy trả lời: đây là con cọp chợ, nếu mày gần nó có thể bị hại hơn cọp trên núi.
Đi chơi về, qua hai ngày sau, Thầy muốn thử đứa bé, hỏi: Trong cuộc đi chơi, mày có thấy cái gì thích nhất không?
Đứa bé đáp: Tất cả con không thích, nhưng chỉ thích con cọp chợ.
Công án này chứng tỏ mắt không tiếp xúc cảnh nên niệm thích không nổi lên. Đứa bé từ hồi nhỏ đến lớn không tiếp xúc với con gái, nhưng tập khí từ kiếp trước có sẵn, khi tiếp xúc thì tâm nổi lên ham thích. Vậy làm sao nhập thất cho là tu!
Theo kinh nghiệm của tôi thấy những người chưa vô thất thì tốt hơn, khi vô thất được một thời gian rồi ra thất càng tệ hơn nhiều. Bởi vì tâm đè nén một thời gian, lúc gặp cảnh bộc phát ra rất mạnh. Không được tránh cảnh mà tu, nên Thiền tông có câu “bất phá trùng quan, bất bế quan”, tức là chưa ngộ không cho nhập thất.

Hỏi:
Chúng con được biết: “Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đãy sách”. Vậy chúng con phải làm sao tu cho đúng?

Đáp:
Đó là lời của Giáo môn, còn Thiền môn là muốn phát hiện cái dụng của tự tánh. Tham thiền là tu cũng là học, như ngài Lai Quả nói “tham thiền có đầy đủ giới định huệ”. Bản tâm cùng khắp không gian thời gian, thần thông trí huệ sẵn đầy đủ, không thiếu sót một thứ gì. Kinh Pháp Hoa thí dụ hạt châu như ý là bản tâm có sẵn trong áo, tự cho mình nghèo rồi đi ăn xin các nơi, gặp người trí cho biết hạt châu thì không còn đi ăn xin.
Con dơi không có con mắt mà có ra đa, nhà khoa học bắt chước con dơi chế tạo ra đa; nhưng con dơi không có học, tự bản năng có sẵn. Con ong làm tổ, các nhà kiến trúc phải học cách làm tổ của con ong, kiến trúc mới được kiên cố; con ong cũng không có học.
Kỳ thật, trong Giáo môn có phân biệt hữu và vô học, hữu học còn thấp, vô học mới cao. Tại sao còn nói phải học? Giáo môn là vừa học vừa tu, biết được bao nhiêu thì tu bấy nhiêu.
Thiền môn không phải vậy, là giáo ngoại biệt truyền, chỉ cần phát hiện cái của mình sẵn có. Cho nên tôi dạy phải tin tự tâm đầy đủ tất cả thần thông trí huệ, năng lực bằng Phật Thích Ca, không kém Phật Thích Ca một chút nào.
Nếu đã tin như vậy thì không cần phải học, chính tôi mà người ta cho rằng tôi học mới trả lời được. Nếu tôi học thì có cái không thể trả lời được, vì đâu thể nhớ hết và cũng không học hết.
Hồi xưa chưa tham thiền, tôi muốn coi hết đại tạng kinh, tục tạng kinh. Tục tạng kinh có 150 cuốn, tôi coi suốt 1 năm được 7 cuốn, phải mất hơn 21 năm coi hết tục tạng; coi một lần cũng không nhớ hết, dù có nhớ hết cũng không dùng được.
Cái của mình sẵn có, khỏi cần học khỏi cần nhớ; muốn dùng thì sẵn sàng dùng, có phải tốt hơn không! Bởi vì người nào cũng bằng nhau, Phật Thích Ca nói “Phật tánh bình đẳng bất nhị”. Do mình không tin, nếu mình tin chỉ cần phát hiện; chứ đâu cần học!

Hỏi:
Có người nói pháp môn này cao quá, xưa kia thời Phật Thích Ca chỉ có ngài Ca Diếp ngộ được. Chúng con tự nhủ thế này “bao giờ mới kiến tánh được, sợ chúng con đi lầm pháp môn chăng! Vì căn cơ chúng con yếu kém lắm”. Kính xin Thầy khai thị?

Đáp:
Ngày xưa Phật Thích Ca đưa cành hoa trong hội hơn triệu người chỉ có Ma Ha Ca Diếp ngộ. Đó là vị đầu tiên, ấy cũng là nhân duyên. Sau này bên Trung Quốc, Lục Tổ có 43 người kiến tánh, Mã Tổ có 139 người kiến tánh; không phải Lục Tổ và Mã Tổ hay hơn Phật Thích Ca. Vì cơ duyên là người ta chưa tin, sau này người ta tin nhiều nên nhiều người ngộ.
Nếu tin pháp môn tham thiền 100 %, tôi nói chưa được. Tại sao? Vì mới có phân nửa, còn chưa tin tự tâm. Nếu tin pháp môn Tổ sư thiền 100 %, mà không tin tự tâm, dù có siêng năng cách mấy cũng không thể kiến tánh.
Bởi không tin tự tâm nên không thể phát hiện tự tâm. Cho nên phải tin tự tâm 100 % nữa mới đúng. Vì vậy, không phải người ngộ ít hay nhiều, mình phải gieo trồng thiện căn thì được phước, được tin, được ngộ.

Hỏi:
Trong phần nhân quả nghi ngộ của Đường Lối Tham Tổ Sư Thiền, Thượng tọa có nói rằng “tham thiền lúc nghi tình nặng thì ảnh hưởng đến nhức đầu, tức ngực, khó thở, đó là đại nghi; nhức đầu nhiều chừng nào tốt chừng nấy, đừng sợ”. Phật có dạy “tâm bệnh thì thân bệnh”, ở đây nhức đầu, tức ngực, khó thở là thân bệnh. Khi tham thiền có ảnh hưởng gì đến tâm hành giả không?

Đáp:
Do nghi tình ảnh hưởng đến nhức đầu, tức ngực, khó thở là do nghi tình nặng mới có; nếu bỏ nghi tình thì những trạng thái vừa kể liền hết, bệnh của thân mà bỏ nghi tình thì bệnh vẫn còn, cần phải đi bác sĩ trị.
Do nghi tình làm cho đau đầu, tức ngực, khó thở… là do tâm lý tiến bộ rất mau nên sinh lý theo không kịp làm cho đau đầu, tức ngực, khó thở… qua năm bảy ngày tự hết, vì sinh lý đã theo kịp.
Rồi một thời gian sau, tinh tấn tham thiền, sinh lý theo không kịp tâm lý cũng có những trường hợp như vậy nữa, qua năm bảy ngày sẽ hết. Đó là quá trình tham thiền bình thường, cho nên tôi nói cho biết đừng sợ.

Hỏi:
Phương pháp Tổ sư thiền của Thượng tọa có cần học thêm giáo lý của đức Phật để mở mang trí tuệ và học phương pháp chuyển nội tâm về điều thiện hay là chỉ cần giữ nghi tình mà thôi? Giữ nghi tình liên tục không cho tạp niệm hiện, trong khi nội tâm vẫn còn hỗn độn chưa được thanh tịnh sẽ có những phản ứng nguy hại không?

Đáp:
Tham Tổ sư thiền là phát hiện năng lực thần thông của mình sẵn có, đó không phải do học mà có. Trong Thiền tông có công án:
Một vị thợ đập đá cho nhà chùa, trụ trì là người kiến tánh, thợ đập đá không biết chữ, nghe người ta nói “kinh Pháp Hoa rất hay, nếu tụng có thể đạt đến thành Phật”, ông nghe vậy tin liền, cố gắng hỏi người ta từng chữ một, hỏi đến mấy năm thuộc hết bộ kinh Pháp Hoa. Lúc đập đá, ông thường tụng kinh ra tiếng.
Một hôm vị trụ trì thấy hỏi: miệng ông làm gì vậy?
Thợ đá đáp: tụng kinh Pháp Hoa.
Trụ trì hỏi: tụng để làm gì?
Thợ đá đáp: để làm Phật.
Trụ trì hỏi: tụng như vậy biết chừng nào thành Phật?
Thợ đá nói: vậy mình sẽ làm sao?
Vị trụ trì dạy tham thoại đầu.
Thợ đá tốn bao nhiêu công sức để thuộc bộ kinh Pháp Hoa, nghe vị trụ trì nói liền bỏ chuyển qua tham thiền, rồi một thời gian sau ông được ngộ. Ông vừa đập đá vừa tham, có lần cục đá cứng, ra sức đập mạnh làm tia lửa phát lên, ông liền ngộ. Ngộ rồi ra hoằng pháp, nói “quý vị đều hay hơn tôi, tôi là người dốt nát không biết chữ, mà tôi cũng ngộ được vậy. Tại sao quý vị không tin tự tâm mình?”

Có công án khác:
Một tu sĩ theo đại chúng tham thiền, nhưng không biết thiền là gì; hỏi nhỏ người ngồi kế bên “thiền là gì?” Người ngồi kế bên biết ông ấy khờ ngốc, nói giỡn chơi rằng “thiền ở trên cây vào mùa hè đêm ngày kêu hoài đó!” (chữ thiền và con ve, tiếng Hán đồng âm). Ông ấy nói: vậy hả.
Ông ấy tưởng phải như vậy, nhưng bao lâu được kiến tánh. Kiến tánh rồi thì biết hết, không có gì thiếu sót. Chứng tỏ không phải cần học, khờ ngốc cũng được kiến tánh. Chuyện này ghi trong lịch sử Thiền tông Trung Quốc.

Hỏi:
Xin Thượng tọa dùng Duy thức học giải thích vai trò của các thức trong việc giữ nghi tình liên tục ngày đêm?

Đáp:
Tham thoại đầu, lấy cây viết ví dụ cho ý thức, đầu trên cây viết là thoại đầu, đầu dưới cây viết là thoại vỉ, từ thoại vỉ đến thoại đầu là đường đi ý thức. Hỏi câu thoại để khởi lên niệm không hiểu không biết và giữ niệm không biết (nhứt niệm vô minh), Thiền tông gọi là nghi tình.
Khởi lên niệm không biết là rời khỏi thoại vỉ tiến đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường của ý thức. Nhờ ý thức tham thiền, đến đầu trên cây viết là thoại đầu (vô thỉ vô minh), nhưng chưa lìa ý thức, còn dính líu ý thức. Sát na lìa ý thức mới được kiến tánh, còn dính líu ý thức thì chưa kiến tánh.
Cho nên, ngài Lai Quả nói “từ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước là kiến tánh”, Thiền tông gọi nguồn gốc ý thức là đầu sào trăm thước, đến đây đường đi ý thức đã hết; chỗ này thanh thanh tịnh tịnh, không còn vọng tưởng; ngoại đạo, Tiểu thừa cho chỗ này là Niết bàn.
Thiền tông phải phá vô thỉ vô minh, nên từ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước lìa khỏi ý thức. Lúc giây phút lìa khỏi ý thức thì được kiến tánh, ngài Lai Quả nói “cảnh giới này lọt vào hư không té xuống cho chết, chết rồi sống lại (tuyệt hậu tái tô)”. Cái chết có hai thứ: tiểu tử tiểu hoạt và đại tử đại hoạt.

Hỏi:
Gần đây, nhiều người học Phật chuộng tham thiền, có lẽ thiền học hợp với căn cơ chúng sanh hiện tại. Chúng con đã được nghe dạy nhiều phương pháp thiền. Tổ sư thiền do Thượng tọa giảng dạy. Các vị đều cho pháp thiền của mình đúng và cao nhất, xin thượng tọa cho biết ý kiến?

Đáp:
Tôi giảng Tổ sư thiền này không thể nói là thiền của tôi, đây là thiền của Phật Thích Ca đích thân truyền, còn gọi là pháp thiền trực tiếp truyền cho sơ tổ Ma Ha Ca Diếp, sơ tổ truyền cho nhị tổ là Tôn giả A Nan, A Nan truyền cho tam tổ là Thương Na Hòa Tu, từ đời từ đời truyền xuống đến tổ Bồ Đề Đạt Ma thứ 28.
Bồ Đề Đạt Ma truyền sang Trung Quốc làm sơ tổ, Đạt Ma truyền cho người Trung Quốc là Huệ Khả. Huệ Khả truyền cho Tăng Xán, Tăng xán truyền cho Đạo Tín, Đạo Tín truyền cho Hoằng Nhẫn, Hoằng Nhẫn truyền cho Huệ Năng (lục tổ).
Trước kia, mỗi Tổ có vài người kiến tánh, đến Lục Tổ có 43 người kiến tánh, Thiền tông được mở rộng ra, Lục Tổ là người không biết chữ, ngộ triệt để hơn những người biết chữ, thông suốt giáo lý.
Trong Pháp Bảo Đàn có Ni sư Vô Tận Tạng đọc kinh Niết Bàn không hiểu, rồi hỏi Lục Tổ: chữ này là chữ gì vậy?
Lục Tổ nói: chữ thì không biết, nghĩa cứ hỏi.
Vô Tận Tạng nói: chữ còn không biết, làm sao biết nghĩa?
Lục Tổ nói: Diệu lý của chư Phật không dính dáng với văn tự.
Tổ sư thiền là phát hiện bản năng của mình sẵn có, tất cả năng lực thần thông, trí huệ bằng với chư Phật, không kém hơn Phật một chút nào.

Hỏi:
Trong kinh nào phẩm nào, đức Phật nói về nhân nghi quả ngộ; trong các Tổ từ đức Phật Thích Ca cho đến Lục tổ Huệ Năng, có Tổ nào tham thoại đầu tham mà chứng ngộ không? Nếu có, các Tổ tham câu gì? Nghi gì?
Ngài Ca Diếp mỉn cười khi thấy Phật đưa cành hoa lên, lúc ấy Ngài đã chứng ngộ. Trong kinh Phật không nói rõ cách tu hành của ngài Ca Diếp. Phật truyền tâm ấn cho ngài Ca Diếp, không thể vậy mà bảo Phật Thích Ca đích thân truyền pháp môn Tổ sư thiền?

Đáp:
Tâm là Phật tánh vô hình vô thanh, lấy gì để truyền! Chỉ là dùng tâm ngộ của thầy để ấn chứng tâm của trò đã ngộ, gọi là truyền tâm ấn. Ấn là ấn chứng, không phải có một cái tâm đưa cho người này người kia. Còn nói tôi tự khoe pháp môn Tổ sư thiền là của tôi, không phải vậy, pháp môn này là do Phật Thích Ca truyền.
Trước đời nhà Tống (Trung Quốc) không có tham công án hay tham thoại đầu, chư Tổ dùng cơ xảo, như niêm hoa thị chúng của Phật Thích Ca.
Công án hạt châu ma ni tùy sắc (hạt châu trên đời rất quý, không có màu sắc; nhưng tùy người xem mặc đồ màu gì thì hiện màu nấy, nên gọi là hạt châu ma ni tùy sắc):
Phật cầm hạt châu ma ni tùy sắc hỏi Ngũ Phương Thiên Vương: hạt châu này màu gì?
Ngũ Phương Thiên vương mà mỗi vị đều nói khác, người nói trắng, người nói đỏ, người nói vàng…
Phật đem hạt châu cất đi, rồi đưa hai tay không, hỏi: hạt châu này màu gì?
Ngũ Phương Thiên Vương nói: trong tay Phật không có hạt châu sao lại hỏi màu gì!
Phật nói: sao các ngươi điên đảo quá vậy! Tôi đem hạt châu thế gian hỏi thì nói màu này màu kia, tôi thị hiện hạt châu chân thật mà các vị đều không biết. Điên đảo quá!
Ngũ Phương Thiên Vương đều ngộ hết.
Đó là cũng là pháp thiền trực tiếp của Phật Thích Ca, hồi nảy tôi nói là cơ xảo.

Hỏi:
Nghiệp chướng phiền não là trong mở mắt chiêm bao mà có, khi thức tỉnh (chứng ngộ) mở mắt chiêm bao không còn, nghiệp chướng phiền não cũng không thật có. Sao Hòa thượng nói sau khi chứng ngộ rồi cần phải tu để dứt trừ tập khí nghiệp chướng thì cái dụng mới hiện ra?

Đáp:
Tập khí là thói quen, chứ không phải có hiện tượng gì để cho mình thấy. Vừa rồi tôi nói “bất phá trùng quan bất bế quan”, bế quan là bảo nhậm dứt trừ tập khí; người kiến tánh tự nhiên tập khí dứt lần lần, như tham thoại đầu khởi lên nghi tình, nghi tình là cây chổi automatic tự quét sạch, quét không bao nhiêu thì được cái dụng bấy nhiêu.
Tập khí dứt được bao nhiêu thì cái dụng hiện ra bấy nhiêu, dứt hết tập khí thế gian, rồi dứt hết luôn tập khí xuất thế gian. Nếu tập khí xuất thế gian còn vẫn còn biến dịch sanh tử. Đến Đẳng giác dứt hết tập khí xuất thế gian thì cái dụng mới bằng Phật.
Trong Lịch sử Thiền tông có những người kiến tánh, tập khí vẫn còn nguyên, chưa có thần thông; đến khi dứt bớt tập khí thì thần thông của Phật tánh được hiện ra. Trong kinh Lăng Nghiêm nói “lý dù đốn ngộ, nhưng sự phải tiệm tu”, chứ đâu phải ngộ rồi tập khí hết luôn! Như nhắm mắt chiêm bao, lúc trong chiêm bao khóc chảy nước mắt; khi tỉnh dậy nước mắt vẫn còn, phải lấy khăn lau mới hết nước mắt; đâu phải thức tỉnh rồi nước mắt hết!

Hỏi:
Huệ Năng nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, tâm liền sáng tỏ. Vậy Huệ Năng tu pháp môn gì? Có nhân nghi quả ngộ không? Nếu có nghi gì? Nếu không thì không thể nói đức Phật Thích Ca đích thân truyền từ đời từ đời truyền xuống. Xin Hòa thượng giải nghi giùm cho chúng con?

Đáp:
Ngày xưa, chư Tổ không khai thị không dạy bảo cũng là pháp Tổ sư thiền, đâu phải cần nói ra! Cơ xảo của Tổ mà người thường không thể tưởng tượng được, đánh đập chửi mắng cũng là pháp thiền trực tiếp của Phật Thích Ca, không có cái nào là phương pháp nhất định.
Cho nên, kinh Kim Cang nói “không có pháp nhất định để cho Như lai thuyết, nếu ai nói Phật có thuyết pháp thì phỉ báng Phật”. Chính người hỏi trong kinh Kim Cang, không hiểu kinh Kim Cang, không tin lời trong kinh.
Ưng vô sở trụ là bản thể Phật tánh. Ví dụ cái tay là bản thể Phật tánh hoạt bát vạn năng có dụng vô lượng vô biên, lấy cái máy, cái tách, cây viết… đều được. Nếu cái tay trụ nơi cây bút (hoạt bát vạn năng của Phật tánh bị mất) thì lấy cái gì cũng không được (tham thiền khởi lên nghi tình là cây chổi automatic quét ra, khôi phục hoạt bát vạn năng Phật tánh), nên cần phải buông ra thì lấy thứ gì cũng được.
Nhưng cái bút này là pháp có, lại trong tay trụ nơi không (tự làm nắm tay) thì cái hoạt bát vạn năng bị mất, muốn lấy cái gì cũng không được. Vì vậy cái không phải quét, mới khôi phục lại hoạt bát vạn năng.
Có hoạt bát vạn năng là vô trụ, cho nên “ưng vô sở trụ” là không có chỗ trụ, “nhi sanh kỳ tâm” là cái dụng được dùng ra. Bản thể Phật tánh là như thế, Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng đến chỗ này liền phát hiện Phật tánh gọi là ngộ, vậy đâu có gì lạ! Lục Tổ chưa ngộ đã có nghi rồi, Ngũ Tổ làm cho Lục Tổ nghi thì mình làm sao biết? Có người kiếp trước đã có nghi, chứ không chỉ có kiếp này.
Như con nít từ nhỏ cũng có thể có nghi, nó hỏi cha mẹ nó “tại sao lại có thân con? Tại sao con là con trai? Tại sao con là con gái?” Nhiều người kiếp trước đã có nghi, như tôi có nói “kiếp trước đi được 99 bước, kiếp này chỉ đi 1 bước là đến nơi”. Người biết Phật pháp cũng biết có ba đời nhân quả là có quá khứ, hiện tại, vị lai; đâu phải chỉ có kiếp này thôi!

Hỏi:
Để trợ niệm người sắp chết, giúp người mới chết, trợ duyên người đã chết lâu rồi; người tham Tổ sư thiền có nên niệm Phật A Di Đà và cầu tha lực hoặc trì chú để giúp cho người đó không?

Đáp:
Tất cả pháp môn của Phật dạy là Chư Tổ đều muốn mình nhất môn thâm nhập, tức là chuyên tu một phương pháp. Chuyên tu một pháp còn khó thành tựu, huống là đồng thời tu nhiều môn. Như pháp thế gian, học đến đại học rồi chọn chuyên môn; như máy bay cũng phải chia bộ phận để cho mỗi người chọn bộ phận riêng của mình mà học.
Tham Tổ sư thiền cũng vậy, chỉ chuyên đề câu thoại đầu phát khởi nghi tình đến khi kiến tánh. Muốn ảnh hưởng đến người chết cũng đề câu thoại đầu, tâm lực mạnh mới ảnh hưởng đến người chết. Trước quan tài, người tham thiền đi hương và tọa hương.
Ngài Lai Quả nói: Có một người bán đậu hủ đem 100 miếng đậu cúng dường thiền đường, trong thiền đường có mấy trăm Tỳ kheo tọa hương đi hương; người bán đậu cũng theo chúng đi hương và tọa hương. Đến lúc người bán đậu chết, Diêm La Vương nói: ông ăn thịt chó mấy chục lần, bây giờ phải đầu thai con chó.
Thư ký của Diêm La Vương nói: người này có dự tọa hương đi hương ở thiền đường.
Diêm La Vương nghe vậy cho ông bán đậu đầu thai con chó trắng hai ngày và cho ông sống lại được 30 năm nữa.

Hỏi:
Thiền thế nào trong lúc lái xe và đi bộ?

Đáp:
Mình mới tập tham thiền, lúc lái xe phải nghĩ tham. Đến mức độ tham thuần thục, lúc lái xe tự nổi lên nghi tình mình không biết, lúc đó tự nhiên không biết mình đang lái xe, không thấy xe cộ thì không bị đụng xe. Nếu mình còn biết, mà ráng làm thì có thể đụng xe. Việc này bác sĩ Thuận có làm qua.

Hỏi:
Nghiệp di chuyển bằng cách nào, xin Thầy chứng minh?

Đáp:
Kiếp trước mình làm cái nhân chết đói, tâm lực chỉ có 1 độ; kiếp này mình không có tu thì tâm lực cũng 1 độ, nên kiếp này phải chịu quả chết đói. Phật nói “nhứt thiết duy tâm tạo”, tâm lực mạnh thì quả đến trước, tâm lực yếu nên quả dời lại sau. Các vị tham thiền, tâm lực từ 1 độ lên đến 10 độ, tuy tâm lực 10 độ mới làm nhưng quả phải đến trước. Tâm lực 1 độ mặc dù kiếp trước đã làm, nhưng nhân yếu nên quả dời lại sau.
Nếu tham thiền đến 10 độ, mà không tham thiền nữa thì cái quả 10 độ đến hết rồi xuống quả 9 độ, cứ thế xuống 1 độ thì cái quả phải trả. Từ 10 độ tiếp tục tham thiền đến 1 triệu độ thành Phật thì nhân 1 độ không có cơ hội trả quả, nhưng nhân 1 độ này chưa thể tiêu. Thành Phật có duyên độ chúng sanh, nhưng người mình làm họ chết đói được ưu tiên độ trước ra khỏi sanh tử luân hồi thì nhân đó mới tiêu. Như thế đó là sửa lại nhân quả, không phải khi không mà sửa được.

Hỏi:
Thiền sư nói rằng “có các vị kiến tánh như Trương Quốc Anh chụp banh rất giỏi và một người khác đổ mực vào ruột viết trong một ngày được 80 cái”. Trong sách sử kiến tánh, như ngài Hám Sơn lại mô tả khác rằng “thấy tâm mình lúc đó an lạc phi thường, thấy các sự vật yên chìm quang minh chan hòa và thấy thời gian trôi lẹ như khảy móng tay”. Vậy xin Thiền sư minh định cho việc này?

Đáp:
Tôi kể Trương Quốc Anh, bác sĩ Thuận, người thanh niên bôm mực đều là mới tập thiền, chứ không phải kiến tánh. Tôi nói nghi tình là cây chổi automatic hiển bày nghĩa không, bởi vì quét không bao nhiêu thì hiển bày cái dụng được bấy nhiêu.
Ví dụ cái tách có cái không thì mới đựng nước được, cái không rộng chừng nào thì cái dụng nhiều chừng nấy. Phật pháp nói đến chữ không là hiển bày cái dụng, chính nghi tình này là quét cho nó không (trống rỗng).

Hỏi:
Nhiều vị Tổ thiền Tây Trúc như ngài Mã Minh, lúc sắp nhập diệt thường hay thị hiện thần thông bay cao lên hư không chừng 7 cây đa la, hiện thân chói sáng như mặt trời, nửa phun lửa, nửa phun nước, bay một hồi lâu rồi đáp xuống đất thị tịch. Tại sao Tổ thiền Đông Độ lại không thi tiển thần thông như vậy trong lúc thị tịch?

Đáp:
Tại sao không có! Hôm trước tôi đã kể 2 chuyện rồi. Tôi sẽ kể thêm một chuyện nữa: Thiền sư Đặng Ẩn Phong là đệ tử của Mã Tổ, lúc thấy lính phản loạn đánh với lính của vua; hai bên đánh nhau chết rất nhiều. Ngài đi ngang đó thấy vậy liệng cây gậy trên không biến thành một cái cầu ở chính giữa hai bên quân lính đánh nhau, Ngài đi trên cái cầu đó, hai bên lính đều thấy nên không còn đánh nhau nữa.
Thiền tông không cho hiện ra thần thông cho người ta biết, vì sợ người ta mê thần thông. Cho nên Ngài hiện ra thần thông rồi liền tịch (chết). Trước khi chết, Ngài hỏi người ta: Các vị có nghe người ta chết ngồi không?
Người ta nói: có.
Ngài hỏi: có người đang đi chết không?
Người ta nói: có.
Ngài hỏi: có người chết trồng chuối không?
Người ta nói: không.
Ngài liền chết theo kiểu trồng chuối (đầu chóng xuống đất, hai chân dựng lên trên trời), nhưng quần áo vẫn xuôi theo thân mình, không tuột xuống.

Hỏi:
Thiền đốn ngộ và pháp môn kiến tánh là một pháp môn thượng thừa, người thời nay đời mạt pháp thường chỉ là hạ căn hoặc trung căn, liệu có thể theo pháp môn thượng thừa này được không?

Đáp:
Lục Tổ và ngài Nguyệt Khê nói “Pháp vốn không có 4 thừa, tại chúng sanh chấp trước nên Phật chia làm 4 thừa”. Ngài Bác Sơn là Tổ của tông Tào Động nói “hạ căn chuyển thành thượng căn, mạt pháp chuyển thành chánh pháp”.
Thượng căn, hạ căn, mạt pháp, chánh pháp cũng là do chấp của chúng sanh mới có, chứ trong Phật tánh vốn không có những thứ đó. Phật tánh bất nhị, hai còn không có làm sao lại có 4 thừa!
Cho nên, nói mạt pháp chuyển thành chánh pháp thì tôi chưa chứng tỏ, nhưng hạ căn chuyển thành thượng căn, ở Việt Nam có các Phật tử, tôi có chứng tỏ. Tại sao? Như những người ngu si dốt nát tham thiền một thời gian phát ra trí huệ, tức là vốn từ hạ căn chuyển thành thượng căn; trước kia họ coi kinh không hiều, tham thiền một thời gian rồi coi kinh hiểu hết.
Năm 1980, tôi dẫn một số Phật tử tham thiền đến thăm Phật học viện, các Phật tử tham thiền nói chuyện Phật pháp với các học Tăng thì kiến giải cao hơn. Chứng tỏ hạ căn chuyển thành thượng căn, chứ không phải có nhất định. Như thợ đá và ông khờ ngốc không biết thiền là cái gì đều những người hạ căn, nhưng chuyển thành thượng căn mau kiến tánh.
Tổ sư thiền không phải cao, cũng không phải thấp. Con nít 6, 7 tuổi, bà già 8, 9 chục tuổi cũng tham thiền được; người thông suốt giáo lý hay người khờ ngốc ngu si dốt nát đều tham thiền được. Nếu cho Tổ sư thiền cao thì con nít 6, 7 tuổi và người dốt nát ngu si làm sao tham thiền được? Vì tự tánh là bất nhị, không có cao thấp.

Hỏi:
Trong kinh Lăng Nghiêm có nói đến 4 tội địa ngục, trong đó cuồng vọng thuyết pháp là 1 trong 4 tội ấy. Xin Thầy cho biết thế nào là cuồng vọng thuyết pháp?

Đáp:
Thuyết pháp không đúng với ý Phật, cho ý mình là ý Phật gọi là cuồng vọng thuyết pháp. Tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa của Phật đều dùng phá chấp của chúng sanh, chứ không phải là chân lý tuyệt đối, cũng không phải là pháp nhất định. Chúng sanh chấp có là thật có nên Phật phải nói không, dùng cái không để phá chấp có. Nếu chúng sanh chấp không là thật không thì Phật dùng cái có để phá chấp không.
Khi Phật nói có, ý của Phật không phải ở nơi có, không phải cái có là chân lý; lúc Phật nói không, ý của Phật không phải là không, không phải cái không là chân lý. Chỉ là tạm thời để phá chấp đương cơ đó thôi, nếu người không hiểu nghe Phật nói có, cho có là chân lý; nghe Phật nói không, cho không là chân lý. Đó là cuồng vọng thuyết pháp.

Lời khai thị III:

Kinh Đại thừa liễu nghĩa cho đến kinh bất liễu nghĩa, đều là giải phẩu Tâm linh. Bây giờ, người ta học Phật chỉ biết danh từ Tâm linh, nhưng Tâm linh như thế nào lại không biết cái thực thể? Tâm linh cùng khắp không gian thời gian. Tại sao không biết Tâm linh? Vì dùng ngũ giác quan nên không cảm nhận được.
Dùng ngũ giác quan cảm nhận được thì nhà khoa học mới thừa nhận, sau đó có tồn tại khách quan; nếu không có qua tai mắt, họ không nhìn nhận. Nay phát minh những máy móc tối tân là chỉ giúp cho tai mắt thấy rõ hơn, thấy xa hơn, nghe rõ hơn và nghe xa hơn. Còn Tâm linh của mỗi người sẵn có trí huệ, thần thông, năng lực đầy đủ; nhưng họ không phát hiện được và cũng không tin.
Tôi tham khảo từ ngữ lục của chư Tổ, kinh Đại thừa liễu nghĩa và các tác phẩm nhà khí công đặc dị công Trung Quốc, cùng những triết học đông phương, triết học tây phương, rồi soạn ra cuốn sách này. Tôi tặng cuốn này cho một người ở Los, họ đọc một hơi thấy hay, rồi hỏi tôi “muốn copy cho một người bạn?” Tôi nói “được”, vì muốn phổ biến chứ không giữ bản quyền. Bác sĩ Cữu coi rồi cũng thấy hay, rồi nói “ngày xưa đến nay không biết”.
Quyển này chia làm hai bộ phận:
a- Vật lý sinh mạng công trình học.
b- Triết lý mạng công trình học.
Vật lý là hiển tánh, triết lý là ẩn tánh. Ẩn tánh nghĩa là không thể dùng ngũ giác quan (tai, mắt...) để cảm nhận, nhưng có tồn tại sự khách quan của nó. Phật nói “mình ứng dụng hàng ngày mà chẳng tự biết”, như nhà khoa học không biết và không tin.
Mình soi gương thấy mặt của mình, nhưng hình chỉ là bề mặt. Nhà khoa học giải phẩu sinh mạng, tuy nói giải phẩu sinh mạng, kỳ thật chỉ là giải phẩu thể xác. Thể xác là xe chở sinh mạng, chứ không phải chủ sinh mạng; chủ sinh mạng là Tâm linh, thể xác sau này hư hoại, đem thiêu thành tro, chôn thành đất.
Chủ sinh mạng không thể dùng ngũ giác quan để cảm nhận, nhà khoa học căn cứ hiện tượng vật chất để lập ra hệ thống khoa học, cho tất cả năng lượng là từ vật chất sinh ra. Nhưng theo Phật pháp thì ở sau lưng còn có Tâm linh điều khiển nó, tức “tất cả đều do tâm tạo” là năng lượng ở nơi tâm, chứ không phải ở nơi vật.
Ngày xưa cũng có người ta chứng tỏ, nhưng ít; ngày nay có mở nhiều lớp khí công theo sự luyện tập cũng hiển bày sức của tâm, mà không thể dùng khoa học để giải thích được. Như ánh sáng chiếu trên không gian thì chứng tỏ tồn tại của không gian (không gian là trống rỗng, như mình để đồ… tất cả đều phải nhờ không gian). Nhưng ánh sáng chiếu trên thời gian, không có thể chứng tỏ sự tồn tại của thời gian. Tại sao? Vì ngũ giác quan không thể phát hiện nó.
Nhà khoa học cũng biết năng lượng là bất diệt, từ xưa đến nay chỉ là chuyển hóa và vật chất cũng vậy, nên cũng đúng với Phật pháp. Phật pháp nói là “tất cả đều vô thỉ vô sanh”, vô thỉ nghĩa là không có sự bắt đầu, cũng là nghĩa vô sanh; không sanh thì không diệt, được gắn tên là Niết bàn.
Tất cả danh từ Phật pháp đều hiển bày cái dụng của Tâm linh, như: Tại sao là Phật tánh? Phật tánh là danh từ, vì có tánh giác ngộ, nên gọi là Phật tánh. Nghĩa chữ Phật là giác ngộ. Tại sao gọi là Như lai? Tại Tâm linh khắp không gian, không có khứ lai nên gọi là Như lai, đúng như bản lai.
Các nhà triết học đông phương, tây phương đang dùng, nhưng họ không nhìn nhận vì tai mắt không thể tiếp xúc được. Các nhà khoa học dùng máy móc tối tân cũng không truy cứu ra được những người khí công có công năng đặc dị. Nhà khoa học biết được các việc là vật chất hiển tánh.
Như âm thanh nói vô máy điện thoại, âm thanh đó truyền đến điện thoại kia, dầu xa, ở đây với Việt Nam, khi nói xong có tiếng liền, tức nó qua làn sóng điện làn sóng âm thanh thì cái máy của nhà khoa học qua lại hành lang không gian, ở trong máy vi tính, họ thấy rõ ràng, như máy bay đến chỗ nào đều thấy rõ khi nào gặp tai nạn thì họ đều biết.
Nhà khoa học dùng máy để thử nhà khí công Trương Bảo Thắng, nhưng máy phát ra chỉ có làn sóng hoài. Trương Bảo Thắng dùng sức của tâm dời cái máy từ nhà bên này sang bên kia, khoảng từ bên này qua bên kia thì làn sóng điện bị mất; tức là nhà khoa học dùng máy móc tối tân không phát hiện ra được.
Nhà khoa học muốn truyền đạt việc gì, dùng máy truyền tin tức khắp toàn cầu và cũng phát hiện được, nhưng về tâm linh thì máy đó không thể phát hiện.
Vật chất nhỏ chừng nào thì tốc độ nhanh chừng nấy. Nguyên tử, điện tử và quang tử thì quang tử nhỏ nhất tức là ánh sáng, thuộc vật lý hiển tánh ở trong phạm vi ba chiều (dài, rộng, cao). Nói về vật lý ẩn tánh thì tốc độ ánh sáng là thấp nhất.
Sức của tâm là thêm chiều thời gian (gồm không gian ba chiều), gọi là bốn chiều. Nhưng nhà khoa học bị nhốt trong không gian ba chiều, không có phát triển bốn chiều, nhìn nhận thời gian, mà không thể phát hiện thời gian, cho nên nói đến thời gian rất ít.
Tâm linh thì không có thời gian, như tốc độ máy bay bằng ánh sáng, theo nhà thiên văn tính khoảng cách, vì xa quá nên không dùng số dặm để tính, mà tính bằng quang niên (ánh sáng đi một năm). Ví như máy bay ở trên địa cầu bay qua hành tinh khác có thể mấy trăm quang niên mới tới, còn dùng tâm niệm thì chỉ một niệm đến.
Tâm niệm không có chiếm không gian (vật chất ẩn tánh không có chiếm không gian). Vật chất hiển tánh có chiếm không gian, mà không có số lượng thời gian. Vì vậy, tốc độ ánh sáng là thấp nhất. Nhưng chuyện này, mà bộ óc không thể tưởng tượng được, nên nhà khoa học không tin nổi.
Bây giờ, nhà khoa học thí nghiệm các nhà khí công Trung Quốc có chứng tỏ được. Mỗi người đều có năng lực của Tâm linh, nên các nhà khí công hợp lại thì tâm lực càng mạnh thêm, vì vậy trị bệnh rất hay.
Ở Việt Nam, tại chùa Từ Ân có 6 lần đả Thiền thất, mỗi lần mấy trăm người, tôi cũng dùng hương công để thử cho những người dự Thiền thất đều tập mỗi ngày 2 lần sáng chiều, cùng một lượt đông người thì có sức mạnh hơn ở nhà tập riêng một mình.
Cho nên, có người bị bứu cổ cũng được hết, có người bị bệnh đi bác sĩ lâu không hết, mà tập hương công lại hết, họ nói “hết bệnh, lý do như thế nào không biết”. Theo tôi tự tập thì không thấy gì, nhưng thấy trong người được khỏe hơn.
Tham Tổ sư thiền thì không cần khí công, vì công phu của mọi người, lòng tin tự tâm không đầy đủ, thành ra dụng công cũng yếu, nên kết hợp tập hương công giúp cho công phu được mạnh thêm, vì thế tôi mới dạy môn hương công.
“Không” là trống rỗng là bản thể của Tâm linh, có dụng vô lượng vô biên, không bị không gian thời gian hạn chế. Tất cả vũ trụ vạn vật, mặt trời, mặt trăng, cây cối… bất cứ cái gì đều phải nhờ cái “không” này mới hiển bày được dụng. Nếu không có cái “không” sẵn sàng thì không thể hiển bày được dụng.
Như cái tách bị lấp bít hết thì không có cái “không” là tách chết, nên không thể dùng được; vì có cái “không” mới được đựng sữa, nước, cà phê… Cái dĩa không có cái “không” thì không đựng trái cây hay đồ vật khác. Cái bình không có cái “không” thì cũng không cấm hoa vô được. Cái nhà không có cái “không” thì chúng ta làm sao ngồi đây? Tất cả dùng đều phải nhờ cái không, không có cái nào để hiển bày mà không dùng đến cái không!
Cho nên, Trung Quán luận nói “vì có nghĩa không, nên các pháp được thành tựu”. Như ông đang hỏi tôi, nếu không có cái không thì không thể hỏi được, tôi cũng không thể giải đáp cho ông. Tất cả đều nhờ cái không, nhưng mình ứng dụng hàng ngày mà chẳng tự biết.
Tất cả dùng đều phải nhờ cái “không”, mà không dính líu đến cái “không”. Tại sao? Như tách, dĩa bể, nhà hư sụp, nhưng đối với cái “không” chẳng có ảnh hưởng, vẫn y như cũ. Bom nguyên tử làm quả đất tan nát, nhưng cái “không” vẫn y như cũ, không có tổn giảm chút nào.
Cái không sẵn sàng khắp không gian thời gian, nhưng thông minh của con người đem cái không sẵn sàng, hạn chế thành cái không của tách, bình, nhà; rồi giải thích nghĩa không của tách khác hơn nghĩa không của bình, khác hơn nghĩa không của nhà, muôn ngàn nghĩa không khác biệt, giải thích rất có lý. Nhưng cái không bổn lai sẵn sàng chẳng có nghĩa lý gì, mà lại tất cả đều nhờ nó.
Nếu không có cái không sẵn sàng thì cái nhà không dựng lên được và cũng không có cái tách. Cái không sẵn sàng là gì? Là Tâm linh của mọi người. Chỗ này người ta không tin, tôi giải phẩu Tâm linh, dùng những cái được phát hiện để chứng tỏ cho người ta sanh lòng tin.
Tâm của mình có tánh giác ngộ gọi là Phật tánh, khắp không gian gọi là Như lai, khắp thời gian gọi là Niết bàn, trống rỗng gọi là Tánh không. Cho nên, Tánh không, Như lai, Niết bàn đều là biệt danh của Tâm linh. Nhiều người học Phật mà không biết, chỉ biết những danh từ và nhất là đối với Tánh không càng không biết.
Mình ứng dụng hàng ngày, không có một phút giây nào rời khỏi Tánh không, vì Tâm linh của mình là Tánh không; Phật tánh, Niết bàn, Như lai đều chính là mình, nhưng người ta không tin, cho đến Phật tử, Pháp sư cũng không tin.

Hỏi:
Hương công có phải là Thái cực quyền không?

Đáp:
Hương công là một môn của Khí công, hiện nay Khí công của Trung Quốc có mấy trăm môn phái, nhiều lắm, có cái thật có cái giả; nhưng cũng là hiện ra cái dụng của Tâm linh thôi.
Thái cực quyển là chú trọng cái tâm, đi quyền rất chậm, không dùng sức tức là buông (thư giản); động tác đi tới đâu thì Tâm linh theo tới đó, làm động tác gì đều phải dùng cái tâm. Khi tập luyện mức cao chỉ cần đẩy nhẹ là người ta ngã, không những ngã mà có thể làm cho bị thương.
Sức mạnh nhất là tâm, tất cả mọi vật chất vận động, nguồn gốc là tâm, nhưng nhà khoa học không tin. Mỗi vật chất đều có từ trường. Như trái chuối có bao nhiêu nguyên tử, điện tử đang xoay xung quanh hột nguyên tử; cái bàn hay vật chất nào đều cũng vậy. Nhà khoa học cho là nhiều nguyên tử tổ chức thành vật chất, hiện đang vận động; mình thấy nó yên tịnh, không có vận động.
Nhưng sự thật có hai thứ động:
Một thứ là quả đất xoay xung quanh mặt trời, hiện giờ mình ngồi đây thấy yên tịnh, như ngồi trên chiếc phi thuyền đang bay với vận tốc 180.000 km/giờ, mà mình không biết. Chiếc xe hơi chạy vận tốc 80 mile, thấy đã nhanh quá rồi.
Một thứ nữa là điện tử xoay xung quanh cái nhân của nguyên tử, tốc độ lại nhanh nhiều hơn từ 1/3 (100.000 cây số/giây) đến ½ (150.000 cây số/giây) tốc độ ánh sáng. Tốc độ ánh sáng là 1 giây = 300.000 cây số.
Vậy sức năng lượng từ đâu lại? Như chiếc xe chạy được phải có xăng đốt ra năng lượng. Cái nguyên tử, điện tử đang xoay ngày đêm, không có bắt đầu và cuối cùng, ai mang kính hiển vi đều thấy rõ. Vậy năng lượng từ đâu mà ra? Nhà khoa học cho là mỗi vật chất có từ trường do vật chất sanh ra, Phật nói từ cái tâm sanh ra.
Kinh Hoa Nghiêm nói “nhất thiết duy tâm tạo”, chỉ là nói tổng quát. Pháp Bảo Đàn nói rõ hơn “chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động là tâm của ông động; tại tâm của ông động nên gió mới động, tâm của ông động nên phướn mới động”. Mình thấy gió động, phướn động là do tâm động, các vị đọc Pháp Bảo Đàn mà không biết!

Hỏi:
Trong cuốn sách này, Thầy có viết đến bộ lạc Nam Mỹ. Vậy như thế nào?

Đáp:
Bộ lạc này thực hành theo giới luật của Phật 99%, hội nghị của họ là 100%, giống như yết ma của Phật; khi 7 tuổi rời cha mẹ (làm Sa di), 21 tuổi theo các Trưởng lão học tập (làm Tỳ kheo), họ chỉ khác với Tăng đoàn là có lập gia đình, nhưng gia đình của họ khác hơn gia đình ở đời thường, gia đình của họ giống như không có gia đình, chỉ là một đoàn viên của một đoàn thể.

Hỏi:
Bộ lạc này sống chỉ 100 năm, so với Thần tiên có thể sống trên 1.000 năm. Vậy việc ấy như thế nào?

Đáp:
Họ sống khoảng 100 năm, vì mục đích họ không phải để sống lâu! Tại cuộc sống của họ tự nhiên sống lâu như vậy. Những người kiến tánh cũng tùy theo nhân quả nhân duyên.
Như tổ Bá Trượng sống 120 năm, ngài Hư Vân sống 120 năm; nhưng tổ Bạch Vân sống 48 năm, là một tổ danh tiếng của phái Lâm Tế. Vì không theo tư tưởng người thường, sự thật sanh tử vốn không có. Như Bát nhã Tâm kinh nói “vô lão tử, diệc vô lão tử tận”.

Hỏi:
Có phải tu Tiên đạt đến trường sanh bất lão không?

Đáp:
Tu tiên có tưởng chấp thật, nên họ không được giải thoát mà chỉ được sống lâu. Còn dân tộc Cogy không có luyện tâm, sống một cách tự nhiên, không có pháp luật, không có ai quản lý ai, họ sống theo hội nghị, giống như pháp yết ma của nhà Phật.

Hỏi:
Thế nào tìm chân lý Phật giáo là chỗ không Phật giáo?

Đáp:
Kỳ thật, Phật giáo vốn không phải tôn giáo, Phật giáo là giải phẩu Tâm linh; tất cả chúng sanh đều có Tâm linh, chứ không phải chỉ loài người mới có. Mà mọi chúng sanh đều bằng nhau, như con dơi có ra đa, nhà khoa học nghiên cứu con dơi rồi bắt chước chế tạo máy ra đa.
Mình cũng có ra đa vậy, nhưng theo nghiệp mình không hiện ra đa mà hiện cấu tạo tinh vi bộ óc. Nhà khoa học học theo bộ óc làm ra máy vi tính, phần nhiều cấu tạo sự ghi nhớ để dùng; nhiều bộ phận khác họ còn chưa biết, mặc dù máy tính có nhiều chức năng; những cái nào phát minh thì làm được, cái nào chưa phát minh nên làm không được.
Tham Tổ sư thiền là cuối cùng phát hiện ra hết, làm ra ra hết, tất cả năng lực đều đầy đủ, không thiếu sót. Cho nên, tất cả bao xa thành lập tin tức trong một niệm, mới nói tốc độ ánh sáng thấp nhất.

#15 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 09/08/2011 - 08:47

Hỏi:
Có Bác sĩ người Pháp, trước khi chết nói “chết rồi không còn cái gì, nếu còn cái gì tôi sẽ trở về báo cho con của tôi biết”. Sau khi ông chết được 2 năm, một hôm cầu cơ, người cầm cây bút chì tự động viết một bức thư, chữ giống của Bác sĩ. Hiện tượng ấy như thế nào?
Đáp:
Người đời cho cảnh giới đó là thật, nhưng theo lập trường nhà Phật thì cho những cảnh giới đó là vọng, nó vẫn còn ở trong chiêm bao, không phải ra ngoài chiêm bao. Các nhà khoa học dùng tư tưởng chấp thật, đối với Phật pháp coi họ cũng là vọng.

Hỏi:
Có phải những người bộ lạc Cogy ngồi 9 năm không?

Đáp:
Không phải nhất định họ ngồi 9 năm. Phái đoàn đài BBC là người đời không biết Phật pháp, người bộ lạc không biết tiếng Anh, người thông dịch ở gần đó lại ít tiếp xúc, nên tôi biết lời nói không đủ để dịch. Bộ lạc ấy sống theo thiên nhiên, mà Tâm linh thì ai dịch cho nổi! Vì ngũ giác quan không thể tiếp xúc được, nếu có chỉ được khoảng 70% thôi.
Tổ Đạt Ma ngồi 9 năm, ai cũng biết, cho là phải ngồi 9 năm giống như tổ Đạt Ma! Sự thật không phải quy định như vậy. Tổ đạt Ma ngồi 9 năm là đợi Huệ Khả, chứ không phải là phải ngồi 9 năm, việc ngồi hay không ngồi chẳng có liên quan gì cả.

Hỏi:
Tại sao Bộ lạc không tiếp xúc bên ngoài?

Đáp:
Họ không tiếp xúc bên ngoài là truyền thống của họ. Như Phật ở trong kinh Pháp Hoa nói “Phật nào cũng đều thuyết kinh Pháp Hoa”, chứ không phải chỉ một Phật Thích Ca thuyết kinh Pháp Hoa. Ở vi trần thế giới, danh hiệu Phật Thích Ca khác nhau, cũng đồng thời thuyết kinh Pháp Hoa ở vô lượng vô biên thế giới, tức là không thể dùng tư tưởng người thường để đoán mò việc của người ta.
Người sống theo thiên nhiên không có gì bị trói buộc, tự nhiên tự động và các vật chất cũng như vậy. Tất cả vật chất đều do các nguyên tử hợp lại tổ chức thành, mỗi hạt nguyên tử, chu vi có nhiều điện tử đang xoay. Như trái nho, trái chuối, cái tách, cái bàn… đều như thế; hình thức bề ngoài đủ thứ khác nhau, nhưng tổ chức không khác. Cho nên gọi là Bản tâm bất nhị.
Lấy ánh sáng để ví dụ: Trong nhà đốt 100 cây đèn, có đèn lớn, đèn nhỏ; đèn lớn phát ra ánh sáng mạnh, đèn nhỏ phát ra ánh sáng yếu; nhưng chỉ có một ánh sáng, chứ không có hai ánh sáng, tự nhiên tương đối tự tiêu diệt. Nguồn gốc của tương đối là hữu và vô. Phật pháp phá ngã chấp, muốn thành lập ngã (hữu ngã), phá hết ngã chấp là vô ngã. Hữu ngã và vô ngã là tương đối, khi cùng khắp không gian thì tương đối tiêu diệt.
Tôi thay mặt cây đèn này là ngã (ta), 100 cây đèn muốn thành lập hữu ngã thì phải chỉ ra ánh sáng nào thuộc cây đèn của ta? Chỉ ra được không? Không được. Ngược lại, muốn thành lập vô ngã thì phải chỉ ra ánh sáng nào không phải cây đèn của ta? Cũng chỉ không được. Nên hữu ngã và vô ngã đều không thể thành lập. Vì hữu và vô là tương đối, khi đã cùng khắp thì không còn tương đối.
Mặc dù, không chỉ ra được, không phải là không có 100 cây đèn, không bớt một cây nào; đèn lớn phát ra ánh sáng lớn, đèn nhỏ phát ra ánh sáng yếu. Mỗi chúng sanh có trí tuệ, ngu si, tuy khác biệt; nhưng mỗi chúng sanh đều cùng một Tâm linh, không có thể hai.

Hỏi:
Vậy có giống như đại ngã không?

Đáp:
Không giống, vì đại ngã còn có đối đãi; như đại ngã của một nước thì có nước khác để đối đãi, đại ngã của nhân loại thì có chúng sanh để đối đãi, đại ngã chúng sanh hữu tình thì có vô tình để đối đãi. Nói đại ngã là đối với tiểu ngã mà có, tức là đại và tiểu là đối đãi.
Tâm linh siêu việt số lượng, chẳng có lớn nhỏ. Như “ma ha Bát nhã”, nghĩa chữ ma ha là lớn, nhưng không phải đối với nhỏ cho là lớn. Kim cang Bát nhã, tuy kim cang là cứng, mà không phải đối với mềm cho là cứng. Hành thâm (sâu) Bát nhã, cũng không phải sâu đối với cạn.
Cho nên, kinh Kim Cang nói “vô thân là đại thân”. Không có thân mới là lớn nhất, nếu có thân không thể nói lớn nhất, ở trong này tôi nói là vô cực.
Theo người đời nói “bằng như số 0” là không có gì hết, nhưng con số 0 tùy theo đơn vị, đơn vị là 1 thì số 0 là 9, 1 thêm số 0 = 10; nếu đơn vị là 10 thì số 0 là 90 (10 + 90 = 100); nếu đơn vị là 100 thì số 0 là 900 (100 + 900 = 1000). Nó phát triển lớn đến vô cực, không có hạn chế, vì là con số.
Còn rút nhỏ cũng vậy, như 1 đồng thêm 0, 1 thì chỉ còn 1 cắc, thêm số 0 trước nữa thì còn 1 xu (0, 01), nó rút nhỏ đến vô cực. Bài tựa quyển sách ấy, tôi nói là vô cực đó.
Nói hiển tánh và ẩn tánh: không gian là hiển tánh, thời gian là ẩn tánh. Vì ánh sáng trong không gian có thể chứng tỏ tồn tại trong không gian, ánh sáng trong thời gian không thể chứng tỏ tồn tại trong thời gian. Nhưng thời gian luôn luôn ẩn trong không gian, không ai phủ nhận được, mà không thể dùng ngũ giác quan để phát hiện; còn không gian thì ngũ giác quan thấy rõ ràng trống rỗng.

Hỏi:
Vô cực với thái cực khác nhau thế nào?

Đáp:
Thái cực do Đạo giáo (Trang Tử) lập ra, họ cho thái cực là có cực; nhưng sự thật không có cực, vì Đạo giáo có tư tưởng chấp thật thì phải có cực. Thái cực sanh lưỡng nghi là âm dương, tất cả vật chất đều có âm dương, như muốn thành một quả trái cây thì phải có âm dương.
Vô cực của Đạo giáo cũng là vô thỉ vô minh, họ cho là cùng tột, nhưng chưa cùng tột. Phật giáo phá vô thỉ vô minh đạt đến cùng tột, mà nói cùng tột là không có chỗ cùng tột, vì vô thỉ là nghĩa vô sanh (không có sự bắt đầu), làm sao có cùng tột? Phải có sanh khởi mới có cùng tột, tức là có sanh rồi có diệt.
Kinh Dịch là tư tưởng chấp thật, giáo lý nhà Phật phá tư tưởng chấp thật; không có cái gì thật, không có cái gì để lập chân lý. Nếu kiến lập chân lý là hai chân lý, cũng trên đầu mọc thêm cái đầu. Phật giáo không kiến lập chân lý là khác với các tôn giáo có kiến lập chân lý. Nhưng các Pháp sư Phật giáo nói có chân lý, vì họ có sự kiến lập.
Phật đã nói là vô thỉ, người chứng quả là ngộ pháp vô sanh. Vô sanh thì không có thỉ (không có bắt đầu), nếu có sanh thì phải có bắt đầu, nên phải có chung (cuối cùng); có sanh thì phải có diệt, đó là tương đối. Phật pháp không phải vậy, nhưng không phủ định cái gì cả, nó vẫn y như cũ; như nãi chuối vẫn là nãi chuối, chùm nho vẫn là chùm nho; không thể đem ý mình thêm hay bớt vào một chỗ nào, tất cả đều vô thỉ vô chung là Niết bàn sẵn sàng.
Có nhà khoa học nước Anh phát minh tất cả vật chất có năng lượng không sinh diệt, chỉ là chuyển biến. Như oxy hợp lại hyro thành nước, phân tích ra thành oxy và hyro. Đối với Phật pháp cũng vậy, tất cả đều do tâm tạo, nhắm mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao đều là chiêm bao.
Phật dạy mọi người ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh, tức là nhảy ra ngoài chiêm bao thì việc sinh tử được giải quyết xong. Nếu không nhảy ra ngoài mở mắt chiêm bao thì cứ thay đổi hoài, từ thân người chuyển thành thân heo, thân chó, thân chuột… tùy theo nghiệp mà thay đổi.

Hỏi:
Bên Kinh Dịch khuyên người ta trở về thái cực thì cũng giống như Phật giáo, vậy thế nào?

Đáp:
Những việc ấy là tư tưởng chấp thật mới có như vậy. Còn Phật giáo dạy đừng đem ý mình thêm vô hay bớt ra, gọi là bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh, không có sự tương đối, không chấp vào một bên. Phật có 84.000 pháp môn để phá chấp vào một bên, mà phá chấp hết rồi, còn nói phá cái không chấp cũng không được; tức còn nói không chấp là chấp, chỗ nói không được thì phải ngộ.
Ngài Nguyệt Khê có nói 4 giai đoạn: Duy tâm, Duy vật, Tâm vật hợp một, Phi tâm phi vật. Cuốn sách này có thể nói đến Tâm vật hợp một, muốn đến Phi tâm phi vật phải tu đến ngộ mới biết, chứ không thể nói được.
Triết học tây phương chỉ suy lý, không có kinh nghiệm trực tiếp; Triết học đông phương có kinh nghiệm trực tiếp, nhưng kinh nghiệm đó chấp thật. Chánh pháp phá chấp thật, tức là bản thể như thế nào là như thế ấy thôi, y như cũ. Như ban đầu núi sông, rồi tiến một bước chẳng phải núi sông, cuối cùng núi sông vẫn là núi sông.
Cuối cùng núi sông vẫn là núi sông thì khác xa với đầu tiên núi sông. Đầu tiên núi sông là chấp thật núi sông, rồi chẳng phải núi sông là phủ nhận núi sông, sau này không còn chấp thật thì núi sông vẫn là núi sông; tức là bản lai diện mục, không phải đầu tiên núi sông và cũng không phải phủ nhận núi sông; nghĩa là không nhìn nhận và không phủ nhận, nó như thế nào là y thế ấy, y như cũ, không có ý mình vô cho là núi sông hay không phải núi sông. Cho nên, nói núi sông vẫn là núi sông.
Nói ra rất đơn giản, mà người ta khó thực hành; người ta gặp cái gì cũng phải có ý mình cho là cái này hợp lý hay không hợp lý, cái này đúng hay không đúng. Nhưng sự thật, không phải đúng hay không đúng, có lý hay không có lý.
Như cái “không” sẵn sàng không có nghĩa lý gì hết, tại thông minh của con người lập ra đủ thứ nghĩa không rất có lý, diễn ra rất hay. Nhưng nguồn gốc thì không có nghĩa lý. Cái không có nghĩa lý thì không ai sữa đổi được, còn lập ra nghĩa lý thì có sự tranh cải. Vì vậy, Thiền tông chỉ hiện ra bổn lai diện mục. Bổn lai là không thêm, không bớt; vì thêm hay bớt là tư tưởng chấp thật, gọi là vọng.
Chỗ này, các Giảng sư, Pháp sư giảng kinh thuyết pháp Phật giáo, những người còn có tư tưởng chấp thật thì không thể đến chỗ này được. Vì họ chấp thật giáo lý có chân lý, các chân lý đó ghi trong kinh điển. Nhưng tất cả kinh điển Đại thừa liễu nghĩa không có kiến lập chân lý.
Kinh như ngón tay để chỉ mặt trăng, nếu thấy mặt trăng thì ngón tay là vô dụng; kinh Kim Cang ví dụ như chiếc bè qua sông, qua đến bờ bên kia thì chiếc bè phải bỏ. Không chịu bỏ chiếc bè, mà vác chiếc bè đi chơi làm sao được? Vì sợ người ta chấp thật lời thuyết pháp của Phật, nên khi Phật thuyết pháp xong liền phủ nhận. Như người ta cho là chân lý mà Phật đã bỏ vào thùng rác rồi.
Nhà khoa học tây phương chỉ biết có nhất nguyên, nhưng họ dùng bộ óc suy cứu tìm hiểu, kết cuộc cũng hiện ra nhị nguyên, vẫn còn trong tương đối. Nhà Phật thì nhất nguyên cũng không được, người ta nói “không thể dùng ngôn truyền, mà chỉ dùng ý hội”. Còn Thiền tông cũng không cho ý hội, nếu dùng ý hội là “con chó đuổi theo cục xương”.

Hỏi:
Có người ở Việt Nam tu khá cao, rồi sang bên nay vì đời sống vật chất nhiều, nên người ấy không còn tu nữa. Vậy có phải do nghiệp lực không?

Đáp:
Người ấy bị hoàn cảnh lôi kéo, như con nít mới sanh ra có sẵn tập khí kiếp trước, mà kiếp này chưa có, rồi nó lớn lên từ từ nhiểm tập khí kiếp này, chơi các trò chơi bạo động của điện tử, nếu sau này chúng nó nắm chính quyền không biết ra sao? Bây giờ người ta bị giết là phần nhiều do những người trẻ làm ra. Con nít chơi trò chơi bạo động nguy hiểm, lâu ngày trở thành thói quen, vậy khó mà sửa được.
Hiện nay, các đồ chơi điện tử bạo động nguy hiểm có bán khắp thế giới, vì theo thị hiếu sở thích của con nít; những người sản xuất đồ chơi ấy không cần biết hậu quả ra sao, chỉ cần có tiền nhiều mà thôi. Sự ô nhiễm cũng vậy, các nhà sản xuất chỉ biết có tiền, để lại biết bao nhiêu ô nhiểm cho mọi người phải chịu.

Hỏi:
Khi cùng cực cái khó, rồi sau này cũng hết cái khó phải không?

Đáp:
Theo chu kỳ nó xoay, như điện tử xoay xung quanh nguyên tử; mặt trăng xoay xung quanh quả đất, quả đất xoay xung quanh mặt trời, mặt trời xoay xung quanh ngân hà. Bắn vệ tinh nó cũng xoay quanh, đó là lý chung. Sức của tâm cũng vậy, không bao giờ ngưng xoay. Vì vậy, Pháp Bảo Đàn nói “tất cả các pháp không có tịnh”, tức là tất cả đều đang động.
Trực chỉ nhân tâm là chỉ thẳng tất cả đều ở trong tâm mình, phát hiện tâm mình là kiến tánh thành Phật. Cho nên, không cần lý luận, mới gọi là giáo ngoại biệt truyền, nghĩa là ở ngoài giáo lý đặc biệt truyền pháp môn này. Bất lập văn tự là không qua văn tự lời nói, văn tự lời nói còn không có, làm sao có lý luận? Tức chỉ tâm người là Phật, nhưng người ta khó tin lắm.

Hỏi:
Giác ngộ là gì?

Đáp:
Giác ngộ nghĩa là Phật (tự giác, giác tha), cũng là nghĩa Bồ tát, Bồ tát dịch ra là giác ngộ hữu tình chúng sanh. Ngày xưa, có người hỏi Phật: Ngài là gì? Phật trả lời: Tôi là là người giác ngộ. Giác ngộ tiếng Ấn Độ gọi là Phật Đà, mà không gọi là người giác ngộ, rồi coi Phật như một thần linh.
Như lai, Niết bàn, giải thoát… đều là những danh từ không có thực tế. Chư Phật chư Tổ là ngộ thực tế, thực tế không thể dùng lời nói để nói, nên ông hỏi, tôi không thể nói được, mà tôi chưa ngộ. Mặc dù, tôi có ngộ hay Phật Thích Ca đã ngộ và bảy ngàn Tổ ghi ở trong Thiền tông đã ngộ cũng không thể nói cho ông biết được. Phật chỉ đường lối thực hành để cho mình đạt đến ngộ, chứ không thể đem cái ngộ nói cho mình biết. Vì không thể nói, nên cần phải ngộ mới được giải thoát.
Giác ngộ là ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh là rời khỏi chiêm bao. Nếu chưa thức tỉnh thì ở trong chiêm bao luân hồi mãi, có hiểu điều gì là hiểu theo bộ óc; ngộ là Tâm linh tự hiện, Tâm linh tự hiểu; chứ không phải bộ óc là năng hiểu, rồi có Phật tánh là sở hiểu để làm tương đối.
Tâm linh hiện lên là không có năng hiểu sở hiểu, không có năng biết và không có sở biết. Như chữ “kiến tánh”, nếu giải theo mặt chữ thì không đúng; không có năng kiến để kiến Phật tánh, nếu có năng kiến để kiến Phật tánh làm sở kiến thì có năng sở đối đãi, nên không phải là kiến tánh.
Không thể nói được chỗ ngộ, nếu nói được thì không phải ngộ; khi ngộ triệt để đồng như chưa ngộ. Tại sao? Tại cái ngộ là do cái mê, có mê rồi mới có ngộ; đến chừng ngộ thì hết mê, hết mê không còn ngộ. Cho nên, Thiền tông nói “ngộ rồi đồng như chưa ngộ”, nếu còn ôm cái ngộ thì Thiền tông gọi là tiểu ngộ, chưa phải triệt ngộ, tức là còn đi giữa đường.
Cao Phong Diệu ngộ nhưng chưa triệt để, gặp Thầy hỏi: Ban ngày ồn ào làm chủ được không?
Cao Phong Diệu đáp: được.
Thầy hỏi: ban đêm ngủ, làm chủ được không?
Cao Phong Diệu đáp: được.
Thầy hỏi: ngủ mê không có chiêm bao, vậy chủ ở đâu?
Cao Phong Diệu không trả lời được.
Thầy nói: từ đây về sau, không cần làm gì, ông mệt thì ngủ, đói thì ăn; khi ngủ thức dậy, rồi hỏi “hồi nảy, ngủ quên không có chiêm bao, chủ ở đâu?”
Như vậy, ông phải tham thêm 5 năm, cùng ngủ chung một phòng, nghe tiếng gối cây rớt xuống đất, ông ngộ triệt để (mạt hậu lao quan). Ngộ triệt để là cảnh giới ngộ trùng quan tan rã, không còn ngộ nữa.

Hỏi:
“Chỗ nào ông an thân lập mạng?” như thế nào?

Đáp:
Nếu có chỗ an thân lập mạng là không phải. Cách tham thiền: Có trời có đất, nên ông có ở đây thì ông biết, mà chưa có trời đất vậy ông biết không? – Không biết. Không biết là tham thiền được rồi. Hỏi câu câu thoại để kích thích không hiểu không biết, nhìn xem chỗ không biết đó là gì, muốn biết chỗ không biết mà biết không nổi, gọi là nghi tình. Nhìn và hỏi đồng thời.

Hỏi:
Mọi thứ đều là “không” thì như thế nào?

Đáp:
Con số 0 không phải là không, tất cả dùng đều phải nhờ nó; không phải như tư tưởng người ta là không có gì, nó muốn lớn bao nhiêu hay rút nhỏ bao nhiêu đều được. Không phải nghĩ cho chúng tôi chán đời yểm thế vào cửa “không” là chẳng có gì. Sự thật, “không” là hiển bày cái dụng, có dụng là không phải là tiêu cực.
Chính Tâm linh của mình sẵn có cái “không” gọi là Tánh không, Như lai, Niết bàn, Bát nhã… Bát nhã là dụng của “không” này, tất cả đều phải nhờ “không” mà dùng. Không phải dùng trí huệ của bộ óc để suy nghĩ, tìm hiểu rồi mới dùng; còn trí huệ Bát nhã là tự động dùng.

Hỏi:
Trong quyển sách này có nói về Thái cực quyền, vậy như thế nào?

Đáp:
Không nói rõ vế Thái cực quyền, nhưng cũng có ý trong đó. Vì Thái cực quyền để trị bệnh giống như Khí công, nhưng nó thấp hơn Khí công một chút. Vận động của Thái cực quyền, như tay đưa lên đầu thì tâm hướng đến đó. Khí công nói là khí, Thái cực quyền luyện đến cực thì cũng được phát ra khí. Mặc dù, đi quyền rất chậm, nhưng hơi rất mạnh có thể đẩy làm té người.
Đạo giáo nói ”tinh, khí, thần”, tức là tinh hóa khí, khí hóa thần. Tinh của Đạo giáo nói là tập trung ý chí của bộ óc, luyện lâu rồi phát ra làn sóng tin tức có thể trị bệnh, có thể biến đổi vật chất gọi là khí, khí tiến thêm gọi là thần. Nhưng thần của họ giống như thần thông, mà không bằng thần thông của A-la-hán. Thần thông của Đạo giáo ở phạm vi rất nhỏ trong không gian thời gian.
Thần thông của A-la-hán về không gian là 1 đại thiên thế giới, về thời gian là 8 muôn kiếp trước và 8 muôn kiếp sau.
Thần thông của Đạo giáo chỉ có 1 kiếp trước và 1 kiếp sau về thời gian, về không gian thì ở trong phạm vi Nam Thiệm Bộ Châu. Vì họ luyện tinh thần của bộ óc giữ được sinh mạng được mấy ngàn năm, có thể đến 10.000 năm, rồi cũng phải chết. Còn A-la-hán muốn giữ hoài không chết và muốn chết cũng được, tại chết là thể xác chứ Tâm linh không chết.

Hỏi:
Tâm linh và Linh hồn là như thế nào?

Đáp:
Phật giáo phủ nhận Linh hồn, vì Linh hồn tùy theo thể xác mà biến đổi; như con nít chết, Linh hồn là con nít; người lớn chết, Linh hồn là người lớn; người già chết, Linh hồn là người già. Còn Tâm linh không phân biệt lớn nhỏ già trẻ, tất cả đều là một. Mọi người chỉ biết danh từ Tâm linh, mà bản thể Tâm linh không có hình tướng, số lượng.
Tại sao gọi là Phật tánh? Vì Tâm linh có tánh giác ngộ nên đặt tên là Phật tánh. Tâm linh cùng khắp không gian, chẳng có khứ lai nên gọi là Như lai. Tâm linh cùng khắp thời gian, không có gián đoạn, không có sinh diệt gọi là Niết bàn. Tất cả danh từ Bát nhã, vô sanh, bồ đề… đều là biệt danh của Tâm linh, cũng là cái dụng của Tâm linh, chứ không phải có nghĩa khác.
Tất cả chúng sanh đều cùng một bản thể, tuy nói là một nhưng không kiến lập một. Nếu có một thì phải có hai có ba, như hư không không thể nói là một, vì ở ngoài hư không không có hư không nữa, nên không thể nói là một. Thời gian cũng vậy, như ánh sáng đèn thì cảm nhận được, nhưng Tâm linh thì không cảm nhận.
Bây giờ, ở trong chánh điện này đốt 100 cây đèn, mỗi cây đèn khác nhau, đèn lớn phát ra ánh sáng mạnh, đèn nhỏ phát ra ánh sáng yếu. Nhưng 100 cây đèn cùng chung một ánh sáng, vì mình dùng lời nói là một ánh sáng, không thể hai ánh sáng. Tại nó cùng khắp thì sự tương đối tự tiêu diệt.
Tương đối là gì? Tương đối là hữu và vô. Tất cả xẩy ra phiền não là do cái ngã, Phật giáo là phá ngã chấp. Chấp thân này là hữu ngã, khi phá được gọi là vô ngã. Cùng khắp thì hữu ngã vô ngã đều không thể thành lập.
Tại sao? Như tôi thay mặt ánh sáng đèn này là của ta, 100 cây đèn, mỗi mỗi đều phát ra ánh sáng. Nếu muốn thành lập có ta (hữu ngã) thì chỉ ra ánh cây đèn nào của ta? Chỉ ra không được. Vậy muốn thành lập hữu ngã không thể được.
Muốn thành lập vô ngã phải chỉ ra chỗ nào không phải ánh sáng đèn của ta? Chỉ ra không được. Theo khoa học, tất cả ánh sáng đều cùng khắp không gian.
Năm tôi đi Úc, có Phật tử nói “bây giờ chỉ không được, nhưng sau này khoa học phát minh cái máy, sẽ phân tích ánh sáng của mỗi cây đèn thì chỉ ra được”. Tôi nói không được. Tại sao?
Như 100 cây đèn, tôi sắp số 1, 2, 3, 4… 100, bày ra 100 cái chén không, cũng sắp 1, 2, 3, 4… 100, đem chén không số 1 sát bên đèn số 1. Nói trong chén không của số 1 chỉ có ánh sáng đèn số 1 được không? Không được. Vì nó đủ 100 ánh sáng của 100 cây đèn, không thiếu một ánh sáng nào. Rồi đem chén không số 1 đến gần chén không số 100, nói là chén không số 1 không có ánh sáng đèn số 1 được không? Không được. Nó cũng đủ 100 ánh sáng, không thiếu cái nào.
Đừng nói 100 cây đèn ở trong nhà, mà đem chén không để trên mặt trăng, vẫn là 100 ánh sáng của 100 cây đèn. Vì ánh sáng cùng khắp không gian, mặt trăng ở trong không gian. Cho nên, bao nhiêu cây đèn cùng một ánh sáng, chứ không có hai ánh sáng.
Tất cả chúng sanh cùng một Tâm linh, chứ không có hai; vì Tâm linh cùng khắp không gian thời gian, không thể chỉ ra, không thành lập tương đối.
Nhưng không phải không có 100 cây đèn, 100 cây đèn vẫn y như cũ; đèn lớn phát ra ánh sáng mạnh, đèn nhỏ phát ra ánh sáng yếu; chứ không có thay đổi, không bị mất đèn nào.
Tất chúng sanh cũng vậy, mỗi mỗi chúng sanh thông minh ngu si, giàu nghèo khác biệt; nhưng Tâm linh vẫn là một, không thể hai được, vì nó cùng khắp.

Hỏi:
Thế nào là tứ tướng?

Đáp:
Tứ tướng phàm phu gồm có 4 loại: ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng.
Ngã tướng là thân ngũ uẩn này, rồi hy sinh tiểu ngã (ngã tướng) để hoàn thành đại ngã (nhân tướng) là toàn nhân loại. Nhưng đại ngã của nhân loại chưa phải toàn chúng sanh, vì mỗi chúng sanh đều có Tâm linh, tiến thêm một bước là toàn chúng sanh (đại ngã chúng sanh hơn đại ngã nhân loại). Nhưng vẫn còn cái ngã, vì ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng đều còn ở trong thời gian, còn chấp thật thời gian thì vẫn có ngã vi tế (thọ giả tướng).
Bốn tướng của bậc Thánh đã chứng quả, cũng còn ngã tướng.
Ngã tướng của bậc Thánh có năng chứng sở chứng. Tiến thêm một bước là ngộ được năng chứng sở chứng không phải thật, nhưng lại có năng ngộ sở ngộ là nhân tướng. Tiến thêm một bước là liễu tri năng chứng sở chứng, năng ngộ sở ngộ đều chẳng phải thật; nhưng còn có năng liễu tri để liễu tri sở tri là năng chứng sở chứng, năng ngộ sở ngộ đó, gọi là chúng sanh tướng. Rồi tiến thêm một bước đến Niết bàn (Niết bàn của Tiểu thừa là tịch diệt), nhưng còn có cảnh tịch diệt để mình chứng, vì Tiểu thừa chấp pháp là có ta chứng Niết bàn, còn trụ nơi Niết bàn, gọi là thọ mạng tướng, kinh Kim Cang gọi là thọ giả tướng.
Đó là ngã tướng rất vi tế, nói đúng là bỏ ngũ uẩn ngã rồi ôm ngã Niết bàn, vậy ngã Niết bàn cũng là ta. Quả Phật thì không có ta chứng, không có năng chứng, không có sở chứng, cuối cùng gọi là vô tu vô chứng, nên nói “ngộ rồi đồng như chưa ngộ”.
Nếu còn ôm cảnh giới ngộ thì chưa đến mạt hậu lao quan trong Thiền tông, chưa đến cuối cùng vì còn có ngã vi tế, ngã vi tế lớn hơn đại ngã. Bất cứ trụ nơi nào đều không được, bởi vì bản thể là vô trụ. Lục Tổ nói “lấy vô trụ làm gốc”, Duy Ma Cật nói “từ gốc vô trụ lập tất cả pháp”. Gốc vô trụ là Tánh không của Tâm linh.

Hỏi:
Đến vô ngã thì sao?

Đáp:
Nếu không chấp ngã mà chấp vào vô ngã thì còn tương đối với cái ngã. Vừa rồi tôi nói vô ngã cũng không thành lập được, nếu trụ nơi vô ngã là có sở trụ. Vì đối với ngã nên nói vô ngã. Cái ngã không thành lập được, làm sao vô ngã được thành lập? Trong Phật pháp gọi là biên kiến (chấp vào một bên).

Hỏi:
Theo bản thể không có năng sở, nhưng chúng con là phàm phu dùng phương tiện có năng sở, như trì chú có năng sở… Nếu chúng con không dùng phương tiện, làm sao đi đến đạo được?

Đáp:
Phải rồi! Cho nên, Phật Thích Ca thuyết ra 84.000 pháp môn để cho người ta đi từ từ. Nhưng Phật Thích Ca nói ra sợ mọi người chấp là chân lý, nên phủ nhận liền. Vì đó là phương tiện tạm thời, mà bây giờ các Phật học viện, các Pháp sư đều chấp vào lời nói của Phật Thích Ca. Đó là nghịch với ý của Phật Thích Ca, vì vậy Phật chỉ nói là phương tiện.
Duy Ma Cật nói “phương tiện và trí huệ phải đi song song”. Nếu dùng phương tiện mà không có trí huệ thì bị phương tiện trói buộc. Còn dùng trí huệ mà không có phương tiện thì bị trí huệ trói buộc. Bởi vậy, muốn độ chúng sanh phải có phương tiện, nhưng phương tiện và trí huệ đi song song mới được. Tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa đều như thế, chứ không phải chỉ có kinh Duy Ma Cật thôi.

Hỏi:
Chúng con ở trong thế giới phức tạp quá, ngồi đây nhờ băng video biết được mọi thứ ở thế giới, nhưng cái biết ấy càng biết càng khổ. Vậy phải làm thế nào?

Đáp:
Cái khổ là do cái biết và suy nghĩ mà ra. Tôi có nói về nghiệp chướng phiền não: nghiệp chướng phiền não là sở suy nghĩ của tâm, tâm là năng suy nghĩ. Tâm năng suy nghĩ vốn không có nghiệp chướng phiền não, nghiệp chướng phiền não chỉ là sở, mà sở là ở ngoài tâm. Như ta là năng uống nước, nước là sở uống, đâu phải ta! Nhưng người ta chỉ biết tâm là danh từ, chứ thực thể của tâm hoàn toàn không biết.
Ví dụ 2 chân để đi, con đường gai gốc cứt sình là sở đi của 2 chân; 2 chân là của ông, con đường gai gốc cứt sình không phải của ông. Vì 2 chân của ông ham đi con đường đó nên bị gai gốc cứt sình, rồi nói cứt sình đó là của ông. Đâu phải! Nhờ tôi tìm cách rửa sạch cứt sình. Không cần, thúi cách mấy mặc kệ nó, chỉ giữ 2 chân mình đừng giẫm trên con đường đó thì không bị dính cứt sình.
Các phức tạp ấy đừng biết tới, tâm mình đừng suy nghĩ, tâm vốn trong sạch; tại ham suy nghĩ, đem cái sở cho là của mình. Năng mới là của mình, sở là ở ngoài. Cho nên, Bát nhã không cần tác ý, luôn luôn sẵn sàng hiện ra cái dùng.
Như hư không chẳng có nghĩa lý, nhưng tất cả đều phải nhờ nó hiển bày ra cái dùng. Đem cái không sẵn sàng hạn chế thành cái không của cái tách, cái bàn… rồi giải thích cái không của cái tách khác hơn cái không của cái bàn, giải thích ra rất có lý.
Cái nhà được cất lên là nhờ cái không sẵn sàng, nếu không có cái không sẵn sàng thì cái nhà làm sao dựng lên? Muốn tạo ra cái tách để dùng phải có cái không sẵn sàng. Nếu tách bể, nhà sụp đối với cái không sẵn sàng không ảnh hưởng, cho đến bom nguyên tử nổ tung làm quả đất tan nát hết, không ảnh hưởng gì đến cái không sẵn sàng.
Mặc dù, tất cả đều nhờ cái không sẵn sàng, mà không dính dáng đến nó. Tất cả vũ trụ vạn vật rất phức tạp đủ thứ dùng, nhưng đều nhờ nó mà dùng. Cho đến ông hỏi chuyện với tôi, tôi giải thích đều phải nhờ cái không này. Nếu không có cái không này thì không thể diễn bày vấn đáp. Vậy cái không này là gì? Là bản thể Tâm linh của mình, mà mình không nhìn nhận.

Hỏi:
Có phải thời gian không có chăng?

Đáp:
Không phải không có, nhưng bộ óc tưởng tượng không nổi. Thí dụ, một ngày 24 tiếng, 1 tiếng chia làm 60 phút, 1 phút chia làm 60 giây, nhà Phật đem 1 giây chia thành 60 sát na. Rồi tôi đem chia thêm 3 lần nữa, 1 sát na chia = 60 A, 1 A chia = 60 B, 1 B chia = 60 C. Khi tôi vừa nói trong hiện tại thì đã qua hết mấy trăm mấy ngàn C rồi.
Tôi chỉ chia thêm 3 lần, con số biểu thị thời gian đó thấy rõ ràng; thời gian thực tế, bộ óc không thể cảm nhận được. Nếu tôi chia 30 lần, 300 lần, 3.000 lần thì có con số biểu thị thời gian đó, nhưng bộ óc hoàn toàn không biết, bộ óc chỉ biết con số.
Mình đang ở trong thời gian đó, mà mình không biết. Vậy con số đâu phải thực tế! Bây giờ máy móc tối tân của nhà khoa học phát minh để quay video, chiếu trên tivi cho mình thấy được; tuy thấy được nhưng chưa thật biết được, đó chỉ là đoán mò thôi.

Hỏi:
Vì sao Thầy trở nên tu sĩ?

Đáp:
Ngày xưa, tôi thấy bà nội tôi chết thì tôi nghĩ tại sao lại có sự chết? Rồi tới ông già tôi chết, tôi nghĩ là sau này tôi sẽ chết. Vậy việc chết đó mình có giải quyết được không? Đến sau này thấy kinh Phật có thể giải quyết được, tôi mới xuất gia.
Nhưng bây giờ tôi phát hiện được sanh tử vốn không có. Vừa rồi có nói, chủ sinh mạng là Tâm linh, Tâm linh thì không có sanh tử.
-Thầy bây giờ có cảm thấy an lạc không?
-Tôi không nói an lạc hay không an lạc. Tại sao? Bản thể trống rỗng chẳng có gì hết. Thành ra, tôi đi tới đâu cũng như vậy thôi.

Hỏi:
Không thể nói an lạc hay không an lạc. Vậy Thầy thấy cái gì quan trọng nhất?

Đáp:
Nếu có cái gì quan trọng nhất thì không phải Tổ sư thiền. Theo Tổ sư thiền thì Tổ sư thiền cũng không quan trọng. Nếu có mục đích là có sở trụ, có sở trụ nên bị chướng ngại. Có quan trọng hay không quan trọng là tương đối, Tâm linh bất nhị chẳng có tương đối.
Tôi lấy cái tay dụ cho Tâm linh, Tâm linh là bản thể vô trụ hoạt bát vạn năng. Tay lấy tách, trà, giấy… đều được vì nó không trụ. Nếu tay trụ nơi giấy thì cái dụng của cái tay bị mất, nên lấy thứ gì cũng không được. Muốn lấy được mọi thứ thì không trụ nơi giấy.
Việc kể trên là pháp có, mà lại tay tự làm nắm tay, trong nắm tay không có gì, tức là trụ nơi pháp không. Nhưng nếu trụ nơi không cũng làm mất cái dụng của tay, nên không lấy được thứ gì. Vậy nắm tay cần phải buông ra để khôi phục cái dụng của tay.
Cho nên, tôi dạy tham thiền phát khởi nghi tình là cây chổi automatic quét sạch tất cả chấp có chấp không thì cái dụng hoạt bát vạn năng của Tự tánh hiện ra.

Hỏi:
Quét tương đối được tuyệt đối, vậy tuyệt đối là đối đãi của tương đối. Như thế là sao?

Đáp:
Nói quét, sự thật khỏi cần quét, vì muốn diễn tả nên phải nói là quét, cái gì vẫn y như cũ. Như công án “núi sông vẫn là núi sông”. Ban đầu chấp thật núi sông, rồi tiến lên một bước nữa là chấp chẳng thật núi sông, rồi cuối cùng núi sông và chẳng núi sông cũng không thật. Nhưng núi sông vẫn là núi sông, chứ không đem ý mình xen vô là thật hay không thật. Vì thật với không thật là đối đãi.

Hỏi:
Sự hiểu biết con người hữu hạn, mà sự hiểu biết của Thượng Đế vô hạn. Vậy như thế nào?

Đáp:
Thượng Đế là thần nhân tạo, tức là do người ta tạo ra; chứ không phải thật tế thiên thật, theo lý luận trong Thánh kinh rất là ấu trỉ. Bây giờ, Thượng Đế không biết ai tạo ra, nói là tự nhiên thì không đúng. Những cái Thượng Đế tạo ra rất mâu thuẩn, như nói “ai tin ta thì được lên thiên đường, ai không tin ta thì xuống địa ngục”. Những người này ông tạo ra, tại sao không tạo ra những người tin, mà tạo ra nhiều người không tin, lại phạt những người ấy xuống địa ngục, vậy có phải mâu thuẩn không!

Hỏi:
Thế nào là Thiên địa bất nhân tạo như sâu cập?

Đáp:
Người ta hiểu lầm chữ Hán, câu ấy nghĩa là Đại nhân bất nhân. Tại sao Đại nhân bất nhân? Sự thương mến (nhân) cùng khắp mọi chúng sanh, thành ra không có kiến lập cái nhân nữa, người nào cũng bằng nhau, bất nhị rồi đâu thể kiến lập. Cho nên, gọi là Đại nhân bất nhân.
Tất cả vũ trụ đã bằng nhau thì sự tương đối tự tiêu diệt, như tôi đã dùng ánh sáng đèn thí dụ: muốn thành có ngã hay vô ngã đều không được, vì tất cả cùng khắp hư không nên không có sự tương đối. Mặc dù, sự tương đối không còn, không có lý thành lập có ta hay không có ta; nhưng mỗi cây đèn vẫn y như cũ, như 100 cây đèn cùng một ánh sáng, không có hai ánh sáng; đèn lớn phát ra ánh sáng mạnh, đèn nhỏ phát ra ánh sáng yếu.
Phật pháp không thể kiến lập và tiêu diệt, kiến lập là sanh, tiêu diệt là diệt. “Bất sanh bất diệt”, Phật Thích Ca gọi là pháp Bản trụ, vốn là vậy. Nếu thêm ý kiến của mình vô là sanh, như công án “núi sông vẫn là núi sông”, nhiều người không hiểu, kể cả các nhà Phật học giảng kinh thuyết pháp cũng không hiểu.
Tại sao núi sông vẫn là núi sông? Câu đầu tiên chấp núi sông là thật, tức là ý mình cho núi sông là thật; câu thứ nhì cho núi sông là không thật; câu thứ ba núi sông vẫn là núi sông. Cho thật núi sông là ý của mình vô, chẳng phải núi sông cũng do ý của mình vô; thật hay giả là ý của mình, chứ núi sông không có thật hoặc giả. Núi sông vẫn là núi sông vậy thôi.

Hỏi:
Xin Thầy khai thị phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa?

Đáp:
Người ta in ra có 12 đại nguyện trong phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát. Họ chấp thật có ở Phổ Đà Sơn và có Quán Thế Âm ở ngoài biển trên một chiếc thuyền đi tuần, mà ai xin cầu cứu thì ngài đến cứu. Nếu thật như vậy làm sao cứu nổi? Vì biển gồm có Thái bình dương, Đại tây dương, Ấn Độ dương… đó chỉ là Nam thiệm bộ châu của tiểu thế giới. Tiểu thiên thế giới là 4 đại bộ châu, quả đất này chỉ là 1 đại bộ châu.
4 quả đất là 1 tiểu thế giới, 4 quả đất X 1.000 = 4.000 quả đất (tiểu thiên thế giới), 4.000 quả đất X 1.000 = 4.000.000 quả đất (trung thiên thế giới), 4.000.000 quả đất X 1.000 = 4.000.000.000 quả đất (đại thiên thế giới), 4.000.000.000 X 4.000.000.000 X 4.000.000.000 = tam thiên đại thiên thế giới.
Nếu Quán Thế Âm chỉ một mình đi tuần ở biển Thái bình dương, làm sao cứu nổi những người ở tam thiên đại thiên thế giới xin cầu cứu? Chỉ có một quả đất cũng không thể cứu nổi, như người ở Ấn Độ dương xin cầu cứu, mà Quán Thế Âm ở Thái bình dương, làm sao cứu được? Vì người xen vô ý trên không biết Phật pháp, họ không biết có tự tánh Quán Thế Âm ở chính mình. Tâm mình có sức dụng bất cứ bao xa ở trên một niệm (qua đường ngầm thời gian không có con số, nên nói tốc độ ánh sáng là thấp nhất).
Nhưng họ không biết Phật pháp, chấp có một Quán Thế Âm ngồi trên thuyền để cứu người. Nếu vậy người ta ở nhà xin cầu cứu, làm sao cứu được? Họ không biết tự tánh Quán Thế Âm tự cứu, cho nên ở chỗ nào cũng tự cứu được. Phật Thích Ca nói “người ta thấy tôi đến rờ đầu họ để an ủi, kỳ thật tôi đâu có đến đó!” Ai cũng có tự tánh Phật mà chẳng tự tin.

Hỏi:
Ngày xưa người tham học tìm thầy học đạo rất khó, ngày nay có phương tiện đầy đủ, tìm thầy học đạo rất dễ. Tại sao người tu thời xưa ngộ đạo nhiều hơn người tu thời nay?

Đáp:
Vì người học đạo thời nay có trí thức logic quá mạnh, cái gì cũng phải hợp với logic. Nhưng Tâm linh không hợp với logic, mà siêu việt logic; vậy không thể dùng logic để hiện Tâm linh, hiện ra Tâm linh gọi là kiến tánh.
Logic nghịch với Tâm linh nên làm chướng ngại Tâm linh hiện ra, tức là hiển thịnh ẩn suy. Thời nay, hiển thịnh quá, ẩn phải suy nên khó kiến tánh; thời xưa, ẩn thịnh thì hiển suy nên dễ kiến tánh hơn.

Hỏi:
Phật pháp bất ly thế gian giác, nhưng câu thoại đầu hay công án thích hợp với thời đại nông nghiệp thiếu vật chất của ngày xưa. Ngày nay, là thời đại khoa học tiến bộ thì chúng ta phải có những công án và câu thoại đầu khác, phương pháp tu hành khác để phù hợp trong hoàn cảnh hiện tại. Xin Thầy khai thị?

Đáp:
Tôi đã nói, sau đời nhà Tống ở Trung Quốc, dạy thoại đầu hay công án là bất đắc dĩ. Trước đời nhà Tống không dùng công án hay thoại đầu để dạy người, mà dùng các cơ xảo để dạy người.
Như Phật Thích Ca có cơ xảo “niêm hoa thị chúng”… cơ xảo của chư Tổ là: người tham học vào cửa, Lâm Tế liền hét; người tham học vừa vào cửa, Đức Sơn liền đánh… với niêm hoa thị chúng không khác.
Vì Truyền Đăng Lục ra đời nên người ta biết hết, thành ra chư Tổ không thể dùng cơ xảo được, bất đắc dĩ dạy tham công án, tham thoại đầu.

Hỏi:
Sao thời nay không dùng cơ xảo khác?

Đáp:
Cơ xảo đã dùng không được, mà nói cơ xảo gì nữa! Trước đó, 5 phái có mỗi cơ xảo đặc biệt, đến chừng cơ xảo dùng không được thì 5 phái dùng chung công án và thoại đầu, không có gì khác. Vì dùng cơ xảo chửi mắng, đánh đập… dùng cách nào, nhưng người ta không phát lên nghi tình. Đâu phải như người Nhật Bản cho thoại đầu, công án là pháp cố định, rồi nghiên cứu pháp đó sửa đổi như khoa học tiến bộ! Không có tiến bộ được, mà chỉ có thụt lui.

Hỏi:
Bây giờ, người Đài Loan tu Tịnh độ nhiều, vậy theo Thầy nghĩ sao?

Đáp:
Bây giờ nói tu Tịnh độ nhưng không phải Tịnh độ, chỉ là gắn cái tên mà thôi. Họ chỉ tụng kinh gõ mõ cho là Tịnh độ. Tụng kinh, gõ mõ đâu phải Tịnh độ? Rồi cho niệm Phật là Tịnh độ! Tịnh độ có tín, nguyện, hạnh và cũng có thiền, nhưng người ta không biết. Thật tướng niệm Phật là thiền, trì danh niệm Phật đến nhất tâm bất loạn cũng là thiền.
Có người không biết Tịnh độ có thiền, mà lại phỉ báng thiền; rồi cho mình không phải thiền. Cho nên, ở Việt Nam, tôi giảng các trường Phật học Tăng Ni sinh nghe ngơ ngác. Tịnh độ là thiền, mà lại nói là thiền tịnh song tu! Cứ cho mình không phải thiền, Tổ sư thiền mới là thiền; thành ra phải thiền tịnh song tu!
Những người ấy làm bậy, Tịnh độ còn không biết, làm sao biết đến thiền được! Vì vậy, bây giờ rất khó nói. Tăng Ni sinh trường Phật học có hỏi điều gì thì tôi giải đáp điều ấy, hỏi Tịnh độ thì tôi dạy Tịnh độ, hỏi Chỉ quán thiền thì tôi dạy Chỉ quán thiền, không phải bắt buộc người ta tu Tổ sư thiền.

Hỏi:
Tổ sư thiền có thỏa mãn cho người trí thức không?

Đáp:
Tổ sư thiền không thỏa mãn cho người trí thức, mà lại quét sạch trí thức.
-Rốt ráo nhất là ở chỗ nào?
-Rốt ráo nhất như tôi đã giải thích về Tánh không của Tâm linh không có nghĩa lý, rồi con người mới đặt ra nghĩa lý; cũng như cái “không” của tách, dĩa, nhà… họ giải ra nghĩa lý rất đúng. Nhưng cái “không” sẵn sàng chẳng có nghĩa lý.

Hỏi:
Những người không tin tưởng đạo của mình, rồi tìm đến đạo Phật đáp ứng các thắc mắc. Theo ý Thầy thế nào?

Đáp:
Người theo đạo Phật bây giờ rất là phức tạp, vì mỗi người dùng chủ quan của mình để giải thích Phật giáo đều nghịch ý của Phật Thích Ca. Phật Thích Ca không kiến lập lý, lời Phật vừa nói ra là tự mình liền phủ nhận. Nhưng bây giờ các nhà Phật học cho là lời Phật Thích Ca là chân lý, nếu như vậy giống như ngoại đạo. Các đạo khác kiến lập chân lý.

Hỏi:
Tại sao con “nhìn” không được?

Đáp:
Cô có nhìn thấy cái này cái kia được không?
-Con nhìn cảm thấy đau đầu quá!
-Vậy là tốt, vì công phu có tiến bộ. Còn nói nhìn không được như thế nào? Tức là nhìn không thấy gì phải không? Nhìn không thấy gì là đúng rồi. Đến khi thấy là thấy tánh (kiến tánh), bây giờ có thấy gì thì không đúng.
-Con cứ nghĩ là hành sai phải không?
-Tại do có nghĩ, tham thiền không cho nghĩ; không cho chấp cái gì cả, lời của Phật cũng không cho chấp. Lời của Phật nói ra liền phủ nhận, tự nói không có nói. Nói vậy hoài, mà nói đến đâu lại chấp đến đó; cái khó là do có chấp, phàm tất cả nói được là không phải. Lời nói của Phật và Tổ đều vậy. Chỗ thực tế không thể nói, phải ngộ mới được; lời nói là tẩy trừ các chướng ngại, để cho mình dễ kiến tánh.
Lời nói cao tột nhất trong Đại Trí Độ luận của ngài Long Thọ phân tích đến mức cuối cùng:
Hỏi: Tại sao không nói hư không rộng lớn vô biên nhận tất cả vật, mà lại nói vô sở hữu nên dung nạp tất cả vật?
Đáp: Hư không vô sỡ hữu nên mới dung nạp tất cả chúng sanh, Đại thừa, mà vô sở hữu cũng không có. Trước mắt thấy hư không chẳng có gì, nhưng tất cả vạn vật đều ở trong đó. Vì vô sở hữu được thọ nhận tất cả.
Pháp tâm tâm số không có hình chất, tại sao không thọ nhận tất cả? Pháp tâm tâm số có tướng giác tri, chẳng phải có tướng thọ nhận; mà lại không có chỗ trụ trong, ngoài, gần, xa… chỉ do tướng phân biệt mới biết có khái niệm của tâm.
Sắc pháp có chỗ trụ, vì sắc có chỗ nên biết có hư không. Tại sao? Do sắc không thọ nhận vật chất nữa, như cái bàn không thọ nhận thêm cái bàn, vì chỗ đó cái bàn đã chiếm. Biết hư không có thọ nhận vật, như hư không thọ nhận cái bàn. Cho nên, sắc trái ngược với hư không, mới biết hư không có thọ nhận. Cũng như có vô minh (không sáng) thì biết có sáng, hư không chẳng có tướng khác nữa.
Pháp tâm tâm số lại có nghĩa chẳng thọ nhận, mặc dù không có hình tướng thì đồng với hư không. Nhưng tâm có tà kiến thì chẳng thọ nhận chánh kiến, tâm chánh kiến chẳng thọ nhận tà kiến; vì có chẳng thọ, còn hư không chẳng phải vậy! Mà cái gì cũng đều thọ nhận hết.
Pháp tâm tâm số thì sanh diệt có thể đoạn dứt, hư không chẳng có tướng sanh diệt nên không đoạn dứt. Tuy pháp tâm tâm số không hình tướng giống như hư không, nhưng lại khác hư không. Cho nên, nói hư không thọ nhận tất cả.
Hỏi: Tại sao không nói hư không vô lượng vô biên thọ nhận tất cả vật, mà lại nói vô sở hữu (không có hư không) thọ nhận tất cả vật?
Đáp: Hư không chẳng có tự tướng, tại sao? Phải đợi vật thể có sắc tướng rồi nói hư không mới hiện hư không. Nếu hư không chẳng có tự tướng thì chẳng có hư không. Đã chẳng có hư không, sao lại nói hư không vô lượng vô biên!
Hỏi: Vậy ông nói có tướng thọ nhận tức là hư không, tại sao nói là chẳng có?
Đáp: Tướng thọ nhận không có tướng vật chất, tức là vật chất chẳng thể đến, gọi là hư không. Nếu có sắc thì không phải hư không, nên nói chẳng có hư không. Nếu thật hư không lúc chưa có sắc thì có hư không, nếu chưa có sắc thì có hư không là vô tướng.
Tại sao? Vì có sắc mới biết có hư không, có hư không là vì có sắc. Nếu trước có sắc sau mới có hư không thì hư không được làm ra. Làm được không phải là thường, bởi vì thành rồi phải diệt. Nếu có pháp thì bất khả đắc, vì hư không là vô tướng nên nói chẳng có hư không.
Hỏi: Nếu hư không là thường có, vì sắc nên tướng hư không hiện ra rồi chứng tỏ có hư không ư?
Đáp: Nếu hư không trước đã vô tướng thì sau cũng là vô tướng. Nếu hư không trước đã hữu tướng thì tại sao tướng ấy không có sở tướng (tức là chẳng có tướng sở hữu của hư không)? Nếu trước vô tướng, tướng cũng không có sở tướng, tướng chẳng có sở trụ. Nếu lìa tướng chẳng có tướng, vì tướng chẳng có chỗ trụ. Nếu tướng chẳng có chỗ trụ thì sở tướng chẳng có, nên tướng cũng chẳng có; lìa tướng và sở tướng đâu có pháp nào gọi là hư không!
Cho nên, hư không chẳng gọi là tướng, chẳng gọi là sở tướng, chẳng gọi là pháp, chẳng gọi là phi pháp, chẳng gọi là có, chẳng gọi là không có, chấm dứt tất cả ngôn ngữ, tịch diệt như vô dư Niết bàn, tất cả các pháp cũng như thế.
Lấy hư không để dụ cho tất cả pháp đều như vậy, chỗ này làm cho người ta khó tin. Mình thấy hư không thì trống rỗng, không có cái gì còn dễ nhận. Ngoài hư không, tất cả các pháp cũng như thế, tức là dùng hư không để thí dụ cũng như hư không vậy.
Hỏi: Nếu tất cả pháp như thế tức là hư không, tại sao dùng hư không để thí dụ?
Đáp: Nhân quả của các pháp đều là hư dối, vì vô minh mới có. Vô minh đó lừa dối chúng sanh thì chúng sanh ở nơi pháp đó sanh ra chấp trước, mà chẳng phải ở nơi hư không sanh ra chấp trước. Pháp lục trần hư dối lừa gạt tâm chúng sanh, hư không cũng là hư dối, nhưng chẳng có lừa gạt, nên không ai bị hư không lừa gạt. Tâm của chúng sanh bị sự vật hư dối lừa gạt, như ngon, dỡ, yêu, ghét… Cho nên, lấy hư không làm thí dụ.
Dùng việc thô hiện tiền để phá việc vi tế, như hư không bởi sắc mới có giả danh là hư không, chẳng phải pháp nhất định. Chúng sanh cũng như thế, chúng sanh do ngũ uẩn hợp mới có cũng là giả danh, chẳng phải pháp nhất định.
Đại thừa pháp cũng như vậy, bởi chúng sanh Tánh không, nên chẳng có Phật và chẳng có Bồ tát, vì chúng sanh chấp có nên có Phật có Bồ tát. Nếu không có Phật, không có Bồ tát thì không có Đại thừa để độ chúng sanh. Do đó, Đại thừa dung nạp vô lượng vô biên a tăng kỳ chúng sanh. Nếu thật có pháp thì không thể dung nạp vô lượng vô biên chư Phật và chúng sanh.
Hỏi: Nếu thật chẳng có hư không, tại sao dung nạp vô lượng vô biên a tăng kỳ chúng sanh?
Đáp: Do nghĩa này nên Phật thuyết Đại thừa vốn chẳng có, bởi vì hư không chẳng có thì Đại thừa cũng chẳng có, a tăng kỳ cũng không có, vô lượng cũng không có, vô biên cũng không có, tất cả pháp cũng không có, như thế mới được dung nạp.
Nói tiếng a tăng kỳ, a là tiếng Hán dịch là vô, tăng kỳ dịch là số; chúng sanh các pháp mỗi mỗi đều không được đến bờ, nên gọi là vô số. Dùng số để đo lường mười phương hư không xa gần, chẳng thể được. Phân biệt sáu ba la mật, mỗi bố thí, mỗi mỗi trì giới… đều không có số, thì Đại thừa, Tối thượng thừa cũng không có số, ấy gọi là vô số.
Mà lại có người nói số ban đầu là 1, 1 thêm 1 là 2; như thế 1 là tất cả, chẳng có số khác. Nếu tất cả đều là 1 tức là vô số vậy. Cũng có người nói tất cả pháp hòa hợp nên mới có tên gọi. Cũng như chiếc xe do trục, vành xe, vỏ xe… hòa hợp thành tên gọi là chiếc xe, thật thì chẳng có pháp nhất định.
Một pháp chẳng có thì nhiều pháp cũng chẳng có, vì trước một sau mới nhiều. Lại nữa, dùng số để đếm sự vật, vất chẳng có thì số cũng chắng có. Nói vô lượng (không thể đo lường) như dùng đấu để lường gạo, dùng trí huệ để đo lường các pháp cũng như thế.
Các pháp tánh không, nên vô số, vô số nên vô lượng, vô lượng nên vô biên, chẳng có thật trí (Tâm Kinh nói: vô trí diệc vô đắc), như thế làm sao có tướng nhất định của các pháp để đo lường! Vì vô lượng nên vô biên, lượng là tổng tướng, biên là biệt tướng; lượng là bắt đầu, biên là cuối cùng. Bắt đầu không có làm sao có cuối cùng?
Cho nên, ta cho đến kẻ biết kẻ thấy vốn chẳng có thì thực tế cũng chẳng có; thực tế chẳng có nên vô số cũng chẳng có, vô số chẳng có nên vô lượng cũng chẳng có, vô lượng chẳng có nên vô biên cũng chẳng có; vô biên chẳng có nên tất cả các pháp cũng chẳng có. Do đó, tất cả pháp rốt ráo thanh tịnh, ấy là pháp Đại thừa dung nạp tất cả vậy.
Chúng sanh và pháp, hai thứ làm nhân với nhau, nếu chẳng có chúng sanh thì chẳng có pháp; nếu chẳng có pháp thì chẳng có chúng sanh (cũng như trứng gà và con gà). Trước nói tổng tướng tất cả pháp không, sau nói biệt tướng mỗi mỗi các pháp đều không, thực tế là diệu pháp sau cùng. Cái này đã chẳng có thì cái kia làm sao có! Từ cái tánh bất khả tư nghì cho đến tánh Niết bàn cũng đều như thế.
Dùng lời nói chỉ đến chỗ này thôi, vì vậy cuốn Tâm Linh Và khoa Học có thể nói được Tâm vật hợp một, còn Phi tâm phi vật phải tự tu chứng mới được, không thể dùng lời nói. Chỗ này là dùng lời nói đến chỗ cùng tột. Đây là lời của ngài Long Thọ giải thích Bát nhã trong Đại Trí Độ luận.
Theo nghĩa này thì đại trí cũng chẳng có, nhưng “chẳng có” này là dùng lời nói để diễn tả, luôn cả “chẳng có” cũng chẳng có. Nếu chẳng có cũng chẳng có thì không phải thiệt chẳng có. Thật chẳng có thì có cái chẳng có.
Dân Vô Tận viết một bức thư hỏi Thiền sư Báo Ân: Sớ Thamh Lương của Hiền Thủ tông giải thích quyển thư 3 nói: tà kiến ở Ấn Độ có 4 thứ, Đạo nho Trung Quốc cũng có 4 thứ tà kiến, Lão Trang cũng vậy.
Lão Trang nói “lấy tự nhiên làm nhân sanh ra vạn vật” tức là tà nhân. Kinh Dịch nói “Thái cực sanh Lưỡng nghi”, Thái cực làm nhân cũng là tà nhân. Nếu nói một âm một dương gọi là Đạo sanh vạn vật cũng là tà nhân. Nếu cho một hư vô tức là vô nhân. Nghi thuyết tự nhiên của Lão Tử và thuyết tự nhiên ngoại đạo Ấn Độ khác nhau:
Thường vô dục để quán cái diệu, thường hữu dục để quán cái khiếu (năng khiếu). Nếu vô dục không phải là tài, khiếu là tinh hoa của tài. Vô dục là thường, mà có khiếu đã nhập Đạo, tại sao gọi là tà nhân?
Trung Phong giải thích: Dịch nói một âm một dương gọi là Đạo, âm dương không thể đoán biết được gọi là thành, thành đối với vạn vật gọi là diệu. Mặc dù, tịch nhiên chẳng động, nhưng cảm ứng thông thiên hạ, mà tại sao bây giờ lại phá âm dương, biến dịch âm dương cho là tà nhân? Mà lại quét luôn thần chẳng thể suy lường thì có thuyết gì, xin trả lời ở tờ giấy sau, để đoạn dứt cái nghi của tôi?
Thiền sư Báo Ân trả lời: Ngoại đạo ở Ấn Độ có rất nhiều, nhưng tóm lại không ra ngoài 4 thứ kiến (tứ cú: hữu kiến, vô kiến, diệc hữu diệc vô kiến, phi hữu phi vô kiến) thì không từ một tâm làm đạo, đạo đó không phải một tâm; cho nên nói là ngoại đạo. Nếu mà từ một tâm thì tâm không có 4 tướng này. Không lấy các pháp làm tâm thì tâm tùy theo tri kiến có khác biệt, vì vậy gọi là tà kiến.
Cũng như nói hữu thì có vô, bởi vì vô cũng là hữu. Nếu nói là vô không có thì hữu cũng không có. Như chấp lấy vô là chân lý thì hữu cũng là vô. Nếu có vô thì sanh ra kiến chấp hữu, nếu không hữu thì sanh ra kiến chấp vô; nên cũng hữu cũng vô hay chẳng phải hữu chẳng phải vô, cũng đều như vậy. Không lìa hết tri kiến thì không sáng tỏ tự tâm, không sáng tỏ tự tâm thì không biết rõ chánh đạo. Nên Kinh nói “dùng lời nói để thuyết pháp, người trí nhỏ vọng phân biệt”. Vì không rõ tự tâm, làm sao biết rõ chánh đạo?
Lại nói, có tri kiến tức là có bản, có tri kiến gì cao siêu nhất đều là có bản. Có bản là không phải tri kiến Phật, xa lìa tất cả kiến mới được thấy Phật, gọi là tri kiến Phật. Nếu theo mà quán thì tà chánh không khác nhau. Tri kiến cao nhất không phải do ngộ, ngộ thì không có tất cả tri kiến.
Nói tam giới duy tâm, tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt, cùng vạn hữu chẳng phải là có. Tất cả tập hợp lại cứu kính tịch diệt cũng chẳng phải là vô. Như nói, phi vô cũng phi phi vô, phi hữu cũng phi phi hữu; tức là 4 thứ chấp (tứ cú) đều quét hết thì tất cả lỗi lầm tiêu sạch, lý tự nhiên, lý nhân duyên đều hý luận không đúng, đều là hư vô, giả danh, không chân thật.
Lời nói dù khác, nhưng không phải là khác. Cho nên người Trung Quốc nói tam giáo là một tâm, nhưng lại khác. Còn đạo chân thật không thể dùng lời để nói phải ngộ mới biết. Vì vậy, tri kiến với ngộ cách xa. Kinh Lăng Nghiêm nói “tri kiến lập tri là căn bản vô minh, không có tri kiến gọi là Niết bàn”. Nhưng bây giờ các nhà tri thức và Pháp sư thuyết pháp Phật cũng đều chấp tri kiến.
Vì vậy muốn hoằng dương Tổ sư thiền không phải dễ! Có muốn phổ biến cũng không được, nên tôi nhấn mạnh khí công, rồi cuối cùng nói khí công chỉ biết một chút xíu trong Tâm linh thôi. Muốn biết toàn diện Tâm linh chỉ có tham Tổ sư thiền, chứ không có cách nào hết. Vì khí công mà người ta dễ tin, đến khi khí công giải quyết không được, phải tìm đến Tổ sư thiền. Còn bây giờ không thể bắt buộc người ta tu Tổ sư thiền.
Những người gặp Tổ sư thiền là kiếp trước họ đã có tu rồi, tức đã có gieo thiện căn vô lượng kiếp trước. Kinh Kim Cang nói “Chẳng phải nơi một đức Phật, hai đức Phật… mà vô lượng vô biên đức Phật gieo trồng thiện căn, mới có được một niệm tin trong sạch”.
Cho nên, được niệm tin trong sạch đâu phải dễ! Được niệm tin đó có thể được giải thoát, những người ấy chịu tu theo đến cuối cùng giải thoát. Còn không có lòng tin, lúc ban đầu có hứng thì tu, sau hết hứng thú lại bỏ.

Hỏi:
Trên đường tu hành, khi tinh tấn, lúc dãi đãi và lọt vào vô ký. Việc ấy như thế nào?

Đáp:
Kinh Lăng Nghiêm nói “tri giác là chúng sanh”. Trong thế giới hiện hữu, mình cho cọp, beo, sư tử là ác thú; nhưng chúng nó không bao giờ giết hại đồng loại, chúng nó khi đói mới giết hại loại khác để làm lương thực, còn khi chúng nó không đói không bao giờ giết hại. Con người bình thường giết hại loại khác, như cá và súc vật… thành thói quen giết hại đồng loại. Con người hiểu biết cao rộng nên tâm độc, theo Phật pháp nói là do ngã chấp.
Bây giờ, thế giới không bao giờ ngưng chiến tranh, do hiểu biết của mình rồi lập ra chủ trương riêng; tức là dùng bộ óc làm chủ, bộ óc phải qua ngũ giác quan (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân). Mắt muốn xem cái đẹp, tai thích nghe tiếng khen, mũi ưa ngửi mùi thơm, lưỡi ham nếm đồ ngon và thân khoái xúc êm dịu. Tất cả đều theo dục vọng của mình để thỏa mãn là do hiểu của bộ óc. Khi thỏa mãn không được rồi sanh giết hại, nếu có thỏa mãn nhiều cũng giết hại.
Phật muốn chấm dứt cái chủ quyền của bộ óc, để cho Phật tánh làm chủ dẹp tất cả mấy cái kia. Theo ông hỏi là cái tri kiến, Phật muốn giải quyết cái chủ đề; tức là đem chủ quyền bộ óc giao cho Phật tánh làm chủ, Phật tánh chỉ có thiện. Mình tu mục đích cuối cùng đạt đến kiến tánh thành Phật là để Phật tánh làm chủ.
Những người không có mục đích như đây, hoặc vì có hứng thú, lúc có hứng thú thì siêng năng, hết hứng thú thì dãi đãi; có khi bị ngoại cảnh lôi kéo làm cho dãi đãi. Sự thật việc này có thể sửa đổi, nên Phật dạy tu tập dần dần. Phật thuyết 84.000 pháp môn cho mình chọn thích hợp tu tập dần dần, chứ không phải làm được liền.
Nhưng người ta không chịu, nhất là Tổ sư thiền; người ta tu Tịnh độ mấy chục năm không thấy gì mà chẳng ai hỏi, còn người tu Tổ sư thiền được vài ngày, có người hỏi “có thấy gì không?” Người ta có ý bài xích phỉ báng. Hiện nay, tôi hoằng dương Tổ sư thiền, thấy rất khó. Nhưng tôi tận sức hoằng pháp, người nào chịu theo được lợi ích, người nào không chịu theo thì mất lợi ích.
Vấn đề sanh tử là của chính mình, đâu phải của người khác! Tôi dạy người giải thoát sanh tử để được tư do tự tại. Muốn đạt đến tự do tự tại phải triệt chủ quyền của bộ óc. Nếu bộ óc làm chủ thì không bao giờ được tự do tự tại.
Nhưng mà bây giờ nhân loại lấy bộ óc làm chủ. Nhà chính trị chủ trương theo bộ óc giết chết biết bao nhiêu triệu người, họ không thấy động tâm gì hết; mà xúi những người đi giết rồi cho là anh hùng, tăng chức. Chỉ có ông Vệ không cho bộ hạ nổ súng, như vậy ở Trung Quốc biết được là xử tử liền.

Hỏi:
Một người qua hành động giết hại cho là anh hùng, vậy sự giết hại, họ có tội không?

Đáp:
Có tội. Người có quyền sai khiến bị tội nặng nhất, người chấp hành đi làm chịu tội nhẹ. Như ông Vệ không chấp hành cũng sống vậy, mà tất cả lính không bị chết; các lính bạn của ông đi đánh gặc chết hết một phân nửa, vì không bắn người ta chết thì người ta không bắn lại mình chết.
Chư Phật, Tổ nói “người khác lừa gạt mình thì cái hại nhỏ, mà chính mình lừa gạt mình thì cái hại lớn”. Tất cả đều do chính mình lừa gạt sanh ra cái hại, tức là do bộ óc gọi là vô minh.
Một người Mỹ hỏi tôi: có tin một Thánh nào hay tin mình?
Tôi trả lời: tất cả đều không tin, luôn cả chính mình cũng không tin.
Người ấy nghe tôi giải đáp bớt đi phiền não.

Hỏi:
Có Phật tử tu hai, ba pháp môn cùng một lúc; khi tham thoại đầu thì họ sẽ đi về đâu?

Đáp:
Tùy cái nghiệp kéo đi, nghiệp nào nặng thì thọ sanh về nơi đó. Như làm ác nhiều sanh nơi ác đạo, làm thiện nhiều sanh nơi thiện đạo. Làm thiện có 3 bậc: làm thiện bậc thượng thì sanh cõi trời, làm thiện bậc trung thì sanh cõi người, làm thiện bậc hạ thì sanh cõi a tu la. Làm ác có 3 bậc: làm ác bậc thượng thì đọa xuống địa ngục, làm ác bậc trung thì đọa nơi ngạ quỷ, làm ác bậc hạ thì đọa vào loài súc sanh.
Làm thiện nhiều chừng nào thì tuổi cao chừng nấy để hưởng phước, làm ác nhiều chừng nào thì tuổi thọ dài chừng nấy để chịu quả báo khổ. Thọ mạng dài nhất là địa ngục. Mình chưa ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh thì tùy nghiệp xoay chuyển.






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |