Jump to content

Advertisements




Binh Pháp Tử Bình


54 replies to this topic

#1 VULONG1

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 191 Bài viết:
  • 143 thanks

Gửi vào 01/12/2014 - 05:21

Binh Pháp Tử Bình

Sau một thời gian nghiên cứu tôi đã tổng kết được các Binh Pháp cơ bản để nghiên cứu Tử Bình như sau:

Số 1 : “Hỷ Dụng thần thuộc về ta còn Kỵ thần thuộc về người“.

Số 2 : “Can chi trong Tứ Trụ bị khắc gần hay trực tiếp không có khả năng sinh hay khắc các can chi khác“.

Số 3 : “Các Can Chi trong tổ hợp trong Tứ Trụ không có khả năng sinh hay khắc với các Can Chi bên ngoài tổ hợp và ngược lại, trừ các Can Chi cùng trụ không cùng bị hợp khi tính điểm vượng trong vùng tâm nhưng nếu các trụ trong Tứ Trụ mà chỉ có tất cả các Can và Chi của các trụ này tạo thành 2 tổ hợp thì các Can Chi cùng trụ của các trụ này vẫn sinh hay khắc được với nhau“.

(Ví dụ với Tứ Trụ: Tân Tị / Bính Thân / ngày Ất Sửu / Đinh Sửu. Ta thấy Can Chi trụ năm và trụ tháng tạo thành 2 tổ hợp đó là ngũ hợp của Bính với Tân và lục hợp của Tị với Thân. Do vậy Tị vẫn khắc được Tân và Bính vẫn khắc được Thân nhưng nếu Tân và Ất đổi chỗ cho nhau thì Bính không khắc được Thân.)

Số 4 : “Hành của Can đại vận được xem như bổ xung cho hành trong Tứ Trụ, cho nên vận đó đẹp thường nó là hỷ dụng thần (nếu nó không bị thương tổn hay hợp hóa thành kỵ thần) và vận đó xấu thường nó là kỵ thần.
Chi đại vận chủ yếu dùng để xác định trạng thái vượng suy của các can chi trong Tứ Trụ và đại vận ở tại vận đó ngoài ra nếu nó hợp hóa cục thì xét thêm hóa cục này là hỷ dụng thần thì nó có lợi cho Thân còn là kỵ thần thì nó không có lợi cho Thân“.

Số 5 : “Các Can trong tổ hợp không có khả năng tác động với các Can khác bên ngoài tổ hợp và ngược lại.
Các Chi trong tổ hợp không có khả năng tác động với các Chi khác bên ngoài tổ hợp nhưng các Chi bên ngoài tổ hợp vẫn có khả năng tác động tới các Chi trong tổ hợp. Các lực tác động này có thể gây ra tốt hay xấu cho mệnh cục chỉ khi nó có đủ sức phá tan tổ hợp“.

Số 6 : “Với các tổ hợp thì lực hợp của tam hội cục là mạnh nhất sau mới tới tam hợp cục rồi tới bán hợp và cuối cùng mới là lục hợp.
Với các lực của Tứ Hành Xung thì lực xung mạnh nhất là Tý Ngọ Mão Dậu sau mới tới Dần Thân Tị Hợi, cuối cùng mới là Thìn Tuất Sửu Mùi.
Các lực của Tứ Hành Xung có thể phá được bán hợp hay lục hợp nếu lực xung của nó không nhỏ hơn lực hợp, riêng với các lực xung gần của Tý Ngọ Mão Dậu luôn luôn phá được bán hợp hay lục hợp.
Chỉ có các Thiên Khắc Địa Xung mới có thể phá được tam hợp hay tam hội, riêng Tý Ngọ Mão Dậu xung nhau gần trong Tứ Trụ có thể phá được tam hợp không hóa hoặc tam hội ngoài Tứ Trụ không hóa có 3 chi....
Chỉ có các Thiên Khắc Địa Xung trong một số trường hợp đặc biệt mới có thể phá được Ngũ Hợp của Thiên can“.

Số 7 : ...................

Số 8 : ...................

.................................

Xin mọi người tham gia với tôi để tìm ra tiếp các Binh Pháp 7; 8 ;......

Sửa bởi VULONG1: 01/12/2014 - 05:49


#2 VULONG1

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 191 Bài viết:
  • 143 thanks

Gửi vào 20/12/2014 - 03:00

Trong: “Chương 8. Địa Chi“ của cuốn “Trích Thiên Tủy“ đã viết:

“Ám xung ám hội vưu vi hỷ, bỉ xung ngã hề giai xung khởi

Nguyên chú:
Như tứ trụ cách cục không bị khuyết hãm, nhân đấy chọn ám xung ám hội, xung khởi ám thần mà lại hội hợp ám thần, người minh xung với ta minh hợp với ta đều như thế, như địa chi tý thủy đến xung khắc địa chi ngọ hỏa, địa chi dần mộc cùng với tuất thổ tam hợp hóa hỏa cục. Ấy thế nhật chủ là ta, lệnh tháng là người; đề cương là ta năm là người; tứ trụ là ta lưu niên đại vận là người; vận đồ là ta năm tháng là người. Như ta thuộc địa chi dần mộc người thuộc địa chi thân kim, thân kim có thể xung khắc dần mộc, tức là người đến xung ta; như ta thuộc địa chi tý thủy người thuộc địa chi ngọ, tý thủy có thể xung khắc địa chi ngọ hỏa, tức là ta đến xung người. Đó đều là xung khởi vậy.


Nhâm thị viết : Địa chi gặp xung vốn chẳng là điều tốt đẹp, điều đó tất nhiên dẫn đến bát tự khuyết hãm cùng cực, tứ trụ mất cân bằng. Mộc hỏa vượng, kim thủy tất không đủ; kim thủy vượng tất mộc hỏa không đủ. Bằng như nhật chủ vượng mà còn thừa lệnh thì cần nên xung mất đi bớt, nhật chủ suy nhược mà còn thiếu thì cần nên hội hợp mà sinh phù nhật chủ. Nếu như tứ trụ không gặp hợp xung, gặp tuế vận đến ám xung ám hợp lại càng hay. Tứ trụ có bệnh mà được cứu thì tốt. Tuy nhiên cần nên phân biệt cái ta xung và cái xung ta, cái lý của hội hợp cũng có đến có đi vậy. Người và ta bất tất phân chia năm tháng là người ngày giờ là ta , cũng chẳng nên phân chia tứ trụ là mình, tuế vận là người, tóm lại là khi luận đoán cần nên biết hỷ thần thuộc về ta, kỵ thần thuộc về người. Như hỷ thần là địa chi ngọ hỏa, gặp tý xung tức là người đến xung ta, rất mừng cùng với địa chi dần tuất tam hợp hỏa cục phù trợ dụng thần; lại như dụng thần là địa tý thủy, gặp ngọ xung tức là ta đến xung người, tối kỵ cùng với địa chi dần tuất tam hợp hỏa cục khắc chế dụng thần. Như hỷ thần là địa chi tý thủy có địa chi thân cùng với địa chi thìn đến tam hợp hóa thủy cục trợ giúp dụng thần tất mệnh số gặp nhiều may mắn tốt đẹp; hỷ thần thuộc địa chi hợi có đại chi mão mùi đến tam hợp hóa mộc tiết khí dụng thần tất tứ trụ có nhiều thương tổn tất gặp nhiều hung hiểm. Khá nên ta đến xung người chớ nên người đến xung ta. Ta đến xung người tất xung khởi; người đến xung ta tất xung không khởi lên được. Thủy hỏa tương xung tương hợp đều như thế, dư các loại đều suy luận như thế cả“.

Qua đoạn này chúng ta thấy tác giả Lưu Bá Ôn đã viết:

“Ấy thế nhật chủ là ta, lệnh tháng là người; đề cương là ta năm là người; tứ trụ là ta lưu niên đại vận là người; vận đồ là ta năm tháng là người“.

Còn người bình là Nhâm Thiết Tiều đã không đồng ý với tác giả Lưu Bá Ôn nên đã thay đổi cách phát biểu của Lưu Bá Ôn:

“Người và ta bất tất phân chia năm tháng là người ngày giờ là ta , cũng chẳng nên phân chia tứ trụ là mình, tuế vận là người, tóm lại là khi luận đoán cần nên biết"

và kết luận như sau:

"hỷ thần thuộc về ta, kỵ thần thuộc về người“.

Là hoàn toàn chính xác, cho nên “Binh Pháp Tử Bình số 1“ thuộc về Nhâm Thiết Tiều đã tìm ra.

Sửa bởi VULONG1: 20/12/2014 - 03:04


Thanked by 1 Member:

#3 VULONG1

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 191 Bài viết:
  • 143 thanks

Gửi vào 13/01/2015 - 10:28

Các kiến thức cơ bản về Tử Bình truyền thống:

1 - Với “Tính khắc của Ngũ Hành“ thì khắc gần, khắc trực tiếp hay khắc xa khác nhau như thế nào (trong đó các sách mới nói tới tính khắc của “Tứ Hành Xung“) ?

2 – Với "Tính chất tranh phá hợp của các thiên can và địa chi" thì các quy tắc tranh phá hợp của các tổ hợp với nhau cũng như giữa các tổ hợp và địa chi ra sao (hầu như các sách chưa nói tới) ?

3 – "Tính chất Hình, Hại và Tự Hình" thì các sách đều có nói tới (riêng cuốn "Trích Thiên Tủy", tính chất này tác giả đã bỏ đi).

Bất kỳ ai muốn nghiên cứu thành công Tử Bình thì điều đầu tiên phải thấu hiểu được 3 tính chất cơ bản của Tử Bình này.

(Tôi cũng chỉ là một người nghiên cứu Tử Bình nên những "Binh Pháp Tử Bình" mà tôi đã tìm ra được ở trên chưa phải đã hết hay đã đúng hoàn toàn.)

Sửa bởi VULONG1: 13/01/2015 - 10:39


Thanked by 1 Member:

#4 AlexPhong

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2382 Bài viết:
  • 8838 thanks

Gửi vào 13/01/2015 - 14:20

Còn vấn đề nhiều can hợp một can, nhiều chi xung hợp một chi. Vấn đề là kiểm chứng thực tế, chứ cái lý được cho là hợp lý một cách chủ quan cũng chưa chắc đã xảy ra trong thực tế.

#5 VULONG1

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 191 Bài viết:
  • 143 thanks

Gửi vào 13/01/2015 - 18:05

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

AlexPhong, on 13/01/2015 - 14:20, said:

Còn vấn đề nhiều can hợp một can, nhiều chi xung hợp một chi. Vấn đề là kiểm chứng thực tế, chứ cái lý được cho là hợp lý một cách chủ quan cũng chưa chắc đã xảy ra trong thực tế.

Ở đây tôi đang nói tới "CácTính Chất Cơ Bản của Tử Bình Truyền Thống", nếu AlexPhong thấy còn thiếu thì xin bổ xung tiếp vào đây, chứ tính chất "nhiều can hợp một can" "nhiều chi xung một chi" đều nằm trong tính chất Hợp (tính chất 2) và Khắc (tính chất 1) của can chi mà tôi đưa ra rồi.

Còn nói tới hợp lý hay không hợp lý là phải dựa vào sự suy luận đó có logic hay không chứ đâu phải ý kiến chủ quan của một ai cả. Ở đây tôi đang đả kích cái tính "Hợp Lý" của hầu như đa số các cao thủ Tử Bình từ Cổ cho đến Kim là đang luận theo cái kiểu:

1 - Các Can Chi khắc nhau gần, trực tiếp hay xa là như nhau, thích luận thế nào cũng được.

2 - Rồi thì tính chất hợp của các Can Chi cũng vậy thích thì cho nó hợp còn không thích thì lờ đi coi như trong Tử Bình không có tính chất hợp.

3 - Chưa hết họ còn tự do cho rằng Can Chi trong hợp hay ngoài hợp xung khắc nhau thoải mái.

4 - .........

Phải chăng AlexPhong cho rằng đó mới là có tính Hợp Lý, có tính logic ?

Sửa bởi VULONG1: 13/01/2015 - 18:11


Thanked by 1 Member:

#6 VULONG1

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 191 Bài viết:
  • 143 thanks

Gửi vào 14/02/2015 - 04:06

Binh pháp Tử Bình số 7:

“Các Chi nắm lệnh:

1 – Chi tháng trong Tứ Trụ thường được gọi là Lệnh tháng nó chỉ quyết định sự vượng suy của tất cả các can chi trong Tứ Trụ.
2 – Chi đại vận có thể được gọi là Lệnh đại vận vì nó quyết định sự vượng suy của tất cả các can chi trong Tứ Trụ và đại vận tại đại vận đó.
3 – Chi Lưu niên có thể được gọi là Lệnh lưu niên vì nó quyết định sự vượng suy của tất cả các can chi trong Tứ Trụ cũng như tuế vận, trừ tiểu vận ở tại Lưu niên đó (nếu can lưu niên hay can đại vận thất lệnh ở lưu niên mà nó được lệnh ở đại vận thì điểm hạn và lực khắc của nó bị giảm đi 50% so với nó được lệnh ở lưu niên, còn nếu nó thất lệnh ở cả lưu niên và đại vận thì điểm hạn và lực khắc của nó bằng không).
4 – Chi tiểu vận có thể được gọi là Lệnh tiểu vận, nó chỉ quyết định sự vượng suy của can chi tiểu vận.
5 – Chi của các tháng của Lưu niên có thể được gọi là Lệnh tháng lưu niên nó …..?"

Sửa bởi VULONG1: 14/02/2015 - 04:19


Thanked by 2 Members:

#7 KingPlace

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 815 Bài viết:
  • 1983 thanks
  • LocationHanoi

Gửi vào 25/02/2015 - 12:27

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

AlexPhong, on 13/01/2015 - 14:20, said:

Còn vấn đề nhiều can hợp một can, nhiều chi xung hợp một chi. Vấn đề là kiểm chứng thực tế, chứ cái lý được cho là hợp lý một cách chủ quan cũng chưa chắc đã xảy ra trong thực tế.

Trường hợp này có giống kiểu bốc dịch hào nhiều thì chờ khi nhập mộ sẽ hiện không? nên nhiều can hợp và xung thì không tính mà hợp chờ xung, xung chờ hợp ....?

#8 VULONG1

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 191 Bài viết:
  • 143 thanks

Gửi vào 01/03/2015 - 18:33

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Leadership, on 25/02/2015 - 12:27, said:

Trường hợp này có giống kiểu bốc dịch hào nhiều thì chờ khi nhập mộ sẽ hiện không? nên nhiều can hợp và xung thì không tính mà hợp chờ xung, xung chờ hợp ....?

Theo các ví dụ mà tôi nghiên cứu thì các Can hợp với nhau dù là nhiều hay ít là như nhau nhưng với Chi thì không đơn giản như vậy vì chúng có quá nhiều cách hợp với nhau. Do vậy tuỳ từng trường hợp mới có thể biết được những chi nào hợp được với nhau còn các chi nào thì không.

Ở trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" tôi có đưa ra một số trường hợp nhưng chưa đủ và chưa chính xác. Hiện giờ tôi vẫn đang quan tâm về trường hợp này.

Thanked by 1 Member:

#9 KingPlace

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 815 Bài viết:
  • 1983 thanks
  • LocationHanoi

Gửi vào 02/03/2015 - 10:40

VL cho hỏi kinh nghiệm của VL về hợp hóa và không hóa như thế nào .... ?

#10 VULONG1

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 191 Bài viết:
  • 143 thanks

Gửi vào 02/03/2015 - 13:48

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Leadership, on 02/03/2015 - 10:40, said:

VL cho hỏi kinh nghiệm của VL về hợp hóa và không hóa như thế nào .... ?

Ở trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi đã nói cả rồi. Nếu có thời gian xin mời Leadership vào tìm đọc trong chủ đề "Lớp Học Tử Bình sơ, trung cấp và cao cấp cho tất cả mọi người" ở mục "Tử Bình - Bát Tự", hay "Tứ Trụ" trong các trang web : "Diễn Đàn Lý Học Đông Phương" "Huyền Không Lý Số".

Thanked by 1 Member:

#11 VULONG1

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 191 Bài viết:
  • 143 thanks

Gửi vào 19/06/2015 - 21:16

Trong cuốn “Trích Thiên Tủy” tác giả đã đưa ra lý thuyết về “Tham sinh vong xung” như sau:

Nhâm thị viết : Hỉ thần, là phụ dụng thần trợ chủ. Phàm bát tự trước tiên cần phải có hỉ thần, cả đời hữu cát vô hung, cho nên hỉ thần chính là cát thần vậy. Nếu trong trụ có dụng thần và hỉ thần, tuế vận không gặp kỵ thần thì vô hại, lỡ gặp kỵ thần tất hung, như Mậu thổ sinh vào tháng Dần, lấy Giáp mộc trong Dần làm dụng thần, kỵ thần nhất định là Canh Tân Thân Dậu kim, nguyên thần nhật chủ dày, lấy Nhâm Quý Hợi Tý làm hỷ thần, thì kim gặp thủy mà tham sinh, không đến khắc mộc vậy; nguyên thần nhật chủ hư nhược, lấy Bính Đinh Tị Ngọ hỏa làm hỷ thần, thì kim sợ gặp thủy, cũng không đến khắc mộc vậy. Như thân nhược lấy Bính hỏa trong Dần làm dụng thần, hỉ thấy thấu ra thiên can, lấy thủy là kỵ thần, lấy Tỉ thổ là hỉ thần, cho nên dụng Quan dụng Ấn có phân biệt; Dụng Quan, nếu thân vượng có thể lấy Tài làm hỉ thần; thân nhược dụng Ấn, rồi sau đó lấy Quan làm hỉ thần, không có hỉ thần mà dụng thần đắc lệnh hùng tráng, đại thế kiên cố, tứ trụ an hòa, dụng thần đứng cạnh, không tranh không đố, tức gặp kỵ thần cũng không hung hiểm. Như nguyên cục không có hỷ thần, có kỵ thần (hoặc ám phục hoặc xuất hiện), hoặc đứng sát bên dụng thần, hoặc tranh hoặc đố, hoặc dụng thần không nắm lệnh, hoặc tuế vận dẫn xuất kỵ thần, trợ khởi kỵ thần, giống như quốc gia có gian thần, tư thông giặc ngoại bang, hai mặt giáp công thì hung họa lập tức đến. Luận về thổ như thế, còn lại đều luận giống vậy”.

Qua đoạn trên chúng ta thấy tác giả đã đưa ra lý thuyết: “Tham Sinh nên Vong Xung” , tức “Tham Sinh Quyên Khắc” nhưng tác giả không nói tới sinh gần hay xa có khác gì nhau không? Vậy thì chúng ta thử kiểm tra điều này qua các ví dụ xem sao?

Với ví dụ 40/T3 (Trích Thiên Tủy):

“40 - Giáp dần mậu thìn bính dần bính thân

Kỷ tị/ canh ngọ/ tân mùi/ nhâm thân/ quý dậu/ giáp tuất

Can bính toạ dần ấn thụ, sinh vào tháng quý xuân, khí hỏa có thừa, với lại gặp năm giáp dần, tất nhật chủ quá vượng. Thổ tuy đương lệnh, mà bị mộc vượng khắc, mừng gặp thân xung dần, tài tinh đắc dụng, hiềm vì can bính hỏa khắc chi thân, nên xung vô lực. Hành vận phương nam, khó khăn dị thường, đến nhâm thân, quý dậu vận trình hai mươi năm, thân kim xung dần mộc, khắc tỷ kiếp, sang nghiệp hưng gia. Trụ này tài tinh làm dụng thần”.


Với ví dụ này chúng ta chỉ cần biết là :
1 - Bính trụ giờ phải sinh xa cho Mậu và Thìn cách 1 hay 2 ngôi nên Bính trụ giờ đã không quên xung Thân cùng trụ.
2 - Vì Thân bị Bính cùng trụ khắc trực tiếp cho nên Thân không thể khắc Dần bên cạnh.

Từ đây cho thấy tác giả đã đưa ra 2 quy tắc như sau :

a – Can hay chi sinh cách ngôi vẫn khắc được các can chi khác (40/T3).
b – Can hay chi bị khắc trực tiếp không có khả năng sinh hay khắc các can chi khác (40/T3).

Với ví dụ 38/T3:

“38 - Bính tý - kỷ hợi - ất dậu - nhâm ngọ

Canh tý/ tân sửu/ nhâm dần/ quý mão/ giáp thìn/ kỷ tị

Trụ toàn dậu, hợi, tý tức khí âm hàn. Ất mộc lạnh cần sưởi ấm, có bính hỏa có thể làm dụng thần, nhâm thủy chính là khắc thần. Mừng nhờ nhâm thủy xa bính hỏa, nhâm thủy sinh trợ ất mộc, ất mộc vốn suy nhược mừng được sinh phò. Lại có kỷ thổ thấu can, có thể ngăn thủy bảo vệ bính hỏa. Thật đẹp khi can thủy mộc hỏa thổ lập nên môn hộ, tương sinh hữu tình. Địa chi ngọ hỏa chế sát tân kim tàng trong dậu, năm tháng hỏa thổ thông căn lộc vượng. Vận đông nam đều là vận tốt, tứ trụ hữu tình, hành vận hanh thông vinh quang, làm quan đến chức tổng đốc, liên đăng giáp đệ, âm dương phối hợp thật vi diệu vậy”.

Với ví dụ này ta thấy xẩy ra 2 trường hợp như sau :

Trường hợp thứ nhất :

1 - Nhâm trụ giờ sinh gần cho Ất nên không khắc được Ngọ cùng trụ (tham sinh vong xung).
2 - Dậu trụ ngày bị Ngọ khắc gần không khắc được Ất cùng trụ.
3 - Ất không bị khắc trực tiếp bởi Dậu nên khắc gần được Kỷ trụ tháng (áp dụng câu b ở ví dụ trên).
4 - Kỷ trụ tháng bị khắc gần bởi Ất trụ giờ vẫn khắc trực tiếp được Hợi cùng trụ (qua câu: “Lại có kỷ thổ thấu can, có thể ngăn thủy bảo vệ bính hỏa”).

Ta thấy câu 2 và câu 4 trái ngược với nhau nên trường hợp thứ nhất này là sai.

Trường hợp thứ hai :

1 - Nhâm trụ giờ sinh gần cho Ất nên không khắc được Ngọ cùng trụ (tham sinh vong xung).
2 - Dậu trụ ngày bị Ngọ khắc gần vẫn khắc được Ất cùng trụ.
3 - Ất bị khắc trực tiếp bởi Dậu nên không khắc gần được Kỷ trụ tháng (áp dụng câu b ở ví dụ trên).
4 - Kỷ trụ tháng không bị khắc hay bị khắc gần bởi Ất trụ giờ vẫn khắc trực tiếp được Hợi cùng trụ (qua câu: “Lại có kỷ thổ thấu can, có thể ngăn thủy bảo vệ bính hỏa”).

Với trường hợp thứ 2 này ta thấy tác giả đã đưa ra tiếp 2 quy tắc như sau :

c – Can hay chi sinh gần cho nhau thì không khắc được các can chi khác (38/T3).
d – Can hay chi bị khắc gần vẫn có khả năng khắc được các can chi khác (38/T3).

Chúng ta có thể gộp 4 quy tắc này thành 2 quy tắc như sau:

1 – Các can hay chi sinh gần cho nhau không khắc được các can chi khác (38/T3), còn các can chi sinh cách ngôi vẫn khắc được các can chi khác (40/T3).
2 – Can hay chi bị khắc gần (38/T3) vẫn khắc được các can chi khác nhưng bị khắc trực tiếp (40/T3) thì không có khả năng khắc các can chi khác.


Tôi sẽ dùng phương pháp “Xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần” của tôi để kiểm tra xem quy tắc “Tham Sinh Quên Khắc” này có đúng hay không khi áp dụng vào ví dụ 291 trong cuốn “Trích Thiên Tủy”.

“291 - Canh Thìn - Mậu Dần - Ất Dậu - Nhâm Ngọ

Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ.

Ất mộc sinh vào đầu xuân, mộc non kim cứng, hỉ nhất có giờ Ngọ chế Sát hộ thân, là Hàn Mộc hướng dương, Quan Ấn song thanh, Tài tinh sinh Quan, không phá Ấn thụ, thuần túy trung hòa. Chồng làm quan nhị phẩm, 5 con 23 cháu, cả đời không bệnh tật, vợ chồng yêu nhau, thọ hơn 80 tuổi, không bệnh mà chết, hậu duệ đều hiển quý”.

Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần theo phương pháp của tôi:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Các đại vận: Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ.

Theo sơ đồ trên thì Tứ Trụ này có Thân nhược vì Thân là mộc chỉ có 6,88đv nhỏ hơn Tài tinh thổ có tới 9đv. Tài tinh là kỵ thần số 1 (vì có số đv lớn nhất trong các kỵ thần) nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp/ Giáp tàng trong Dần trụ tháng, hỷ thần là Thủy còn kỵ thần là Hỏa, Thổ và Kim.

Theo phương pháp của tôi thì đại vận lấy chi làm trọng nên các đại vận “Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân” đều có các can là hỷ dụng thần Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp là Ất, Giáp, Quý và Nhâm. Chi là Thân, Dậu Tuất và Hợi đều là các vận hỷ thần Nhâm cường vượng, còn dụng thần Mộc đã cường vượng trong Tứ Trụ rồi nên không quá cần phải vượng ở đại vận. Do vậy 4 vận này đều là các vận hỷ dụng thần tốt đẹp cả (mặc dù trong Tứ Trụ thấu lộ Canh kim nhưng không những Tử Tuyệt trong Tứ Trụ còn suy bệnh ở đại vận Ất Hợi và Giáp Tuất nnên khả năng khắc Ất và Giáp là không đáng kể).

2 vận đầu là Đinh Sửu Bính Tý thì Đinh và Bính đều hưu tù tử tuyệt ở đại vận bị Nhâm vượng hợp khắc nên vẫn được xem là các vận hỷ dụng thần thuận lợi.

Các vận còn lại là Tân MùiCanh Ngọ đều là các vận kỵ thần thì không có gì đáng ngạc nhiên cả vì đã trên 70 tuổi rồi.

Bây giờ ta thử áp dụng quy tắc “Tham Sinh Quên Khắc” vào phương pháp của tôi xem có còn đúng hay không?

Sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần khi áp dụng quy tắc trên như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Các đại vận: Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ.

Qua sơ đồ này ta thấy Nhâm tham sinh gần cho Ất trụ ngày nên không khắc được Ngọ cùng trụ. Do vậy Ngọ mới khắc được Dậu trụ ngày nhưng Dậu bị khắc gần vẫn khắc trực tiếp được Ất cùng trụ và khắc gần được Dần ở trụ tháng. Dần trụ tháng bị khắc gần bởi Dậu nên vẫn khắc gần được Thìn ở trụ năm và khắc trực tiếp được Mậu cùng trụ. Vậy thì với trường hợp này chỉ có 2 can Mậu và Ất là bị khắc trực tiếp nên chúng không có khả năng khắc được các can chi khác, do vậy ta phải khoanh tròn chúng lại để đánh dấu nhằm tránh sai lầm trong khi tính toán.

Qua sơ đồ ta thấy Thân là vượng mà Kiêu Ấn ít và Thực Thương không nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Tân tàng trong Dậu trụ ngày, hỷ thần là Thực Thương và Tài Tinh còn Kỵ thần là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp. Điều này rõ ràng là hỷ dụng thần và kỵ thần đều ngược với Tứ Trụ trước nên các vận từ Đinh Sửu tới Nhâm Thân phải là xấu nên không thuận lợi. Điều này trái ngược với thực tế của người này nên quy tắc “Tham Sinh Quên Khắc” là hoàn toàn sai không thể chấp nhận được.

Ở đây chưa nói tới một sự vô lý là Ất trụ ngày bị khắc trực tiếp bởi Dậu cùng trụ mà vẫn nhận được sự sinh gần từ Nhâm trụ giờ.

Sửa bởi VULONG1: 19/06/2015 - 21:46


#12 giongto777

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 71 Bài viết:
  • 17 thanks

Gửi vào 25/07/2015 - 18:40

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đinh Văn Tân, on 17/02/2014 - 21:32, said:

Mời các nhà Tứ trụ cùng lý giải .
Nam nhân, 09/02/1960 DL, 16h07


Sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của Tứ Trụ này như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Qua sơ đồ này ta thấy Thân là nhược mà Thực Thương là kỵ thần số 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Ất tàng trong Mão trụ ngày (vì Ất vượng hơn Giáp tàng trong Dần trụ tháng).

Qua các ví dụ trong thực tế tôi đã xác định được Thủy đại diện cho bệnh ung thư còn như chúng ta đã biết Canh, Tân, Thân và Dậu chủ yếu đại diện cho Phổi và máu. Cho nên khi Thủy và Kim bị tổn thương nặng hoặc thiên lệch (như quá vượng hay quá nhược…) thì 2 bệnh này dễ xuất hiện.

Ở Tứ Trụ này có Tý là Thủy và Canh, Thân là Kim, vì vậy khi Thủy và Kim trong Tứ Trụ bị thương tổn nặng sẽ dễ xuất biện bệnh ung thư và Phổi (vì ở đây Thủy và Kim không được coi là quá nhược hay quá vượng).

Ta xét năm 2013 là năm người này đã bị bệnh ung thư phổi đến giai đoạn cuối vào cuối năm ra sao.

Sơ đồ tính điểm hạn năm 2013:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này ta thấy:
1 – 2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với 2 Quý ở tuế vận là tranh hợp thật nên 4 can này coi như không có. Mão trụ ngày hợp với Mùi đại vận không hóa.
2 – Dụng thần Ất vượng ở lưu niên nên có -1đh. Dụng thần Ất tàng trong Mão mà Mão hợp với Mùi đại vận không hóa được Mộc (vì không có thần dẫn) nên có 1đh (vì Mão Mùi có thể hóa được Mộc nên Giáp tàng trong Dần không thể thay thế được Ất).
3 – Nhật can Đinh vượng ở lưu niên có -1đh.
4 – Đất trên tường, Đất trên thành và Đất dịch chuyển đều có các can vượng ở lưu niên nên khắc nước Sông ở lưu niên mỗi lực có 1đh, riêng Đất dịch chuyển có can chi đều hợp với tuế vận nên điểm hạn bị giảm đi 50%đh còn 0,5đh.
5 – Lửa trong lò trụ ngày có Đinh vượng ở lưu niên nên khắc gỗ Liễu đại vận có 1đh.
6 – Tị thái tuế hợp với Thân trụ giờ không hóa được Thủy (vì 2 Quý trong tranh hợp thật, coi như không có nên không thể làm thần dẫn), vì vậy Tị hình Thân có 1đh.
7 – Dần tiểu vận có 1 cát thần và 1 hung thần nên tổng cộng có 0đh.

Tổng số chỉ có 3,5đh. Số điểm này quá thấp là không thể chấp nhận được (vì theo bảng điểm của tôi thì 4,4đh mới phải đến bệnh viện).

Để cho phù hợp với thực tế của ví dụ này thì ta giả thiết 2 Mậu hợp với 2 Quý ở đây không còn là tranh hợp thật được nữa nên 2 Mậu phải khắc được 2 Quý ở tuế vận và Quý tàng trong Tý ở trụ năm. Nếu vậy thì mỗi Mậu khắc 3 Quý nên tổng điểm khắc có max là 1,3đk sẽ gây ra 1,3đh. Do vậy mỗi Quý bị mỗi Mậu khắc có 1,3.1/3.1/2đh = 0,22đh (giảm thêm 1/2đh vì khắc trái dấu).
2 Mậu đều được lệnh và vượng ở lưu niên, còn 2 Quý đều nhược ở tuế vận nên chúng không có điểm hạn can động.
Quý lúc này có thể làm thần dẫn nên Tị hợp với Thân hóa Thủy có 0,5đh.

Tổng số cũng chỉ có 4,32đv. Số điểm này quá thấp nên cũng không thể chấp nhận được.

Ta phải giả sử tiếp là 2 Mậu hợp với 2 Quý ở tuế vận và Quý tàng trong Tý trụ năm vẫn còn là tranh hợp thật nhưng chỉ có các can của chúng là khắc được nhau mà thôi còn chúng vẫn không thể làm thần dẫn hay tạo thành các trụ Thiên Khắc Địa Xung được.
Nếu thừa nhận giả thiết này thì Tị hợp với Thân không hóa được Thủy nên Tị hình Thân có 1đh.

Tổng số có 4,82đh. Số điểm này có thể chấp nhận được vì nó phù hợp với thực tế của người này (ung thư phổi giai đoạn cuối).

Đây chính là phương pháp nghiên cứu của tôi để viết nên cuốn "Giải Mã Tứ Trụ".

Vậy thì đến đây chúng ta có thể giải thích được vì sao người này bị bệnh ung thư phổi hay không ?
Ta thấy 3 Quý đều bị 2 Mậu cường vượng ở lưu niên khắc nên Thủy bị thương tổn quá nặng (chưa nói tới nước Sông ở lưu niên cũng bị 3 loại đất có can vượng ở lưu niên khắc cho bằng cạn), còn Nhâm tàng trong Thân trụ giờ bị Mậu tàng trong tị cường vượng ở lưu niên khắc. Do vậy hầu như tất cả Thủy đều bị thương tổn nặng, đây chính là lý do vì sao bệnh ung thư đã xuất hiện.
Vì Tị khắc Thân nên Bính cường vượng trong Tị khắc Canh tàng trong Thân, vì vậy Kim cũng bị thương tổn nặng. Đây Là lý do vì sao bệnh ung thư xuất hiện ở phổi.

Qua đây chúng ta thấy nếu Tị hợp với Thân không cần thần dẫn hay cần thần dẫn nhưng không thừa nhận có tranh hợp thật vẫn hóa được Thủy thì tổng điểm hạn quá thấp là không thể chấp nhận được. Điểm hạn thấp được lý giả vì nếu Tị hợp với Thân hóa Thủy được thì Thủy cục đã hỗ trợ cho Thủy thành vượng nên không thể coi Thủy bị thương tổn nặng được thì làm sao có thể phát ra bệnh ung thư, hơn nữa Thân kim đã hóa thành Thủy thì Canh kim có bị thương tổn đâu mà bị bệnh phổi.

Từ đây đi đến kết luận rằng nếu Tị hợp với Thân hóa Thủy thì năm 2013 bệnh ung thư cho dù có xuất hiện ở năm 2012 đi chăng nữa cũng không thể nặng đến như vậy được (theo tôi bệnh ung thư chưa xuất hiện trong năm 2012 vì tổng điểm hạn năm 2012 là rất thấp).

Sơ đồ tính điểm hạn năm 2014:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy:
1 - 2 Mậu hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật nên 3 can này coi như không có.
2 - Mão trụ ngày và Mão tiểu vận hợp với Mùi đại vận hóa Mộc có -1,5đh nhưng bị Canh trụ năm vượng ở lưu niên khắc mất hết. Do vậy Canh thất lệnh nhưng vượng ở lưu niên thành động nên có 1đh và khắc Giáp lưu niên có 1đh.
3 – Trụ năm Canh Tý TKĐX với lưu niên Giáp Ngọ có (1 + 0,05)đh (vì Canh vượng ở lưu niên).
4 - Dụng thần Ất vượng ở lưu niên có -1đh.
Dụng thần Ất tàng trong Mão có 1đh (vì Mão hợp với tuế vận hóa Mộc nhưng bị Canh khắc mất hết điểm hạn).
5 - Nhật can Đinh vượng ở lưu niên có -1đh.
6 - Tý trụ năm khắc Ngọ thái tuế có 1,3đh.
7 – Lửa trong lò trụ ngày có Đinh vượng ở lưu niên khắc gỗ Liễu đại vận có 1đh. Đất dịch chuyển trụ giờ có Mậu vượng ở lưu niên khắc Kim trong cát lưu niên có 1đh.
8 – Quý tiểu vận có 1 cát thần cóv -0,13đh.

Tổng số có 5,22đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (5đh là có thể gây ra tử vong) vì bệnh ung thư đã ở giai đoạn cuối.
Vì trong Tứ Trụ có Tý xung với Ngọ thái tuế nên tai họa dễ xẩy ra vào tháng Tý.

Nhưng thực tế người này không chết vào tháng Tý mà mãi tới tháng 7 năm 2015 mới chết, trong khi tổng điểm hạn năm 2015 rất thấp không thể gây ra cái chết được.

Vậy thì tại sao lại như vậy?

VULONG

Sửa bởi giongto777: 25/07/2015 - 18:44


#13 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 18/08/2015 - 16:58

Sau đây là 2 bài viết trong chủ đề ""3 Can không bằng 1 Chi Lộc Nhận“ đúng hay sai?" trong mục "Tử Bình" của trang web này.

Bài thứ nhất :

Đây là ví dụ đầu tiên mà tôi đã chứng minh được Chi sinh cho Chi trong Tứ Trụ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 23/01/2014 - 06:08, said:

“3 Can không bằng 1 Chi Lộc Nhận“ đúng hay sai?

Sau đây là ví dụ 146 trong chương 25 : “Luận Hành Vận“ của cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“ của Từ Nhạc Ngô:

“146 – Như mệnh của Hoàng Đô Đốc:

Kỷ...................Kỷ...................Giáp...................Bính
Mùi.................Tị.....................Dần....................Dần

Các đại vận:
Mậu Thìn / Đinh Mão / Bính Thìn / Ất Sửu / Giáp Tý / Quý Hợi / Nhâm Tuất

Giáp Mộc tọa Dần, giờ lại gặp Dần, Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy, duy chỉ có Hỏa nhiều thì gặp tai họa bị cháy thiêu. Mệnh này đẹp ở chỗ Thực nhẹ Tài nặng, khí Hỏa tiết, duy cuối cùng chỉ sợ thiên lệch, quý nhiều liền muốn nối gót, hành vận vẫn cần đất của Ấn Kiếp. Vận Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất 35 năm là quá tốt đẹp, tuy mệnh tạo vốn cũng cần có vận trợ giúp vậy“.


Rõ ràng tác giả viết: “Giáp Mộc tọa Dần, giờ lại gặp Dần“ nên tác giả kết luận: “Nhật Nguyên quá vượng“, nghĩa là Thân quá vượng. Bởi vì tác giả tin vào câu mà các cổ nhân để lại là : “3 can không bằng 1 chi Lộc Nhận“ mà ở đây Dần là chi Lộc của Giáp (tức Giáp ở trạng thái Lộc tại Dần).

Chính vì cái câu “Bất Hủ“ không thể sai được này nên cho dù thực tế cho biết qua 4 vận “Vận Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất 35 năm là quá tốt đẹp“, tức là can chi đều theo phương Thủy Mộc nên có theo trường phái Can trọng hay Chi trọng đều phải kết luận Thủy và Mộc của Tứ Trụ này phải là hỷ dụng thần, tức Tứ Trụ này Thân phải nhược. Chính vì vậy tác giả không còn cách nào khác đành phải “Đẽo, Gọt“ cho nó phù hợp với Thân Vượng như sau:

Đầu tiên tác giả cho rằng : “Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy“, có nghĩa tác giả cho rằng Thân vượng mà có Thực Thương thì Thân càng vượng càng đẹp, tức là theo tác giả thì Tứ Trụ này có Thân vượng vẫn có thể lấy Tỷ Kiếp làm hỷ dụng thần cho dù Tứ Trụ này không phải ngoại cách, rõ ràng đây là một điều ngụy tạo Trắng Trợn. Chưa hết tác giả còn cho rằng: “Mệnh này đẹp ở chỗ Thực nhẹ Tài nặng, khí Hỏa tiết…“ trong khi Hỏa nắm lệnh còn có Bính thấu và được Mộc sinh. Nói chung chúng ta thấy tác giả thỏa sức “Đẽo, Gọt“ cứ như xung quanh không có ai cả ấy.

Điều này đủ để chứng minh câu “3 can không bằng 1 chi Lộc Nhân“ là sai. Vậy thì “Phương Pháp Xác Định Thân Vượng hay nhược và dụng thần“ của tôi liệu có thể giải đáp để cho thực tế phù hợp với ví dụ này hay không?

Theo phương pháp của tôi thì sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của Tứ Trụ này như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Theo sơ đồ trên thì Tứ Trụ này có Thân vượng (vì Thân Mộc lớn hơn Hỏa trên 1 điểm vượng). Nếu điểm vượng trong vùng tâm của Hỏa chỉ cần tăng thêm 0,09 đv thì Tứ Trụ này sẽ trở thành Thân Nhược, vì lúc đó Mộc có 19,04 đv không lớn hơn Hỏa 1 đv (Hỏa có 17,96 + 0,09 = 18,05 đv).

Chỉ cần dừng ở đây cũng đủ để chứng minh Tứ Trụ này có Thân chỉ hơi vượng chứ không như sách đã kết luận “Nhật Nguyên quá vượng“. Theo lý thuyết của tôi thì Chi ở trạng thái Lộc hay Nhận chỉ được thêm 4,05 hay 4,3 đv nên nếu can ở trạng thái Tử, Mộ hay Tuyệt thì chi Lộc hay Nhận của nó cũng không thể gấp 3 lần can được còn nếu can được lệnh hoặc ở trạng thái suy hay bệnh thì chi Lộc hay Nhận không thể gấp 2 lần can được.

Nhưng còn để cho Tứ Trụ này phù hợp với thực tế thì ta cũng phải “Đẽo, Gọt“ như thế nào để cho Thân phải nhược một cách hợp lý chứ không thể “Gọt, Đẽo“ mà lại “Trắng Trợn“ như sách này được.

Từ trước tới nay tôi mới tìm thấy các ví dụ chứng minh được can chi cùng trụ trong một số trường hợp có thể sinh được cho nhau cũng như điểm vượng của Kiêu Ấn trong vùng tâm có thể sinh được ½ đv của nó cho Thân chứ chưa tìm được một ví dụ nào có thể chứng minh được Chi sinh được cho Chi cũng như Can có thể sinh được cho Can.

Tương tự như can chi cùng trụ có thể sinh được cho nhau thì ở ví dụ này ta thấy Dần trụ ngày có Dần bên cạnh là trụ giờ trợ giúp nên ta có thể đưa ra giả thiết nó cũng có thể sinh được cho Tị là trụ tháng ở ngay bên cạnh một số đv nào đó là hợp lý.

Để đơn giản ta đưa ra giả thiết :

Nếu 1 chi A trong Tứ Trụ có chi bên cạnh là B mang hành sinh cho nó hay giống nó (cho dù chi B ở trong hợp hóa hay không hóa, nếu đã hóa thì hành mới và hành cũ đều có tính chất giống nhau) mà chi A lại có thể sinh được cho chi C bên cạnh nó thì điểm vượng trong vùng tâm của hành chi C sẽ được thêm ít nhất 0,09 đv (để đơn giản ta lấy 0,1 đv) chỉ khi chi A và C không bị khắc gần hay trực tiếp hay ở trong hợp (trừ khi Chi chủ khắc trực tiếp ở trong hợp).


(Vì ở đây mà lấy điểm vượng của chi Dần trụ ngày sinh cho điểm vượng của Tị trụ tháng thì phức tạp mà chưa chắc đã đúng.)

Nếu sử dụng giả thiết này thì Hỏa có 17,96 đv + 0,09 đv = 18,05 đv. Theo lý thuyết của tôi thì với số điểm này Thân chỉ có 19,04 không lớn hơn Hỏa 1 đv nên Thân không thể được coi là vượng được và dĩ nhiên như vậy thì Kiêu Ấn, Tỷ Kiếp phải là hỷ dụng thần của Tứ Trụ này nên nó phù hợp với thực tế của ví dụ này.

Bài thứ 2:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 30/01/2014 - 21:14, said:

Với ví dụ trên là ví dụ đầu tiên đã khẳng định Chi có thể sinh cho Chi ít nhất (Min) 0,09 đv trong vùng tâm. Sau đó cũng ví dụ này tôi đã thử cho
Chi sinh cho Chi cũng theo tỷ lệ ½ và 1/3 giống như Can Chi cùng trụ sinh cho nhau và thấy tỷ lệ này đã đúng cho một số ví dụ nhưng chưa thể khẳng định là tỷ lệ sinh này có phải là cao nhất (Max) hay không?

Sau đây là ví dụ số 154 trong cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“ “Chương 27 : Luận phân biệt hỷ kị của can và chi“ như sau:

154 – Mậu Ngọ / Ất Mão / Nhâm Tý / Canh Tý
Bính Thìn - Đinh Tị -Mậu Ngọ -Kỷ Mùi - Canh Thân -Tân Dậu -Nhâm Tuất

Sinh năm Thanh - Hàm Phong thứ 8, ngày 6 tháng 2 giờ Tý, là mệnh của Khương Hữu Vi
(1858-1927). Thủy mộc Thương quan, song thủy vượng mộc phù, có Mậu thổ chế thủy vì thế mộc được sinh, do đó thủ Sát chế Nhận làm Dụng thần. Ngọ vận xung Tý, chỉ nhất xung mà tạo ra lưỡng xung, Hỉ thần xung kị, danh tiếng nổi như cồn. Kỷ Mùi can chi đều thổ, đúng là Kỷ có tác dụng trợ Sát chế Nhận, nhưng Mùi vận hội Mão hóa mộc, hỷ hóa thành kị, Thươngượng. B quan động thành chế Sát. Chính biến Mậu Tuất (1898) **, 41 tuổi nhập ngay Mùi vận, may mắn lưu niên Mậu Tuất cát nên tưởng chết mà lại chạy thoát“.

Vì mục đích là muốn xác định chính xác tỷ lệ sinh của Chi cho Chi nên ở đây ta chỉ cần biết Tứ Trụ này Thân vượng hay nhược cái nào phù hợp với thực tế đã diễn ra với ví dụ này là đủ.

Ta thấy Thân mang hành Thủy mà vận Mậu Ngọ người này “…danh tiếng nổi như cồn…“ đủ để ta xác định Tứ Trụ này phải có Thân vượng. Bởi vì can chi Mậu và Ngọ của đại vận mang hành của Tài Quan (tức các hành áp chế Thân) khi tác động tới các can chi trong Tứ Trụ không hề có sự hợp hóa gì cả nên nó vẫn giữ nguyên hành của chúng.

Khi đã xác định Tứ Trụ này có Thân vượng rồi thì bước tiếp theo ta xác định điểm hạn và điểm vượng của các hành trong vùng tâm.

Sau đây là sơ đồ xác định điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm của tôi:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Theo sơ đồ trên nếu ta lấy tỷ lệ sinh của Chi sinh cho Chi là 1/2 và 1/3 thì ta thấy Thân (Thủy) có 14,28 đv không lớn hơn Thực Thương (Mộc) 1 đv nên Thân là nhược, do vậy nó không phù hợp với thực tế của ví dụ này.
Ta thấy Mộc chỉ cần giảm đi 0,05 đv còn 13,33 đv - 0,05 đv = 13,28 đv thì Thân lớn hơn Mộc đúng 1 đv nên Thân đã trở thành vượng (theo lý thuyết của tôi).

Như vậy thì rõ ràng tỷ lệ sinh 1/2 và 1/3 không đúng, do vậy nó không thể là 1/2 và 1/3 mà còn phải giảm nữa thành 1/3 và 1/5 hay 1/4 và 1/7… chẳng hạn (theo tỷ lệ số sau bằng số trước nhân với 2 rồi trừ đi 1 như: 3 bằng 2.2 -1; 5 bằng 3.2 – 1; 7 bằng 4.2 -1).

Vì tính chất đối xứng trong Vũ Trụ và trong Tử Bình nên ta có thể khẳng định rằng nếu Chi sinh được cho Chi thì Can cũng phải sinh được cho Can.

Do vậy ta thử áp dụng tỷ lệ sinh là 1/3 và 1/5 cho cả can và chi xem sao:

1 - Tý trụ ngày có 7,05 đv sinh được cho Mão trụ tháng 1/5 đv của nó là 7,05.1/5 đv = 1,41 đv. Mão trụ tháng có 9 đv nhận thêm 1,41 đv thành 10,41 đv nhưng số đv này bị giảm 1/9 vì bị Canh trụ giờ khắc cách 2 ngôi và khi đi vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 10,41.9/10 .3/5 đv = 5,62 đv.
2 - Nhâm trụ ngày có Canh trụ giờ mang hành sinh cho nó nên nó sinh được cho Ất trụ tháng 1/3 đv của nó là 3.1/3 đv = 1 đv. Do vậy Ất trụ tháng có 9 đv được thêm 1 đv thành 10 đv nhưng bị giảm 1/5 đv do bị Canh trụ giờ khắc cách 1 ngôi còn 10.4/5 đv = 8 đv.
(Chú ý: Chi hay Can chủ sinh và Chi hay Can được sinh ở đây không được bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp).

Vậy thì điểm vượng trong vùng tâm của Mộc là 5,62 đv + 8 đv = 13,62 đv. Ta thấy Thân vẫn nhược nên tỷ lệ sinh này vẫn chưa đúng.

Ta thử tiếp cho tỷ lệ sinh là 1/4 và 1/7 xem sao:

Sau khi tính toán tương tự như trên ta thấy điểm vượng của Mộc trong vùng tâm là 5,4 đv + 7,8 đv = 13,2 đv. Số điểm này đã làm cho Thân trở thành vượng phù hợp với thực tế.

Do vậy với ví dụ này đã chứng minh được khả năng của Chi sinh cho Chi và Can sinh cho Can cao nhất (Max) là 1/4 đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó mang hành sinh cho nó và 1/7 đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó cùng hành với nó chỉ khi Can hay Chi sinh và được sinh không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp.

Tỷ lệ này theo tôi có thể còn được giảm hơn nữa nếu ta lại tìm thấy một ví dụ nào đó có thể chứng minh được như ví dụ này.

Nhân tiện đây ta thử phân tích xem tác giả luận ví dụ này đúng sai ra sao:

Tác giả viết:
“Thủy mộc Thương quan, song thủy vượng mộc phù, có Mậu thổ chế thủy vì thế mộc được sinh, do đó thủ Sát chế Nhận làm Dụng thần.“

Rõ ràng ý của tác giả đã khẳng định Mậu (Thổ) là dụng thần nên mới phải luận như vậy để cho Mâu dụng thần không bị thương tổn thì mới có thể đúng cho vận Mậu Ngọ “danh tiếng nổi như cồn“. Nhưng thực chất có đúng như vậy không? Ở đây rõ ràng ta thấy Mậu bị khắc gần bởi Ất nên Mậu làm sao chế được Thủy nữa, với lại Ất Mộc nắm lệnh quá đủ vượng thì làm sao bị trôi dạt do Thủy nhiều mà cần đến Thổ để chế Thủy.

Theo phương pháp của tôi thì ở đây Thực Thương (là nhiều) ngang ngửa với Thân nên Sát không có tác dụng khi làm dụng thần mà dụng thần phải là Tài thì mới chính xác. Do vậy vào vận Mậu Ngọ Hỏa và Thổ đều cường vượng đủ sức áp chế Thân vượng nên mới “danh tiếng nổi như cồn“ như vậy.

Nói chung tất cả các sách cổ và ngay cả hầu hết các cao thủ Tử Bình bây giờ đều mắc sai lầm như tác giả này.
.....................................

Bài này tôi đã vô tình nhầm lẫn một cách đáng tiếc, đó là Nhật can Nhâm có điểm đắc địa Kình dương là 4,3 đv tại Tý trụ ngày và Tý trụ giờ nhưng tôi lại nhầm là điểm Lộc chỉ có 4,05 đv. Do vậy với số điểm đắc địa Kình dương 4,3 đv thì Tứ Trụ này có Thân là vượng nên không cần can sinh cho can và chi sinh cho chi nên tỷ lệ sinh 1/4 và 1/7 được tìm ra ở đây là không thể chấp nhận được. Cần phải tìm các ví dụ khác để xác định chính xác tỷ lệ sinh này.

Sửa bởi VULONG777: 18/08/2015 - 17:05


#14 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 24/08/2015 - 01:57

Với ví dụ số 54/T3 như sau :

54 - Giáp Tý - Bính Dần - Kỷ Tị - Tân Mùi

Ðinh mão/ mậu thìn/ kỷ tị/ canh ngọ/ tân mùi/ nhâm thân/ quý dậu/ giáp tuất

Mệnh này có mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, địa chi thủy sanh mộc, mộc sanh hỏa, hỏa sanh thổ, thổ sanh kim. Tất cả đều do chi sanh can, theo địa chi từ chi năm tý thủy sanh dần mộc đến can tân kim là kết, theo thiên can cũng chi năm tý thủy sanh giáp mộc đến can tân thì kết. Thiên địa đồng lưu. Khoa giáp liên đăng, quan lộ cực phẩm, gia đạo tề mỹ, khoa giáp liên đăng, thọ chín chục tuổi”.

Với ví dụ này chúng ta chỉ cần quan tâm tới các vận “mậu thìn/ kỷ tị/ canh ngọ” có can chi đều là Kiêu Ấn (Hỏa) và Tỷ Kiếp (Thổ) (riêng vận Canh Ngọ có Bính được lệnh còn cường vượng ở đại vận khắc Canh nên Canh coi như vô dụng) mà đẹp thì rõ ràng Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp phải là hỷ dụng thần nên Thân của Tứ Trụ này phải là nhược.

Sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược của Tứ Trụ khi chưa tính đến sự sinh của Can với Can và Chi với Chi như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Với sơ đồ này ta thấy mặc dù có Bính là Kiêu Ấn được lệnh gần Nhật can lại nhận được sự sinh từ chi cùng trụ nhưng vì Nhật can Tử Tuyệt nên Kiêu Ấn không thể sinh được 50%đv của nó cho Thân (theo quy tắc 4).

Mặt khác là mặc dù Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh nhưng Nhật can thất lệnh và Thân lại không lớn hơn Tài và Quan Sát nên Kiêu Ấn cũng không thể sinh được 50%đv của nó cho Thân (theo quy tắc 1 và 2). Do vậy Thân không lớn hơn Quan Sát là kỵ thần số 1 nên Tứ Trụ này có Thân nhược phù hợp với thực tế của ví dụ này.

Vì bài trên ta đã chứng minh được can có thể sinh được cho can và chi có thể sinh được cho chi nên mục đích của chúng ta bây giờ là phải tìm xem tỷ lệ sinh này giá trị cao nhất là bao nhiêu mà Thân của Tứ Trụ này vẫn nhược ?

Đầu tiên ta thử lấy tỷ lệ sinh này là 1/6,5 (ở đây không tính lại điểm vượng của Tân ở trụ giờ).

Sơ đồ tính toán như sau :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Theo sơ đồ này thì Thân vẫn nhỏ hơn Quan Sát nên Kiêu ấn vẫn không thể sinh được 50%đv cho Thân nên Thân vẫn nhược là phù hợp với thực tế của Tứ Trụ này.

(Sau đây ta chỉ cần quan tâm các phép tính quan trọng sau:
1 – Dần trụ tháng có 9đv bị giảm 1/9đv do bị Tân trụ giờ khắc cách 2 ngôi còn 9.9/10đv = 8,1đv. Dần có 8,1đv sinh được cho Bính cùng trụ 50%đv của nó (vì có Tý bên cạnh mang hành sinh cho nó) là 8,1.1/2đv = 4,05đv. Do vậy Bính trụ tháng có 6đv được thêm 4,05đv thành 10,05đv nhưng bị giảm 1/5đv do bị khắc cách 1 ngôi bởi Tý trụ năm còn 10,05.4/5đv = 8,04đv.
2 - Bính có can Giáp bên cạnh mang hành sinh cho nó nên nó có khả năng sinh được 1/6,5 đv của nó cho Kỷ bên cạnh là 8,04.1/6,5đv = 1,1239đv.
3 - Dần có 8,1đv có thể sinh được 1/6,5đv của nó cho Tị bên cạnh (vì Dần có Tý bên cạnh mang hành sinh cho nó) là 8,1.1/6,5đv = 1,2462đv. Tị có 3đv được thêm 1,2462đv thành 4,2462đv nhưng bị giảm 1/5đv do Tý khắc cách 1 ngôi còn 4,2462.4/5đv = 3,3969đv. Tị có Dần bên cạnh mang hành sinh cho nên Tị có thể sinh được 50%đv của nó cho Kỷ cùng trụ là 3,3969.50%đv = 1,6985đv.
4 - Kỷ có 3đv được thêm 1,2462đv do Bính bên cạnh sinh cho và 1,6985đv do Tị cùng trụ sinh cho thành (3 + 1,2462 + 1,6985)đv = 5,9447đv nhưng bị giảm 1/5đv do Giáp khắc cách 1 ngôi và giảm thêm 1/5đv do Dần cũng khắc cách 1 ngôi còn 5,9447.4/5.4/5đv = 3,8đv.
5 - Tị có Dần bên cạnh mang hành sinh cho nên Tị có thể sinh được 1/6,5đv của nó cho Mùi bên cạnh là 3,3969.1/6,5đv = 0,523đv. Mùi có 3đv được thêm 0,523đv của Tị bên cạnh sinh cho thành 3,523đv nhưng bị giảm 1/5đv do Dần khắc cách 1 ngôi và giảm thêm 1/20đv do Giáp khắc cách 3 ngôi và khi vào vùng tâm giảm tiếp 2/5đv còn 3,523.4/5.19/20.3/5đv = 1,606đv.

Vậy thì điểm vượng trong vùng tâm của Thân (Thổ) là 3,8đv + 1,606đv = 5,406đv khi thêm 4,3đv đắc địa của Kỷ ở Tị thành 9,706đv. Số điểm này vẫn nhỏ hơn Quan Sát nên Kiêu Ấn vẫn không sinh được 50%đv của nó cho Thân nên Thân vẫn nhược là phù hợp với thực tế của Tứ Trụ này.)

Nếu ta lấy tỷ lệ sinh là 1/6,4 và cách tính tương tự như trên thì Thân (Thổ) có 9,727đv. Số điểm này lớn hơn Tài và Quan Sát nên Kiêu Ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân (theo quy tắc 2). Do vậy Thân trở thành vượng (vì lớn hơn Quan Sát trên 1đv) điều này là không phù hợp với thực tế của Tứ Trụ này.

Từ ví dụ này chúng ta thấy tỷ lệ sinh này lớn nhất là 1/6,5.

Hoàn toàn tương tự với ví dụ số 52/T3 nhưng với giờ Canh Tuất (vì giờ Canh Tuất mới phù hợp với thực tế của Tứ Trụ) chúng ta tính được tỷ lệ sinh này có tỷ lệ nhỏ nhất là 1/7,28.

Nếu kết hợp 2 ví dụ này thì ta đã tìm ra quy tắc :

Chi có thể sinh cho chi và can có thể sinh cho can gần nhau với tỷ lệ trung bình là 1/7đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó mang hành sinh cho nó và 1/13đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó cùng hành với nó chỉ khi cả 3 can hay 3 chi này đều không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp.

VULONG

Sửa bởi VULONG777: 24/08/2015 - 02:27


#15 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 05/09/2015 - 05:51

Qua các ví dụ ở trên ta đã tìm thấy tỷ lệ sinh của can với can và chi với chi trung bình là 1/7đv, vì vậy ta phải xét lại “Tứ trụ 6” (trong lý thuyết của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ”) :

Ở Tứ Trụ 6 này ta dự kiến lấy 4đv đặc trưng cho trạng thái Dưỡng và Thai còn 5đv cho trạng thái Suy và Bệnh.

Tứ trụ 6 : Nam sinh ngày 12/10/1962 lúc 4,30’

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này, ta thấy:
1 – Tuất và Mùi đều bị khắc gần và không có các tổ hợp.
2 – Nhâm có 8đv bị giảm 2/5đv khi nó vào vùng tâm, nó còn 4,8đv .
3 - Dần trụ năm có 4đv được Nhâm cùng trụ sinh cho ½ đv của nó (vì Nhâm được sinh gần bởi Canh), vì vậy Dần có 8đv nhưng nó bị giảm 1/5đv bởi Canh khắc cách một ngôi và ½ đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 3,2đv.
4 - Tuất có 3đv bị giảm 1/3đv bởi Dần trụ năm khắc gần, 1/5 đv bởi Dần trụ giờ khắc cách 1 ngôi, 1/10 bởi Giáp trụ giờ khắc cách 2 ngôi và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 0,86đv.
5 - Mùi trụ ngày có 4đv bị giảm1/3đv bởi Dần trụ giờ khắc gần và 1/5đv bởi Dần trụ năm khắc cách 1 ngôi, 1/5 bởi Giáp khắc cách 1 ngôi, vì vậy nó chỉ còn 1,71đv.
6 - Dần trụ giờ có 4đv bị giảm 1/10đv bởi Canh khắc cách 2 ngôi và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó còn 2,16đv.
7 - Giáp trụ giờ có 4đv bị giảm 1/5 đv bởi Canh khắc cách 1 ngôi, vì vậy nó còn 3,2đv

Điểm vượng trong vùng tâm của các hành là :
Hỏa .........Thổ ..........Kim ...........Thủy ...........Mộc
..# ...........2,57 ...........5 .............9,8...............8,56

Ví dụ này Thiệu Vĩ Hoa đã xác định Thân nhược, vì vậy trạng thái dưỡng phải có ít nhất 4,2đv mới là hợp lý (vì trạng thái thai đã là 4,1đv). Nếu điểm vượng trong ngoặc đơn của các can chi ở trạng thái Dưỡng có 4.2 đh thì :

Điểm vượng trong vùng tâm của các hành như sau :
Hỏa .........Thổ ..........Kim ...........Thủy........... Mộc
...# .........2,65 ..........5,1 .............9,8 .............8,91
Qua số điểm vượng vùng tâm này ta thấy Thủy có thể được tăng thêm max là 0,1đv, nó có nghĩa là trạng thái suy của Quý có thể max là 5,1đv, vì vậy hành Thủy không lớn hơn hành Mộc 1đv, vì vậy Thân đã trở thành nhược.

Chúng ta đã xác định được : Trạng thái Dưỡng là min 4,2đv
Trạng thái suy max 5,1đv”.


Qua sơ đồ trên ta thấy 3 can là Canh, Quý và Giáp không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp mà Canh mang hành sinh cho Quý nên Quý có thể sinh được 1/7đv của nó cho Giáp là 5.1/7đv = 0,71đv. Vì vậy Giáp có 4đv được thêm 0,71đv thành 4,71đv nhưng bị giảm 1/5đv do Canh khắc cách 1 ngôi còn 4,71.4/5đv = 3,768đv. Nên tổng điểm vượng của Mộc ở trong vùng tâm là (3,768 + 2,16 + 3,2)đv = 9,128đv. Ta thấy Thân có 9,8đv không lớn hơn Mộc 1đv nên Thân là nhược phù hợp với dự đoán của Thiệu Vĩ Hoa nên trạng thái Dưỡng (min 5,1đv) và Suy (max 4,2đv) được tìm thấy ở đây không còn giá trị nữa.

Vậy thì ta phải đi tìm các ví dụ khác để xác định lại số điểm cao nhất hay thấp nhất của 2 trạng thái này.

Hy vọng mọi người cùng tôi đi tìm các ví dụ để xác định được chính xác số điểm cho 2 trạng thái này.

Nếu có ai đã biết qua một cuốn sách nào đó thì chỉ cần công bố số điểm của 2 trạng thái này theo tỷ lệ lấy trạng thái Đế Vượng cao nhất là 10 nhưng yêu cầu min hay max chính xác tới 1/100 (như giả dụ trạng thái Bệnh mà tôi đã tìm ra chính xác tới 1/10 là 4,8đv còn chính xác tới 1/100 max 4,83đv chẳng hạn) mà không cần phải dẫn chứng, nhưng nếu chỉ chính xác tới 1/10 thì yêu cầu phải trích dẫn đoạn xác định được hay nói về số điểm của 2 trạng thái đó.

Xin cám ơn trước.

Sửa bởi VULONG777: 05/09/2015 - 06:20







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |