Jump to content

Advertisements




Binh Pháp Tử Bình


54 replies to this topic

#46 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 19/03/2016 - 04:41

Ở tuổi 57, NSND Đặng Thái Sơn vui vẻ tự bạch :

số tôi là số cô thần, quả tú, mệnh vô chính diệu và thân cư thiên di (đại ý là số long đong, hay xê dịch), nên có gì để mà “dự báo” trong tương lai đâu?”

Sau đây là bài luận mà tôi dùng phương pháp của tôi để xác định giờ sinh của nghệ sĩ Đặng Thái Sơn.

Bước thứ nhất : Nếu Đặng Thái Sơn sinh giờ Hợi :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy Tứ Trụ này có Thân nhược mà Kiêu Ấn lớn hơn Thân 20đv nên Thân không thể nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho.
Tứ Trụ này không thể tòng Kiêu Ấn được bởi vì Kiêu Ấn chỉ có 4 can chi (cho dù Tài tinh không hiện và Thực Thương chỉ có 1 can chi Tử Tuyệt còn bị khắc gần).
Thân nhược mà Kiêu Ấn là kỵ thần nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp là Tân tàng trong Tuất ở trụ năm.

Đầu tiên ta thử xét hành vận xem giờ Hợi có phù hợp với thực tế qua các vận trình hay không ?

1 – Vận Kỷ Mùi: Can chi đều là kỵ thần nên dĩ nhiên là vận xấu, điều này phù hợp với thời kỳ bố của đương số bị kết tội là phản động, bán nước…. vì tham gia vào phong trào “Nhân Văn Giai Phẩm“ với mục đích phản đối chính quyền Hà Nội “Đặt Bục Công An Vào Giữa Trái Tim Người“ (ý phản đối cấm tự do ngôn luận, tự do báo chí,….).
2 – Vận Canh Thân và Tân Dậu : Đây là 2 vận can chi đều là dụng thần mà trong Tứ Trụ không thấu lộ Bính Đinh và Canh Tân không bị hợp nên đây là vận dụng thần lên ngôi là 2 vận huy hoàng nhất của cuộc đời đương số. Thực tế cho thấy với tài năng thực sự cùng với môi trường hầu như phi chính trị nên đương số được nhiều người giúp đỡ và tạo điều kiện cho đương số phát triển hết tài năng của mình. Kết quả bắt đầu bước vào vận Tân Dậu đương số đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật là đoạt giải nhất cuộc thi Chopin danh giá của thế giới (10/1980), được cả thế giới ca ngợi và khâm phục.
3 – Vận Nhâm Tuất : Mặc dù can chi đều là kỵ thần mà Nhâm còn cường vượng ở đại vận nhưng may mắn có Đinh cũng là kỵ thần trong Tứ Trụ hợp chặt. Do vậy vận này vẫn có thể coi là vận hỷ dụng thần, tức tốt nhiều hơn xấu.
4 – Vận Quý Hợi : Can chi đều là kỵ thần nhưng may có 2 Mậu là kỵ thần trong Tứ Trụ hợp chặt, do vậy vận này cũng có thể coi là vận hỷ dụng thần, tốt nhiều hơn xấu.
5 – Vận Giáp Tý : Can chi đều là kỵ thần mà Giáp là kỵ thần cường vượng ở đại vận mặc dù có Canh trong Tứ Trụ được lệnh nhưng nhược ở đại vận khắc cũng chỉ tốt được 1 phần nào thôi nhưng chính vì vậy mà Giáp còn lực để khắc 2 Mậu trong Tứ Trụ mới thật sự là điều tốt cho vận này. Do vậy vận này được cho là vận từ khá trở lên.
6 – Vận Ất Sửu : Can chi đều là kỵ thần mà Ất đại vận hợp chặt Canh là dụng thần trong Tứ Trụ không hóa nên đây là vận rất xấu (vì trong Tứ Trụ chỉ có mỗi một mình Canh là hành của cả hỷ lẫn dụng thần thấu lộ mà bị hợp như vậy là xấu (nếu bị khắc mới là sợ nhất) – khi còn gặp lưu niên xấu nữa thì quả là đáng ngại).

Từ đây có thể khẳng định thực tế đã trải qua của ông ta hoàn toàn phù hợp với vận trình nếu sinh là Hợi.

Còn nếu sinh vào giờ Mão thì :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Theo sơ đồ tính toán ở trên thì Tứ Trụ này có Thân vượng (vì Kiêu Ấn không lớn hơn Thân 30đv) và Tứ Trụ này cũng không thể thành cách tòng Kiêu Ấn được bởi vì có Mão là Tài tinh được lệnh và không bị khắc. Thân vượng và không thuộc ngoại cách thì dĩ nhiên Kim phải là kỵ thần.
Nếu Kim là kỵ thần thì vào vận Canh Thân và Tân Dậu có can chi đều là kỵ thần và 2 vận này không thể thành cách Độc vượng hay tòng Ấn được (vì không có Ấn cục hay Tỷ Kiếp cục) nên làm sao mà có thể đoạt giải nhất thế giới huy hoàng như vậy ?

Đến đây đủ để khẳng định Đặng Thái Sơn không thể sinh vào giờ Mão.

Bước thứ 2 : Ta thử xét xem thần sát trong Tứ Trụ này có phù hợp với đương số sinh vào 1 trong 2 giờ này hay không ?

1 - Với giờ Hợi : Ta thấy ngay là có Cô thần – Quả tú nói nên người này thường sống cô đơn cả đời. Điều này là quá đúng với Đặng Thái Sơn khi đã gần tuổi 60.
Ta thấy giờ Hợi còn có sao Văn Xương quý nhân, đây chính là 1 trong 2 sao (sao thứ 2 là Từ Quán- Học Đường) đại diện cao nhất khả năng về học thuật, bằng cấp…. Điều này lại càng đúng với Đặng Thái Sơn đã đoạt giải nhất thế giới ….

2 - Với giờ Mão : Ta thấy không có sao Văn Xương hay Từ Quán – Học Đường, chỉ có sao Hàm Trì là sao nói nên một con người có bề ngoài cũng như nội tâm hấp dẫn, thu hút người khác phái. Từ đây cho biết rõ nếu Đặng Thái Sơn sinh giờ Mão thì làm sao đoạt giải cao đến như vậy cũng như làm gì phải sống cô đơn cả đời như vậy (vì đuổi cũng không hết gái bám theo) ?

Đến đây thì Đặng Thái Sơn sinh giờ Hợi là một điều không còn gì phải bàn cãi thêm nữa.

Nhưng tại sao theo Tử Vi thì Đặng Thái Sơn phải sinh giờ Mão thì mới có Cô Thần – Quả Tú hay “Thân cư Thiên Di“ gì đó ?

Nếu như Tử Vi không đủ sức chứng minh sinh giờ Mão như tôi đã dùng Tử Bình để chứng minh sinh giờ Hợi thì có thể khẳng định Tử Vi đã bị Mô-Li-Phê (Ngụy Tạo) đi quá nhiều.

Nhưng nếu mẹ của nghệ sĩ Đặng Thái Sơn khẳng định ông ta sinh giờ Mão thì sao ?

Riêng tôi vẫn không tin bởi vì Tử Bình đã khẳng định điều này mặc dù giờ Mão và Hợi cách nhau quá xa, khó mà kết luận mẹ của ông ta nhớ sai đến như vậy.

#47 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 20/03/2016 - 21:08

Với bài luận trên tôi đã có gắng luận một cách chặt chẽ hầu như không để một kẻ hở nào để người khác có thể phản biện được nhưng hình như còn nhiều người vẫn không hiểu hay cố tình không hiểu những câu hỏi mà tôi đã đưa ra ở cuối bài luận này. Do vậy tôi đành phải giải thích như sau :

Với giờ Hợi của Tứ Trụ trên thì qua Tử Bình ta đã biết thực tế đã qua của đương số hoàn toàn phù hợp với vận trình nhưng bây giờ ta giả sử (cũng vẫn Tứ Trụ trên) với Tử Bình mà sao Văn Xương và Cô Thần-Quả Tú lại chỉ có ở giờ Mão còn giờ Hợi thì chỉ có sao Hàm Trì (tức sao Đào Hoa) thì sao ? Nếu như vậy thì ta nên chọn giờ nào và bỏ giờ nào ?

Với bất kỳ cao thủ Tử Bình nào cũng phải chọn giờ Hợi mà bỏ giờ Mão bởi vì nếu bỏ giờ Hợi thì coi như vứt bỏ môn Tử Bình vào sọt rác còn bỏ giờ Mão thì chả ảnh hưởng tới môn Tử Bình cả. Rõ ràng người xưa không coi trọng nắm với thần sát bởi vì Thần sát không thể thay thế âm dương ngũ hành trong Tứ Trụ của môn Tử Bình để xác định Thân vượng hay nhược cũng như không thể xác dịnh được đâu là hỷ dụng thần, đâu là hỵ thần để luận hành vận (chỉ luận các đại vận) hay luận tuế vận (luận cả đại vận và lưu niên) cả.

Nhưng nếu điều giả sử này có thật thì ta phải đưa ra câu hỏi vì sao giờ Hợi thì có sao Hàm Trì (Đào Hoa) còn giờ Mão lại có Văn Xương và Cô Thần – Quả Tú, chúng có nội dung trái ngược nhau đúng 180 độ so với thực tế như vậy ? Rõ ràng đây phải là một sự Ngụy Tạo có chủ ý mà người Tầu rất chi là Ngưỡng Mộ. Nhưng cũng phải thừa nhận là người đã Ngụy Tạo điều này (nếu có) thì tâm tính không quá là nham hiểm bởi vì như ví dụ này thì giờ Hợi mà có sao Đào Hoa trái ngược với đương số hầu như cả đời sống cô đơn (hoặc cảm thấy cô đơn) thì người luận dễ dàng phát hiện ra sự Ngụy Tạo có tính Nghệ Thuật này.

Do vậy nếu giả thiết với Tứ Trụ trên là như vậy thì dĩ nhiên ta phải thay đổi lại lý thuyết về an thần sát sao cho giờ Hợi phải có Văn Xương Cô Thần- Quả Tú còn giờ Mão phải có sao Hàm Trì (Đào Hoa).

Chính vì vậy tôi mới đặt câu hỏi cho Tử Vi là :

“Nhưng tại sao theo Tử Vi thì Đặng Thái Sơn phải sinh giờ Mão thì mới có Cô Thần – Quả Tú hay “Thân cư Thiên Di“ gì đó ?“

Tiếp câu hỏi sau, tôi muốn làng Tử Vì hãy luận giờ Mão xem thực tế có phù hợp với các vận trình đã qua của đương số hay không (giống như tôi đã dùng Tử Bình để luận) ? Sau đó mới có thể khẳng định sinh giờ Mão hay giờ Hợi chứ không thể đơn giản thấy giờ Mão có Cô Thần- Quả Tú và Thân cư Thiên di mà vội vàng đi đến kết luận một cách quá hồ đồ là đúng như vậy được, chính vì vậy nên tôi mới viết :

“Nếu như Tử Vi không đủ sức chứng minh sinh giờ Mão như tôi đã dùng Tử Bình để chứng minh sinh giờ Hợi thì có thể khẳng định Tử Vi đã bị Mô-Li-Phê (Ngụy Tạo) đi quá nhiều ?“.

Tức là tôi muốn ám chỉ Tử Vi đã bị ngụy tạo như tôi đã giả sử với Tử Bình ở trên.

Đến đây thì tôi hy vọng đến loại “Đầu Đất“ hay loại có trình độ “Ốc Học“ cũng phải hiểu những câu hỏi này của tôi.

Sửa bởi VULONG777: 20/03/2016 - 21:09


#48 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 12/04/2016 - 14:57

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Lutuannghia, on 07/04/2016 - 22:57, said:

Nhân cái tiêu đề " Vừa MẬU vừa CANH " ,tôi lại nhớ đến một đoạn mà Cụ Hà Uyên viết trong topic "quán Dịch Lộ Thiên " 31/8/2012 ):

" Thời Hán và thời Tống cách nhau hàng ngàn năm , thời Hán phối Mậu Kỉ với Khảm Li ,thời Tống phối Nhâm Quí với Khảm Li - biết theo thời nào đây ? Để chọn ngày giờ tốt mà hỏi việc ?"

P/s: tôi nghĩ ,đó là những việc cần thiết và thiết thực để người nghiên cứu đi sâu tìm tòi khám phá !

Nay có người cứ quan trọng hoá cái nick ảo để bắt bẻ nhau , khôi hài hết sức !

Không những nó quan trọng với kẻ học Tử Vi ,Bốc Dịch mà còn cực kì quan trọng đối với giới nghiên cứu Tử Bình .

Vương Khánh viết bài " Trăm năm mệnh lý què quặt " ( bạn Durobi= Geek dịch ra tiếng Việt ) đã là một lời cảnh báo ,nhưng có vẻ ít người quan tâm !

Trình độ Tử Bình của Vương Khánh thuộc loại ABC !

Sau đây là 2 bài viết của tôi bên trang web Lý Số Việt Nam từ cái thời "cổ xưa" đủ để chứng minh cho kết luận này:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

ửi bởi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

» 01:19, 28/02/12
Durobi bên trang web “Tử Bình Mệnh Lý” đã dịch bài : “Trăm năm mệnh lý què quặt“ của tác giả Vương Khánh có đoạn sau:

“…Làm thế nào để đoán định thành bại của cách cục, chủ yếu phải xem lập hướng điểm có thông qua được 3 cửa quan là hộ vệ, thật giả, thanh thuần hay không. Chỉ có 3 cửa quan đều thông qua thì mới tính cách cục được thành lập, không quí thì phú. 3 cửa chỉ cần 1 cửa không thông qua thì luận là không thành cách cục, án tình huống cụ thể phân làm 3 loại bán thành phẩm, thứ phẩm và phế phẩm, lấy tiêu chí này đoán định ngoài đại quí đại phú ra (đã thành cách cục) thì còn có các tầng thứ khác, hoặc tiểu phú quí, hoặc có thành tựu, hoặc bình phàm, hoặc là đồ bỏ đi, rõ ràng đâu ra đấy.

Cái gọi là 3 cửa quan : Hộ vệ, thật giả, thanh thuần, được biểu thuật như sau.

Hộ vệ : Tức là thập thần lập hướng (thập thần lập cách cục) xung quanh có hình thành một cơ chế bảo vệ hoặc ức chế hoàn thiện hay không. Lấy nguyên tắc hộ vệ hung thần thì nghịch dụng, cát thần thì thuận dụng để phán đoán thành bại.

4 hung thần : Sát, Thương, Kiêu, Kiếp cần chế cần hóa, như Thương Quan cần gặp Tài hoặc Ấn, Thất Sát cần gặp Thực hoặc Ấn hoặc Thương Nhận hợp Sát.

4 cát thần : Tài, Quan, Ấn, Thực cần được sinh và hộ vệ, như Quan tinh cần gặp Tài hoặc Ấn, Ấn tinh cần gặp Quan hoặc Tỷ.

Cát hung thần chỉ khi đã cụ bị cơ chế hộ vệ và ức chế này mới có thể kiện khang và thành tựu, và mới có thể là vật hữu dụng cho ta.

Lúc luận cách cục, hộ vệ là tối quan kiện, chúng ta chớ cho rằng thân vượng gặp Tài, Sát thì có thể thăng quan phát tài. Bạn đầu tiên phải tính : Tài này tự thân nó có an toàn, kiện khang hay không ? Sát này có thể thuần phục làm vật hữu dụng cho ta không ? Đơn lẻ chỉ mỗi thập thần thì nó chỉ là "nguyên liệu" mà thôi, chỉ khi qua sự tổ hợp hợp lý mới thành hình, tức biến thành "thành phẩm", tức Tài là tài phú, Quan là địa vị.

Ví dụ 1:
Càn tạo: Giáp Dần-Đinh Mão-Ất Sửu-Ất Dậu
Đại vận: Tân Mùi
Lưu niên: Kỷ Sửu

Thân vượng Kiếp vượng, vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng địa chi Sát có Tài sinh có thể dùng được, nhưng trên thực tế vấn đề xảy ra ngay chỗ Sát này. Thất Sát là hung thần, không có chế hóa mà lại có nguồn; mà xung quanh nhật chủ không có Ấn tinh hộ vệ, Thực Thần thì yếu nên khó dùng, không hề có chút lực để kháng kích Thất Sát, điềm đại hung. Đại vận Tân Mùi Sát thấu, ứng kỳ đến, lưu niên Kỷ Sửu bị ung thư không chữa khỏi mà chết“.


Ví dụ trên Vương Khánh luận theo Cách Cục pháp cho ta thấy cái cốt tủy mà Vương Khánh sử dụng là coi Sát, Thương, Kiêu, Kiếp luôn luôn là các hung thần nên cần được chế ngự, nếu không được chế ngự sẽ là “điềm đại hung“. Ở ví dụ trên vì Sát không được chế ngự, cho nên Vương Khánh cho rằng vào đại vận Sát (Tân) đương số bị ung thư chết thì đó chính là bằng chứng để chứng minh cho lý thuyết mà Vương Khánh đã đưa ra là đúng.

Vậy thì ta thử xem có đúng là Sát ở ví dụ trên đã gây ra tai họa này hay không ?

Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn năm Kỷ Sửu:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Qua sơ đồ này cho ta thấy Thân quá cường vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương đều ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát là Tân tàng trong Dậu ở trụ giờ. Mộc là kỵ vượng và điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi.
1 – Trong Tứ Trụ có Dậu trụ giờ hợp với Sửu trụ ngày không hóa (vì lực xung của Mão trụ tháng (có 9đv) với Dậu cách 1 ngôi nên bị giảm 1/3; và bị giảm thêm ¾ khi khắc Sửu trụ ngày còn 9.2/3.1/4 = 1,5đv là nhỏ hơn lực hợp của Sửu trụ ngày với Dậu có 4,8đv).
2 – Vào đại vận Tân Mùi có Mùi đại vận hợp với Mão trụ tháng hóa Mộc và bán hợp Tị với Dậu trong Tứ Trụ hóa Kim (Kim cục này không thể khắc được Mộc cục ở phía trên để gây ra Đại Chiến).
Tới năm Tân Sửu Kim cục trong Tứ Trụ hợp thêm với Sửu thái tuế và Dậu tiểu vận hợp với Sửu thái tuế đều hóa Kim. Chính Kim cục này khắc Mộc cục đã gây ra Đại Chiến nên Gi áp trụ năm hợp với Kỷ lưu niên mới hóa được Thổ (vì có Sửu thái tuế động dẫn hóa). Vì Mộc cục bị khắc quá nặng nên nó không còn khả năng khắc Thổ cục, vì vậy Thổ cục có thể vẫn có điểm hạn như bình thường nhưng không sinh được cho Kim cục (?)).

Giáp trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục (hoặc Kim cục trong Tứ Trụ hợp với Tuế Vận hóa Kim cục) nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại. Ta thấy Thân vẫn vượng và dụng thần vẫn không thay đổi. Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận Mộc vẫn là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi.

Kim cục và Mộc cục gây ra Đại Chiến có (0,4.5 + 0,2)đh = 2,2đh, nên Kim cục có 2,13đh, Mộc cục có 0,5đh còn Thổ cục có -0,5đh. Mùi đại vận có 0,5đh kỵ vượng.
3 - Dụng thần Tân mặc dù Tử Tuyệt ở lệnh tháng nhưng không có 0,5đh hay 1đh do Dậu hợp với tuế vận hóa cục (bởi vì hóa cục này chính là hành của dụng thần). Tân nhược ở lưu niên nên có 0đh.
4 - Nhật can Ất nhược ở lưu niên nên có 0đh.
5 – Đinh trụ tháng thất lệnh và chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Tân đại vận có 0,5đh.
Tân đại vận nhược ở tuế vận nên khắc 2 Ất trong Tứ Trụ không có điểm hạn nhưng các lực khắc này đủ làm cho 2 Ất trở thành động, vì vậy mỗi Ất có 0,5đh kỵ vượng. 2 Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Ất có -0,5đh can động.

Tổng số có 5,08đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (vì 5đh đã có thể gây ra tử vong). Nếu Mộc cục và Thổ cục cũng gây ra Đại Chiến hay Thổ cục sinh được cho Kim cục, hoặc Thổ cục không thể tạo thành do Mộc cục có trước ngăn cản thì tổng điểm hạn còn cao hơn nhiều.

Vậy thì :

1 - Tân là Sát ở đại vận nhược ở tuế vận còn bị Đinh trụ tháng là Thực thần chế ngự mà có thể gây ra tai họa này sao ?
2 - Hay ngược lại cho rằng Tân là dụng thần của Tứ Trụ nên vào đại vận Tân bị Đinh khắc chế nên dụng thần bị tổn thương mà gây ra tai họa chăng ?


Cả hai điều lý luận này đều sai, bởi vì hầu như tất cả các tai họa điều do nhiều yếu tố kết hợp gây ra, trong ví dụ này thì yếu tố Đại Chiến là quan trọng nhất (4,83đh), sau đó đến yếu tố điểm kỵ vượng (1,5đh). Nhưng đáng tiếc rằng hầu như tất cả các sách từ Cổ tới Kim đều không hề nhắc đến các khái niệm này (riêng khái niện Đại Chiến tôi đã “Chôm” được từ câu 12 trang 295 trong cuốn “Dự Đoán theo Tứ Trụ” in năm 2002 của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa (tất nhiên tôi đã mở rộng khái niệm này) : “12 - Mệnh cục, đại vận, lưu niên có 6 địa chi hợp thành hai cục khắc nhau hoặc tam hợp cục tương khắc nhau thì chủ về đại họa đến nơi, cái chết khó tránh”).

Nếu như không có Mộc cục (tức chi đại vận không phải là Mùi hay trong Tứ Trụ không có Mão) thì làm gì có Đại Chiến và dĩ nhiên làm gì có Tai Họa này (khi Kim cục và Thổ cục có điểm hạn âm). Vậy mà Vương Khánh đã khẳng định chỉ cần thấy Sát không bị chế ngự như ví dụ trên là đã đi đến kết luận tai họa do Sát gây ra. Nhưng thực chất ở đây Tân đại vận chính là Sát đã bị Thực thần là Đinh chế ngự, vậy mà Vương Khánh lại không nhìn ra hay sao ?

(còn tiếp)

Sửa bởi VULONG777: 12/04/2016 - 15:00


#49 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 12/04/2016 - 15:16

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

bởi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

» 02:49, 28/02/12
(Tiếp)

Sau đây tôi phản biện ví dụ thứ 4 của Vương Khánh:

“Càn tạo: Đinh Dậu-Quí Mão-Nhâm Ngọ-Canh Tuất

Đại vận: Mậu Tuất
Lưu niên: Mậu Tý

Mệnh này Thất Sát có nguồn ám tàng, trong kết cấu thì Thất sát không bị chế, Sát cơ trùng trùng, đại vận thấu Sát sẽ là ứng kỳ. Vận Mậu Tuất, năm Bính Tuất bị ung thư ruột, năm Mậu Tý không chữa khỏi mà chết.

Thất Sát không bị chế, không hợp trói, chỉ cần có lực và có nguồn thì tất sẽ công thân. Thiên can chỉ hung tai hoành họa có tính bất thình lình, địa chi chủ ác tật tuyệt chứng, điều này ít khi không ứng nghiệm.

Vượng suy pháp không phân thập thần cát hung, xem thì đơn giản, thực tế thì đã chặn mất nửa con đường dự đoán, càng đi càng hẹp”.


Thử xem tai họa này có phải do Thất Sát gây nên hay không khi mà rõ ràng trong Tứ Trụ này Sát là Mậu tàng trong Tuất của trụ giờ, mà Tuất đã hợp với Ngọ trụ ngày hóa Hỏa thành công, vậy mà Vương Khánh cho rằng Mậu Sát không bị hợp trói ?

Sau đây là bài luận của tôi:

Sơ đồ tính điểm hạn năm Bính Tuất (bị ung thư ruột):


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



2006 là năm Bính Tuất thuộc đại vận Mậu Tuất, tiểu vận Tân Dậu và Canh Thân. Ta xét điểm hạn ở tiểu vận Tân Dậu (vì ở tiểu vận Canh Thân có tổng điểm hạn quá thấp).
1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Tài tinh là kỵ 1, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp/ Quý ở trụ tháng.
2 – Trong Tứ Trụ có Ngọ trụ ngày hợp với Tuất trụ giờ hóa Hỏa.
Vào đại vận Mậu Tuất và lưu niên Bính Tuất có Hỏa cục trong Tứ Trụ hợp với 2 Tuất ở tuế vận hóa Hỏa. Tuất đại vận hóa Hỏa đã dẫn hóa cho Mậu đại vận hợp với Quý trụ tháng hóa Hỏa.
Bính lưu niên hợp với Tân tiểu vận không hóa.
Với sơ đồ này cùng lúc có tới 3 giả thiết (đã trở thành quy tắc chính thức) phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm (1 – Hóa cục trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục. 2 – Can trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục. 3 – Chi của đại vận và lưu niên cùng hóa cục có cùng hành và có tổ hợp của thiên can liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận).
Sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm, Thủy chỉ còn 3đv, Hỏa có 18,24đv. Thân càng nhược và dụng thần không thay đổi. Hỏa trở thành kỵ vượng.
Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, Hỏa có tới 37,24đv còn Kim có 12,95đv. Do vậy Hỏa vẫn là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi (vì kỵ Hỏa có 20đv nhiều hơn hỷ Kim). Bán hợp Hỏa có 0,5đh (2 chi trong Tứ Trụ không có điểm hạn vì đã hóa Hỏa từ khi mới sinh). Ngũ hợp Hỏa có 0,5đh. Mậu, Quý và 2 Tuất ở tuế vận, mỗi can chi có 2.0,5đh kỵ vượng.
Trụ tháng Quý Mão không thể thiên khắc địa xung với trụ năm Đinh Dậu vì Quý là can chủ khắc đã hóa cục.
4 - Dụng thần Quý bị tuế vận hợp có 1đh và nhược ở lưu niên có 0đh.
5 - Nhật can Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh.
6 - Dậu tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh và có 1 hung thần là Không Vong có 0đh (vì can của Không Vong bị hợp).

Tổng số là 4,74đh. Số điểm này chính xác đến kỳ diệu. Điều này đã khẳng định thêm một lần nữa điểm hạn của các giả thiết được sử dụng ở đây là chính xác.

Qua sơ đồ này cho ta thấy tất cả các can chi Thổ đã hóa Hỏa, vậy thì còn đâu là Thất Sát khắc Thân để có thể gây ra tai họa này ?
Thực chất của tai họa này chính là Thân quá nhược không thắng được Tài (Hỏa) cho nên vì Tài mà gặp tai họa.


Thủy suy cùng kiệt vì mất tới 2/3 đv trong khi Hỏa cực cường vượng mà Thủy đại diện cho bệnh ung thư, còn Bính, Ngọ đại diện cho ruột non, tim, máu... Mậu, Thìn và Tuất đại diện cho dạ dầy, ruột... Cho nên người này bị ung thư ruột là hợp lý.

Nếu theo Vương Khánh và các sách Kinh Điển như “Tử Bình Chân Thuyên bình chú”, “Trích Thiên Tủy”, .... là cứ cho Mậu đại vận đã hóa Hỏa rồi vẫn khắc được Quý và Nhâm thì lực khắc này có giá trị gì khi mà Mậu tử tuyệt ở cả tuế vận còn Nhâm vượng ở cả tuế vận ? Lực khắc này chả khác gì lực của một người đang hấp hối đòi đánh lại các võ sĩ đang thi đấu trên võ đài.

Qua đây cho biết Vương Khánh và đa số các cao thủ Tử Bình từ cổ tới kim không hề quan tâm tới vượng suy của các can chi khi luận chúng xung khắc với nhau cũng như chúng đã bị hợp hay không".


Qua 2 bài phản biện này liệu có đủ sức để chứng minh câu nói sau đây của Vương Khánh là sai hay không ?

"Vượng suy pháp không phân thập thần cát hung, xem thì đơn giản, thực tế thì đã chặn mất nửa con đường dự đoán, càng đi càng hẹp”

Sửa bởi VULONG777: 12/04/2016 - 15:17


Thanked by 1 Member:

#50 giongto777

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 71 Bài viết:
  • 17 thanks

Gửi vào 05/07/2016 - 06:43

Đây là ví dụ trong chủ đề "Hạn tử nhưng không chết" của saolongtri ở mục Tử Vi của trang web này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

saolongtri, on 04/07/2016 - 16:21, said:

lá số này lại gặp hận nặng trong năm 25 tuổi.Mạch đã mất hoàn toàn, bệnh viện báo gia đình chuẩn bị lo hậu táng, bác sĩ, y tá lần lượt trả lại tiền bồi dưỡng vì sợ kiện, thì tự nhiên mạch dần hồi chở lại, thế là thoát chết.Nhưng qua khỏi thì cũng mất 4 năm nằm nhà và vào viện mổ xẻ để hồi phục, cuộc đời đương số đang êm đềm, thuận lợi, tương lai, công danh rộng mở phải rẽ sang một hướng khác hoàn toàn, bắt đầu lại từ con số không ,khó khăn hơn, chật vật hơn
Xin các bác cho cháu hỏi vì sao đương số lại vất vả thế trong hạn cung phụ mẫu và cung phúc đức không đến nỗi nào,có phải vì năm 25 gặp linh tinh thiên sứ kình dương,bạch hổ, không kiếp,đáng ra phải chết rồi, nhưng qua khỏi thì sao lại kéo dài sang cả cung phúc tốt đẹp vậy
Lá số chính xác giờ sinh
(Sinh ngày 19/8/1982 dương lịch lúc 5,07 phút sáng.)

Sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần theo phương pháp của tôi :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy Tứ Trụ này có Thân quá nhược mà Thực Thương là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn là Nhâm ở trụ năm. Hỏa là hành kỵ vượng (vì Hỏa có 10đv lớn hơn hỷ dụng thần).

Sau đây là sơ đồ tính điểm tai họa xẩy ra ngày 2/2/2006 (vẫn thuộc năm 2005 theo Tử Bình):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ngày 2/2/2006 thuộc năm Ất Dậu (theo Tử Bình vẫn thuộc năm 2005), nó thuộc đại vận Canh Tuất và tiểu vận Tân Mão (vì sau ngày sinh nhật).
Trong Tứ Trụ có lục hợp Mão trụ giờ với Tuất trụ ngày hóa Hỏa thành công (vì có Đinh là thần dẫn).
Vào đại vận Canh Tuất có Hỏa cục trong Tứ Trụ hợp với đại vận hóa Hỏa nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Sau khi tính lại dụng thần và hành kỵ vượng không thay đổi.
Đến ngày 2/2 năm 2005 là năm Ất Dậu. Dậu tham hợp với Thân và Tuất trong Tứ Trụ nên không thể xung Mão trụ giờ được. Tam hội Thân Tý Thìn bình thường do có Hỏa cục cản phá nên không thể hóa Kim được nhưng ở đây có thêm Canh đại vận hợp Ất lưu niên cũng có thể hóa Kim được (vì có lệnh tháng hay thái tuế Dậu ở trạng thái động có thể làm thần dẫn). Chính vì có thêm ngũ hợp này mà tam hội Thân Dậu Tuất được coi là có tới 5 can chi là đủ mạnh để vượt qua sự cản phá của Hỏa cục mà hóa thành Kim cục (ở tiểu vận Canh Dần có 2 Canh tranh hợp với Ất lưu niên nên không thể hóa được Kim nên tam hội Thân Dậu Tuất chỉ có 3 chi bị Hỏa cục cản phá không thể hóa thành Kim cục được).

Vì có Hỏa cục trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa Hỏa nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại. Sau khi tính lại dụng thần và hành kỵ vượng không thay đổi (vì điểm vượng của các can chi ở tuế vận không được tính vào vùng tâm).
Sau khi tính thêm điểm vượng của các can chi ở tuế vận, ta thấy hành kỵ vượng Hỏa đã bị thay bởi hành Kim nên dụng thần vẫn không thay đổi. Vì hành Kim không phải là hành kỵ vượng từ lúc đầu và cả sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm nên điểm kỵ vượng của nó chỉ bằng 1/2 so với điểm kỵ vượng bình thường và nó không được tăng gấp đôi khi nó lớn hơn hỷ dụng thần 20đv.

1 - Đinh trụ giờ vượng ở lưu niên nhưng không thể khắc được 2 hóa cục Kim có 5 can chi (vì Đinh….). Do vậy Hỏa cục và Kim cục đã gây ra Đại Chiến có 0,2.8đh = 1,6đh (vì Hỏa cục có số can chi ít hơn Kim cục). Hỏa cục có 0,25đh (vì Mão và Tuất trong Tứ Trụ đã hóa Hỏa từ trước nên không có điểm hạn) còn Kim cục có 0,75đh với tam hội Kim và 0,5đh với ngũ hợp Kim.
2 – Dậu thái tuế và Canh, Ất ở tuế vận hóa Kim nên mỗi can chi có 0,5.1/2đh = 0,25đh kỵ vượng.
3 – Tiểu vận Tân Mão thiên khắc địa xung với lưu niên Ất Dậu có 0,25đh (vì Tân nhược ở tuế vận), được thêm 0,05đh do chỉ có 2 trụ thiên khắc địa xung.
4 – Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh.
5 – Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh.
6 - Tân và Mão tiểu vận mỗi can chi có 1 cát thần có - 0,25.1/2đh = - 0,125đh (trên sơ đồ lấy tròn là - 0,13đh).
7 - Nước biển trụ năm có Nhâm vượng ở lưu niên nên khắc Đất dịch chuyển trụ tháng, Lửa đỉnh núi trụ ngày và Kim trang sức đại vận có max là 2đh.
Lửa trong lò trụ giờ có Đinh vượng ở lưu niên khắc Kim trang sức đại vận có 1đh.
8 - Vì có tam hội giữa Tứ Trụ với tuế vận mà trong Tứ Trụ có 2 chi khác nhau nên tổng điểm hạn được trừ đi 1đh, tức là có -1đh.

Tổng số có (5,9 – 1)đh = 4,9 đh. Số điểm này có thể chấp nhận được vì từ 4,9đh tới 4,99đh là số điểm cho biết tai họa nặng tới mức có thể chết lâm sàng. Điều này quá là phù hợp với thực tế của người có Tứ Trụ này.

Từ đây có thể thấy phương pháp của tôi không coi can chi nào là của Ta hay Trời với Đất gì cả mà tất cả các can chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận đều là của Đất, Trời cũng như là của Ta. Hiểu đơn giản tất cả chúng đều đang tồn tại trong chính cơ thể của Ta để gây ra cát và hung cho chính Ta. Nếu ai có khả năng đưa thêm các yếu tố như phong thủy, nghề nghiệp, vợ, con, ….vào trong sơ đồ này thì chắc chắn số điểm hạn tính được sẽ càng chính xác hơn hẳn các câu mà các cao thủ Tử Bình hay các sách Kinh điển thường phán đại loại là “Vào vận Sát, hay Sọt gì đó Ứng kỳ, Ứng kọ mà gây ra Chai Lọa….“ . Làm cho các loại “Mặt Guốc Mộc“ nghe thấy cứ u.. u, mê…mê… rồi Rống lên vỗ cả 4 chi đến long cả trời nở cả đất để thể hiện sự “Tâm phục Khẩu phục“.

Bài luận của tôi đã đưa ra tất cả các thông tin góp phần gây ra tai họa và cuối cùng đi đến kết luận tai họa nặng đến đâu. Ấy vậy mà một số người “Mặt Guốc Mộc“ đã kết luận tôi là chả luận được ví dụ nào cả, chỉ mới dừng lại ở mức độ xác định Thân vượng hay nhược mà thôi... Thật không hiểu được loại này là “Người hay là Ngợm“ ?

VULONG

Sửa bởi giongto777: 05/07/2016 - 06:59


#51 luutrongtien

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 3 Bài viết:
  • 1 thanks

Gửi vào 04/08/2016 - 20:56

Anh VULONG có bán sách Giải Mã Tứ Trụ ở VN ko ạ?

#52 VULONG001

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 421 Bài viết:
  • 110 thanks

Gửi vào 13/12/2016 - 15:36

Một phát hiện mới quan trọng về điểm giảm (G)

Vân Từ sinh giờ Tuất :

Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần theo phương pháp của tôi :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ta xét vận hạn năm 1986 (không có hạn nặng) :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ tính toán trên thì tổng điểm hạn của năm 1986 là 7,35đh. Số điểm này là quá cao, nó dễ dàng gây ra tử vong nhưng trong thực tế Vân Từ cho biết không có bất kỳ 1 tai hoạ nào nặng cả.

Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này thì bắt buộc tổng điểm hạn trong trường hợp này phải được giảm.

Nhìn trên hình vẽ ta thấy rõ ràng các địa chi giữa Tứ Trụ với tuế vận không thể hình, xung, khắc, hại được với nhau nên không thể gây ra được điểm giảm (G).

Vậy thì điểm giảm phải có từ những thông tin nào trên sơ đồ này ?

Nhìn trên hình vẽ ta thấy 1 thông tin đáng chú ý, đó là có 3 can của tuế vận và trong Tứ Trụ cùng hội tụ khắc Nhật can là Canh. Từ đây ta khẳng định nhất định 3 lực khắc này phải gây ra điểm giảm (G).

Nhưng ta cũng nhìn thấy có các nạp âm khắc nạp âm của trụ ngày cũng như có 2 trụ (trụ tháng và trụ giờ) TKĐX với trụ ngày.

Vậy thì các lực này có cùng với các lực của các can khắc Nhật can gây ra điểm G hay không ?

Nếu có thì điểm G của các lực này sẽ là bao nhiêu ?

Nếu như các lực mới đưa ra ở đây đều gây ra điểm G thì chỉ còn 1 lực cuối cùng là lực của các Đại Chiến là chưa biết chúng có gây ra điểm G hay không mà thôi.

Nói chung để có lý thuyết đầy đủ về điểm G cần phải có thêm nhiều ví dụ nữa mới có thể hoàn thiện nó. Dĩ nhiên lý thuyết về điểm G cũng có thể được coi là 1 trong các Binh Pháp của Tử Bình.

Sửa bởi VULONG001: 13/12/2016 - 16:04


#53 VULONG001

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 421 Bài viết:
  • 110 thanks

Gửi vào 10/05/2017 - 17:38

Sử dụng các "Binh Pháp Tử Bình" để xác định giờ sinh của Đinh La Thăng như sau :

Đinh La Thăng sinh giờ Dậu có Tứ Trụ :

Canh Tý - Ất Dậu - Tân Sửu - Đinh Dậu

Các vận :
Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn...

Với Tứ Trụ này có thể coi là có 3 tổ hợp của can và chi cho biết có thể được làm tới Công hầu - Khanh tướng (cỡ bộ trưởng ngày nay) với điều kiện cần và đủ là mệnh tốt phải gặp được vận tốt.

Trong Tứ Trụ này có ngũ hợp của Canh trụ năm với Ất trụ tháng hoá Kim và bán hợp của 2 Dậu tranh hợp với Sửu trụ ngày không hoá. Như vậy ta thấy Thân có tới 5 can chi là rất cường vượng nhưng không thể thành cách Kim độc vượng được vì có Đinh được lệnh còn thấu lộ (nếu Đinh tử tuyệt thì cũng khó mà thành cách Kim độc vượng).

Thân quá cường vượng mà không thể thành cách Tòng được thì rõ ràng đây là mệnh xấu, cho dù có Đinh vượng không bị thương tổn chế ngự Thân (vì Tý, Đinh xa cách nhau) và Tý là Thực Thương vượng cũng không bị thương tổn có thể xì hơi Thân vượng. Với Tứ Trụ này thì muốn phát như Đinh La Thăng phải gặp các vận cực đẹp nhưng đáng tiếc rằng hành vận toàn là kỵ thần là Mậu, Kỷ, Canh, Tân (cho dù hưu tù, tử tuyệt), trong khi dụng thần chính là Đinh cũng ở các trạng thái hưu, tù, tử, tuyệt.

Sinh giờ Đinh DậuMệnh quá xấu cộng vận xấu nên không thể làm tới chức Bộ trưởng cho dù Đinh là Sát vượng thấu lộ chế ngự Tân ngay cạnh là rất đẹp.

Tóm lại với Tử Bình thì giờ sinh Đinh Dậu không thể ứng hợp với Đinh La Thăng.

Vậy còn với giờ sinh là Bính Thân thì sao ?

Với giờ Bính Thân có Tứ Trụ :

Canh Tý - Ất Dậu - Tân Sửu - Bính Thân

Với Tứ Trụ này rõ ràng có 3 tổ hợp cực đẹp không thể chê vào đâu được là ngũ hợp Canh với Ất hoá Kim, bán hợp Dậu với Sửu cũng hoá Kim và ngũ hợp Bính với Tân không hoá. Với thông tin "Bính hợp Tân sinh là tướng nắm binh quyền" cộng thêm có 3 tổ hợp thì khá chắc chắn được làm ở cấp Bộ Trưởng (Công hầu - Khanh tướng) khi Mệnh tốt và gặp vận không quá xấu là được.

Ta thấy trong Tứ Trụ này Thân có tới 6 can chi còn Bính thì tử tuyệt coi như vô dụng trong Tứ Trụ này nên cách Kim độc vượng được tạo thành là chắc chắn. Thân cực vượng mà tạo thành cách Độc vượng là Mệnh cực đẹp nên gặp vận đẹp nữa thì như "Gấm được thêm hoa" còn nếu gặp vận không xấu thì vẫn có thể phát như thường.

Vì Tứ Trụ này thuộc cách Kim độc vượng nên Kim là dụng thần, Thổ và Thuỷ là hỷ thần, còn Mộc và Hoả là kỵ thần. Các vận Mậu, Kỷ, Canh và Tân đều là các vận hỷ dụng thần cho dù hưu tù, tử tuyệt vẫn phát vì chúng có bị thương tổn đâu (vì trong Tứ Trụ không thấu lộ Giáp, Ất, Đinh riêng có Bính thấu lộ thì không những bị hợp còn tử tuyệt).

Riêng vận Đinh Hợi, Đinh không những hưu tù còn không khắc được Tân trong hợp, còn Hợi là hỷ thần làm cho Tý là hỷ thần trong Tứ Trụ càng cường vượng, nên đây được xem là vận trung bình khá gần bằng vận hỷ thần.

Vào năm Đinh Dậu có Đinh là hung thần vượng ở lưu niên khắc Canh là dụng thần ở đại vận thêm Dần đại vận là kỵ thần xung Thân là dụng thần ở trụ giờ nên cách cục có bị thương tổn chút ít mà thôi.

Sinh giờ Bính ThânMệnh quá đẹp lại gặp vận không xấu nên thừa sức được làm tới chức Bộ trưởng cho dù Bính là Quan tinh tử tuyệt lại còn bị hợp (vì đây là Ngoại cách có phải cách cục phổ thông đâu mà dựa vào Quan tinh hay Sát tinh để xét cấp Quan cao hay thấp).

Tóm lại giờ sinh Bính Thân mới có thể phù hợp với cuộc đời của Đinh La Thăng.

#54 VULONG001

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 421 Bài viết:
  • 110 thanks

Gửi vào 11/05/2017 - 17:50

Diệu Bích bên chủ đề "Lá số bí ẩn hiện đang trên triệu người" đã viết :

Gửi vào 08/08/2011 - 04:50
@NgoaLong: giờ sinh mà người ta cung cấp cho chị là tầm 9- 10h giờ tối, có thể sau 10h 1 chút.

Nếu đúng như vậy thì phải trừ đi 1 tiếng thành sinh vào khoảng 8 đến 9 giờ tối (vì Nam Định giống Hà Nội thời đó theo giờ Bắc Kinh). Vậy thì chính xác Đinh La Thăng chỉ có thể sinh một trong 2 giờ là Mậu Tuất và Kỷ Hợi. Bởi vì vào đầu tháng 9 thì vẫn có thể được coi là mùa Hè, lúc đó thời gian ban ngày vẫn còn dài nên 19 giờ trời vẫn chưa tối hẳn.

Nếu sinh vào giờ Mậu Tuất có Tứ Trụ :

Canh Tý - Ất Dậu – Tân Sửu – Mậu Tuất

Các vận :
Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn...

Với Tứ Trụ này chỉ có 2 tổ hợp là ngũ hợp của Canh với Ất hóa Kim và bán hợp Dậu với Sửu cũng hóa kim. Trong Tứ Trụ không có Tài và Quan Sát mà Thân nắm lệnh có tới 5 can chi nên thành cách Kim độc vượng là cái chắc. Nếu như Đinh La Thăng sinh đúng giờ Tuất thì chả nhẽ 2 tổ hợp hóa Kim này có giá trị tương đương với 3 tổ hợp không hóa để có thể làm tới chức Bộ trưởng (Công hầu – Khanh tướng) ?

Nếu sinh vào giờ Kỷ Hợi có Tứ Trụ :

Canh Tý - Ất Dậu – Tân Sửu – Kỷ Hợi

Các vận :
Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn...

Với Tứ Trụ này có ngũ hợp của Canh với Ất hóa Kim và tam hội Hợi Tý Sửu không hóa . Tam hội này cho biết cả thế giới Vô hìng (Thần linh) và thế giới Hữu hình (người dương) phù trợ, giúp đỡ. Trong Tứ Trụ này không có Tài và Quan Sát mà Thân nắm lệnh có tới 4 can chi và là hành thống trị trong Tứ Trụ nên thành cách Kim độc vượng là cái chắc.

Chỉ cần 2 thông tin là cách Kim độc vượng và có Tam hội đủ để kết luận người này có khả năng làm tới thủ tướng hay tổng thống (vua) nếu như gặp các vận đẹp.

Đáng tiếc cho Tứ Trụ này là tất cả các vận hỷ dụng thần : Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn và Quý Tị đều có các Can của chúng ở các trạng thái hưu tù, tử tuyệt nên không thể phát cao hết cỡ được mà chỉ có thể phát tới cấp Bộ trưởng là cùng. Do vậy Tứ Trụ này rất phù hợp với thực tế đã qua của Đinh La Thăng.

Kết luận : Theo Tử Bình thì chính xác Đinh La Thăng sinh giờ Hợi.

#55 VULONG001

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 421 Bài viết:
  • 110 thanks

Gửi vào 22/07/2017 - 22:22

Ca sĩ Chester Bennington tự tử ngày 20/7/2017.

Sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sơ đồ trên mô tả Tứ Trụ của ca sĩ Chester Bennington sinh ngày 20/3/1976 giờ Hợi.

1 - Trên sơ đồ ta thấy có ngũ hợp Bính với Tân không hóa và bán hợp Hợi Mão Mùi cũng không hóa.
2 - Bính trụ năm có 7đv (các số điểm tương ứng với các trạng thái tôi đã tìm ra và đã ghi trên bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt”) không bị can hay chi nào khắc cả (Chú ý : Ở đây phải sử dụng sự khắc của ngũ hành) nên vào vùng tâm chỉ bị giảm 2/5đv còn 7.3/5đv = 4,2đv.
3 – Tân trụ tháng có 3,1đv bị Bính khắc gần (ngay bên cạnh) giảm 1/3 còn 3,1.2/3đv = 2,07đv.
4 – Tân trụ ngày có 3,1đv không bị can hay chi nào khắc cả (vì Bính ở trong hợp) nên vẫn còn 3,1đv.
5 – Kỷ trụ giờ cũng vậy vẫn còn 4,8đv (vì Mão ở trong hợp và khác trụ).
6 – Hợi trụ giờ có 6đv bị Kỷ khắc trực tiếp (vì cùng trụ mặc dù ở trong hợp) giảm 50%đv và vào vùng tâm giảm tiếp 2/5đv còn 6.1/2.3/5đv = 1,8đv (Mùi trụ ngày bị Mão trụ tháng khắc gần nên Mùi không thể khắc được Hợi, vì chúng cùng ở trong hợp).
7 – Mùi trụ ngày có 4,8đv bị Mão khắc gần giảm 1/3đv (vì cùng ở trong hợp) còn 4,8.2/3đv = 3,2đv.
8 – Mão trụ tháng có 9đv không bị Tân trụ ngày khắc (vì Mão ở trong hợp và không cùng trụ với Tân, còn Tân trụ tháng mặc dù cùng trụ với Mão nhưng không khắc được Mão bởi Tân bị Bính khắc gần) khi vào vùng tâm giảm 2/5đv còn 9.3/5đv = 5,4đv.
9 – Thìn trụ năm có 7đv không bị Mão khắc (vì ở ngoài hợp và không cùng trụ với Mão) khi vào vùng tâm giảm 50%đv còn 7.1/2đv = 3,5đv.

Cộng tất cả các điểm vượng cùng hành ở trong vùng tâm ta có điểm vượng của 5 hành trong vùng tâm như trên sơ đồ đã mô tả.

Ta thấy Thân mang hành Kim (là hành của can ngày) có 5,17đv không lớn hơn Tài tinh 1đv (vì Tài tinh có 5,4đv) nên Tứ Trụ này có Thân nhược. Thân nhược mà Tài tinh là kỵ 1 (là hành kỵ thần có điểm vượng trong vùng tâm lớn hơn các kỵ thần kia là Quan Sát và Thực Thương), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp là Tân ở trụ tháng (nhằm mục đích là chế ngự Tài tinh để cho Ngũ hành trong Tứ Trụ được cân bằng là tốt nhất).


Đến đây có thể nói đơn giản và dễ hiểu nhất là tôi đã dùng Toán học để xác định được Dụng thần của môn Tử Bình.

Sơ đồ tính điểm hạn để xác định tai họa nặng hay nhẹ ngày 20/7/2017 :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ngày 20/7/2017 là năm Đinh Dậu thuộc đại vận Ất Mùi và tiểu vận Tân Tị (vì đã qua ngày sinh nhật 20/3).
1 - Ta thấy có tam hợp Hợi Mão Mùi trong Tứ Trụ hợp thêm với Mùi đại vận hóa Mộc thành công (vì có Ất ở đại vận dẫn hóa) và Tị tiểu vận hợp với Dậu thái tuế hóa Kim thành công (vì lực hợp của Tị tiểu vận với Dậu thái tuế - là lực trung bình của điểm vượng của nó ở đại vận Mùi và 2 lần điểm vượng của nó ở thái tuế Dậu - là (8 +2.6).1/3đv = 6,67đv là lớn hơn lực hợp của Thìn trụ năm với Dậu - là điểm trung bình của điểm vượng của nó ở lệnh tháng và ở đại vận cùng 2 lần điểm vượng của mó ở lưu niên - là (7 +5 + 2.3).1/4đv = 4,5đv. Và có thần dẫn là Tân).

Vì có 2 chi trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của chúng nên trong trường hợp này phải tính lại điểm vượng ở vùng tâm (2 chi ở đây là Mùi và Hợi).
Mộc có 5,4đv được thêm 3,2đv của Mùi và 1,8đv của Hợi thành 10,4đv. Thổ có 11,5đv bị mất 3,2đv còn 8,3đv. Hợi có 1,8đv bị mất hết. Hỏa và Kim vẫn không thay đổi. Sau khi tính lại ta thấy Mộc vẫn là kỵ 1 (lớn hơn các kỵ thần khác) và Thân vẫn nhược cho nên dụng thần và điểm hạn của các hành vẫn giữ nguyên.

Vì Mộc là kỵ 1 động nên phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận.
Mộc có 10,4đv được thêm (8 + 2.6).1/3đv = 6,67đv (là điểm vượng trung bình của Mùi ở lưu niên giống Tị tiểu vận) và 3,1đv của Ất đại vận (là điểm vượng của Ất tại lưu niên) thành 20,17đv.
Hỏa có 4,2đv được thêm 2.6đv = 12đv của Đinh lưu niên thành 16,2đv.
Kim có 5,17đv được thêm 2.9đv của Dậu thái tuế (2 lần điểm vượng của nó ở thái tuế), 6,67đv của Tị tiểu vận và 3,1đv của Tân tiểu vận (lấy chính chi tiểu vận xác định điểm vượng của can tiểu vận) thành 32,94đv. Số điểm vượng của các hành sau khi tính thêm ở tuế vận chỉ để xác định có hành kỵ vượng hay không nên nó không làm Thân cũng như dụng thần thay đổi.
Ta thấy Mộc nhỏ hơn hỷ dụng thần nên không phải là hành ky vượng nhưng vẫn là hành kỵ 1. Do vậy nếu theo quy tắc cũ thì điểm hạn của Mộc cục có 4 chi này có 1đh sẽ được tăng gấp đôi nhưng theo quy tắc mới thì nó chỉ được tăng 2/3 thành 1đh + 1.2/3đh = 1,66đh.
Kim cục là hỷ dụng thần chỉ có 1,5chi (vì chi tiểu vận ở đây chỉ được tính là 0,5 chi). Do vậy Kim cục và Mộc cục đã xẩy ra Đại chiến 1. Điểm hạn cho mỗi chi tham chiến khi hóa cục bị khắc có 4 chi là 0,75đh. Vì vậy Kim cục phải mang dấu dương nên có 1đh và điểm hạn của Đại chiến 1 này có tới 0,75.5đh + 0,75.1/2đh = 4,13đh (vì điểm hạn của chi tiểu vận chỉ bằng một nửa các chi khác).

2 - Dụng thần Tân tử tuyệt ở lệnh tháng có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh.
3 – Nhật can Tân vượng ở lưu niên có -1đh.
4 - Đinh lưu niên vượng ở lưu niên khắc 2 Tân, mỗi lực khắc có 0,7đh nhưng lực khắc Tân tiểu vận bị giảm đi 50% chỉ còn 0,35đh. Đinh có 1đh can động và có 1 cát thần có -0,25đh.
Tân trụ ngày thất lệnh nhưng vượng ở lưu niên có -1đh nhưng bị giảm 70% do bị Đinh khắc còn -0,3đh. Tân khắc Ất đại vận có 1đh nhưng bị giảm 70% chỉ còn 0,3đh (do bị Đinh khắc).
Ất đại vận nhược cả tuế và vận nên khắc Kỷ trụ giờ có 0đh. Ất đại vận có 1 cát thần có -0,25đh nhưng bị giảm 30% do Tân khắc chỉ còn -0,25.70%đh = -0,18đh.
Kỷ trụ giờ thất lệnh nhưng vượng ở lưu niên có -0,5đh can động.
5 – Đất ven đường trụ ngày có can Tân vượng ở lưu niên nên khắc Kim trong cát ở đại vận có 1đh nhưng bị giảm 3/4đh do bị Đinh lưu niên khắc 1 lực 0,7đh chỉ còn 1.1/4đh = 0,25đh

Tổng số có 6,66đh. Vì giữa Tứ Trụ và tuế vận có tam hợp Mộc cục Hợi Mão Mùi có 4 chi đều có điểm hạn và có 3 chi trong Tứ Trụ nên mỗi chi có -0,25đh là -0,25.4đh = -1đh, được thêm -0,13đh (bằng 25% đh của hành Mộc) cho chi từ thứ 4 có điểm hạn trở đi và thêm -0,5đh vì tam hợp trong Tứ Trụ có chi tháng.

Do vậy tổng số còn 6,66đh – 1,63đh = 5,03đh. Số điểm này có thể chấp nhận được vì nó có thể gây ra tử vong.

Ở tiểu vận đầu là Canh Thìn có 2 Thìn hợp Dậu thái tuế hóa Kim chỉ gây ra Đại chiến nên điểm hạn cho mỗi chi tham chiến chỉ là 0,2đh (vì số chi của hóa cục chủ khắc ở đây của Kim là 3 nhỏ hơn số chi của hóa cục bị khắc của Mộc ở đây là 4 ) nên điểm hạn Đại chiến chỉ có 0,2.6đh + 0,2.1/2đh = 1,3đh. Như vậy thì tổng số chỉ có 5,03đh – 4,13đh + 1,3đh = 2,2đh, với số điểm hạn này không thể gây ra bất kỳ một tai họa nặng nào cả.

Nói chung điểm hạn chính gây ra tai họa ở đây là Đại chiến 1, do vậy nếu nó là yếu tố gây ra tâm lý cho ca sĩ tự tử thì điểm hạn của Đại chiến 1 này chẳng khác nào điểm hạn của Tự hình. Nếu đúng như vậy thì ta có thể giải cứu các điểm hạn về Đại chiến như các điểm hạn về Hình, Hại và Tự Hình.

Đây chính là một ví dụ cụ thể mà tôi đã dùng Toán học để xác định được tai họa của nó nặng nhẹ tới mức nào để hy vọng tìm ra cách giải cứu cho các trường hợp tương tự.

Đến đây có thể nói đơn giản và dễ hiểu nhất là tôi đã dùng Toán học để xác định được tai họa nặng hay nhẹ của môn Tử Bình.

Vì khối lượng công việc là quá lớn nên tôi phải cần tới nhiều người ở các vùng khác nhau trên thế giới cùng nghiên cứu. Chính vì vậy mà tôi đã công bố lý thuyết của tôi cho toàn thế giới biết.

Sửa bởi VULONG001: 22/07/2017 - 22:46







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |