Jump to content

Advertisements




Binh Pháp Tử Bình


54 replies to this topic

#16 tranthevu

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1269 Bài viết:
  • 972 thanks

Gửi vào 10/09/2015 - 17:18

scan cuốn sách lên đi bác ơi...toàn tự biên tự diễn...nhàm quá rồi

Thanked by 1 Member:

#17 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 11/09/2015 - 18:18

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

tranthevu, on 10/09/2015 - 17:18, said:

scan cuốn sách lên đi bác ơi...toàn tự biên tự diễn...nhàm quá rồi


Tôi đã đăng gần như toàn bộ phần lý thuyết chính (khoảng 200 trang) của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ trong chủ đề “Lớp Học Tứ Trụ Sơ Cấp, Trung Cấp và Cao Cấp Cho Tất Cả Mọi Người“ tại mục “Tử Bình – Bát Tự“ bên trang web “Diễn Đàn Lý Học Phương Đông“ (từ tháng 4/2011 tới tháng 8/2011).
Nếu nhiều người không có khả năng tìm kiếp được chủ đề này bên trang web đó để đọc thì hôm nào rảnh tôi sẽ đưa về đây.

#18 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 13/09/2015 - 23:32

Tứ trụ 6 được thay thế bằng ví dụ 351 trong cuốn Trích Thiên Tủynhư sau:

“351 - Giáp Dần - Tân Mùi - Quý Hợi - Mậu Ngọ

Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý/ Đinh Sửu

Quý thủy sinh vào mùa cuối hạ, mộc hỏa cũng vượng, can tháng Tân kim vô khí, không có sinh thủy, nhật chủ tuy vượng địa, nhưng vẫn bị mang hai hỏa thổ, can giờ Mậu thổ, hợp thần chân mà còn vượng, nhật chủ không thể hợp theo vậy. Đầu vận Nhâm Thân Quý Dậu, kim thủy đều vượng, cô khổ quá mức; đến vận Giáp Tuất, chi hội hỏa cục, xuất ngoại gặp được cơ hội lớn; vận Ất Hợi thủy gặp mộc tiết, chi được hội cục, thành danh bất ngờ, tài bạch giàu có sung túc; vừa giao Bính Tý, hỏa không thông căn, bị liên luỵ mà mất chức, đến năm Nhâm Tý hết lộc”.

Với ví dụ này chúng ta chỉ cần biết rằng các đại vận Nhâm Thân và Quý Dậu có can chi đều là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp mà “cô khổ quá mức” thì chứng tỏ Tứ Trụ này phải có Thân vượng thì mới phù hợp với thực tế.

Để cho đơn giản ta vẫn tạm thời lấy trạng thái Suy có 5,1 đv.

Sơ đồ tính điểm vượng của các hành trong vùng tâm:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này, ta thấy:
1 – Mậu hợp Quý không hóa.
2 – Giáp, Mùi và Ngọ đều bị khắc gần hay trực tiếp nên ta phải khoanh tròn chúng lại để biết chúng không có khả năng nhận được sự sinh hay sinh khắc các can chi khác trong Tứ Trụ.
3 – Giáp trụ năm có 3đv bị khắc gần bởi Tân trụ tháng nên giảm 1/3đv và khi vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 3.2/3 . 3/5 đv = 1,2đv.
4 - Dần trụ năm có 3đv bị giảm 1/5đv do Tân trụ tháng khắc cách 1 ngôi và vào vùng tâm giảm thêm 1/2đv còn 3.4/5.1/2đv = 1,2đv.
5 – Mùi trụ tháng có 8đv bị Dần trụ năm khắc gần gi ảm 1/3đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 8.2/3.3/5đv = 3,2đv.
6 – Hợi trụ giờ có 3đv và 4,3đv đắc địa Kình dương của Nhật can Quý không bị can chi nào khắc cả nên vẫn còn nguyên là 3đv + 4,3đv = 7,3đv.
7 – Ngọ trụ giờ có 5,1đv (để ngắn gọn ta tạm lấy 5,1đv cho trạng thái Suy) bị giảm 1/3đv do Hợi khắc gần và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 5,1.2/3.3/5đv = 2,04đv.
8 – Mậu trụ giờ có 5,1đv không bị ai khắc cả nên còn nguyên 5,1đv.
9 – Quý trụ ngày hợp với Mậu không hóa nên bị giảm 1/3đv còn 3.2/3đv = 2đv.
10 – Tân trụ tháng có 5,1đv không bị ai khắc nên vẫn còn 5,1đv.

Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm :
Hỏa..........Thổ..........Kim..........Thủy.........Mộc
2,04..........8,3...........5,1...........9,3...........2,4

Tứ Trụ này được xác định Thân vượng mới phù hợp với thực tế cho nên ở đây Thân có 9,3đv lớn hơn Thổ đúng 1đv, cho nên Thân là vượng. Điều này khẳng định trạng thái Suy có max là 5,1đv (vì nếu lấy cao hơn dù chỉ là 1 phần tỷ điểm vượng thì Thân sẽ trở thành nhược - theo lý thuyết của tôi).

Qua ví dụ này chúng ta đã xác định được : Trạng thái suy max5,1đv

Từ “Tứ Trụ 6” do tính toán sai ta đã tìm ra một kết quả đúng max là 5,1đv, đây là một chuyện kỳ lạ khó tin. Vậytrạng thái Dưỡng liệu có còn chính xác là 4,2đv nữa không ?

Sửa bởi VULONG777: 13/09/2015 - 23:49


Thanked by 1 Member:

#19 longkiet

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 133 Bài viết:
  • 106 thanks

Gửi vào 14/09/2015 - 04:16

Nhậm tiên sinh có kết luận tạo này thân vượng đâu? Chỉ có kẻ "Cách Cục Đầu Đất" mới suy diễn bậy bạ rằng mệnh này thân vượng. Thật hết biết !

Sửa bởi longkiet: 14/09/2015 - 04:21


#20 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 14/09/2015 - 10:31

Đúng là những nhà thông thái thuộc VIP "Sài Đồng Sổng Văn Quý Tang" sau một thập kỷ lại xuất hiện Ô....Hô.......Hô.......

Xin chào mừng............ những vị VIP và VIT ........ đã đến với diễn đàn Tử Vi Lý Số. org.

#21 IceStone

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 85 Bài viết:
  • 67 thanks

Gửi vào 14/09/2015 - 19:39

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 13/09/2015 - 23:32, said:

Tứ trụ 6 được thay thế bằng ví dụ 351 trong cuốn Trích Thiên Tủynhư sau:

“351 - Giáp Dần - Tân Mùi - Quý Hợi - Mậu Ngọ

Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý/ Đinh Sửu

Quý thủy sinh vào mùa cuối hạ, mộc hỏa cũng vượng, can tháng Tân kim vô khí, không có sinh thủy, nhật chủ tuy vượng địa, nhưng vẫn bị mang hai hỏa thổ, can giờ Mậu thổ, hợp thần chân mà còn vượng, nhật chủ không thể hợp theo vậy. Đầu vận Nhâm Thân Quý Dậu, kim thủy đều vượng, cô khổ quá mức; đến vận Giáp Tuất, chi hội hỏa cục, xuất ngoại gặp được cơ hội lớn; vận Ất Hợi thủy gặp mộc tiết, chi được hội cục, thành danh bất ngờ, tài bạch giàu có sung túc; vừa giao Bính Tý, hỏa không thông căn, bị liên luỵ mà mất chức, đến năm Nhâm Tý hết lộc”.

Với ví dụ này chúng ta chỉ cần biết rằng các đại vận Nhâm Thân và Quý Dậu có can chi đều là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp mà “cô khổ quá mức” thì chứng tỏ Tứ Trụ này phải có Thân vượng thì mới phù hợp với thực tế.

Để cho đơn giản ta vẫn tạm thời lấy trạng thái Suy có 5,1 đv.

Sơ đồ tính điểm vượng của các hành trong vùng tâm:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này, ta thấy:
1 – Mậu hợp Quý không hóa.
2 – Giáp, Mùi và Ngọ đều bị khắc gần hay trực tiếp nên ta phải khoanh tròn chúng lại để biết chúng không có khả năng nhận được sự sinh hay sinh khắc các can chi khác trong Tứ Trụ.
3 – Giáp trụ năm có 3đv bị khắc gần bởi Tân trụ tháng nên giảm 1/3đv và khi vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 3.2/3 . 3/5 đv = 1,2đv.
4 - Dần trụ năm có 3đv bị giảm 1/5đv do Tân trụ tháng khắc cách 1 ngôi và vào vùng tâm giảm thêm 1/2đv còn 3.4/5.1/2đv = 1,2đv.
5 – Mùi trụ tháng có 8đv bị Dần trụ năm khắc gần gi ảm 1/3đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 8.2/3.3/5đv = 3,2đv.
6 – Hợi trụ giờ có 3đv và 4,3đv đắc địa Kình dương của Nhật can Quý không bị can chi nào khắc cả nên vẫn còn nguyên là 3đv + 4,3đv = 7,3đv.
7 – Ngọ trụ giờ có 5,1đv (để ngắn gọn ta tạm lấy 5,1đv cho trạng thái Suy) bị giảm 1/3đv do Hợi khắc gần và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 5,1.2/3.3/5đv = 2,04đv.
8 – Mậu trụ giờ có 5,1đv không bị ai khắc cả nên còn nguyên 5,1đv.
9 – Quý trụ ngày hợp với Mậu không hóa nên bị giảm 1/3đv còn 3.2/3đv = 2đv.
10 – Tân trụ tháng có 5,1đv không bị ai khắc nên vẫn còn 5,1đv.

Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm :
Hỏa..........Thổ..........Kim..........Thủy.........Mộc
2,04..........8,3...........5,1...........9,3...........2,4

Tứ Trụ này được xác định Thân vượng mới phù hợp với thực tế cho nên ở đây Thân có 9,3đv lớn hơn Thổ đúng 1đv, cho nên Thân là vượng. Điều này khẳng định trạng thái Suy có max là 5,1đv (vì nếu lấy cao hơn dù chỉ là 1 phần tỷ điểm vượng thì Thân sẽ trở thành nhược - theo lý thuyết của tôi).

Qua ví dụ này chúng ta đã xác định được : Trạng thái suy max5,1đv

Từ “Tứ Trụ 6” do tính toán sai ta đã tìm ra một kết quả đúng max là 5,1đv, đây là một chuyện kỳ lạ khó tin. Vậytrạng thái Dưỡng liệu có còn chính xác là 4,2đv nữa không ?

Vậytrạng thái Dưỡng liệu có còn chính xác là 4,2đv nữa không ? Trả lời: không biết !

Bác tự biên thì tự diễn cho rồi...Nếu bác muốn phổ biến cái lý thuyết của bác thì bác viết cho có đầu đuôi một chút thì hay hơn.

Chứ em thấy 5.4 + 6.5 -3.7/sin x trong đó x=y ...kết luận là: bác chẳng có khiếu sư phạm gì cả?

Bác hiểu em nói gì ko?

#22 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 18/09/2015 - 21:00

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

IceStone, on 14/09/2015 - 19:39, said:

Vậytrạng thái Dưỡng liệu có còn chính xác là 4,2đv nữa không ? Trả lời: không biết !

Bác tự biên thì tự diễn cho rồi...Nếu bác muốn phổ biến cái lý thuyết của bác thì bác viết cho có đầu đuôi một chút thì hay hơn.

Chứ em thấy 5.4 + 6.5 -3.7/sin x trong đó x=y ...kết luận là: bác chẳng có khiếu sư phạm gì cả?

Bác hiểu em nói gì ko?

Ở đây tôi đang sửa những cái sai trong lý thuyết của tôi mà tôi đã trình bầy đầy đủ ở chủ đề "Lớp Học Tứ Trụ Sơ Cấp, Trung Cấp Và Cao Cấp Cho Tất Cả Mọi Người" trong mục "Tử Bình - Bát Tự" bên trang web "Diễn Đàn Lý Học Đông Phương""Huyền Không Lý Số". Cho nên muốn biết có sư phạm hay không hãy vào đọc chủ đề đó rồi hãy phát biểu.

#23 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 21/09/2015 - 03:09

Tứ trụ 7 : (Ví dụ số 38/ trang 440 trong cuốn “Dự Đoán Theo Tứ Trụ” của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa - sách in năm 2002.)

Nam: Nhâm Thìn - Canh Tuất - Giáp Ngọ - Giáp Tý

Các đại vận : Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn

Thiệu Vĩ Hoa đã dự đoán Tứ Trụ này có Thân nhược.

Nếu ta lấy trạng thái Dưỡng là 4,4đv thì có sơ đồ tính toán như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ này ta thấy Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh thêm Thân lớn hơn Tài và Quan Sát nên theo lý thuyết của tôi (quy tắc 2) Kiêu Ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân là 5,38.1/2 đv = 2,69đv. Vậy thì Thân có 6,453đv được thêm 2,69đv thành 6,453đv + 2,69đv = 9,143đv. Lúc này ta thấy Thân đã lớn hơn Kim là kỵ thần số 1 (hành kỵ thần có số điểm vượng lớn nhất trong các hành kỵ thần) trên 1đv nên Thân được xem là vượng - theo lý thuyết của tôi. Điều này không thể chấp nhận được vì nó trái với điều dự đoán của Thiệu Vĩ Hoa - là Thân nhược.

Nếu ta lấy trạng thái Dưỡng là 4,39đv thì có sơ đồ tính toán như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Với sơ đồ này nếu theo lý thuyết của tôi thì mặc dù có Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh nhưng Nhật can thất lệnh và Thân Mộc lại nhỏ hơn Tài và Quan Sát nên Kiêu Ấn không thể sinh được 50%đv của nó cho Thân. Do vậy với trạng thái Dưỡng có 4,39đv thì Thân là nhược, điều này đã đúng theo dự đoán của Thiệu Vĩ Hoa.

Đến đây chúng ta đã xác định được trạng thái Dưỡng có max là 4,39đv (để đơn giản chúng ta lấy 4,4đv).

Sửa bởi VULONG777: 21/09/2015 - 03:31


#24 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 25/10/2015 - 19:21

Ví dụ số 10 trong chủ đề “Những câu chuyện đoán mệnh thần kỳ của Manh sư Hạ Trọng Kỳ” của Lesoi bên trang web “Tử bình diệu dụng”.

“10 - Người cha bi thương

Vào năm 1994 lão sư có toán một mệnh.
Một lão già đã qua tuổi ngũ tuần, nếp nhăn đầy mặt, dung nhan tiều tụy. Ông ấy không phải là toán cho bản thân, mà là đem giờ sinh của con ông nhờ lão sư xem, tôi nhớ bát tự là:


Càn tạo: ẤT Mão - Kỷ Mão - Nhâm Tý - Nhâm Dần.

Hạ lão sư xem qua rồi nói: "Tiếc thật, con của ông hiện tại đã qua đời."
Nhất thời người cha nước mắt tuôn rơi: "Đúng là mệnh! Mệnh tôi quá khổ a..."
Qua một hồi lâu, ông ấy lau nước mắt, rồi nói: "Ông toán xem, con trai tôi là chết như thế nào?"
Hạ lão sư nói: "Ta toán con của ông chết không phải do bệnh, là do bất hạnh gặp chuyện hung, giống như là bị dính nước mà cũng giống như bị dính hỏa chết, cụ thể xem không có rõ."
Trong ấn tượng của tôi Hạ lão sư đoán loại mệnh này chọn từ ngữ mơ hồ là lần đầu tiên có một không hai. Trước đây cũng đã gặp qua ông ấy đoán qua một nhân mạng chết thảm, có đao giết chết, có xe tung, có chết nước, cũng có chết do hỏa thiêu, đều nói rất cụ thể, tại sao lần này thì xem không rõ chứ? Lại dính nước, lại dính lửa? Đây là chết như thế nào? Tôi cũng nhất thời rất bối rối.
Chỉ thấy người cha nọ nói: "Đúng, lão sư phó toán không sai, nên lần này tôi tin là số mệnh, đều tại ta không nên sinh ra hồn tiểu tử này, là hỏi ta đến mà đòi nợ. Con trai ta chết là do bị trúng độc khí gas, nó ở trong phòng tắm rửa mặt, sau đó không thấy nó ra ..."
Nguyên là như vậy. Chỗ này là thủy và hỏa cùng nhau, thì không thể sinh ra khí gas sao? Ta liếc mắt nhìn bát tự, con trai ông ta hành đúng đại vận Đinh Sửu, Đinh là hỏa, Sửu là thấp thổ, trong có chứa thủy, cục than đá sản sinh khí gas bốc cháy là không phải vì có ẩm thấp không đủ bổ sung mà tạo thành hay sao? Tượng khí gas, một trụ Đinh Sửu liền hoàn chỉnh mà thể hiện ra. Ta không kìm được thông qua tượng can chi bát tự thần kỳ, 60 loại tổ hợp này quả thực có thể thể biểu đạt vạn sự vạn vật trong cuộc đời. Còn sinh mệnh con người lại yếu đuối như vậy, ngượi nọ vừa chết, gây tổn thương cho người cha này biết bao nhiêu!
Lúc này mọi người đều không nói lời nào, Hạ lão sư dường như chìn đắm trong suy nghĩ của ông ấy, qua một hồi lâu, ông nói với người cha nọ:
"Có phải chăng con của người năm 1992 nói chuyện gặp đối tượng?"
Lão già nói, "Đúng". "Có đúng là đối tượng này cùng hắn chết ở một chỗ?" Hạ lão sư lại hỏi.
"Dạ đúng, bọn nó thực ra chưa có kết hôn, cả hai đứa đều ở chung trong nhà của chúng tôi. Cả buổi tối chúng nó giam ở trong phòng, ở trong phòng tắm rửa, bởi vì phòng của chúng nó lúc nào cũng đóng. Nói chuyện yêu thương mà."
Hạ lão sư nói: "Theo ta, đối tượng con trai ngươi, không có chết?"
"Đúng", người cha gật đầu, nói tiếp: "Khả năng là nó trúng độc so với con trai tôi nhẹ hơn, đến bệnh viện, y sinh đã kịp cứu nó sống. Con trai của tôi chết là ngày 24 tháng giêng năm 1994 (năm Giáp Tuất, tháng Bính Dần, ngày Canh Dần). Nghe ngài toán như vậy, đều là chuyện chú định, tôi cũng không thương tâm nữa."


Sau khi người cha nọ ra đi, tôi hỏi Hạ lão sư: "Đứa trẻ có đúng là chú định ở trong mệnh? Nếu như toán ra sớm một chút, có khả năng giải trừ hay không?"
Hạ lão sư nói: "Ngươi nói nếu như sẽ không tồn tại, cho nên mệnh là cũng không có cách nào thay đổi. Ngươi xem cha của hắn nói, căn bản ngay từ đầu thì cũng không tin tưởng toán mệnh, trở lại toán cho người chết, là vô dụng."


Tôi vẫn còn chưa tin lắm, nói: "Vậy thầy toán nhiều mệnh như vậy, trước giờ tình huống là luôn toán ra, không nói bệnh tai, thì hung tai sẽ không có người nào thoát qua sao?"
Hạ lão sư nhẹ nhàng thở dài một hơi, nói: "Sư phụ lúc còn sống, sư gia có nói với ông rằng: Một loại biện pháp có thể làm cho con người tránh hoạ, người nắm chắc nó nghe đâu phải đến trong cổ mộ trì pháp, có lẽ vì quá khó khăn, o6gn ấy cũng không có truyền lại, hiện tại người biết mấy loại biện pháp này đã không còn. Cho nên ta đoán đến hung tai, nói cho bản thân cũng không có một lần khởi qua tác dụng, nên làm gì hay phải làm như thế nào."


Sư phụ nói lời này tôi vẫn còn bán tín bán nghi, nghĩ thầm biết tai họa mà vẫn không tránh được sao? Trong mệnh chết do thủy, thì rời xa thủy một chút; trong mệnh biết chết do hỏa, thì rời xa hỏa một chút, sau khi qua lúc phát sinh, hoạ không phải là tránh được sao? Ý tưởng này mang theo bên cạnh ta, khiến cho tôi không thể tin lời nói của sư phụ được“.


Qua bài luận trên chúng ta thấy các thầy “Manh Phái“ thường luận nhưng không giải nhằm giấu nghề nên chúng ta khó mà học được các bí kíp của họ. Nhưng ở đây qua 2 câu: "Có đúng là đối tượng này cùng hắn chết ở một chỗ?" "Theo ta, đối tượng con trai ngươi, không có chết?" thì chúng ta có thể khẳng định 2 câu này do các thầy “Manh Phái“ đều có khả ngoại cảm nên đã biết khi đối tượng nghĩ về 2 đưa con mà thôi, chứ không phải dự đoán qua Tứ Trụ của họ.


Sau đây là bài luận theo phương pháp của tôi :

1 - Sơ đồ xác định Thân vượng, nhược và dụng thần:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nếu sử dụng giả thiết sau thì Ất trụ năm có thêm 4,05đv đắc địa tại Mão trụ năm :

15 - Điểm đắc địa của các Can và Nhật Can
72/ .........
...............
d – Ngoài Nhật can ra thì mỗi can bất kỳ không cùng hành với Nhật can chỉ có thêm điểm đắc địa ở tại chi của nó đóng (trừ chi tháng) khi nó có ít nhất 2 địa chi đắc địa trong Tứ Trụ (269 Chương 45 -TBCT).

Và nếu sử dụng giả thiết sau :

C - Cách Tòng Nhi

Nếu trong Tứ Trụ chỉ có 3 hành là Tỷ Kiếp, Thực Thương và Tài tinh hoặc chỉ có 2 hành là Tỷ Kiếp và Thực Thương, trong đó Thực Thương phải thấu lộ can và là hành thống trị trong Tứ Trụ thì cách Tòng Nhi được tạo thành chỉ khi:
1 - ..........................
..................................
6 - Có hay không có Tài mà có 1 Quan Sát thất lệnh còn bị khắc gần hay trực tiếp thì Thân không được nhỏ hơn Thực Thương 40% đv khi Thực Thương có ít nhất 4 can chi (9*; 25*; 335; 430*/T3).
7 - ....................................”

Thì Tứ Trụ này thuộc Cách Tòng nhi. Do vậy dụng thần là Giáp (Thực Thương) tàng trong Dần trụ giờ, hỷ thần là Tỷ Kiếp và Tài tinh còn kỵ thần là Quan Sát và Kiêu Ấn.

2 - Sơ đồ tính điểm hạn năm 1994 :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tháng Bính Dần, năm Giáp Tuất (1994) thuộc đại vận Đinh Sửu và tiểu vận Quý Mùi (vì trước ngày sinh nhật 7/3).

Nếu sử dụng 2 giả thiết của tôi như sau :

1 - 14 – Thần dẫn vô dụng :
(Thần dẫn - Xem phần nói về Thiên can và Địa chi ở chương 6.)

a - ..........
.............
k – Ngũ hợp Giáp với Kỷ trong Tứ Trụ không hóa được Thổ khi chi mà Kỷ đóng là Mão (chỉ khi Mão khắc được Kỷ về ngũ hành) hay Hợi (348; 388/T3) hoặc 2 chi mà chúng đóng là Sửu và Thìn (đều là đất ướt) (239/T3).
...........

2 - III – Thân nhược và ví dụ minh họa

Các ví dụ cho Mẫu 5 khi Thân nhược
1 - M-5/1 : Nữ sinh ngày 13/6/1961 lúc 20,16’
............

M-5/5 : Nam sinh ngày 8/7/1968 lúc 20,00’. Từ 4/2/2008 đến 8/7/2008 người này không có hạn.
...........................

M-5/6: Nam có Tứ Trụ:
…………………………

Kết hợp ví dụ 5/6 này với ví dụ 5/5 ta đưa ra giả thiết:
Nếu tất cả các can và chi trong cùng trụ tạo thành 2 tổ hợp hóa hay không hóa thì các can chi trong cùng trụ này mới có thể sinh hay khắc được với nhau.

Chúng ta thấy lục hợp của 2 Mão trong Tứ Trụ hợp với Tuất lưu niên không hóa có 3 chi, trong khi chỉ có 2 can của lục hợp này là Giáp và Kỷ hợp với nhau còn Ất không ở trong ngũ hợp này. Do vậy Mão trụ tháng không khắc được Kỷ cùng trụ, chính vì vậy mà ngũ hợp của Giáp với Kỷ đã hóa Thổ thành công (vì có Tuất lưu niên trong hợp thành động mà trở thành thần dẫn).

Qua sơ đồ trên ta thấy ngoài Giáp hợp với Kỷ hóa Thổ còn có Tý trụ ngày hợp với Sửu đại vận cũng hóa Thổ.
2 Nhâm trong Tứ Trụ hợp với Đinh đại vận là tranh hợp thật nên 3 can này coi như vô dụng.

Vì có Kỷ là can trong Tứ Trụ hợp với Giáp lưu niên hóa cục hay........ nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại.

Sau khi tính lại ta thấy cách Tòng nhi đã bị phá. Tứ Trụ này có Thân nhược (vì Thân có 0đv) mà Thổ có 12,85đv là kỵ 1 và là kỵ vượng nên có điểm kỵ vượng. Do vậy dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn nhưng Kiêu Ấn là Kim không có trong Tứ Trụ, ta đành phải lấy Tỷ Kiếp là Quý tàng trong Tý làm dụng thần thay thế, hỷ thần là Kiêu Ấn, còn kỵ thần là Thực Thương, Tài tinh và Quan Sát.

1 – Quý là dụng thần tàng trong Tý có 1đh vì Tý hợp với tuế vận hóa cục khác hành Thủy. Quý nhược ở lưu niên nên có 0đh.
2 - Nhật can Nhâm vượng ở lưu niên nên có – 1đh (vì Nhâm
vẫn là Nhật can chỉ không có khả năng tác động tới các can chi khác).
3 - Ất trụ năm không có khả năng khắc được hóa cục có 4 can chi là kỵ vượng nhưng Ất trở thành động nên có -0,13đh (vì Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận) – theo giả thiết.....
4 - Mỗi Thổ cục có 1đh. Vì Thổ là kỵ vượng nên mỗi can chi là Kỷ, Giáp và Sửu có 1đh kỵ vượng.
5 – Lửa đỉnh núi lưu niên có Giáp chỉ vượng ở đại vận nên có max 0,75đk để khắc các nạp âm khác để tạo thành max 0,75đh. Lửa đỉnh núi khắc được nước khe đại vận và gỗ Liễu ở tiểu vận nên lực khắc này phải chia đôi và giảm thêm ½ đh nữa vì can và chi của Lửa đỉnh núi đều hợp ở tuế vận. Vì vậy Lửa đỉnh núi khắc nước Khe đại vận cói 0,75.1/4đh = 0,19đh và khắc gỗ Liễu tiểu vận có 0,75.1/4.1/4 đh = 0,05đh (vì nạp âm đại vận và lưu niên khắc tiểu vận bị giảm 3/4đh).

Tổng số là 5,07đh. Số điểm này là chấp nhận được (vì 5đh đã đủ để gây ra tử vong nếu không biết cách giải cứu).

::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::

Sau đây là bài luận của Đoàn Kiến Nghiệp và Hình Tú Phân về ví dụ này như sau:

Càn tạo: Ất Mão - Kỷ Mão - Nhâm Tý - Nhâm Dần

Đại vận: 01 tuổi vào vận.
Mậu Dần/ Đinh Sửu


Hình giải: Tạo này nhật nguyên Nhâm thủy, năm tháng ngày giờ đều lạc Không Vong, căn Nhâm thủy ở chi ngày Tý thủy, bị đại vận Đinh Sửu thiên địa hợp trói, khó mà qua khỏi vận này. Có người sẽ hỏi, tại sao không chết ở năm Canh Ngọ? Tôi cho rằng năm Canh Ngọ, Canh kim có thể sinh Nhâm thủy, sẽ không chết. Đến năm Nhâm Thân, Thân Tý hợp thê cung là luyến ái định hôn. Năm Giáp Tuất đại vận Sửu, Nhâm thủy can duy nhất -- Sửu, ở trong có Quý thủy bị Tuất hình phá, cho nên bị hơi gas ngạt thở mà chết. Nói hắn chết do thủy hỏa hại, ta lý giải, thủy là chỉ tắm rửa, hỏa là khí gas.

Đoàn giải: Xem nguyên cục tạo này, Tý thủy lạc Không Vong là một, trong cục còn có đầy bàn tiết thủy, thủy tử ở Mão. Vậy tại sao chết ở Sửu vận, mà không chết ở Dần vận? Tôi cho rằng là vì Dần mộc Thực thần là Thọ Nguyên tinh của bát tự, có Dần liền sẽ không tổn thọ, phá ở Dần mộc Không Vong, chỗ này là một, mà Đinh Sửu vận, Tý Sửu hợp Đinh Nhâm hợp, thì không thể sinh Dần, cho nên ứng ở năm Giáp Tuất, Giáp mộc Thực thần hư thấu mà hợp Kỷ, ý là khử mất Dần vậy, cho nên tất phải chết.

Ghi chú:
Hình giải: Là phần giải thích của tác giả Hình Tú Phân;
Đoàn giải: Là lời bình chú của Đoàn Kiến Nghiệp;
Cả họ Hình và họ Đoàn đều là đệ tử cùng một sư môn”.


Qua bài luận của 2 “Cao Thủ” chuyển giới từ Tử Bình truyền thống sang “Manh Phái” là Đoàn Kiến Nghiệp và Hình Tú Phân cho thấy họ không nắm được các kiến thức Tử Bình truyền thống như.

1 - Với Hình Tú Phân: Ông ta cũng biết đến khái niệm Hợp trong Tử Bình qua câu : ”Nhâm thủy ở chi ngày Tý thủy, bị đại vận Đinh Sửu thiên địa hợp trói” nhưng lại không hề biết Tý hợp với Sửu hóa được Thổ và 2 Nhâm hợp với Đinh là tranh hợp thật. Và thêm một điều đáng buồn là ông ta cho rằng các can chi trong hợp và ngoài hợp tác động được với nhau qua câu: ”...Sửu, ở trong có Quý thủy bị Tuất hình phá” mà ở đây Tuất và Sửu còn ở trong 2 tổ hợp khác nhau (Tý hợp với Sửu còn 2 Mão hợp với Tuất). Điều này khẳng định ông ta không biết gì về các kiến thức cơ bản xây dựng nên môn Tử Bình tuyền thống mà tôi đã phát biểu trong các “Binh Pháp Tử Bình”.

2 – Với Đoàn Kiến Nghiệp: Ông ta cũng chỉ biết “Gõ Mõ Tụng Kinh” với câu Thực Thương là Thọ tinh” cho nên ông ta cũng như nhiều cao thủ ở đây cho rằng Thọ tinh cần phải càng vượng càng tốt hay được sinh thì mới thọ còn không thì sẽ chết yểu, bất kể Thân vượng hay Thân nhược qua câu: ”Dần mộc Thực thần là Thọ Nguyên tinh của bát tự.............. Tý Sửu hợp Đinh Nhâm hợp, thì không thể sinh Dần....”, vì vậy ông ta đã kết luận “cho nên tất phải chết”. Ở đây chưa nói tới theo như các sách cổ thì Đinh chỉ hợp được với 1 Nhâm, vậy thì còn lại 1 Nhâm không sinh được cho Dần sao ? Điều này ông ta đành phải lờ đi coi như không biết.

Từ đây chúng ta thử đặt câu hỏi rằng 2 cao thủ này đã học được những gì qua các thầy “Manh Phái” ?

Nếu như các thầy “Manh Phái” cũng không biết đến tai họa này chủ yếu do 2 hóa cục Thổ và điểm kỵ vượng của Thổ gây ra (tới 5đh) thì họ luận theo kiểu gì để giải thích được cho tai họa này ?

Sửa bởi VULONG777: 25/10/2015 - 19:40


Thanked by 1 Member:

#25 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 29/11/2015 - 04:41

Tôi sẽ đăng các bài viết mới hay chuyển các bài viết có giá trị như các ví dụ mẫu mang tính chất Binh Pháp của tôi ở các chủ đề khác hay trang web khác về chủ đề này với mục đích sau này sẽ sử dụng để bổ xung cho cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi cũng như cho mọi người tiện nghiên cứu, tham khảo....


Sau đây là 2 ví dụ trong cuốn "Trích Thiên Tuỷ" - Nguyên tác: Lưu Bá Ôn, Nhậm Thiết Tiều bình giảng

"50 - Nhâm thân – bính - ngọ canh - ngọ canh thìn

Ðinh mùi/
mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý

Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh. Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc.

51 - Nhâm ngọ - bính ngọ - canh thân - mậu dần

Ðinh mùi/
mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý

Mệnh này với mệnh trên, đại đồng mà tiểu dị, nhật chủ tọa lộc thân kim, nhâm thủy cũng khẩn chế sát, cớ sao danh lợi đều không, mệnh này chung thân không phát được sao? Cái khác nhau là mệnh trên
nhâm thủy tọa thân kim, thực thần vượng có thể chế sát, mệnh này nhâm thủy tọa ngọ tức lâm tuyệt địa, không có lực chế sát vậy; mệnh trên thiên can thấu canh có thể trợ nhật chủ lại có thể sinh nhâm thủy, mệnh này thiên can thấu mậu thổ khắc thủy, không thể sanh thực thần. Tả hữu không tình hiệp vậy".


Ở 2 ví dụ này rõ ràng tác giả đã luận theo “Cách Cục Pháp” y chang như Hoàng Đại Lục đã luận tức lấy dụng thần chính là cách cục của Tứ Trụ đó. Cho nên 2 ví dụ này tác giả đã lấy Nhâm là Thực thần làm dụng thần vì 2 ví dụ này đều thuộc cách Thực thần chế Sát.

Chính vì lấy Nhâm làm dụng thần nên ở ví dụ 50 tác giả phải Đẽo Gọt sao cho Nhâm (Thực thần) có lực đủ sức chế Sát (Bính) thì mới thành cách để phù hợp với thực tế phú quý của người này (“Nhâm thủy tọa Thân kim,…Thực thần vượng có thể chế Sát vậy”) còn ví dụ 51 tác giả phải tìm ra các lý do sao cho Nhâm không có lực chế Sát nên cách cục không được tạo thành để phù hợp với thực tế nghèo hèn của đương số (“Nhâm thủy tọa Ngọ tức lâm tuyệt địa, …không có lực để chế Sát vậy”).

Cho nên nhiều người đã khẳng định tác giả luận theo “Cách Cục Pháp” thì quả là không sai mà không biết rằng tác giả đang dùng Tuyệt Chiêu “Gọt Chân Cho Vừa Giày”.

Chỉ cần trình độ mới qua nhập môn thì bất kỳ người nào sử dụng “Binh Pháp Tử Bình số 1” của tôi là “Hỷ dụng thần thuộc về ta còn kỵ thần thuộc về người” đều có thể dễ dàng xác định được ví dụ 50 có Thân nhược vì có các vận Mậu Thân, Kỷ Dậu và Canh Tuất đều có can chi thuộc hành Thổ và Kim là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp của Tứ Trụ này nên chúng phải thuộc về ta là hỷ dụng thần thì mới huy hoàng như vậy còn ví dụ 51 rõ ràng trái ngược lại là Thân phải vượng thì Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp mới là kỵ thần thuộc về người nên mới nghèo hèn như vậy.

Đáng tiếc rằng tác giả đã không có khả năng này hoặc có nhưng không thể giải thích được vì sao ví dụ 50 Thân nhược còn ví dụ 51 Thân lại vượng nên đành phải lờ đi coi như không biết.

Vậy thì nguyên nhân sau xa là gì mà tác giả đã không thể xác định được chính xác Thân vượng hay nhược của 2 ví dụ này ?

Cái đầu tiên chính là Tuyệt Chiêu của những người cho rằng mình đã đạt tới trình độ “Thâm Sâu” là chỉ biết “Gõ Mõ Tụng Kinh” đếm 3 Kim, 3 Hỏa, 1 Thủy… còn chúng bị khắc gần, trực tiếp hay xa hoặc chúng ở xa hay gần Nhật can thì không hề biết.

Sau đây là cách dùng Toán Học của tôi để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của ví dụ 50 này.

Ví dụ 50:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Theo sơ đồ trên thì Thân trụ năm, Bính trụ tháng và Canh trụ ngày bị khắc gần và trực tiếp nên chúng không còn khả năng nhận được sự sinh hay sinh, khắc với các can khác.
Ta thấy Thân kim có 14,85đv nhỏ hơn Hỏa là Quan Sát có 20,47đv nhưng do có Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh thêm Nhật can Canh được lệnh nên Kiêu Ấn sinh được 50%đv của nó cho Thân là 50%.6,77 đv = 3,39đv. Vì vậy thân có 14,85đv được thêm 3,39đv thành 18,24đv nhưng số điểm này vẫn nhỏ hơn của Quan Sát nên Thân là nhược. Điều này là quá phù hợp với thực tế huy hoàng của người này (vì Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp là hỷ dụng thần).

Ví dụ 51:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bây giờ chúng ta thử tìm xem nguyên nhân vì sao tác giả không thể xác định được đúng Thân vượng hay nhược của 2 Tứ Trụ 50 và 51.

Ở đây chúng ta chỉ cần để ý đến sự hoán vị của Ngọ trụ ngày và Thân trụ năm cho nhau trong 2 ví dụ này là đủ.

Ngọ trụ ngày của ví dụ 50 có 10đv chỉ bị giảm 1/10đv do bị Nhâm trụ năm khắc cách 2 ngôi còn 10.9/10đv = 9đv trong khi Ngọ trụ năm của ví dụ 51 cũng có 10đv nhưng bị Nhâm khắc trực tiếp nên giảm 50%đv và vào vùng tâm bị giảm tiếp 50%đv nữa còn 10.50%.50% đv = 2,5đv. Qua kết quả này chúng ta thấy chỉ vì vị trí khác nhau mà đv của riêng Ngọ ở 2 ví dụ này đã chênh nhau tới 9đv – 2,5đv = 6,5đv.

Trong khi Thân trụ năm của ví dụ 50 có 7đv và thêm 4,05đv là điểm đắc địa của Canh tại Thân thành 7đv + 4,05đv = 11,05đv. Số điểm này bị giảm 1/3 do Ngọ trụ tháng khắc gần và giảm 1/5 do Ngọ trụ ngày khắc cách 1 ngôi và vào vùng tâm giảm tiếp 50%đv còn 11,05.2/3.4/5.1/2 đv = 2,95đv (điểm đắc địa cũng bị giảm như bình thường do có 2 lực khắc).

Trong khi Thân ở ví dụ 51 ở trong vùng tâm rồi và Thân chỉ bị khắc bởi 1 lực của Ngọ trụ tháng (còn Ngọ trụ năm bị Nhâm cùng trụ khắc trực tiếp nên vô dụng) nên điểm đắc địa của Nhật can tại Thân trụ ngày là 4,05đv không bị giảm mà chỉ có điểm vượng của chi Thân là 7đv bị giảm 1/3 do Ngọ khắc gần còn 7.2/3 đv = 4,67đv, tổng cộng đv của Thân trụ ngày còn lại là 4,67đv + 4,05đv = 8,72đv. Vì vậy điểm chênh nhau của chi Thân ở 2 vị trí trụ năm và trụ ngày này phải là 8,72đv - 2,95đv = 5,77đv.

Chúng ta thấy ở ví dụ 50 điểm vượng của Hỏa tăng còn điểm vượng của Thân kim giảm còn ở ví dụ 51 thì ngược lại điểm vượng của Ngọ giảm còn của Thân kim lại tăng. Chính vì vậy mà mặc dù ví dụ 50 có thêm Canh ở trụ giờ nhưng điểm vượng của Thân kim là 14,85 cũng chỉ tương đương với ví dụ 51 chỉ có 1 Canh kim là 14,32đv. Trong khi Hoả của ví dụ 50 có tới 20,47đv (chỉ vì Ngọ ở trụ ngày) còn Hoả ở ví dụ 51 chỉ có 13,97đv (chỉ vì Ngọ ở trụ năm). Chính vì lý do này mà khi Thân được cộng thêm 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho thì ví dụ 50 có Thân nhược còn ví dụ 51 có Thân là vượng.

Đây chính là nguyên nhân sâu xa để giải thích vì sao tác giả đã không thể xác định được chính xác Tứ Trụ nào có Thân là vượng hay nhược.

Điều này đã chứng minh một cách không thể chối cãi được là vị trí xa hay gần của các can chi trong Tứ Trụ so với Nhật can (Can ngày) cũng như các can chi trong Tứ Trụ khắc nhau gần, trực tiếp hay xa phải khác nhau và chúng phải tuân theo những quy tắc nhất định.

Chỉ cần 2 ví dụ này có thể kiểm tra được trình độ xác định Thân vượng và nhược của bất kỳ cao thủ Tử Bình nào cũng như kiểm tra được bất cứ Phương Pháp xác định Thân vượng hay nhược của bất cứ ai để xem nó có đáng tin cậy hay không ? Bởi vì khi đã xác định sai Thân vượng hay nhược thì dụng thần sẽ xác định sai và dĩ nhiên là người đó sẽ luận sai.

Sửa bởi VULONG777: 29/11/2015 - 05:02


#26 longkiet

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 133 Bài viết:
  • 106 thanks

Gửi vào 29/11/2015 - 05:45

Nhắc lại, khái niệm về dụng thần cách cục pháp khác với dụng thần vượng suy pháp.
- Dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh: gọi là cách. Vd ngày Giáp sinh tháng Dậu, là Chính quan cách nó chính là dụng thần.
-Phối với can chi bát tự, chữ nào sinh trợ (...) dụng thần cấu thành cách cục thì gọi là Tướng thần.
-Chữ nào giúp đỡ (...) Tướng thần gọi là Hỉ thần.
-Chữ phá cách cục gọi là kị thần.
-Chữ sinh trợ kị thần gọi là cừu thần.
Rõ ràng với khái niệm các thần trên không mẩy may có bóng dáng vượng suy nhật can.
Và quan trọng là chỉ cần Cách Chính Cục Thanh thì phát phúc.

#27 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 29/11/2015 - 06:59

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

longkiet, on 29/11/2015 - 05:45, said:

Nhắc lại, khái niệm về dụng thần cách cục pháp khác với dụng thần vượng suy pháp.
- Dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh: gọi là cách. Vd ngày Giáp sinh tháng Dậu, là Chính quan cách nó chính là dụng thần.
-Phối với can chi bát tự, chữ nào sinh trợ (...) dụng thần cấu thành cách cục thì gọi là Tướng thần.
-Chữ nào giúp đỡ (...) Tướng thần gọi là Hỉ thần.
-Chữ phá cách cục gọi là kị thần.
-Chữ sinh trợ kị thần gọi là cừu thần.
Rõ ràng với khái niệm các thần trên không mẩy may có bóng dáng vượng suy nhật can.
Và quan trọng là chỉ cần Cách Chính Cục Thanh thì phát phúc.

Nếu đúng như vậy thì hãy áp dụng nó để luận Tứ Trụ sau (có nói đến Cách Cục và có phát phúc thì mới "làm quan đến chức phó tướng) xem sao ?

Sau đây là ví dụ số 223 của cuốn “Trích Thiên Tủy”:

""223 -Canh tuất - giáp thân - giáp tuất - ất sửu

Ất dậu/ bính tuất/ đinh hợi/ mậu tý/ kỷ sửu/ canh dần

Giáp mộc sanh vào mạnh thu, tài sinh sát vượng, tuy thiên can thấu ba giáp ất, mà địa chi không nâng đỡ, mộc tàn héo kim sắc cứng, dụng thổ tòng chi. Thành cách tòng sát. Tuất vận xuất thân võ trạng nguyên. Vận đinh hợi sanh mộc khắc kim, hình tang hao phá quá nhiều. Vận mậu tý, kỷ sửu, tài sinh sát vượng, làm quan đến chức phó tướng”.

Xin mời bác ThíchNguNgay cũng như maianha và các cao thủ khác hãy dùng các phương pháp luận của mình để luận Tứ Trụ này xem có gì khác với bài luận của tác giả này không ?"


Nào xin mời!

Sửa bởi VULONG777: 29/11/2015 - 07:00


#28 longkiet

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 133 Bài viết:
  • 106 thanks

Gửi vào 29/11/2015 - 08:50

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

longkiet, on 29/11/2015 - 05:45, said:

Nhắc lại, khái niệm về dụng thần cách cục pháp khác với dụng thần vượng suy pháp.
- Dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh: gọi là cách. Vd ngày Giáp sinh tháng Dậu, là Chính quan cách nó chính là dụng thần.
-Phối với can chi bát tự, chữ nào sinh trợ (...) dụng thần cấu thành cách cục thì gọi là Tướng thần.
-Chữ nào giúp đỡ (...) Tướng thần gọi là Hỉ thần.
-Chữ phá cách cục gọi là kị thần.
-Chữ sinh trợ kị thần gọi là cừu thần.
Rõ ràng với khái niệm các thần trên không mẩy may có bóng dáng vượng suy nhật can.
Và quan trọng là chỉ cần Cách Chính Cục Thanh thì phát phúc.
-Tui nhắc lại khái niệm này để chứng minh rằng nhận định của VULONG về cách cục pháp (ccp) là sai, Nhậm tiên sinh không hề luận theo ccp ở 2 vd 50,51. Luận theo ccp thì: nguyệt lệnh ngọ thấu bính là Sát cách (nghịch dụng), Nhâm chế Bính là tướng thần (không phải dụng thần) cấu thành cách cục "Sát yêu Thực chế".
- Về Vd 223 tui xin hỏi VULONG : theo VL thì ccp có thể giải nỗi tứ trụ này không? VL trả lời câu hỏi này đi, sau đó tui sẽ đáp lại lời mời của VL sẽ luận vd 223 này.

#29 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 29/11/2015 - 11:38

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

longkiet, on 29/11/2015 - 08:50, said:

-Tui nhắc lại khái niệm này để chứng minh rằng nhận định của VULONG về cách cục pháp (ccp) là sai, Nhậm tiên sinh không hề luận theo ccp ở 2 vd 50,51. Luận theo ccp thì: nguyệt lệnh ngọ thấu bính là Sát cách (nghịch dụng), Nhâm chế Bính là tướng thần (không phải dụng thần) cấu thành cách cục "Sát yêu Thực chế".
- Về Vd 223 tui xin hỏi VULONG : theo VL thì ccp có thể giải nỗi tứ trụ này không? VL trả lời câu hỏi này đi, sau đó tui sẽ đáp lại lời mời của VL sẽ luận vd 223 này.

"50 - Nhâm thân – bính - ngọ canh - ngọ canh thìn

Ðinh mùi/
mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý

Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh.
Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc".


Theo định nghĩa của Thiệu Vĩ Hoa về "Cách Cục Phổ Thông" thì Tứ Trụ này thuộc cách "Thực thần chế Sát" còn theo định nghĩa của Hoàng Đại Lục thì gọi là cách "Sát bị Thực chế" (theo tôi 2 cách gọi này không có gì khác nhau, vì trong Ngọ chỉ có Quan là Đinh thôi làm gì có Bính đâu mà bảo Bính là Sát thấu lộ để định cách cục ?). Chung quy lại cách luận của ông Thiệu thì không lấy Nhâm làm dụng thần vì Thân nhược còn của Hoàng Đại Lục thì lấy Nhâm làm nghịch dụng thần. Ở đây rõ ràng tác giả Nhâm Thiết Tiều lấy Nhâm làm NGHỊCH dụng thần qua câu "Dụng nhâm thủy chế sát".

Vậy thì còn cãi cái gì ?

Tôi không có thì giờ nên chỉ trả lời đến đây thôi, còn muốn hỏi gì cứ hỏi mainha và bác ThichNguNgay ấy!

Bye....Bye....

Sửa bởi VULONG777: 29/11/2015 - 12:06


#30 longkiet

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 133 Bài viết:
  • 106 thanks

Gửi vào 30/11/2015 - 04:44

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 29/11/2015 - 11:38, said:

"50 - Nhâm thân – bính - ngọ canh - ngọ canh thìn

Ðinh mùi/
mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý

Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh.
Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc".


Theo định nghĩa của Thiệu Vĩ Hoa về "Cách Cục Phổ Thông" thì Tứ Trụ này thuộc cách "Thực thần chế Sát" còn theo định nghĩa của Hoàng Đại Lục thì gọi là cách "Sát bị Thực chế" (theo tôi 2 cách gọi này không có gì khác nhau, vì trong Ngọ chỉ có Quan là Đinh thôi làm gì có Bính đâu mà bảo Bính là Sát thấu lộ để định cách cục ?). Chung quy lại cách luận của ông Thiệu thì không lấy Nhâm làm dụng thần vì Thân nhược còn của Hoàng Đại Lục thì lấy Nhâm làm nghịch dụng thần. Ở đây rõ ràng tác giả Nhâm Thiết Tiều lấy Nhâm làm NGHỊCH dụng thần qua câu "Dụng nhâm thủy chế sát".

Vậy thì còn cãi cái gì ?

Tôi không có thì giờ nên chỉ trả lời đến đây thôi, còn muốn hỏi gì cứ hỏi mainha và bác ThichNguNgay ấy!

Bye....Bye....
Những giòng chữ ông viết ở trên đã tự tố cáo rằng ông chẳng biết gì về cách cục pháp, hèn chi bây giờ tui mới hiểu vì sao ông đã không trả lời những câu hỏi của tui. Thôi ông "thăng" đi là vừa, cảm giác tui lúc này là ái ngại cho ông quá. Cách cục pháp giờ có thể yên tâm gối đầu ngủ yên rồi. Tạm biệt ông nhé.






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |