một vài phương pháp quan sát : theo Trung châu phái.
ví dụ : một mệnh nữ. (tuổi Mậu).
thứ 1 . tìm “cung xấu nhất”.
trong mệnh bàn : cung xấu nhất là Giao hữu cung tại tị
trong cung Cơ hóa Kị tọa thủ
- bị [Kình Đà giáp] cấu thành cách cục [Kình Đà giáp Kị].
- Hỏa tinh đồng độ, do vậy gần giống như [Kình Đà giáp],
tính cương khắc cũng do đó mạnh thêm.
thứ 2 . tìm “đại hạn xấu nhất”.
Làm rõ mệnh bàn, trước tiên đem cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất nghiên cứu :
cung tị bị ảnh hưởng 3 cung : cung dậu, cung hợi, cung sửu. trong đó cung dậu là xấu nhất, vì nó cũng đồng thời bị Linh tinh của sửu tương hội, tức bị hai sao Hỏa Linh lấy [song phi hồ điệp] thức đến chiếu xạ.
cung dậu này là đại hạn Mệnh cung 34 - 43 tuổi.thứ 3 . tìm “cung vị nào xấu nhất của đại hạn xấu nhất”. Định danh cho cung vị đó.
sau khi nghiên cứu cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, lại nghiên cứu ảnh hưởng của [tam phương], Cụ thể, tác động của nó sẽ trở nên tồi tệ hơn, hoặc biến thành một cung tốt.
Do ở đại hạn mệnh cung “có khuyết điểm”, Vì vậy, cần phải tiếp tục xác định cung vị đại hạn nào xấu hơn.
chúng ta lưu ý đến cung thìn. trong cung có Thất-sát và Đà nguyên cục tọa thủ, tại đại hạn Tân Dậu, Đà này và đại hạn lưu Đà tại cung thân tương xung, do vậy tính cương khắc phát động, mà còn cùng đại hạn lưu Kình tại cung tuất đối củng, tính cương khắc càng cường.
cung thìn là Tật ách cung của đại hạn tân dậu, vì vậy chúng ta liền phải lưu ý đến tại trong hạn có mặt xấu của Tật ách cung hay không?
thứ 4 . tìm lưu niên Mệnh cung.
Sau khi Nghiên cứu vận hạn tốt xấu, tái nghiên cứu cung vị tốt xấu, để quyết định vận hạn nào thật tốt, vận hạn nào thật xấu,
tìm cung vị xấu nhất của đại hạn, kế tiếp tìm lưu niên Mệnh cung,
Quay lại chỗ nói cung xấu nhất của Mệnh bàn (tức cung tị), cung vị này là Tật ách cung của Mệnh lưu niên nhâm tuất : Liêm Phủ và Thiên hình đồng độ,
- có đại hạn lưu Kình cùng lưu niên lưu Đà nhập, hai lưu diệu này phân biệt với nguyên lai Kình Đà của mệnh bàn tương chiếu hội, lực lượng hai bên gia cường.
- Tệ hơn, tại nhâm tuất niên : Vũ hóa Kị tại dần cung đến hội chiếu. toàn bộ tinh hệ lưu niên Mệnh cung hiển thị có [kim thuộc đao thương].
thứ 5 . tiếp tục xem xét tình trạng năm sau.
Năm kế tiếp là quý hợi niên.
Mệnh cung lưu niên bị Xương đại vận hóa Kị của mùi cung, cập Cơ hóa Kị nguyên cục của tị cung hội chiếu.
Lại truy xuống, xem Tật ách cung của quý hợi niên.
Tật ách cung lưu niên tại ngọ : có Tử-vi đồng độ Kình nguyên cục, Kình này bị đại hạn Kình xung động,
- hội hiệp Liêm Phủ và Thiên-hình của tuất cung,
- lại bị Tham lưu niên hóa Kị tương xung,
- lại gia thêm Hư Khốc đồng độ,
- lại hội địa-kiếp của dần cung,
vì thế có thể suy đoán, cô này tại năm quý hợi cần phải động một lần thủ thuật.
Trả lời Whitebear.
đoán Đấu sổ không phải là số mệnh.
(trích trong “Cốt tủy phú” Lục bân Triệu biên khảo, Vương đình Chi bổ chú).
Chúng ta nếu xét cuộc đời. Tất nhiên sẽ cảm thấy có một vài năm then chốt, thật bị ràng buộc với một lực nào đó, có lúc nguy cơ ngàn cân, có khi may mắn như ráng hồng, có thể tị xu không, hồi tưởng lại, thấy không thể giải thích được.
Chổ luận đoán Đấu sổ xem trọng, kì thật cũng chỉ một vài thời điểm then chốt. Mỗi khi gặp, phản ứng của mỗi người đều khác nhau. Giống như đoàn xe đến ngã tư, có người sẽ tiếp tục đi tới, có người sẽ rẽ trái hoặc rẽ phải. vì đi theo những hướng khác nhau. nên tự nhiên có tình huống khác nhau.
Chổ đẩu số có thể suy đoán, chẳng qua là chỉ ra tại năm nào đi đến ngã tư. Còn như đi tới, trở lui, rẽ trái, rẽ phải, ắt căn bản không có khả năng đoán được. vì những phản ứng này liên hệ đến nghiệp lực, do tác động của nhân quả, định hướng ở một nơi nào đó, đấu sổ tuyệt không có khả năng tính được nghiệp lực nhân quả của mỗi người.
Cho nên, người sinh "cùng năm tháng ngày giờ", tinh bàn hoàn toàn tương đồng, nhưng cũng có khác nhau "Bần tiện phú quý thọ yểu". chổ khác nhau, tức do những năm then chốt đã trải qua, mỗi người có những hướng đi khác nhau. Thường thường đi khác một bước, tức bần tiện chuyển thành phú quý; đi sai một đường, khả dĩ trường thọ biến thành yểu chiết.
Cùng một tinh bàn, họa phúc bất đồng. Trừ nghiệp lực nhân quả của mỗi người ra, còn có bối cảnh xã hội, nhân sự quan hệ nhiều nhân tố. ví như, người sống tại Trung quốc đại lục, họa phúc khác với người sống tại Đài loan.
Vì hoàn cảnh xã hội khác nhau, vận hạn cát hung có thể khác nhau. Người Đài loan có thể do nhà đất mà phát gia, người đại lục cũng có thể do nhà đất mà vướng họa.
Ngày nay Trung quốc đại lục đề xuất khai phóng chính sách, liền có người có cơ hội phát gia, nếu người Thiên di cung tốt, khả dĩ xuất ngoại phát tài, thành hào phú ở nơi khác, mà trước khi khai phóng cải cách, nếu giao dịch ở ngoại địa, sợ rằng lập tức biến thành phản cách mạng, vướng tai họa lao ngục.
đoán vận hạn họa phúc, tất phải xét đến nhân tố xã hội, nhân sự. không thể chỉ đem một tinh bàn để công thức hóa suy đoán. một tinh hệ tổ hợp giống nhau, có thể ở đây là cát, tại nơi khác là hung; khắc ứng ở cùng một cung viên, khả dĩ tại đây là phúc, tại kia là họa.
Nên tinh bàn đẩu số có thể đoán được, chỉ là một loại xu thế của mệnh vận, quyết định của cát hung họa phúc. Còn bị ảnh hưởng của nghiệp lực cá nhân, cùng nhân tố xã hội nhân sự. đúng là nhân sinh không có số mệnh. Không thể nói tinh mệnh quyết định hết thảy.