Jump to content

Advertisements




Suối nguồn yêu thương


58 replies to this topic

#46 T.AO

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7039 Bài viết:
  • 4577 thanks

Gửi vào 18/03/2014 - 14:49

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

hongtiem, on 18/03/2014 - 14:43, said:

Bạo lực gia đình ở mình, còn nhiều lắm mà, mặc dù các bác nhà luật giờ cũng bắt đầu "sắn tay áo" vào cuộc điều trị phần tử cậy tứ chi phát triển, chồng đánh vợ, chửi vợ, ngoại tình--> phạt tiền, nhưng dường như có Luật để cho...vui, vẫn là câu chuyện bi, hài chưa có hồi kết...Được cái chị em nước nhà vốn rất trọng đạo lý "áo lành đùm áo rách" bị chồng đánh rách áo, mai mua cái khác đẹp hơn cho bõ tức! Phụ nữ toàn diện là phụ nữ sáng diện, trưa diện, tối diện, nửa đêm cũng diện.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



ơ đâu chả thế hề hề

đàn bà ấn độ vs hồi giáo còn kinh khủng hơn

Sửa bởi DaiKhe: 18/03/2014 - 15:02


Thanked by 1 Member:

#47 Búp Sen

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 644 Bài viết:
  • 1099 thanks

Gửi vào 20/03/2014 - 15:51

Lời dạy cuối cùng của đức Phật trước khi nhập Niết bàn


"Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..".


1. Phật báo tin sắp nhập Niết bàn

Khi giác hạnh đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Ðến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu già. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng Sa La trong xứ Câu Ly, cách thành Ba La Nại chừng 120 dặm. Một hôm, Ngài gọi ông A Nan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo:

-"A Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và đạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình ta, theo luật vô thường, bây giờ như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp cũng đã lan khắp nơi, vậy ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa? A Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn".

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tin đức Phật sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử của Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.

Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, đức Phật vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền đạo. Một hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Ðà, thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo ông về. Ðến nhà ông Thuần Ðà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm Chiên đàn, thường gọi là nấm heo rừng, vì giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích.

Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giã ông Thuần Ðà ra đi. Ðược một quãng đường, Ngài giao bình bát cho ông A Nan và truyền treo võng lên, trong rừng cây Ta La (Tàu dịch là cây song thọ, cây có hai nhánh lớn chia ra như hai cái nạn), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống võng đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phía tay phải, mặt xây về hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.

Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên Tu Bạc Ðà La đến xin xuất gia thọ giới Sa di với Ngài, Ngài hoan hỷ nhận lời. Ðó là người đệ tử chót trong đời Ngài.

2. Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc

Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phú chúc như sau:

a) Y, bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.

b ) Các đệ tử phải lấy Giới luật làm Thầy.

c) Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ: "Như thị ngã văn".

d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần:

- Một phần cho Thiên cung,
- Một phần cho Long cung,
- Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở Ấn Độ

Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đã để lại trong giờ phút cuối cùng.

- "Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khát, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..".

- "Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Chỉ có chân lý cuả đạo ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tiến lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!".

Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày Rằm tháng Hai Âm lịch (theo giáo sử Trung hoa).

Rừng cây Ta-la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như chìm lặng trong giây phút nặng nề của sự chia ly.

Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vao trong kim quan và 7 ngày sau, đua kim quan Ngài vào thành Câu thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu).

Tám vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tương dũng đến toan tranh dành Xá lợi. Nhưng ông Hương Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra điều đình, và nhờ thế việc phân chia Xá lợi đều được ổn thỏa.


Trích trong cuốn Phật học Phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa

Thanked by 5 Members:

#48 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 23/03/2014 - 18:47

TINH THẦN CẦU NGUYỆN CỦA ĐẠO PHẬT

-Các hình thức cầu nguyện

Cầu an: là cầu nguyện cho tất cả mọi người dù thân hay sơ được an vui, hạnh phúc, bình yên, an lành, vượt qua các tai ương bất hạnh trong đời. Vì vậy, tinh thần cầu an nhằm xoa dịu nỗi đau, thể hiện sự quan tâm, lo lắng và thương yêu, giúp đỡ cho nhân loại bằng tình người trong cuộc sống. Cầu an cũng nói lên tinh thần nhân bản đạo đức của người Phật tử, khi đứng trước hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật, nhằm làm giảm bớt nỗi đau bất hạnh cho tha nhân.

Cầu siêu: là cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ, người thân đã qua đời được siêu thoát, cầu cho các hương linh, vong linh, các oan hồn uổng tử, được siêu thoát về các cõi an lành.  Như vậy, tinh thần cầu siêu là biểu lộ sự quan tâm, lo lắng, sự thương yêu, giúp đỡ cho người thân và cộng đồng xã hội. Sự quan tâm, thương tưởng đối với người đã chết không thể làm gì khác hơn là cầu nguyện, là mong mỏi, là mong muốn cho người đó được tái sinh và an vui chỗ mới tốt đẹp.

Cầu sám hối: là cầu nguyện cho những lỗi lầm cố ý hay vô tình từ vô thủy kiếp đến nay, ta đã không biết nên làm tổn hại mình, người và chúng sinh. Ta nguyện cầu không cho chúng tái phạm và bày tỏ sự ăn năn, hối hận lỗi lầm, mong sự chứng giám và tha thứ của các Bồ tát, các bậc hiền Thánh và tất cả chư Phật về những gì mình đã gây khổ đau cho nhân loại, muôn loài. Cầu nguyện sám hối là nhu cầu cần thiết nói lên sự mong muốn phục thiện của bản thân, nhằm phát huy nhân cách đạo đức, từ bi và trí tuệ.

Cầu dứt ác làm lành: là cầu nguyện cho mình và người được phát khởi tín tâm thiện ích với tinh vô ngã, vị tha, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, để giúp ta vượt qua dòng đời nghiệt ngã với muôn vàn khổ đau, mà thành tựu được mục tiêu giác ngộ, giải thoát, trên cầu thành Phật dưới cứu độ chúng sinh. Cầu nguyện dứt ác, làm lành là nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống, nói lên tinh thần yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng sự chia vui sớt khổ, nhằm làm giảm bớt nỗi đau bất hạnh cho mọi người.

Nói tóm lại, mục đích của sự cầu nguyện là mong muốn mang đến lợi ích thiết thực cho người sống tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, bình yên hạnh phúc; kẻ chết đều được tái sinh cảnh giới tốt đẹp.


Tác dụng của cầu siêu: Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo gia hộ cho thần thức người đã mất được nhẹ nhàng, siêu thoát về các cõi lành. Trong kinh Địa Tạng có nói rõ tác dụng của sự cầu nguyện cho người chết rằng: Trong 7 phần công đức, người cầu siêu được hưởng sáu phần, người chết chỉ hưởng được một phần mà thôi. Tại sao người chết chỉ hưởng được một phần? Điều này dễ hiểu thôi, vì khi tụng kinh để cầu siêu, người tụng kinh phải tập trung cao độ để lắng tâm trong sạch, nên ngay khi đó ba nghiệp thân, miệng, ý được thanh tịnh; miệng đọc lời kinh, tai lắng nghe và ý chỉ chú tâm vào lời kinh; do đó, phát sinh năng lực công đức trước nhất là cho người tụng, rồi những người tụng đó sử dụng năng lượng công đức ấy để hướng đến người đã chết. Vì vậy, người mất chỉ nhận được một phần tâm linh thanh tịnh ấy mà thôi.

Như trường hợp của Tôn giả Mục Kiền Liên, sau khi xuất gia làm đệ tử Phật, nhờ siêng năng, tinh cần tu tập, nên Tôn giả đã chứng quả giác ngộ giải thoát. Vì nhớ thương mẹ mình sau khi chết không biết tái sinh nơi đâu, Tôn giả vận dụng thần thông tìm kiếm khắp nơi, cuối cùng thấy mẹ đang bị đọa trong loài quỷ đói, thân thể tiều tụy, ốm o gầy mòn, đói khát, vật vờ, trông rất thảm thương.

Động lòng thương xót mẹ, Tôn giả trở lại trần gian xin được một bát cơm, hai tay cung kính dâng lên mẹ. Bà Thanh Đề thấy bát cơm mừng quá vì đói khát lâu ngày, nên vội vàng lấy một tay che bát cơm lại, sợ các quỷ khác thấy xin ăn, tay còn lại bà bốc cơm ăn. Nhưng nghiệt ngã thay, bỗng dưng cơm hóa thành lửa, bà ăn không được, trong lòng thèm khát, khổ sở vô cùng, làm cho Tôn giả xúc động, nghẹn ngào mà hai hàng lệ rơi. Bát cơm của Tôn giả dâng lên cho mẹ bằng tất cả tấm lòng, tưởng làm no lòng mẹ, ngờ đâu cơm hóa thành lửa ăn không được, nên bà phải chịu khổ sở, đớn đau vô cùng.

Bà Thanh Đề lúc còn sống, vì không tín kinh Tam bảo, nên lúc nào cũng tham lam, bỏn sẻn, keo kiết, ích kỷ, không biết bố thí hay giúp đỡ cho ai, nên sau khi chết phải bị đọa vào loài quỷ đói. Nhìn cảnh mẹ đói khát, khổ sở, mà không có cách nào giúp được, Tôn giả đành thương xót, ngậm ngùi trở về bạch Phật tìm cách cứu mẹ.

Phật dạy, “nhân mùa an cư kiết hạ và lễ tự tứ của chư Tăng, ông hãy phát tâm cúng dường trai Tăng, nhờ công đức tu hành của đại chúng, vì đa số quý thầy tâm thanh tịnh, trong sáng, nên có thể làm cho mẹ ông thức tỉnh, buông xả tâm ích kỷ nhỏ nhoi, mà được thác sinh về cõi an lành”.

Tôn giả nghe lời Phật dạy, trở về quê nhà, vận động gia đình, người thân phát tâm tịnh tài, tịnh vật cúng dường trai tăng; nhờ vậy, mẹ Ngài thoát khỏi quỷ đói, sinh về cảnh giới an lành. Nhìn từ góc độ thực tế cuộc đời loài quỷ đói cũng có trong loài người, người hay thiếu trước hụt sau, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, chết đói chết khát, bị gông cùm xiềng xích.

Người giàu có chứa nhiều của cải, để cho mục nát, hư hại, mà không dám đem ra giúp người, cứu vật, hoặc đã giàu rồi mà còn tham lam tìm cách vơ vét về cho riêng mình. Tâm ham muốn và thèm khát quá đáng cũng là loài quỷ đói. Chúng ta làm người, hãy nên chiêm nghiệm, suy xét kỹ chỗ này. Thà rằng một miếng khi đói bằng một gói khi no, cúng dường, hồi hướng công đức cho những người đã mất, sẽ được lợi ích lớn lao như vậy.

Tại sao bà Thanh Đề được siêu thoát nhờ lực thanh tịnh của chư Tăng? Ở đây, có hai điểm chúng ta cần phải lưu ý và suy xét. Thứ nhất, nhờ sức thanh tịnh của chư tăng hướng tâm về bà, làm bà thức tỉnh, biết nhân dính mắc, tham chấp, hại người, hại vật là khổ đau; do đó, bà liền được sinh về cõi an lành. Trường hợp thứ hai, nếu trong nhiều đời và hiện tại, bà không gieo nhân phước đức, thì dù có chư Phật hộ trì cũng không thể nào cứu được bà.

Như trong kinh đã nói, nếu một người tạo mười nghiệp ác như giết hại, trộm cướp, lường gạt, tà dâm, phá hoại hạnh phúc gia cang của người khác, nói dối hại người, nói lời mắng chửi, nói lời mê hoặc dụ dỗ, nói lời đòn xóc hai đầu, tham lam quá đáng, nóng giận đánh đập và cuối cùng là si mê, thì ví như tảng đá lớn quăng xuống nước sâu, dù có ngàn người cầu cho nó nổi lên vẫn không được.

Điều chính yếu của sự cầu nguyện trong đạo Phật là sự chuyển hoá và thay đổi nghiệp lực. Nếu mình đã gây quá nhiều ác nghiệp, thì việc cầu nguyện là vô ích. Cầu nguyện theo cách thức chuyển ác thành thiện, thì sự cầu nguyện ấy được đạo Phật khuyến khích và chấp nhận, nhằm giúp cho những người chưa đủ niềm tin về nhân quả và chính mình, để họ có chỗ hướng tâm mà từng bước quay về con đường thiện lành tốt đẹp.

Cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, người thân, còn nói lên ý nghĩa bày tỏ lòng biết ơn và đền ơn đối với các liệt vị tiền nhân đã sinh ra và nuôi dưỡng ta nên người. Chim có tổ, người có tông, ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn là chân lý đạo đức làm người. Con người nếu không biết rõ cội nguồn, giống như cây bị bứng gốc rễ. Cho nên, cầu nguyện, cúng bái, tưởng nhớ ông bà cha mẹ, bà con thân quyến, nói lên sự kết nối yêu thương, mong cho họ được siêu thoát là bài học đạo lý hiếu thảo, thể hiện sự biết ơn và đền ơn, đã ăn sâu vào trong tâm thức của con người Việt Nam.

Tuy nhiên, theo lời dạy của Thế tôn trong kinh cúng thí người mất, chỉ khi nào cha mẹ người thân bị đọa vào cảnh giới quỷ đói, thì sự cúng thí đó mới được tương xứng và người đó được thọ nhận thức ăn cúng thí. Ngoài ra, những người nào sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục, súc sinh, người, thần Tu La và chư thiên, thì không nhận được các thức ăn đó. Chính vì vậy, trong kinh Địa tạng nói người mất chỉ hưởng một phần là lý do đó, còn chúng sinh trong các loài khác, đã có thức ăn phù hợp với hoàn cảnh tương xứng rồi.

Sự cầu siêu chỉ mang tính cách biểu tượng, thể hiện tấm lòng thương kính và biết ơn đối với người đã chết; về phương diện đạo đức, nhằm nhắc người đã mất không bám víu vào gia đình, vợ con, tiền bạc, tài sản, để dễ dàng ra đi và tái sinh cõi an lành. Cúng bái, tổ tiên ông bà, cha mẹ theo tinh thần biết ơn và đền ơn, thì người sống và kẻ mất đều được lợi lạc, là nét đẹp văn hóa tâm linh của người cư sĩ tại gia và đạo pháp dân tộc.

Nói tóm lại, đối với nghi thức cầu siêu, cũng nên giản đơn mà trang trọng, tránh mọi sự rộn ràng không cần thiết, có thể làm cho vong linh người thân dao động, luyến ái, hoặc tức giận nên khó siêu sinh Tịnh độ, hoặc tái sinh vào các cõi an lành. Nếu có thể, hạn chế sự khóc lóc làm ảnh hưởng đến người chết, không nên tổ chức nhạc kèn trống, hoặc tất cả những hình thức phô trương lãng phí. Lại càng không nên mở tiệc tùng, giết trâu bò, heo gà, uống rượu, cờ bạc sáng đêm, rồi nói rằng “thức để canh đám ma”.

Thay vào tất cả những hình thức không có lợi ích thiết thực, chúng ta nên mời chư Tăng đến khai thị, nhắc nhở, khuyên nhủ, niệm Phật, tụng kinh, làm nhiều Phật sự thiện ích, như phóng sinh, bố thí, cúng dường Tam bảo và bố thí giúp đỡ người bệnh tật già yếu, nhằm chia sẻ và nâng đỡ để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh. Cúng thí cầu nguyện như vậy là thể hiện tình người trong cuộc sống, bằng sự kết nối yêu thương; kẻ âm, người dương đều được lợi ích.

Tác dụng của cầu an: Cầu nguyện cho ta và người được bình yên hạnh phúc là thể hiện tấm lòng thương yêu bình đẳng, bằng sự kết nối sẻ chia và nâng đỡ. Nhưng sự cầu nguyện như vậy có hiệu quả thiết thực hay không? Khi ta có niềm tin và ước muốn chân thành vì mọi người, thì ta sẽ có sức mạnh vô biên. Sức mạnh tinh thần đó là sự nhiệm mầu của tâm linh; nhờ vậy, ta chuyển năng lượng đó làm ảnh hưởng đến người ấy. Cầu an có nghĩa là cầu cho một người nào đó được tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ và sống bình yên, hạnh phúc.

Như vậy, cầu an là sự mong muốn, là ước vọng được khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc. Để được khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự an lạc nội tâm, mỗi người Phật tử phải tự rèn luyện đời sống đạo đức và trí tuệ, bằng cách giữ gìn năm giới, mở rộng tấm lòng nhân ái, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ mọi người và sẵn sàng chia vui, sớt khổ với tinh thần vô ngã, vị tha.

Người ta có thể dùng sức mạnh tâm linh để tác động hay cảm hoá đến các sinh vật. Các vị thiền sư có thể cảm hoá các loài thú dữ, ngay cả loài cỏ cây nếu được thương yêu, chúng cũng tươi tốt hơn. Các nhà khoa học đã làm nhiều thí nghiệm để chứng minh cho sức mạnh tinh thần này. Khi một người hoặc nhiều người cùng nhất tâm cầu nguyện, luồng năng lượng tâm linh ấy sẽ tạo ảnh hưởng lên thể chất và tinh thần của người bị bệnh. Trong đời sống hằng ngày, ta thường gặp nhau và chúc phúc cho nhau được mạnh khoẻ, bình an. Nếu những lời chúc ấy có chú tâm, có nhất tâm và định tĩnh, nó sẽ tạo ra nguồn năng lượng lành mạnh để giúp ích cho người được chúc cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng.

Trong những hoàn cảnh đặc biệt, như gia đình có người thân bệnh hoạn, ốm đau, hay có những sự việc khó khăn, đặc biệt, thì nhu cầu ước muốn và cầu nguyện nhằm mong mỏi cho người thân được tai qua nạn khỏi, tránh được tai họa hiện tại là điều cần thiết đối với mọi người.

Như chúng ta đã biết, Phật giáo không chấp nhận có một cái gì cố định do đấng sáng tạo hoặc thần linh, thượng đế hay ông trời ban phước, giáng họa. Do đó, muốn đạt được mục đích cầu an thực sự, chúng ta cần phải chú tâm mạnh mẽ hướng về người ấy với tất cả tình thương. Cầu an như vậy, không có gì là mâu thuẫn đối với đạo lý nhân quả của Phật giáo. Tai nạn đến với người thân, gia đình không phải là ngẫu nhiên hay đương nhiên khi không mà có.

Chính sức mạnh của nghiệp ác quá khứ đã đem lại tai nạn cho gia đình, người thân trong hiện tại. Thế nhưng, các việc làm hiện nay như giảng nói chánh pháp, từ thiện giúp người nghèo khổ, bất hạnh, phóng sinh, làm lễ cầu an, đều là những nghiệp thiện có sức mạnh chuyển hóa nghiệp xấu ác và làm cho thế nhân ý thức được mà tin sâu nhân quả.

Chúng ta nên hiểu rằng, đạo Phật không chấp nhận có một đấng thần linh tối cao, sáng tạo ra thế giới, vũ trụ này, để rồi chấp nhận số phận đã an bài; nhưng đạo Phật thừa nhận có nhiều vị Bồ tát làm thiện và tu chứng, là những bậc hiền Thánh đã giác ngộ và giải thoát, thường xuyên gia hộ tất cả chúng sinh, hướng dẫn mọi người bỏ ác làm lành để cùng nhau chia vui, sớt khổ theo tinh thần của Bồ tát Quán Thế Âm, phát tâm đi vào đời vì lợi ích chúng sinh.

Lễ cầu an, hay cầu siêu cũng có thể tổ chức ở chùa, những nơi có cảnh trí yên tĩnh, càng làm cho nội dung của các nghi thức thêm phần hiệu quả.

Cầu nguyện cho người khác được bình an là thể hiện tinh thần thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau với tấm lòng từ bi, trí tuệ và vị tha. Cầu an đúng nghĩa theo tinh thần đạo Phật là chuyển hoá nghiệp lực xấu bằng việc làm tốt đẹp, an ủi sẻ chia. Cho nên, cầu nguyện chỉ là mặt tiêu cực, còn mặt tích cực thì ta phải làm bằng những hành động thiết thực như bố thí, giúp đỡ, chia sẻ, phóng sanh, chăm sóc và động viên, an ủi người bệnh.

Chúng ta muốn được sức khỏe và sống an lạc hạnh phúc, trước tiên ta phải biết siêng năng làm các việc thiện lành, tốt đẹp, sống tiết chế, ngủ nghỉ ăn uống có chừng mực, điều độ và không vui chơi hoan lạc quá sức. Ta thể hiện lòng từ bi, yêu thương, bình đẳng bằng cách không giết hại, trộm cướp, lường gạt, sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người và không dùng rượu say sưa, cùng các chất độc hại như xì ke, ma túy. Muốn vậy, ta phải an trú trong giờ phút hiện tại, lấy chánh niệm tỉnh giác làm phương châm của cuộc sống. Ai sống được như vậy, sự an lạc sẽ có mặt ngay tại đây và bây giờ, thì sự cầu nguyện chỉ là phụ mà thôi. Tuy nhiên, sự cầu nguyện vẫn không thể thiếu trong cộng đồng xã hội, vì số đông con người chưa có đủ niềm tin về nhân quả và còn quá nhiều lo âu, sợ hãi về những bất hạnh trong đời.

Cầu nguyện không phải muốn gì được đó, không phải là chúng ta xin ơn trên giúp cho mình các yêu cầu bất thiện, hay sự hy vọng và mong muốn quá đáng của mình. Cầu nguyện về mặt tâm lý, giải toả các ức chế nội tại, hoặc tình trạng bức xúc cao độ, hay sự tuyệt vọng quá mức, dẫn đến không còn lối thoát; cầu nguyện có thể làm giảm bớt các áp lực căng thẳng, nặng nề ấy. Mặt khác, cầu nguyện là bày tỏ những hy vọng thay đổi, nhằm có đời sống tốt hơn, tạo thêm sinh lực và niềm tin cho con người vốn gặp nhiều đau khổ, bất hạnh.

Có một chàng trai nọ đang buồn chán vì công việc và cuộc sống bấy lâu nay, trong lòng luôn nặng trĩu những nỗi khổ, niềm đau, đang miên man với dòng suy tư tuyệt vọng. Bỗng dưng, có một chiếc xe tải dừng lại, anh tài xế lật đật bước xuống xe, cầm tấm ảnh một chú bé khoảng năm sáu tuổi, giơ lên và nói rằng, “con tôi đang bệnh nặng”. Chàng trai nọ tưởng ông ta cần xin tiền, liền móc túi ra định giúp đỡ, nhưng ông ta bảo, “tôi chỉ mong anh cầu nguyện cho con tôi mau lành bệnh”. Nói xong, anh ta lên xe và chạy mất hút.

Thái độ của người lái xe làm cho chàng trai liền thức tỉnh và bừng lên một tia hy vọng. Cuộc sống này luôn có niềm vui và nỗi buồn, vấp ngã và đứng lên, thành công và thất bại… Con người chúng ta đều có ưu điểm và khuyết điểm, cuộc sống này luôn có hai mặt song hành với nhau. Từ đó, chàng trai phấn chấn hơn, nên cảm thấy trong lòng an ổn, nhẹ nhàng, không còn đau thương, buồn khổ như trước nữa.

Khi nói đến cầu nguyện, chúng ta thường nghĩ là phải nhờ đến tha lực của chư Phật, hiền Thánh Tăng; nhưng cầu nguyện trong đạo Phật nhằm hỗ trợ niềm tin và tinh thần, chính yếu vẫn là tự lực nhiều hơn là tha lực. Cho nên, đức Lục tổ nói, “khi mê thì thầy độ, khi ngộ thì tự độ”. Tại sao có người cầu nguyện linh ứng, có người lại không? Điều đó tuỳ thuộc vào lòng thành tâm, tự lực vẫn nhiều hơn tha lực, và người đó có biết gieo trồng phước đức trong hiện tại và quá khứ hay không.

Nói tóm lại, nội dung chủ yếu của nghi thức cầu an, là người đương sự và cả nhà thành tâm sám hối, bỏ ác làm lành, làm nhiều Phật sự như phóng sinh, từ thiện, bố thí, cúng dường Tam bảo… để hồi hướng công đức ấy cho người thân mau tai qua nạn khỏi. Đồng thời, chúng ta mời chư Tăng đến tiến hành nghi thức cầu an đúng pháp, khai thị, nhắc nhở, khuyên nhủ, tụng kinh, niệm Phật. Nghi thức nên đơn giản, gọn nhẹ và có ý nghĩa thiết thực. Điều quan trọng là người được cầu và gia đình người thân nên thành tâm sám hối, bỏ ác, làm lành.

Tác dụng của cầu sám hối: Trong cuộc sống, vì chén cơm manh áo, tiền tài của cải, quyền thế, danh vọng, sắc đẹp và biết bao nhu cầu khác của con người, nên không ít thì nhiều, ai cũng thể gây tạo tội lỗi. Do đó, nhu cầu sám hối rất cần thiết trong đời sống cộng đồng xã hội.

Đạo Phật không dạy chúng ta trốn tránh cuộc đời, mà dạy chúng ta dũng cảm đối diện với hiện tại, dùng trí tuệ và từ bi để chuyển hóa lỗi lầm.

Nghi thức sám hối sáu căn tại các Thiền Viện do Hòa Thượng Thanh Từ sáng lập đều có lễ sám hối mỗi ngày, nhằm giúp cho các thiền sinh và quý Phật tử thấy được lỗi lầm do cố ý hay vô tình đã tạo ra trong quá khứ, cũng như trong hiện tại. Sám là sám lỗi trước, cầu không cho chúng tái phạm nữa; hối là ngăn ngừa lỗi sau, không cho chúng phát sinh. Cho nên, cầu sám hối là một việc làm nhân bản, đạo đức giúp chúng ta ý thức được việc làm xấu xa, có hại cho người, vật, mà cố gắng chừa bỏ.

Một con người, một gia đình, một cộng đồng xã hội, ai cũng ý thức, trong thân tâm luôn cầu sám hối để dừng hẳn những điều tội lỗi, thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc. Bởi chúng ta không phải là Phật hay các bậc hiền Thánh, nên ta dễ dàng gây tạo tội lỗi dù ít hay nhiều, do cố ý hay vô tình. Nội chỉ việc ăn để sống hằng ngày, mà chúng ta đã giết hại không biết bao nhiêu con vật, huống hồ là còn vô số việc khác vì sự sống của chúng ta.

Sám hối đúng nghĩa là phải có tâm hổ thẹn và cầu tiến. Người biết hổ thẹn không để cho tội lỗi phát sinh hoài. Ở đây, mục đích của cầu sám hối không phải là chúng ta cầu khẩn, van xin các bậc hiền Thánh giúp cho hết tội; chính chúng ta phải ý thức việc làm đó là tội lỗi, nên cố gắng chừa bỏ, không tái phạm nữa, nhờ vậy mà tội lỗi dần được tiêu trừ và dứt sạch.

Sám hối là tinh thần cầu tiến giúp ta ngày càng mở rộng tấm lòng thương yêu và hiểu biết. Nhờ vậy, ta vui sống, hòa hợp với nhau, để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời, mà làm mới lại chính mình. Ai trong chúng ta không một lần vấp ngã? Với tinh thần cầu tiến biết hổ thẹn, nhờ sám hối, ta sẽ cố gắng không tái phạm lỗi lầm xưa, nhưng thế gian này có được mấy người ý thức như vậy. Với lòng chí thành thiết tha sám hối, dù tội lỗi có nặng nề tới đâu cũng từ từ giảm bớt và lần hồi được hết sạch.

Như vua A Xà Thế, do tham tàn, bạo ngược, nên giết cha; nhờ gặp Phật chỉ dạy và sám hối, ông là người đầu tiên phục hưng toàn cõi Ấn Độ, sống theo lời Phật dạy. Dám sám hối, chừa bỏ mọi điều tội lỗi là việc làm của những người có hiểu biết và lương tâm đạo đức, khiến tâm cống cao, ngã mạn, khinh người, tự ti, mặc cảm, lần lần thuyên giảm; nhờ vậy, tâm ta ngày càng được trong sạch.

Tu mà không gan dạ sám hối quả thật là một người hèn nhát, không xứng đáng là Phật tử. Sám hối là phương pháp sách tấn mạnh mẽ nhất giúp ta ngăn dừng tội lỗi, ai làm được như thế là người tốt trong hiện tại và mai sau.

Tóm lại, cầu sám hối là một phương pháp tu hành rất thiết thực, có lợi ích hiện tại và mai sau, nhằm chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Người đời vì không biết nên một khi vấp phải lỗi lầm, thì tìm cách ém nhẹm, giấu diếm, không cho ai biết; do đó, tội lỗi càng thêm chồng chất; cuối cùng, phước hết, họa đến, bị sa hầm, sụp hố, chịu vô lượng khổ đau.

Cầu dứt ác làm lành: Nói lên tinh thần vô ngã, vị tha, mong muốn mọi người và muôn loài không gây đau khổ lẫn nhau, nên lúc nào cũng sống bằng trái tim hiểu biết, để kết nối yêu thương bằng tất cả tấm lòng. Cầu an, cầu siêu, cầu sám hối, chúng ta dễ dàng thực hiện, nhưng muốn dứt ác làm lành phải là các bậc Bồ Tát mới được. Trước nhất, ta cầu dứt ác làm lành để bản thân được sống hoàn thiện, sau đó dấn thân đóng góp, sẻ chia, làm lợi ích cho đời.

Cầu dứt ác làm lành là hạnh nguyện cao cả của các vị Bồ Tát. Ý thức được thế gian này là một dòng đời nghiệt ngã, đang chìm đắm trong biển khổ, sông mê. Chính vì vậy, mọi người sống không có tình nghĩa hay tàn sát giết hại lẫn nhau, để tranh giành quyền lợi, từ đó dẫn đến thù hằn, vay trả, không có ngày thôi dứt.

Bồ Tát có nghĩa là người giác ngộ, cũng là một chúng sinh đang giác ngộ từng phần, chưa đầy đủ công hạnh lợi mình lợi người, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Muốn thành Phật viên mãn, Bồ Tát phải dứt ác làm lành và siêng tu trí tuệ.

Bồ tát vì thấy chúng sinh ở cõi Ta bà vui ít khổ nhiều, bị phiền muộn khổ đau chi phối, nên động lòng thương xót, dấn thân đi vào đời, lấy tứ nhiếp pháp làm nền tảng, để cùng chia vui sớt khổ, mà giúp đỡ sẻ chia đúng tâm tư, nguyện vọng của mọi người.

Bồ Tát thấy chúng sinh vì tham lam, ham muốn quá đáng, nên lúc nào cũng bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, nhỏ mọn, do đó hay bóc lột, lường gạt, tìm cách vơ vét về cho riêng mình, mà làm khổ đau cho người và vật. Bồ Tát sẵn sàng đem tiền bạc của cải và sức lực của mình giúp đỡ sẻ chia, phát tâm bố thí cúng dường rộng rãi, để giúp chúng sinh biết được cách thức gieo trồng phước đức, mà diệt trừ tâm địa hẹp hòi, san tham.

Bằng sự giúp đỡ nhiệt tình không tính toán, nên Bồ tát dễ dàng gần gũi mọi người, nhờ vậy có cơ hội hướng dẫn, chỉ dạy, khuyên nhủ những điều hay, lẽ phải, giúp họ biết yêu thương, nâng đỡ, sẻ chia bằng trái tim hiểu biết.

Bồ tát thấy chúng sinh hay nói lời thô lỗ, cộc cằn, nói lời mắng chửi, nói lời ác độc, nói lời phù phiếm, nói lời dụ dỗ, nói lời chia rẽ, nói lời phá hoại, do đó sinh ra nóng giận, thù hằn và dẫn đến đánh đập, giết hại lẫn nhau; nên Bồ Tát phải dùng lời nói từ ái, hòa nhã, dịu dàng, nhỏ nhẹ, dễ nghe; nhờ vậy, Bồ Tát dễ dàng nhiếp phục họ tin sâu nhân quả mà biết sống yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.

Bồ Tát thấy chúng sinh giải đãi làm biếng, làm ít mà muốn hưởng thụ nhiều, nên Bồ Tát tích cực, nhiệt tình làm những công việc có lợi ích cho đời, chứ không phải nói suông vô ích. Nhờ vậy, chúng sinh có đủ niềm tin mà cố gắng làm việc, đóng góp, phục vụ gia đình và xã hội. Chính vì thế, Bồ Tát mới có cơ hội gần gũi và dễ dàng hướng thiện cho họ.

Bồ Tát muốn giúp cho tất cả chúng sinh sống tốt theo lời Phật dạy, thì phải giỏi nhiều ngành nghề, để cùng làm việc và vui sống với họ. Có một Bồ tát mà ai cũng biết, Ngài đã thành Phật từ vô thủy kiếp; vì thương xót chúng sinh còn mãi chìm đắm trong biển khổ sông mê, nên đã phát tâm dấn thân đi vào đời để cứu khổ chúng sinh.

Đó là Bồ tát Quán Thế Âm, vì lòng từ rộng lớn, thường đem niềm vui lắng trong thanh tịnh, để san sẻ cùng mọi người; với bi nguyện lớn lao cứu vớt người còn mải chìm đắm trong biển khổ sông mê, Bồ Tát hay quán sát, xem xét, lắng nghe tiếng kêu cứu khổ, để tùy duyên cứu độ chúng sinh. Bồ tát luôn quán chiếu cuộc đời, lắng nghe âm thanh theo nguyên lý duyên khởi và vô ngã, vị tha; nhờ vậy, Bồ tát giúp  mọi người vượt qua lo âu, sợ hãi và thoát khỏi sự ràng buộc của khổ đau.       

Trong đạo Phật, cầu nguyện hay ước muốn dù là đạo đức và cao thượng cũng có giá trị rất giới hạn, nhằm chỉ giúp cho nhiều người còn yếu đuối chưa đủ niềm tin về nhân quả. Do đó, đạo Phật chủ yếu đề cao học thuyết nhân quả bằng hành động có nhân cách đạo đức, như điều tất yếu làm nền tảng của sự thành công và toại nguyện trong cuộc sống. Nói cách khác, cầu nguyện hay ước muốn, dù tốt đẹp hay cao thượng đến đâu, cũng không có lợi ích thiết thực, nếu chúng ta không biết gieo nhân thiện lành, tốt đẹp, tu tập và chuyển hóa.

Một khi chúng ta đã hiểu được lý nhân quả của Phật đà rồi, nghĩa là không ai có đủ quyền năng để ban phước, giáng họa, ngoài chính việc làm thiện ác của ta. Chẳng qua, việc cầu nguyện nhằm mục đích hỗ trợ cho người chưa đủ niềm tin mà thôi. Người Phật tử ý thức sâu sắc rằng, một khi đã tạo nhiều ác nghiệp rồi, dù có van xin cũng vô ích, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Không ai có đủ khả năng để cầu nguyện mà thay đổi được nghiệp xấu ác.

Cầu nguyện là một nhu cầu tâm linh có năng lực làm lắng dịu các nỗi lo âu, sợ hãi, thất vọng và phiền muộn, khổ đau. Hơn nữa, cầu nguyện làm tăng thêm nghị lực, củng cố niềm tin để giúp chúng ta quyết tâm đi theo con đường sáng suốt và lý tưởng cao thượng. Cầu nguyện cũng là một cách thể hiện những ước mơ thầm kín, niềm hy vọng, niềm tin vào cuộc sống. Như vậy, cầu nguyện là một loại hình văn hoá đem lại niềm tin, ý chí và nghị lực, nhằm chuyển hóa những khó khăn khốn khổ, làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh cho người khác. Ta chỉ cần có sự thành tâm hướng về mục đích lợi ích cho tha nhân, thì sự cảm ứng không thể nghĩ bàn.

- Cầu nguyện phát nguyện và hồi hướng

Tinh thần cầu nguyện cũng là một phương pháp tu trì của người Phật tử. Nếu chúng ta biết cầu nguyện cho mọi người thoát khổ được vui, ai cũng biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau vì tình người trong cuộc sống. Trong hệ Phật giáo phát triển để hòa nhập vào cộng đồng xã hội “tốt đạo đẹp đời”, tinh thần cầu nguyện nhằm giúp cho mọi người vững thêm niềm tin và nghị lực, vượt qua các nỗi lo âu, sợ hãi mà sống an vui, hạnh phúc.

Ngoài tinh thần đó, mỗi Phật tử là một vị Bồ tát. Ta phát nguyện trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, và cuối cùng là hồi hướng công đức để ai cũng được thành Phật. Đó là điểm ưu việt của người Phật tử tu theo con đường Bồ Tát vì lợi ích cho nhiều người.

Thông thường, đa số chúng ta chỉ cầu nguyện cho người thân, gia đình của mình, hay nói xa hơn nữa là cầu cho đất nước mình. Mặc dù đó là những ước muốn thiện, nhưng chính yếu cũng vì cái bản ngã của mình, dù ít hay nhiều. Ta hay cầu nguyện cho người thân mình, nhất là cầu an, cầu siêu, chứ ít ai nghĩ đến việc cầu cho tất cả chúng sinh, hay người đã từng làm khổ ta, hoặc kẻ thù của mình. Đó là vì tâm ích kỷ riêng tư, chỉ giới hạn cho mình và người thân hay cùng lắm là những người đã giúp đỡ ta.

Con người những khi sung sướng, cuộc đời lên hương, chỉ biết hưởng thụ, vui vẻ hả hê, chẳng nhớ gì cả mà chìm đắm trong hoan lạc. Đến khi phước hết, họa đến, thân bại, danh liệt, thì than trời trách đất; bấy giờ mới nhớ đến chuyện cầu nguyện, khấn vái thần linh, cầu xin Bồ tát, chư Phật gia hộ, ban cho phước báo, hy vọng thay đổi vận mệnh tốt hơn.

Thực ra, tinh thần cầu nguyện của đạo Phật nhằm thay đổi những tín ngưỡng dân gian có hại cho con người, như cúng sao giải hạn, xin xăm cầu đảo, nên chư Tổ phương tiện lập ra cầu an, cầu siêu để chuyển hình thức mê tín dị đoan đã len lỏi vào căn nhà Phật giáo từ bấy lâu nay. Nếu quý thầy có đủ quyền năng để cúng sao, giải hạn cho Phật tử được, thì Phật đâu có dày công thuyết pháp, độ sinh suốt 49 năm trời.
(st)

Thanked by 5 Members:

#49 Búp Sen

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 644 Bài viết:
  • 1099 thanks

Gửi vào 26/03/2014 - 16:12

Tinh hoa con người không nằm ở thể xác mà nằm ở cái tâm

Thượng toạ Thích Nhật Từ nói: “Ngoại cảm không phải là chuyện mới vì cách đây nhiều chục năm nó đã được nói đến ở Liên Xô cũ. Tôi cho rằng ngoại cảm là một năng lực có thật, nhưng lạm dụng nó mới là điều đáng nói”.

Là người quan tâm đến ngoại cảm, thượng toạ – tiến sĩ Thích Nhật Từ, phó viện trưởng học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.H-C-M, đã chia sẻ với phóng viên báo Sài Gòn Tiếp Thị về những lùm xùm thời gian qua liên quan đến ngoại cảm, dưới góc nhìn của Phật giáo.

Thượng toạ Thích Nhật Từ nói: “Ngoại cảm không phải là chuyện mới vì cách đây nhiều chục năm nó đã được nói đến ở Liên Xô cũ. Tôi cho rằng ngoại cảm là một năng lực có thật, nhưng lạm dụng nó mới là điều đáng nói”.

Như thế nào là lạm dụng, thưa thượng toạ?

Nước ta trải qua một thời gian dài chiến tranh, nay là thời bình, nên nhiều người dân có nhu cầu tìm kiếm người thân của mình bị mất tích hoặc chết mất xác. Thời gian qua, theo tôi, một vài nhà ngoại cảm đã làm được chuyện này. Thế nhưng, điều nhà ngoại cảm làm và công việc nhà ngoại cảm làm đôi khi lại không ăn khớp với nhau.

Thí dụ một nhà ngoại cảm chỉ tìm được một, hai hài cốt có kiểm chứng bằng ADN, nhưng sau đó lại thổi phồng lên tìm được 1.000 hài cốt là điều không chấp nhận được. Cũng có không ít người chẳng có năng lực ngoại cảm gì, nhưng lại tự phong mình là nhà ngoại cảm để lừa đảo, lợi dụng người khác và phục vụ lợi ích riêng tư.

Thượng toạ từng nói, nhà ngoại cảm cần đến liêm khiết tri thức. Điều này được hiểu ra sao?

Liêm khiết tri thức nghĩa là nhà ngoại cảm cần đánh giá nghiêm túc năng lực ngoại cảm của mình có còn hay không. Thí dụ mười năm trước họ có năng lực kiệt xuất, làm được chuyện này hay chuyện kia, có kiểm chứng bằng ADN hẳn hoi, nhưng không có nghĩa là bây giờ năng lực đó vẫn còn. Thực tế nhiều nhà ngoại cảm không thừa nhận chuyện này, cứ tiếp tục sống với hào quang cũ, dẫn đến sai lệch trong tìm kiếm: hài cốt trâu bò thì cho đó là hài cốt người, hài cốt người A lại nói của người B, đó là không liêm khiết tri thức.

Trong thể thao hay nghệ thuật, vận động viên hoặc diễn viên đến một tuổi nào đó sẽ không còn năng lực thi đấu hay biểu diễn. Trong lĩnh vực ngoại cảm, theo tôi, sự đào thải còn khắc nghiệt hơn nhiều. Có người chỉ có năng lực ngoại cảm vài ba tháng, 1 – 2 năm, hiếm ai quá năm năm… Nếu cứ cố tiếp tục, điều đó làm cho họ mất uy tín, những đóng góp có thể có thật của họ trong quá khứ bây giờ bị đặt lại vấn đề và hiểu sai.

Được biết, thượng toạ từng tổ chức hội thảo về ngoại cảm, điều gì thượng toạ rút ra được từ hội thảo này?

Tôi từng hai lần làm trưởng ban tổ chức hội thảo về ngoại cảm tại Quân khu 7 – TP.H-C-M. Tại đó, tôi có mời một số nhà ngoại cảm đến thuyết trình và bản thân cũng có thuyết trình chung với họ. Có thể họ chia sẻ rất hay về những trải nghiệm ngoại cảm của mình trong quá khứ, nhưng điều này hoàn toàn khác với năng lực hiện tại của họ.

Trong lần hội thảo ngoại cảm đầu tiên, tôi cũng nhờ vài nhà ngoại cảm tên tuổi tìm người thân của mình, từng chết đói trong trận đói 1945 tại tỉnh Thái Bình, mà đến giờ gia đình tôi không có tông tích gì. Thế nhưng khi đó, và mãi đến tận bây giờ, những nhà ngoại cảm đó cũng không tìm ra được. Từ đó, tôi mới thấy những lời đồn đãi về nhà ngoại cảm bao giờ cũng được khuếch trương hơn năng lực thật sự mà họ có.

Làm thế nào phân biệt được đâu là “nhà ngoại cảm” chân chính và không chân chính?

Thường thì thông qua một sự kiện, nếu nhà ngoại cảm đưa ra được những thông tin chính xác, xem như nhà ngoại cảm đó còn năng lực và chân chính; còn nếu nhà ngoại cảm không đưa được thông tin chính xác, người dân đừng nên dại dột nghe họ, dù cho họ có giải thích cách này hay cách kia. Cũng có thể phân biệt thông qua thái độ của nhà ngoại cảm. Chẳng hạn họ vẽ sơ đồ về một địa điểm cách xa và nói ở đó có hiện tượng này, cảnh vật kia, nhưng khi ta mời họ đi theo, họ lại từ chối. Trường hợp này đúng là nhà ngoại cảm “dỏm”. Bởi nếu anh vẽ được sơ đồ, không có lý gì anh không dám đến tận nơi và lại kêu gia chủ… đi một mình!

Khoa học chưa giải thích được ngoại cảm, vậy tôn giáo giải thích như thế nào?

Tôi không biết tôn giáo khác giải thích như thế nào, nhưng Phật giáo có đề cập đến năm loại siêu giác quan. Những chuyện bàn luận về ngoại cảm ở nước ta thường chỉ tập trung vào siêu giác quan thiên nhãn thông (hay thiên nhãn minh) – nhìn nhận và dự báo chính xác về thời tiết, thiên tai, tình huống, sự kiện sẽ xảy ra, và thiên nhĩ thông – nghe được các loại âm thanh khác nhau với tần số khác nhau, như âm thanh của người chết chưa siêu trong thời gian ngắn, âm thanh của động vật mà người thường nghe không được.

Khi có người thân bị mất tích hoặc chết mất xác, người ta muốn phải tìm kiếm bằng mọi giá. Phật giáo nhìn việc này như thế nào?

Cái chết, theo đạo Phật, là một quy luật, vì thế chúng ta hãy chấp nhận nó như một sự thật và đừng nên quá đau buồn. Phật giáo cho rằng tinh hoa của con người không nằm ở thể xác mà nằm ở cái tâm. Khi cái tâm thoát khỏi cơ thể để tái tạo, có mặt trong một bào thai mới, với một mầm sống mới, thì chúng ta vẫn có thể gặp lại nhau bằng cách này hay cách kia. Đạo Phật không quan niệm việc tìm ra hài cốt là không quan trọng, nếu được thì cũng tốt, nhưng điều quan trọng là sau khi chết người sống làm một lễ tống táng đơn giản và ý nghĩa để nhắc nhở người sống nhớ đến đóng góp của người quá cố.
Phật giáo dù là Nguyên thuỷ hay Đại thừa đều thừa nhận việc tái sanh, trong biên độ thời gian nhanh nhất một tích tắc và chậm nhất là 49 ngày. Vì thế không có chuyện một hương linh đã chết rồi mà còn nằm dưới lòng đất hay vất vưởng đâu đó trong quãng thời gian quá lâu, hơn cả 49 ngày. Nhà ngoại cảm nào đó nói tôi có thể nói chuyện được với một hương linh chết đã lâu, thì theo Phật giáo, đó là điều không có thật.

Ngoại cảm được cho là có thể giúp xác định được hài cốt người chết, nhưng nếu nhìn rộng ra, giá trị ngoại cảm không đơn thuần như thế?

Theo tôi, giá trị của ngoại cảm là giúp người vô thần xác định được chết không phải là hết, từ đó giúp họ thiết lập được trách nhiệm về những hành vi của mình trong cuộc sống. Nếu kết cục của mọi con người, thiện và bất thiện, đều như nhau thì có lẽ người ta không cần sống thiện để làm gì. Sự chứng minh rằng chết không phải là hết sẽ giúp người không tin vào kiếp sau, phải đặt lại vấn đề sống có trách nhiệm, bằng không họ phải gánh lấy hậu quả hoặc tạo hậu quả tiêu cực cho người khác từ những gì họ đang làm.


Thanked by 3 Members:

#50 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 26/03/2014 - 17:06

LUẬN VỀ LÝ THUYẾT TƯỚNG DO TÂM SINH

Cái lý thuyết tướng do tâm sinh khiến cho nhiều người chán ghét tướng số. Định mệnh là định mệnh, nay tâm đổi được mệnh thì nói định mệnh làm gì. Có người lý luận cho rằng lý thuyết tướng do tâm sinh cốt để hù người ta khuyên nên cải ác vi thiện vì sợ rằng thiên hạ khi đã biết số mệnh mình như thế rồi thì cứ tạo ác càn phứa đi vô cấm kỵ. Số căn cứ trên ngày giờ tháng năm sinh làm sao đổi?
Lý luận quá khích thì nó đến chỗ cùng và khó trả lời. Tuy nhiên, tướng do tâm sinh có phần đúng. Vì cả tướng lẫn số đều có đổi, biến tướng và biến số. Như đã nói ở trên, ông trời của khoa tướng số là ngũ hành chứ không phải là ông trời quyền sinh quyền sát, là âm dương vận chuyển chứ không phải là Thượng Đế vạn năng định đoạt.
Số mệnh có đổi là thế nào?
Tỉ dụ: Nói số mệnh này ở phương Nam tốt hơn phương Bắc. Kẻ vào Nam sống khá, kẻ lên Bắc bần hàn. Vào Nam lên Bắc phải có phần nào nhận định, tạo nên sự thay đổi của số. Biến tướng cũng vậy, có đôi mắt ác mà tâm hiền dần dần mắt sẽ bớt ác. Mắt càng bớt ác bao nhiêu càng tránh được sự hung tử bấy nhiêu.
Đổi theo định luật tướng số mà thôi chứ không đổi tuyệt đối ở Bắc ăn mày, vào Nam làm vua.
Tướng ác hay đi với bần (nghèo). Giảm tướng ác (nghèo) đỡ đi chứ không thể giầu lên.
Mệnh căn và tướng căn vẫn còn ví như hạt giống tốt, tâm với nhân định ví như chất bón và khí hậu. Dĩ nhiêu, khí hậu và chất bón không thể làm hạt giống đã bị đun sôi mọc thành cây lúa.
Tướng do tâm sinh. Tướng tòng tâm diệt là vì vậy. Nó có tác dụng đối với số mệnh và tướng cách đủ điều kiện tiếp nhận lẽ sinh diệt ấy mà thôi.
Ngoài ra, con tâm người ta vẫn còn để chọn lựa. Cùng một tướng hung tử nhưng có kẻ chết trong quán rượu, cao lâu, có kẻ chết nơi sa trường, có kẻ chết ở pháp trường. Khí chất tạo thành sự khác biệt cho tướng số hung tử.
Còn cái chuyện như ông Bùi Độ lúc đi thầy tướng bảo Độ tướng ăn mày, khi về thầy tướng bảo Độ tướng đại thần chỉ vì cái tâm nhân hậu của Độ đã bắc cầu cho lũ kiến thoát chết khỏi vũng nước, là chuyện hoang đường để nhấn mạnh cái lý tâm sinh tướng.
Tâm con người ta, nho gia gọi là Linh Đài, đạo gia gọi là Linh Quan và Phật gọi là Linh Sơn. Lục phủ ngũ tạng tâm làm chủ coi hồn phách, lo cho sự động tĩnh của tinh, khí, thần.
Tâm là chỗ tính trú ngụ, không có tâm tính không tồn tại. Tinh với tâm chú ngụ một thể, nói tâm tốt hay tính tốt cũng vậy.
Tâm tính ảnh hưởng đến đời người nhiều lắm. Người đời có cả trăm tâm tính.
Tính trung lương, từ thiện, cao thượng, cương trực, thủ phận, cẩn thận, đại độ, chừng mực, tham lam, quái quắt, keo bẩn, hồ đồ v.v… đều có thể hiện ra tướng mạo. Do tướng mà biết tâm thì ngược lại, do tâm có thể chuyển tướng.
Tướng thanh cao thường đi đôi với tâm thanh cao, đồng thời số cũng thanh cao.
Sách xưa kể:
“Cao Hiếu Toàn và Cao Hiếu Tích là hai anh em sinh đôi ra đời cùng một giờ khắc. Lớn lên, cả hai tướng mạo giống hệt như nhau từ cử chỉ đến ngũ quan lục phủ như hai giọt nước. Cùng học một thầy, văn chương tinh thông, chẳng kém ai hết. Cùng đỗ cử nhân. Cùng lấy vợ, cha mẹ sợ vợ không phân biệt nổi có thể xảy ra sự lầm lẫn nên bắt cả hai anh em ở riêng và mặc quần áo màu riêng.
Một hôm hai anh em gặp tướng sư Trần Hi Di, tiên sinh nói:
- Tướng hai anh em phong thần tú dị, mi thanh mục tú, mũi thẳng môi hồng, tai trắng, tất nhiên đỗ cao, đồng mệnh, đồng vận, đồng tướng thật lạ.
Đến mùa thu, hai anh em cùng vào kinh ứng thí, ở trọ nhà họ bên ngoại. Cạnh nhà có người đàn bà goá chồng trông thấy hai anh em Toàn và Tích tài mạo tốt đẹp động lòng dục tình tìm cách quyến rũ. Tâm tính Toàn yêu học hơn khoái tình nên kế hoạch của goá phụ bất thành. Trở qua Hiếu Tích thì Tích bị ngay với goá phụ vẫn còn mơn mởn đó. Chuyện thông gian có người biết mách cho nhà chồng hay, goá phụ xấu hổ gieo mình xuống sông.
Thi xong, hai anh em về gặp lại Trần Hi Di tiên sinh để coi xem liệu có đỗ không.
Hi Di quan sát cẩn thận, ngạc nhiên nói:
- Lạ thật, hai anh em tướng mạo đại biến, anh tốt em xấu, tương lai sẽ khác nhau như mây với bùn. Hiếu Toàn sắc mặt hồng hào, mắt sáng tựa ngôi sao nhất định sẽ đỗ cao. Hiếu Tích đôi mày ám hãm, môi thâm, mũi có sắc đen sắc đỏ, tai xám, thần sắc khô hại chẳng những không đậu mà còn yểu thọ nữa.
Ngày coi bảng, quả nhiên Hiếu Toàn đậu tiến sĩ còn Hiếu Tích không có tên, buồn phiền uất ức mà chết.
Toàn sau làm quan to, nhân ngày ăn thượng thọ 70, nhớ tới người em mới gọi con cháu kể cho nghe vụ Hiếu Tích.
Ghi chép việc Hiếu Tích, Trần Hi Di tiên sinh nói:
- Tướng mạo người ta dễ thấy, nói mệnh lại rất khó. Mệnh do trời, tướng ở người. Ứng với thiên thời hợp việc người, đời đời sung sướng. Tinh thần con người ta chợt tụ chợt tán, chí khí lúc kiên lúc lỏng. Có bên trong tất thành hình ra bên ngoài không thể che giấu được.
Tạo vật mang cái tâm đại công vô tư, phúc sẽ mất đi bởi gây ác nghiệt, tội có thể giảm nhờ vun xới thiện căn. Sinh ở trong tâm tất phát ra ngoài mặt. Cho nên hoạ phúc trên đời hoàn toàn do người gọi đến. Hậu sinh nên suy ngẫm.
Tôn sư tướng học Ma Y dạy về tướng tâm rằng: “Hữu tâm vô tướng, tướng tuỳ tâm sinh, hữu tướng vô tâm, tướng tuỳ tâm diệt”. (Tâm là tiên thần của ngũ quan, nguồn gốc của trí lự, thiện tâm được phú, ác tâm gặp họa).
Sách có câu thơ:

Nhân luân hà xứ định khô vinh
Tiên tướng tâm điền hậu tướng hình
Tâm phát thiện đoan chư phúc tập
Thời tàng độc hại họa tùng sinh

nghĩa là: Đoán định bước vinh nhục của người đời trước hết hãy xem tâm sau mới đến hình. Tâm thiện thì phúc tụ tập, lòng độc hại thì hoạ kéo đến.

Người trồng cây cảnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau.

Câu ca dao bình dân ấy không phải vô căn cứ. Đời về sau chưa thấy, nhưng chắc chắn không có thể nhờ cậy đức mà thoát được vận xấu để lại tiếp tục mệnh. Mệnh tốt, vận xấu mà tâm ác thì vận xấu và tâm ác sẽ cắt đứt luôn mệnh. Điều này rất có lý chứ không mê tín. Vận đã xấu nay lại do tâm ác mà người ghét thì còn tồn tại làm sao được. Cho nên nói tâm cứu cho mệnh chẳng sai chút nào. Cái chìa khoá của tướng tâm nằm ở vận đó. Ác tâm tạo nghiệt, mình đợi tới lúc vận xấu nó mới sinh hoạ như vi trùng đợi lúc sức yếu mới hoành hành. Vì đã nói mệnh tất phải nói vận. Thế gian hiếm thấy lá số nào mệnh tốt mà suốt đời không có vận xấu.
Tam phần nhân sự thất phần thiên, nói tâm tướng phải nói chí khí con người.
Hạng Võ có tướng song mục trùng đồng, thân thể khôi vĩ thế mà chết thảm ở Ô Giang là bởi chí khí hẹp hòi. Hạng Võ đốt thành Hàm Dương ba tháng chưa cháy hết, người bị thiêu kể cả vạn, tiếng khóc oán vang trời đất không phải là nhu yếu chính trị mà do ác tâm, chí khí không khoáng đạt.
Lã Vọng nói:

Khí vũ hiên ngang hữu dung nạp
Chí khí thâm viên hữu cơ mưu
Động tác sử lệnh bất khả liệu
Thời thông diệc vi công dữ hầu

nghĩa là:

Khí vũ hiên ngang mà biết bao dung
Chí khí sâu xa mà có cơ mưu
Hành động sai khiến khó ai liệu trước
Thời vận tới sẽ đáng mặt công hầu
Sách “Nguyên Đàm” viết:
“Phong tư dị, cốt cách kỳ, tái quan tài khí thiết thi vi.
Tài tế biến, ý hữu tư tiểu nhân quân tử bất đồng quy”
nghĩa là:
“Phong thái dị thường, cốt cách kỳ lạ, phải nên xem lại chí khí và tài năng.
Tài thì có tài nhưng có ý tư lợi, đấy là chỗ không cùng một điểm giữa tiểu nhân và quân tử”.
Kinh nghiệm cổ nhân về tâm tướng ghi nhận như sau:
- Tâm là gốc của hình mạo. Xét tâm thấy hình mạo ác thiện. Hành động có thể biết hoạ phúc. Tâm tính không công bình con cháu hư, ngôn ngữ nhiều phản phúc chính là con người quỷ quyệt. Cúi đầu nói nhỏ, loại gian tham. Hùng hùng hổ hổ, chẳng phải là người anh kiệt. Tâm khí hòa bình, con vinh cháu quý. Tài thiên tính chấp, dễ gặp họa cùng khốn. Trọng giàu khinh nghèo, bất nhân. Có mới, quên cũ, bất lương. Kính già thương trẻ, đáng tin cậy. Nói bừa nói bãi, không sống lâu. Quên ơn nhớ tiểu oán, công danh khó thành tựu. Mới có tiền, chức nhỏ đã câng câng tự mãn sao làm lớn giàu to. Đại phú, đại quý mà tâm hồn vẫn bình thản, phúc thọ vô cương. Lừa đảo, dối trá dù vinh hoa cũng chẳng bền. Công bình chính trực chết không con nối dõi cũng được phong thần. Mở miệng ra là nói không sợ chết, lúc cần phó tử tựu nghĩa sẽ co vòi. Gặp ai cũng coi làm tri kỉ, chơi thân là giở giọng. Làm việc lớn không than mệt nhọc, không oán giận mới xứng đáng tài lương đống. Mê gái, ham rượu, phường hại nhân lợi kỷ. Ngu lỗ mà còn nói lời bạc bẽo vừa nghèo vừa chết yểu. Thông minh mà khoan dung thong thả, danh hiển yên lành.
Xem tướng Tâm ở đâu?
a) Quan sát ngôn ngữ: Chính nhân quân tử nói điềm đạm, tiếng mạnh. Nói nhanh và lớn như ngựa phi, người hào sảng. Người cố chấp nói như cắt sắt nghe lạnh mà vô tình. Nói bầy hầy như người đi trong bùn là người yếu mềm, bạc nhược. Người đa nghi, hay thiếu tin tưởng, hay nói quanh co. Nói hỗn độn, ậm ừ, sự bất thành.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Quan sát thái độ: Quân tử chính nhân, thái độ lớn, vuông vắn, đứng đắn. Bọn tiểu nhân ưa nói khéo ưa làm mặt thân. Lão thành kinh lịch, thái độ tròn trịa. Người trung dung, thái độ cẩn thận. Người sáng trực, thái độ hào phóng, không câu nệ tiểu tiết.
c) Quan sát lối làm việc: Thấy hoạn nạn hay giúp đỡ là người chuộng nghĩa. Thấy lợi tranh giành là bọn hẹp hòi. Nay phải, mai trái, hồ nghi bất quyết là bọn gian trá. Quân tử thường an vận thủ kỷ. Kẻ ngu xuẩn lúc nào cũng sinh sự.
d) Quan sát con mắt: Thông minh linh hoạt. Gan dạ mắt sáng quắc. Chính nhân quân tử mắt ôn hoà. Hung ác mắt ba góc có sát khí. Dung tục nhãn quang trầm trệ. Kiêu ngạo mắt ưa nhìn lên. Ích kỷ hại nhân mắt ưa nhìn xuống. Tâm có âm mưu mắt có tà thị.
e) Quan sát tướng mạo: Người ôn hoà ngũ quan chính trực. Kẻ thủ đoạn mặt xanh xanh, quyền cốt cao. Bọn thế lợi đầu nhọn mắt nhỏ. Đứa gian giảo đầu mũi nhọn không có thịt. Nhãn quan đưa đẩy lưu lộ thuộc loại phản trắc vô tình. Mặt đen xịt vô tình vô nghĩa. Da mặt mỏng dễ thay lòng đổi dạ.

Có hai loại người mà cả khoa tâm lý Tây phương lẫn khoa tướng mạng Đông phương đều có nhận thức in hệt nhau.
Thứ nhất: Người gầy, chân thật cao, vai nhỏ cổ dài, đùi nhỏ, đít lép, sống mũi thật cao.
Loại này thường có hai mặt: bên ngoài thường dễ mắc cỡ, nhạy cảm nhưng trong lòng kiêu ngạo vô tình. Lúc thì muốn thoát ly hiện thực để sống trong ảo tưởng. Lúc thì lại thích lý luận thực tiễn. Khi làm việc gì cứ ngoan cố theo ý mình, bất chấp ý kiến người khác. Loại này có thể có tiếng tăm nhưng nhạt nhẽo ít gây được thiện cảm như Henry Ford, Bertrand Russel...
Thứ hai: Người mập mạp, thịt chắc chân tay, cổ ngắn, mặt vuông chữ Quốc, sáng sủa dễ gây cảm tình quần chúng, giỏi thu thập những tài của kẻ khác để dùng vào việc của mình, giỏi biện thuyết như Churchill, Krouthchev hay nhà văn Hemingway.
Tâm thần liên hệ với tướng mạo như thế đó. Vậy thì cái chuyện tướng do tâm sinh chẳng qua là cái lý luận quanh co của khoa tướng mệnh.

Ví không đủ sức thành công nghiệp
Thì phá cho tan chí vẫy vùng
Mượn thú văn chương khuây thế lụy
Lấy tài nghiên bút đo đạo cung

Thân thế mang oán sầu tủi nhục
Tài hoa trơ lại tập văn chương
Đã già thân thế cùng nông nổi
Mà vẫn bồng tang với đoạn trường

Những câu thơ của TCHYA chính là tâm tính của một số người tài hoa ta thường gặp, do tính khinh bạc mà mệnh mỏng, hay nói khác đi, đây là tâm tướng của những người bất đắc chí.
Theo tướng pháp, người tài hoa thông minh có ba điều kỵ:
- Anh hoa phát tiết.
- Tâm tính khinh bạc.
- Thân thể yếu đuối.
Điều kỵ thứ ba đã nói ở chương trên. Anh hoa phát tiết sẽ nói sau.
Chương này chỉ nói đến tâm tính khinh bạc.
Thời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh, một trong tám đại tài tử là Kim Thánh Thán, đại phê bình gia của văn học Trung Quốc nổi danh thiên hạ về văn chương cũng như về tâm tính khinh bạc. Lời phê bình của ông như dao cắt vào da thịt, khiến cho kẻ bị phê bình chết đi mà vẫn còn đau xót ân hận.
Văn ông làm rất nhanh, cầm bút viết thao thao đủ lối tục có, nhã có. Nhưng tâm hồn ông sớm chán đời. Nguyên do bởi đâu, chính thức không ai rõ, chỉ theo truyền thuyết nói rằng:
Lúc Thánh Thán còn là học trò, tên Trương Thái, có đến Trung Tiêu Tự cầu mộng. Đêm ấy ông nằm mơ thấy một cây rất cao không có lá chỉ trơ cành, trên cành có một con cú đậu cô độc thê lương. Tỉnh dậy, ngẫm nghĩ điều mộng tương lai sẽ là một kẻ sĩ cố cùng chua chát và bất đắc dĩ mà thôi. Từ ấy, ông từ bỏ mọi tham vọng cầu quan tước và sống phóng đãng giang hồ. Cũng từ đấy tài hoa của ông mỗi ngày một nảy nở để trở thành tên Thánh Thán.
Trên bước giang hồ, ngày ấy tháng ấy, Thánh Thán có gặp một thầy tướng bảo ông rằng:
- Tướng tiên sinh có ba độ loạn văn, ấn đường, mũi và địa các. Nay nhãn thần đã thoát, nhân trung khí sắc xanh đen, nội trong một trăm ngày tới hoạ sẽ tới, xin tiên sinh cẩn thận.
Thánh Thán nghe lời về nhà đóng cửa đọc sách, ngâm thơ, uống trà. Được 98 ngày rồi, ông mới mở cửa đứng xem phố xá, thì chợt có một đám đông kéo đến. Đám đông ấy toàn là nho sinh, họ trông thấy Thánh Thán bèn tụ tập trước nhà ông. Thánh Thán hỏi nguyên do. Họ kể việc huyện lệnh họ Ngô cam kết với học quan bán bằng cấp trong khoá thi vừa qua. Nay họ định đến dinh học quan để biểu tình tố cáo. Thán nói:
- Hãy đem tượng Khổng tử ra khỏi nhà Văn miếu mà đem thần tài vào đấy mà thờ.
Đám đông nghe nói làm theo y lời Thánh Thán. Tất cả kéo đến Văn Miếu. Viên huyện lệnh sợ phong trào lan rộng nên đem hết quan binh đàn áp. Bọn học trò chạy hết chỉ còn Thánh Thán đứng đấy, bị quan binh trói bắt.
Để che đậy tội tham nhũng, huyện lệnh lập kế vu cáo Thánh Thán xúi giục dân chúng làm loạn.
Cho có bằng cớ, huyện lệnh chép hai câu thơ mà Thánh Thán làm trong bữa tiệc để vịnh hoa mẫu đơn màu đen:

Đoạt chu phi chính sắc
Dị chủng dã xưng vương.

nghĩa là:
Màu đen không phải là sắc chính của hoa mẫu đơn
Thế mà tuy giống khác cũng xưng vương.
Ý ông muốn chửi bọn Mãn Thanh khác giống vào xưng vương ở Trung Quốc.
Triều đình kết tội Thánh Thán làm loạn bắt chết chém ngang lưng.
Cái chết của Thánh Thán cũng giống như cái chết của thi sĩ Cao Bá Quát.
Chết vì tâm tướng khinh bạc.
(nguồn: baolavansu.com)



Thanked by 5 Members:

#51 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 29/03/2014 - 22:15

Ðời
 
Hôm nay chúng ta sẽ nói chyện đời, vì đời và đạo là hai mặt của một đồng tiền. Nếu không có đời thì sẽ không có đạo, đời và đạo nương nhau mà có. Phật pháp bất ly thế gian pháp. Không phải chỉ nói thiền, tịnh, vô ngã, tánh không, v.v... mới là Phật pháp, mà ngay cả những chuyện ăn uống, ngủ nghỉ, gánh nước, bửa củi, lặt rau, rửa chén, quét nhà cũng là Phật pháp. Phật pháp không hẳn chỉ dạy cầu niết bàn, vì căn cơ chúng sinh khác nhau, đâu phải ai cũng muốn thành A La Hán, Bồ Tát, hay thành Phật hết. Vì thế mới có ngũ thừa Phật giáo: nhân thừa, thiên thừa, thanh văn thừa, duyên giác thừa và bồ tát thừa. Có một kinh điển hình như nói về nhân thừa, đó là kinh Thi Ca La Việt (Sigalo-vadasutta), trong đó Phật giảng cho một thanh niên dòng Bà la môn, con nhà giàu ở thành Vương Xá. Ngoài ra, lúc còn tại thế, đức Phật vẫn thường giảng cho các cư sĩ tại gia sống làm sao cho an vui hạnh phúc, giảng cho vua chúa cách an dân trị nước, những kinh này bàng bạc trong các bộ A-Hàm.
Qua những dịp tiếp xúc với Phật tử, tôi thấy có nhiều người khổ vì tình. Tình ở đây gồm đủ loại: tình vợ chồng, tình cha con, tình anh em, tình yêu, tình bạn, tình đời, v.v... Nhờ có khổ như vậy mới đến chùa học hỏi mong sao hết khổ. Nhưng phần đông lại rơi vào một trường hợp, đó là lấy cảnh chùa làm nơi trốn tránh cuộc đời, trốn tránh bổn phận gia đình, chồng con, vì chồng con nhiều lúc đã làm mình đau khổ. Hãy nhìn hoàn cảnh của người phụ nữ Việt Nam. Theo truyền thống phong tục tập quán, người đàn bà chỉ biết suốt đời hy sinh cho chồng con, nhưng rồi ít có chồng con nào ý thức được sự hy sinh đó. Nho giáo đã xem nhẹ vai trò của người phụ nữ. Cái gọi là tình vợ chồng thật ra là nghĩa vợ chồng. Thời xưa, người ta cưới gả nhau ít vì tình, mà vì môn đăng hộ đối, hoặc tìm chỗ nương thân, sống chung cho đỡ hiu quạnh. Khi ký một hiệp ước sống chung thì mỗi người phải có bổn phận. Bổn phận làm vợ phải thế này, bổn phận làm chồng phải thế kia. Người phụ nữ phải tam tòng tứ đức. Nhiều cặp vợ chồng bề ngoài có vẻ hạnh phúc, mỗi người làm đúng bổn phận của mình, nhưng bên trong rất nhạt nhẽo vô tình, không có sự thương hiểu lẫn nhau. Tuy sống chung dưới một mái nhà, nhưng trong lòng thì cách xa nhau cả ngàn cây số, mỗi người sống riêng trong thế giới của mình. Sống như vậy đâu có vui thú gì, đúng là oán tắng hội khổ. Nay mình biết chùa muốn tu, muốn dứt bỏ chồng con, nhưng ai cho phép? Nhiều bà, nhiều cô muốn vào chùa thọ bát quan trai một ngày một đêm nhưng chồng không cho phép. Những ông chồng này nói rằng: muốn tu thì cứ việc tu, đâu ai cấm, nhưng phải làm tròn bổn phận người vợ trước đã. Ở đây tôi không thể bênh vực bên nào cả, vì mỗi khi có sự bất hòa thì cả hai bên đều có phần trong đó. Không có ai phải ai trái, mà chỉ có một sự thiếu hiểu biết, không thông cảm, không thực sự thương yêu, và thay vào đó là một sự đòi hỏi kẻ khác phải chiều theo ý mình.
Tu học không phải để chạy trốn chồng con. Tu học để tỉnh thức, nhận ra những điều mà trước đây mình không hề hay biết. Nhiều người phàn nàn, chán ngán chồng con, nhưng trước kia ai bắt mình lấy người đó, ai bắt mình đẻ con? Nếu không thương mà lỡ lấy vì bất cứ lý do gì đi nữa thì mình cũng có 50% trách nhiệm. Nếu thương mà lấy thì 100% trách nhiệm. Sinh con ra để làm gì? Ai bắt? Vì thương yêu hay vì bổn phận? Những quan niệm như con trai lớn lên phải có vợ, con gái lớn lên phải có chồng, rồi phải sinh con đẻ cái, v.v... đã gây đau khổ cho nhiều thế hệ.
Con người là loài hữu tình, tiếng Phạn là sattva, có nghĩa là có tình cảm. Ai cũng muốn thương và được thương. Khi thương ai mà được người kia thương lại thì chúng ta sung sướng. Khi cưới được người mình thương thì đúng lý ra ta phải sung sướng chứ? Việc hôn nhân cần phải đạt trên nền tảng của tình yêu. Thương yêu nhau mới cưới và muốn sống chung với nhau. Ở đây, tôi không bàn đến những cuộc hôn nhân miễn cưỡng, bất đắc dĩ, vì đương nhiên những cuộc hôn nhân như vậy vô nghĩa, vô tình, làm sao đưa đến hạnh phúc được! Nhưng ngay cả những cuộc hôn nhân do tình yêu đưa đến đi nữa, sau một thời gian thì cũng đưa đến sự nhàm chán. Như vậy là sao? Trước kia ở Việt Nam, vấn đề ly dị là điều tối kỵ, dù vợ chồng bất hòa đánh nhau đến đổ máu cũng phải cắn răng sống chung cho tới chết. Ngày nay, vợ chồng ly dị là chuyện thường. Sống chung mà không biết thương yêu nhau, chỉ làm khổ nhau thì tốt hơn là nên ly dị. Nhưng nhiều khi ly dị xong ta lại cảm thấy cô đơn, muốn đi tìm một người tình khác để yêu, để cưới và để rồi lại ly dị.
Vấn đề mà tôi muốn nêu lên ở đây là ly dị sẽ cho chúng ta bài học gì? Chúng ta hiểu được gì? Hay cứ nhắm mắt theo đà, tái diễn lại cảnh khổ. Nhiều lúc khổ quá, muốn đi tu, nhưng tu làm sao cho yên khi tình cảm hãy còn ướt át? Tôi xin nhấn mạnh một điều là tu không phải là dứt tình, mà là chuyển tình. Quan niệm chung thường cho rằng tu là dứt hết tình như câu kệ xuất gia:
Hủy hình thủ chí tiết
Cắt ái từ sở thân
Xuất gia hoằng thánh đạo
Thệ độ nhất thế nhân.
Dứt hết tình cảm thì đâu còn là người nữa, tu như vậy để thành gỗ đá chăng? Cây cỏ, núi sông còn có tình, huống chi là con người.
Chúng ta đau khổ vì tình, vì tình của chúng ta là thứ tình ích kỷ, tình thương chiếm hữu mang nhiều tính chất ái luyến của ngã và vô minh. Thương mà không biết cách thương, nên làm cho kẻ khác bực bội, khó chịu đau khổ.
Tu là sửa, là chuyển. Từ đau khổ chuyển thành an vui, từ tình thương ích kỷ, chiếm hữu thành tình thương ban bố vị tha. Vào chùa học đạo mà chỉ biết thương Phật, thương thầy của mình thôi, không biết thương yêu kẻ khác thì đó đâu phải là tu. Phật là người đại từ, đại bi thương chúng sinh, Phật đâu phải là người vô tình. Mặt trời tỏa ánh sáng cho khắp mọi loài, cho cả thế giới, cho khắp vũ trụ, không tỏa riêng cho người giàu, cho nước Mỹ, Canada, hoặc cho riêng trái đất.
Ở Việt Nam trong thời chiến, khi nghe tin người yêu tử trận, nhiều cô nữ sinh ngất xỉu, thấy bầu trời sụp đổ, không còn lẽ sống, có cô quyên sinh tự tử. Ðó là vì dồn hết tình yêu vào một cá nhân, một đối tượng. Một bà mẹ có đứa con cưng độc nhất, chẳng may nó bị bệnh qua đời, bà ta có thể đau khổ phát điên lên được. Nhưng nếu bà ta có mười đứa con và bà thương yêu mười đứa như nhau thì chắc chắn là bà sẽ chỉ đau khổ một phần mười mà thôi.
Ở Làng Hồng, vào mùa hè mỗi năm, có rất nhiều gia đình gồm vợ chồng con cái về làng tu học. Thầy Nhất Hạnh giảng dạy những cách thức sống làm sao cho gia đình được hạnh phúc. Có nhiều người 'chuyên tu' phàn nàn rằng thầy không chịu dạy tu mà chỉ dạy hạnh phúc gia đình, thầy chú trọng về đời nhiều quá! Có lẽ những người này cho tu chỉ là tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật thôi. Quan niệm tu như vậy thật là giới hạn. Từ đấy, họ suy ra một ông thầy tu chỉ biết gõ mõ tụng kinh thôi, ngoài ra không biết gì về việc đời. Ðương nhiên cũng có những thầy tu như thế chứ không phải là không có, nhưng theo Ðại Thừa Phật giáo thì một thầy tu là người da phát nguyện tự lợi, lợi tha, đi vào cuộc đời để cứu nhân độ thế. Ngay cả người cư sĩ sống trong đời cũng chưa chắc hiểu được cuộc đời. Một thầy tu có thể nghiên cứu tâm lý học, phân tâm học, xã hội học, nhân chủng học, v.v... để hiểu rõ những căn bệnh của con người và cũng để dễ dàng độ sinh hơn.
Người cư sĩ tại gia hãy còn sống với gia đình, nay học cách thức làm sao cho gia đình được hạnh phúc, đó không phải là tu hay sao? Ðây cũng là nhân thừa Phật giáo, hay nói cách khác là nhân đạo (con đường làm người). Nhiều lúc nhân đạo chưa xong mà lại đòi ngay Phật đạo.
Tóm lại, sống làm sao cho cuộc đời trở nên đáng sống, có ý nghĩa, có lý tưởng, có thương yêu hiểu biết thì đó là Ðời Ðạo. Còn như chạy theo Ðạo mà quan niệm hẹp hòi, bảo thủ cố chấp, không khoan dung độ lượng thì đó là Ðạo Ðời. Có người sống cả đời chỉ để làm một việc lợi ích thôi, như Lão tử, đến và đi không tung tích, để lại độc nhất một quyển Ðạo Ðức Kinh giá trị vô cùng, há không phải là một đại thiền sư hay sao?
Ði tìm ý nghĩa
Có bao giờ trong cuộc sống bon chen vội vã hằng ngày, ta dừng lại vài phút và tự hỏi mình sinh ra đời để làm gì? Phải chăng là để chạy theo sau đồng tiền, danh lợi, địa vị, tình yêu, sắc đẹp, của cải, v.v...? Ðể lập gia đình, sinh con đẻ cái nối dõi tông đường? Ðể gây dựng một sự nghiệp? Ðể tranh đấu cho một lý tưởng chính trị, kinh tế, xã hội, v.v...? Hay là chỉ để đơn giản đi làm kiếm ăn sống qua ngày như bao nhiêu người khác? Ðể rồi một ngày kia nằm xuống và ra đi với hai bàn tay trắng?
Dừng lại vài phút để tự hỏi hay tự kiểm lại xem cuộc đời mình đang sống đây có ý nghĩa gì không? Mình có hài lòng với những gì mình đang có và đang sống không? Những cái đó có đem lại cho mình hạnh phúc hay không? Hay mình chỉ làm một kẻ nô lệ, một người máy rô bô, mặc cho xã hội vật chất lôi kéo và điều khiển?
Ở đây không bàn đến những người vô thần vô đạo, chủ trương duy vật, sống chỉ để hưởng thụ, chết là hết. Ngay trong Phật giáo, đa số cho rằng sinh ra ở đời là để tạo nghiệp và trả nghiệp, vay trả trả vay mãi mãi không ngừng. Quan niệm này đúng chứ không sai, đứng trên luật nhân quả thì mỗi khi ta cử động, nói năng hay suy nghĩ một chút, dù chỉ vài giây thôi cũng là tạo nghiệp, và như vậy thì đương nhiên sẽ gặp quả báo, tránh sao cho khỏi. Nhưng quan niệm này nếu không khéo thì có thể khiến cho người ta trở nên thụ động, gặp việc gì cũng đổ thừa tại nghiệp rồi ngồi yên chịu trận.
Cuộc đời đã lắm khổ đau, sao ta không tìm những quan niệm khác giúp ta lạc quan hơn trong cuộc sống? Ðối với tôi, con người sinh ra ở đời là để học hỏi những kinh nghiệm để tiến hóa. Mỗi kiếp sinh ra là một lớp học. Ta có thể chọn học một hoặc nhiều môn, nhưng bài học phải được hiểu và học cho xong thì mới được lên lớp.
·       Ta lấy vợ lấy chồng không phải để thỏa mãn tình cảm nhục dục hay lấp vá cô đơn, mà là để học sự thương yêu và sống chung hòa hợp.
·       Ta sinh con đẻ cái không phải để tiếp nối giòng dõi hay để nhờ vả khi về già, mà là để chính ta tập học làm cha làm mẹ, tập thương yêu dạy dỗ giúp đỡ con cái.
·       Ta làm vua hay tổng thống một nước không phải để ăn trên ngồi trốc, bóc lột của dân, mà là để học thương dân trị nước.
·       Ta làm bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ  không phải để có nhiều tiền hay danh vọng, mà là để học cách giúp đỡ thương yêu bệnh nhân.
·       Ta làm bác học, kỹ sư không phải để chế ra những vũ khí máy móc sát nhân hay nô lệ hóa con người, mà là để đóng góp xây dựng cho cuộc đời bớt khổ về vật chất.
·       Ta có thể tiếp tục nói về từng nghề, nhưng tóm lại thì tất cả nghề nghiệp trong đời, từ cùng đinh hạ tiện cho đến quý phái sang trọng, không có nghề nào thực sự hơn nghề nào, vì nghề nào cũng có giá trị và cùng đóng góp cho sự tiến hóa của nhân loại, nếu như ta đứng trên quan niệm đời là một trường học tiến hóa.
Trong kinh Pháp Hoa và kinh Niết Bàn, đức Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh và đều sẽ thành Phật, vậy nếu nói theo tinh thần Pháp Hoa thì mỗi kiếp sinh ra đời là mỗi kiếp cho ta cơ hội học hỏi để tiến dần đến Phật quả.
Còn một quan niệm nữa, đó là không phải ai sinh ra đời cũng để tạo nghiệp vay trả trả vay, hoặc để học hỏi tiến hóa. Có những người đã học xong hoặc đã tiến hóa rất xa so với người thường, họ quay trở lại thế gian hay cõi Ta Bà với một sứ mạng cứu nhân độ thế, hay nói cách khác là giúp nhân loại tiến hóa. Những người này không hẳn phải là những giáo chủ nổi tiếng như Phật, Chúa, Mahomet, Khổng tử, Lão tử, v.v... hoặc các vị lama Trulku Tây Tạng, mà là những người thường sống ngay bên cạnh chúng ta.
Ðiều quan trọng cần nhấn mạnh là chúng ta có muốn tỉnh thức để học hỏi tiến hóa hay không? Hay là tiếp tục sống đời vay trả trả vay, sống như những đàn cừu, như những người máy!?
   
Thích Trí Siêu
 
 





Thanked by 4 Members:

#52 Búp Sen

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 644 Bài viết:
  • 1099 thanks

Gửi vào 03/04/2014 - 16:37

Thông điệp thương yêu của Trịnh Công Sơn


Thiền sư Nhất Hạnh chia sẻ về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

Phiên tả từ pháp thoại của Thầy Làng Mai ngày 01-02-2004 tại tu viện Lộc Uyển

Hôm nay chúng ta sẽ được nghe quý thầy, quý sư cô hát nhạc Trịnh Công Sơn. Bây giờ mời đại chúng nghe Sư cô Chân Không hát bài Nắng Thủy Tinh.


“Màu nắng hay là màu mắt em, mùa thu mưa bay cho tay mềm, chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm, rồi có hôm nào mây bay lên (...) ngàn cây thắp nến nến hai hàng, để nắng đi vào trong mắt em”.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trịnh Công Sơn sinh năm Kỷ Mão, 1939. Thân phụ là một người yêu nước, đã tham gia kháng chiến chống Pháp nên đã bị cầm tù nhiều năm ở Lao Thừa Phủ, vì vậy Trịnh Công Sơn được tiếp nhận hạt giống yêu nước và dũng cảm từ ba mình.

Sở dĩ Trịnh Công Sơn dám nói những gì mình nghĩ qua những bài hát ông sáng tác là nhờ Trịnh Công Sơn có sự can đảm, có lòng yêu nước, yêu dân. Có nhiều người cũng có cùng cảm nghĩ như Trịnh Công Sơn nhưng không dám nói ra. Thế nên có những bài hát của ông được gọi là phản chiến, phản chiến nhưng kỳ thực không phải là phản chiến. Những lời nói của ông là những lời nói rất trung thực. Thấy những người anh em của mình, anh em miền Nam cũng như miền Bắc, chết mỗi ngày, Trịnh Công Sơn rất đau khổ nên đã nói ra sự thực đó.

Yêu nước, yêu dân, can đảm, đó là những hạt giống chúng ta có thể nhận thấy trong Trịnh Công Sơn. Trong mỗi con người chúng ta cũng vậy, cũng có hạt giống yêu nước thương dân. Vì vậy nghe Trịnh Công Sơn, chúng ta có cảm nhận như Trịnh Công Sơn đang nói dùm cho ta.

Mẹ của Trịnh Công Sơn là một người mẹ kiểu mẫu, một phật tử rất thuần thành, đi chùa thường xuyên, có lòng từ bi rất lớn, đã chịu đựng bao nhiêu khó khăn, gian khổ để nuôi con. Thân phụ của Trịnh Công Sơn bị tai nạn mất năm Trịnh Công Sơn mới 15 tuổi, bà phải một mình vừa làm cha, vừa làm mẹ nuôi tám đứa con. Đã có rất nhiều người đàn bà đi ngang qua cuộc đời của Trịnh Công Sơn, nhưng không có ai ở lâu với Trịnh Công Sơn cả, chỉ có một người duy nhất ở lâu với Trịnh Công Sơn đó là mẹ ông. Trịnh Công Sơn luôn luôn quay về nương tựa mẹ, một tình mẫu tử rất bền bỉ. Lớn rồi mà vẫn thấy mình là đứa con nít cần có mẹ. “Mẹ bỏ con đi, mẹ bỏ con bơ vơ một mình”. Trịnh Công Sơn có lần than thở, có lần ký thác tâm sự của mình rằng đứng trước một xác chết, một thây người vừa ngã xuống vì súng đạn, Trịnh Công Sơn không nghĩ đó là ta hay địch, cộng sản hay quốc gia. Trịnh Công Sơn chỉ biết đó là một người đồng bào, một người anh em vừa mới chết, là nạn nhân của một cuộc chiến tranh thảm khốc vô nghĩa. Đây là nguyên văn của Trịnh Công Sơn:

“Khi tôi đứng bên một xác người, tôi không nghĩ đó là ta hay là địch, mà đó là một thân phận chịu đựng sự vô nghĩa của chiến tranh”.

Thấy người nào chết cũng thương hết vì người nào cũng là đồng bào của mình. Hát và nói ra như vậy rất nguy hiểm. Chúng tôi cũng đã làm những bài thơ như vậy, những bài thơ nói về kháng chiến, nói về sự vô lý của chiến tranh và nói rằng anh em một nhà không nên bôi mặt đá nhau. Những bài thơ đó được xuất bản trước những bản nhạc của Trịnh Công Sơn vài năm, được đăng trên các tờ báo Hải Triều Âm và Thiện Mỹ nhưng người ta gọi đó là thơ phản chiến. “Anh nhân danh ai, em nhân danh ai, mà giết nhau?” và tôi kêu gọi hai bên đều trở về quỳ dưới chân mẹ sám hối. Những bài thơ đó, nếu quý vị muốn đọc lại thì tìm trong cuốn “Thơ Từng Ôm Và Mặt Trời Từng Hạt”.

Mẹ của Trịnh Công Sơn đã trao cho Trịnh Công Sơn những hạt giống rất lành và rất đẹp, đầy tình người, đầy tình thương yêu. Trịnh Công Sơn là người thực tập giới thứ nhất rất tốt, bởi vì nhận thức của Trịnh Công Sơn về sinh mạng con người rất phù hợp với nhận thức của Đức Thế Tôn. Trịnh Công Sơn nói rằng không ai có quyền quyết định sinh mạng của con người, không ai có quyền cho người này chết hay người kia sống. Tôi xin đọc nguyên văn của Trịnh Công Sơn để quý vị có thể thấy rõ điều này:

“Chúng ta là một con người, chúng ta không phải là thượng đế, chúng ta không có quyền định đoạt số phận của người khác. Ta không thể nói người này đáng được sống, người kia đáng giết. Mình không có quyền cho phép ai chết cả, ngay cả giải quyết số phận của một ngọn cỏ cũng phải suy nghĩ, ngắt đi một bông hoa bên vệ đường cũng phải suy tư, huống chi số phận con người quá lớn và chúng ta không có quyền quyết định số phận con người”.

Đó là giới thứ nhất, bảo vệ sinh mạng. Lời nói này là lời nói của Bụt, của Đức Thế Tôn. Trịnh Công Sơn đã đại diện Đức Thế Tôn để nói lên điều này. Vì vậy Trịnh Công Sơn không tham dự vào cuộc chiến, đó cũng là chuyện đương nhiên. Hạt giống của nhân ái, của từ bi mà mẹ nhạc sĩ đã trao cho nhạc sĩ được thấy rất rõ trong những bài hát của Trịnh Công Sơn. Những bài hát chuyên chở lòng nhân ái và tình người đó, chúng ta có thể hát để tưới tẩm hạt giống từ bi và để làm tan rã những chất liệu hận thù trong ta. Những bài hát củaTrịnh Công Sơn nói về tình người giống như những bài kinh mà ta có thể tụng được. Tôi bắt đầu thương Trịnh Công Sơn khi nghe Khánh Ly hát bài Tình ca của người mất trí.

“Tôi có người yêu chết trận Plei-me
Tôi có người yêu ở chiến khu "Đ"
Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà Nội
Chết vội vàng dọc theo biên giới
Tôi có người yêu chết trận Chu Prong
Tôi có người yêu bỏ xác trôi sông
Chết ngoài ruộng đồng
Chết rừng mịt mùng mình cháy như than…”


Người yêu, người thiếu nữ đó là ai? Là bất cứ người nào. Họ là người Nam. Họ là người Trung, tất cả đều là người yêu của tôi và họ chết thì tôi điên. Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam và tình yêu này là tình yêu đối với một người, mà cũng là tình yêu chung cho cả dân tộc. Nghe bài này chúng ta thấy rất rõ, rằng người yêu trong bài hát đó là tất cả những người con trai Việt Nam, những người con trai sinh ra ở miền Bắc, những người con trai sinh ra ở miền Nam, và những người con trai sinh ra ở miền Trung. Vì cuộc chiến tương tàn mà những người này phải chết, thế nên ta thương hết tất cả những người này, vì tất cả là người yêu của mình.

Thiền là chánh niệm, chánh niệm là khả năng nhận biết những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Có những người muốn làm lợi trên chiến tranh, có những người muốn bưng bít sự thật đang xảy ra, sự thật đang xảy ra là anh em một nhà đang giết nhau, thảm kịch đang xảy ra cho đất nước, mà chúng ta không được phép nói lên. Khi Trịnh Công Sơn hát lên và nói lên niềm đau đó của dân tộc, của người trẻ tức là Trịnh Công Sơn đang thực tập thiền, “anh có biết, chị có biết những gì đang thực sự xảy ra không?” Đó là những chuyện ta đang giết nhau. Chúng ta đang chết vì một cuộc chiến tranh, chiến tranh vì ý thức hệ với vũ khí của ngoại ban. Lời hát đó một mặt nói lên được lòng yêu nước, yêu dân, một mặt nói lên được sự can trường của nhạc sĩ, nói lên được lòng từ bi và ý nguyện bảo vệ sự sống, bảo vệ giống nòi. Đó là hạt giống tốt mà Trịnh Công Sơn đã tiếp nhận từ ba và từ mẹ.

Nếu biết ơn Trịnh Công Sơn đã viết cho mình những bài ca rất đẹp đó thì mình phải biết ơn ba mẹ Trịnh Công Sơn. Bởi vì chúng ta, người nào cũng có cội nguồn, gốc rễ và cội nguồn, gốc rễ của chúng ta là ba mẹ, ông bà chúng ta. Chúng ta thấy rằng tình yêu trong bản tình ca đó, không phải là một cá nhân, mà cả một thế hệ thanh niên Việt Nam đã ngã gục trong chiến tranh ý thức hệ, rất tàn ác. Năm 15 tuổi, thân phụ Trịnh Công Sơn bị tai nạn chết, tất cả mọi người đều lên chùa Phổ Quang để làm lễ cầu siêu, thầy trụ trì chùa Phổ Quang hồi đó là hòa thượng Chánh Pháp. Hòa thượng là một vị kinh sư nổi tiếng ở Huế, tụng kinh rất hay, âm nhạc Phật Giáo rất giỏi. Có nhiều ngày, vì nỗi đau mất cha, Trịnh Công Sơn đã ở luôn trong chùa từ sáng đến tối. Ở lại chùa nghe kinh, kệ và gần gũi quý thầy cho niềm đau lắng xuống. Chùa Phổ Quang ở gần Bến Ngự và nhà của Trịnh Công Sơn cũng ở gần đó, nên Trịnh Công Sơn thường thích qua chùa.

Trịnh Công Sơn cũng đã quy y với Hòa thượng chùa Phổ Quang với pháp danh là Nguyên Thọ. Nguyên là suối nguồn, Thọ là trao truyền, được trao truyền từ suối nguồn. Trao truyền cái gì? Trao truyền lòng nhân ái, từ bi và dũng cảm. Nếu không thấy được gốc rễ của Trịnh Công Sơn thì chúng ta chưa thấy Trịnh Công Sơn một cách sâu sắc. Bổn sư của Trịnh Công Sơn là Hòa thượng Chánh Pháp. Hòa thượng là người quen của thầy Nhất Hạnh. Làng Mai chúng ta cũng có một cuốn băng tụng kinh của Hòa thượng tụng với sư anh của thầy Nhất Hạnh là Thượng tọa Chí Niệm ở chùa Linh Mụ và trong cuốn băng ấy có cả công phu sáng mà hầu hết quý thầy, quý sư cô Làng Mai đều đã được nghe. Tiếng của hai thầy rất hay. Chắc chắn Trịnh Công Sơn đã nghe quý thầy tụng rất nhiều lần, và âm nhạc của kinh kệ đã đi vào trong máu huyết củaTrịnh Công Sơn, cho nên sau này âm nhạc của Trịnh Công Sơn có âm hưởng của kinh kệ.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người bạn rất thân của Trịnh Công Sơn kể lại rằng Trịnh Công Sơn cũng hay tới Chùa Hiếu Quang. Quý vị có biết chùa Hiếu Quang là chùa nào không? Chùa Hiếu Quang là chùa có vị kinh sư rất giỏi mà tiếng tụng kinh của ngài có thể nói là hay bậc nhất ở Huế, đó là một trong ba vị kinh sư nổi tiếng nhất ở Huế, có giọng tụng cao nhất. Bây giờ ta cũng đang có cuộn băng những bài xướng, tán, tụng và hô canh của hòa thượng Hiếu Quang. Trịnh Công Sơn cũng đã được nghe hòa Thượng Hiếu Quang tán tụng.

Hôm qua Ni sư Như Minh có điện thoại về Huế, thượng tọa Phước Toàn và thượng tọa Hải Ấn cho biết vào khoảng năm 1955 đến 1958 Trịnh Công Sơn đi chùa rất nhiều. Nhiều khi ở luôn trong chùa và ngủ lại qua đêm. Thường là lên chùa Hiếu Quang và chùa Phổ Quang. Lúc đó hòa thượng Hiếu Quang có mở một lớp dạy tán tụng tại chùa Phổ Quang và Trịnh Công Sơn đã tham dự vào lớp học đó, đã học tụng kinh và học tán với hòa thượng Hiếu Quang và Bổn sư của mình. Theo thượng tọa Huệ Ấn, đương kim trụ trì chùa Phổ Quang, là đệ tử thầy Chánh Pháp, cho biết tuy thầy Huệ Ấn là người xuất gia nhưng là em của Trịnh Công Sơn, Trịnh Công Sơn tuy là cư sĩ nhưng là anh đồng sư của thầy Huệ Ấn vì Trịnh Công Sơn quy y trước.

Trịnh Công Sơn thông minh và có năng khiếu tán tụng. Trong khi cùng học chung với các sư chú khác, các sư chú tán chưa được thì Trịnh Công Sơn đã tán được rồi, Trịnh Công Sơn học rất mau. Vì thế ta biết rằng Trịnh Công Sơn nắm được kỹ thuật tán tụng từ trong nhà chùa. Thượng tọa Chân Thức (ngày xưa là thị giả của đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết) Thượng tọa Phước Toàn, Thượng tọa Huệ Ấn cũng đã từng chơi với Trịnh Công Sơn. Điều này chứng tỏ Trịnh Công Sơn đã được nuôi dưỡng nhiều ngày, nhiều năm trong không khí thiền môn và cũng đã nghe âm nhạc Phật giáo rất nhiều.

Có rất nhiều bản nhạc của Trịnh Công Sơn vừa có thể hát được vừa có thể tụng được. Giữa âm nhạc của nhà chùa và âm nhạc Trịnh Công Sơn có một sự tiếp nối rất lạ kỳ. Chúng ta sẽ nghe tụng bài “Quy y Phật” bằng chữ Hán, rồi nghe tụng bài“quay về nương tựa” bằng tiếng Việt và sau đó nghe tụng bài “Đại bác ru đêm”, ta sẽ thấy được đều đó. Hôm nay Trịnh Công Sơn đang có mặt với chúng ta, đang tu với chúng ta, đang nghe pháp thoại với chúng ta.

“Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe,
Đại bác qua đây đánh thức mẹ dậy
Đại bác qua đây con thơ buồn tủi
Nửa đêm sáng chói, hỏa châu trên núi
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe
Từng chuyến bay đêm, con thơ giật mình
Hầm trú tang hoang ôi da thịt vàng
Từng đêm trông sáng, làm mát quê hương
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe
Đại bác đêm đêm tương lai rụng vàng
Đại bác như kinh không mang lời nguyền
Trẻ thơ quên sống từng đêm nghe ngóng
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe .
Đại bác đêm đêm ru da thịt vàng
Đại bác nghe quen như câu dạo buồn
Trẻ thơ chưa lớn để thấy quê hương .
Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng
Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt nam cháy đỏ cuối thôn.
Hàng vạn chuyến xe claymore, lựu đạn ,
Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
Từng vùng thịt xương có mẹ có em”.


Trong truyền thống đạo Bụt, chúng ta được học rằng, trong tâm thức có nhiều hạt giống. Chúng ta có hạt giống của thương yêu, của tha thứ, của hy vọng, nhưng chúng ta cũng có những hạt giống của giận hờn, của tuyệt vọng, của khổ đau. Những bài kinh có tác dụng tưới tẩm những hạt giống tốt đẹp, hạt giống hiểu biết, hạt giống thương yêu. Một số bài hát của Trịnh Công Sơn cũng có tác dụng tưới tẩm những hạt giống hiểu biết và thương yêu trong ta và những bài hát đó người tu có thể hát được.

Trịnh Công Sơn có rất nhiều tuệ giác của đạo Bụt. Nghe cho kỹ, chúng ta có thể nhận diện được tuệ giác đó trong nhạc Trịnh Công Sơn. Ở Làng Mai chúng ta thực tập an trú trong giây phút hiện tại, không để tâm buồn khổ về những chuyện quá khứ, không để tâm lo lắng về những sợ hãi trong tương lai. Bụt dạy chúng ta trở về giây phút hiện tại để sống với giây phút đó cho sâu sắc. Giáo lý đó gọi là hiện pháp lạc trú. Trong giây phút hiện tại có đủ những mầu nhiệm của sự sống, nếu chúng ta biết trở về với sự sống hiện tại thì chúng ta có thể tiếp xúc được với sự sống và chúng ta được nuôi dưỡng bằng sự sống đó. Nhờ vậy chúng ta có đủ bình an và vững chãi để chuyển hóa được những nỗi khổ, niềm đau trong ta. Trịnh Công Sơn cũng có được tuệ giác này. Tuệ giác của hiện pháp lạc trú. Đức thế Tôn luôn luôn khuyên chúng ta trở về sống với giây phút hiện tại mà đừng đi tìm hạnh phúc ở tương lai. Hạnh phúc đã có mặt sẵn trong giây phút hiện tại rồi.

Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo, phóng viên hỏi Trịnh Công Sơn thế nào về chủ nghĩa hiện sinh, Trịnh Công Sơn nói: “hiện sinh chân chính không phải là xấu”. Hiện sinh có nghĩa là phải để ý tới giây phút hiện tại. Hiện là bây giờ, sinh là sự sống, sự sống trong giây phút hiện tại. Trịnh Công Sơn nói rằng“ Bụt là nhà hiện sinh” vì Ngài khuyên chúng ta trở về sống với giây phút hiện tại, và Bụt Thích Ca là bậc thượng thừa, bậc thượng thừa của chủ nghĩa hiện sinh. Đây là nguyên văn của Trịnh Công Sơn:

“Hiện sinh chân chính đâu phải là xấu, mình cho rằng bậc thượng thừa của hiện sinh chính là ông Phật. Tại vì Phật dạy ta phải thức tỉnh trong từng sát na của cuộc sống”.

Trịnh Công Sơn đã đưa ra ví dụ là khi tôi và anh uống một ly bia , thì chúng ta hãy hưởng trọn vẹn sự sung sướng của ly bia, hoặc khi ăn cơm mình hãy tập trung vào chén cơm và thức ăn đưa vào miệng. Tức là ăn cơm có chánh niệm, có ý thức; nghĩa là khi ăn chỉ nghĩ đến chuyện ăn thôi mà đừng nghĩ đến chuyện khác. Thực tình, khi con người tỉnh thức trong từng sát na một thì chủ nghĩa hiện sinh không còn là gì cả. Sống nếp sống tỉnh thức trong từng giây phút là điều Trịnh Công Sơn hướng tới. Người này sống bình tĩnh trong từng sát na chứ không sống vội vàng. Chúng ta thấy rằng Trịnh Công Sơn đã nắm được giáo lý hiện pháp lạc trú.

Có điều, Trịnh Công Sơn không có tăng thân cho nên Trịnh Công Sơn không được bảo hộ và sống đúng theo tuệ giác này. Mặc dù có tuệ giác nhưng bạn bè cứ mời đi uống rượu, mời đi chơi hằng ngày thì làm sao sống được với tuệ giác ấy. Chúng ta thật may mắn là chúng ta làm được những gì mà Trịnh Công Sơn muốn làm. Ông đã đưa được tuệ giác này vào trong bài hát “ Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”.

“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Chọn những bông hoa và những nụ cười
Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấy
Để mắt em cười tựa lá bay.
Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời,
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi.
Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi
Đường đến anh em, đường đến bạn bè
Tôi đợi em về, bàn chân quen quá
Thảm lá me vàng lại bước qua.
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Cùng với anh em tìm đến mọi người
Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát
Để thấy tiếng cười rộn rã bay.
Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi
Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời,
Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới
Để lá reo mừng tựa vẫy tay.
Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yên,
Nhìn rõ quê hương và nghĩ lại mình
Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống
Vì đất nước cần một trái tim.”


Nếu sống được như tuệ giác của bài hát này thì chúng ta có khả năng mang lại hạnh phúc cho rất nhiều người. Cho nên có thể nói Trịnh Công Sơn đã kiến đạo, kiến đạo tức là thấy đạo, thấy con đường để trở về sống sâu sắc từng giây từng phút của cuộc sống hằng ngày. Kiến đạo rồi ta phải tu đạo nữa thì mới chứng đạo được. Muốn tu đạo, phải có tăng thân, có bạn đồng hành cùng có chung tuệ giác với mình. Ba bốn người, năm sáu người bạn quyết tâm sống theo cái thấy này thì chúng ta có hạnh phúc rất rộng lớn và có thể làm chỗ nương tựa cho nhiều người. Cho nên nếu có khả năng, có điều kiện may mắn, chúng ta nên thành lập một nhóm gồm những người bạn cùng chung tuệ giác, để cùng nâng đỡ nhau, cùng nhau sống theo tuệ giác ấy. Nhóm người đó gọi là tăng thân.

Tăng thân là yếu tố căn bản che chở, bảo hộ, giúp mình có thể sống được với tuệ giác của mình. Mình phải nương vào tăng thân, vào nhóm người đó để có thể sống vui vẻ, hạnh phúc và khi nương vào nhóm người đó thì gọi là quy y Tăng, hay nương tựa Tăng. Trong chúng ta, người nào có tăng thân để nương tựa thì người đó có cơ hội rất lớn để sống với cái thấy của mình. Vì kiến đạo là mới thấy đạo thôi, còn muốn chứng được đạo thì phải tu đạo. Chúng ta rất tiếc là Trịnh Công Sơn không có tăng thân. Có lần Vĩnh Trinh than phiền với bạn: “Anh ơi, anh khuyên anh của em dùm một chút, ảnh uống rượu nhiều quá, sáng giờ là ba chai rồi đó”. Những người kia không khuyên được vì họ cũng là những người uống rượu. Do đó mình cần phải có tăng thân để dìu dắt, nâng đỡ và bảo hộ cho mình. Cho nên quý vị nào có tuệ giác, muốn sống đúng theo tuệ giác của mình, sống vững chãi, thảnh thơi và làm chỗ nương tựa cho người khác thì phải có tăng thân để quay về nương tựa. Người nào chưa có tăng thân thì người đó vẫn mồ côi như thường.

Trịnh Công Sơn có nhiều bạn bè rất nổi tiếng, và tài ba của Trịnh Công Sơn rất được nhiều người thán phục, nhưng Trịnh Công Sơn vẫn cô đơn. Trịnh Công Sơn cũng than thở là có những giờ phút Trịnh Công Sơn rất đau khổ. Dù dưới sân khấu có hàng ngàn thính chúng vỗ tay tán dương, nhưng trên này Trịnh Công Sơn vẫn đau khổ như thường. Thỉnh thoảng Trịnh Công Sơn cũng thấy rằng mình cần rút lui để có sự tĩnh lặng, nhưng Trịnh Công Sơn chưa được học phương pháp thiền tọa, thiền hành, cho nên nhiều khi ông cảm thấy rất cô đơn. Trong tuyển tập những bài ca “không năm tháng” do nhà xuất bản Âm Nhạc ấn hành năm 1998, có một bài của Trịnh Công Sơn mà tôi đọc thấy rất thương. Bài đó nói lên những giây phút đau khổ nhất của Trịnh Công Sơn, những giây phút ấy thường rơi vào trước giấc ngủ.

Tôi thường rơi vào một cơn hôn mê trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hốt hoảng thấy mình lơ lững giữa sự sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi mỗi đêm khi quanh tôi mọi người đã ngủ yên và tôi đau đớn nhận ra rằng có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh”.

Có nhà phê bình nói rằng người tình đầu tiên và cuối cùng của Trịnh Công Sơn là cô đơn, dù Trịnh Công Sơn có nhiều người bạn biết thưởng thức và công nhận tài ba của ông. Chúng ta phải tìm hiểu tại sao Trịnh Công Sơn không giải tỏa được niềm cô đơn đó. Có lần Trịnh Công Sơn nói rằng tình yêu không bằng tình bạn, trong tình yêu không có cái vĩnh cữu. Nói cái tuyệt đối trong tình yêu chẳng qua là phóng đại cho lãng mạn lên thôi, thực sự không có sự tuyệt đối trong tình yêu. Tình yêu sinh ra rồi chết đi, tình yêu đôi khi tạo cho mình những nỗi thất vọng, có khi dẫn đến tuyệt vọng. Trịnh Công Sơn có viết một câu rất ngộ nghĩnh:

“Với tôi trong tình yêu không có sự bất tử, người ta chỉ muốn lãng mạn hóa nó mà thôi. Nhưng tuy như vậy trong sự bất tử có thể có tình yêu.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



“Trong tình yêu không có sự bất tử, nhưng trong sự bất tử lại có tình yêu”. Đọc tới đây tôi hiểu liền lập tức. Người yêu đích thực của mình là người có khả năng tháo gỡ được cho mình ra khỏi trình trạng tuyệt vọng, khó khăn. Khi thấy được tính chất đó trong người yêu thì mình biết là trong tình yêu có sự bất tử.

Trịnh Công Sơn nói rằng: “may thay trong đời người ngoài tình yêu còn có tình bạn”. Nói đến Trịnh Công Sơn, chúng ta không thể không nói đến tình yêu. Nhưng Trịnh Công Sơn được nuôi dưỡng bằng tình bạn nhiều hơn và Trịnh Công Sơn có nói rằng sở dĩ Trịnh Công Sơn có viết những bài tình ca hay là nhờ mình bị phụ tình. Đây là lời của Trịnh Công Sơn chứ không phải do tôi đặt ra. “ Cái may ở đời là bị phụ tình”.

Nếu Trịnh Công Sơn không bị cô Diễm cho leo cây thì Trịnh Công Sơn đâu viết được bài “Diễm xưa”, cho nên mình phải cám ơn cô Diễm và những cô khác nữa. Trong chúng ta ai cũng có hạt giống của tình thương yêu, ai cũng khao khát muốn yêu và muốn được yêu. Trong chúng ta lại có những người đã từng bị phụ bạc cho nên bài hát của Trịnh Công Sơn đã ru nỗi niềm đó trong lòng chúng ta, “ Ru ta ngậm ngùi”. Trịnh Công Sơn nói gì về tình bạn? “Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu”. Có một chỗ nào đó Trịnh Công Sơn nói: “Tôi với Khanh Ly giống như hai người bạn trai, chia cho nhau những dĩa cơm, những miếng bánh”. Trịnh Công Sơn được nuôi bằng tình bạn chứ không phải tình yêu. Tình yêu chỉ giúp cho Trịnh Công Sơn viết thành những ca khúc mà thôi. “Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu”.

Trong đạo Bụt chữ Từ Bi là thương yêu bắt nguồn từ chữ Maitri và Karuna (tiếng Phạn). Maitri là Từ, Karuna là Bi. Mà Maitri có nguồn gốc từ Mitra, có nghĩa là bạn. Người yêu của mình phải là bạn mình, phải hiểu mình và mình phải hiểu người đó. Hai người đi như một đôi bạn thì mình mới có hạnh phúc. Nếu hai người không hiểu nhau, không có sự thông cảm nhau, nếu tôi không thể hiểu em, em không thể hiểu tôi thì cái đó có thể tạm gọi là tình yêu, nhưng trong đó không có tình bạn, mà không có tình bạn thì không phải là tình yêu đích thực. Vì vậy ai đang yêu thì nên đặt câu hỏi: “Trong tình yêu này có tình bạn không?” Nếu không có tình bạn thì tình yêu này chưa phải là tình yêu đích thực.

“Tình bạn có bộ mặt thật hơn tình yêu, trong tình bạn sự bội bạc có, nhưng không nhiều. Tôi thấy tình bạn quý hơn tình yêu, vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và phục sinh lại một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa.”

Tình bạn có công năng cứu chữa. Đúng vậy! Một người bạn có thể cứu chữa cho ta mặc dù đã có lúc ta có rất nhiều lầm lỡ. Dù ta đã sa vào hầm hố của khổ đau, người bạn của ta cũng có thể kéo ta ra khỏi hầm hố đó. Có khi mình nằm trong vực sâu đen tối và người bạn đó tới thả một chiếc thang dài xuống cho ta leo lên vùng chan hòa ánh sáng để tìm lại được màu trời xanh và tiếng suối, tiếng chim. Khả năng cứu chữa đó là tình bạn. Và Đức Bụt Thích Ca cũng có tình bạn, tình bạn rất lớn, tình bạn đó có khả năng cứu chúng ta ra khỏi những trạng huống khó khăn tuyệt vọng. Nếu học theo được tình bạn này thì chúng ta là sự nối tiếp của Đức Thế Tôn, và chúng ta có khả năng đưa cách tay của tình bạn ra để cứu giúp những người khác. Những giờ phút có thể nói là hạnh phúc nhất của Trịnh Công Sơn là giờ phút ngồi với bạn, vì ngồi như vậy thì không cần phải đối phó, không cần phải nói gì, không cần phải làm gì hết. Sự có mặt của bạn bên mình đem đến cho ta sự an ủi, không cần phải giữ gìn, không cần phải đối phó. Nếu anh có một người bạn như vậy thì quá quý. Trịnh Công Sơn có một số người bạn như vậy nhưng sao anh lại cô đơn? Vì giây phút đó ít quá, Trịnh Công Sơn đã nói như thế này:

“Trong âm nhạc có những dấu lặng, tức dấu nghỉ không có âm thanh, nếu không có những dấu lặng đó thì là một tai họa. Âm nhạc mà không có khoảng cách im lặng thì chẳng qua đó là sự rối loạn mà thôi”.

Trịnh Công Sơn nói, khi ngồi bên cạnh một người bạn yên lặng không nói gì hết cũng giống như một dấu lặng trong âm nhạc. Không nói gì mà hay hơn nói. Đoạn đó rất hay, tôi muốn đọc lại cho quý vị nghe:

“Có những sự có mặt của bạn bè tương đương với một dấu lặng trong âm nhạc, nên sự có mặt đó thường có khả năng mang đến cho ta sự thoải mái, thảnh thơi tựa hồ như là niềm hoan lạc. Đó là những trường hợp ta không cần phải đối phó, không cần phải lấp đầy khoảng trống bằng câu chuyện gắng gượng và nhạt nhẽo”.

Trịnh Công Sơn đã có những giây phút đó, giây phút ngồi với bạn mà không cần làm gì cả, chỉ để được nuôi dưỡng bằng tình bạn. Tất cả chúng ta đều rất cần tình bạn như vậy. Sự ồn ào làm cho Trịnh Công Sơn mệt mỏi dù sự ồn ào đó là để tán thưởng hay ca ngợi mình, cho nên Trịnh Công Sơn rất cần những giờ phút yên lặng. Tuy nhiên Trịnh Công Sơn chưa học được cách ngồi một mình để hưởng sự yên lặng, nên Trịnh Công Sơn cần một người bạn ở bên cạnh, để cảm thấy mình hưởng được sự yên lặng. Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã học ngồi thiền, nhưng ngồi thiền một mình chưa thấy vui lắm. Ngồi thiền thì đâu được nói chuyện thế mà ngồi ba bốn người vẫn vui hơn. Có phải như vậy không?

Trong khi ta ngồi yên như thế, sự có mặt của nhau nuôi dưỡng được tất cả mọi người trong đó. Có một lần ở tu viện Cấp Cô Độc, trong khi các thầy đang chuẩn bị khóa an cư mùa mưa, thì có khoảng ba bốn trăm thầy từ Kosambi tới. Gặp lại các huynh đệ mừng quá, nên các thầy nói chuyện rất ồn ào. Ngồi trong phòng nghe ồn, Bụt hỏi thầy Xá Lợi Phất: “Có chuyện gì mà ồn như cái chợ vậy? Thầy xá Lợi Phất trả lời: “Có một số huynh đệ từ Kosambi tới; gặp nhau, mừng quá nên họ cười nói ồn ào, mất hết uy nghi, xin Đức Thế Tôn tha lỗi cho họ. Đức Thế Tôn bảo: “Không được, làm ồn như thế thì phải đi chỗ khác tu học, không thể ở đây, tôi không thể ở chung với những người ồn ào như vậy.” Ta thấy trong lòng đức Thế Tôn chủ yếu muốn dạy cho những người đó nên Đức Thế Tôn nói không thể ở đây, phải đi chổ khác tu học. Sau đó thầy Xá Lợi Phất ra báo tin cho các huynh đệ là “Đức Thế Tôn không muốn cho quý vị ở đây, vì từ đầu giờ vào đây quý vị ồn quá làm mất không khí thanh tịnh của nhà thiền.” Nghe thế quý thầy yên lặng, quyết định đi tới một địa phương khác gần đó để an cư.

Trong suốt mùa an cư đó, các thầy nhớ lời Bụt dạy không nói chuyện, không cười giỡn, người nào cũng hạ thủ công phu, cho nên cuối mùa an cư họ chuyển hóa rất nhiều, mặt người nào cũng sáng rực ra, nụ cười nào cũng rất tươi tắn. Sau mùa an cư họ muốn đến cám ơn Đức Thế Tôn đã quở trách họ và nhờ lời quở trách đó mà họ tinh tấn hơn, nên đã thành công trong tu tập. Thầy Xá Lợi Phất vào thưa với Bụt: “Bạch Đức Thế Tôn, các thầy đã an cư xong rồi và họ muốn vào chào Đức Thế Tôn”. Đức Thế Tôn cho quý thầy vào. Lúc đó khoảng 7 giờ chiều. Đức Thế Tôn chắp tay chào các thầy. Ba trăm thầy đó với hai trăm thầy ở địa phương cùng ngồi với Đức Thế Tôn trong thiền đường rất lớn. Thầy trò ngồi với nhau như vậy từ 7 giờ tối cho tới 12 giờ khuya. Ngồi yên lặng không nói gì hết.

Thầy Anan, thị giả của Bụt, tới gần Bụt và bạch: “Bạch Đức Thế Tôn, gần tới nửa đêm rồi, Đức Thế Tôn có dạy gì cho các thầy không?” Đức Thế Tôn vẫn ngồi yên và thầy trò ngồi yên như thế cho tới 3 giờ sáng. Ngồi yên bên nhau, không nói gì hết, thầy Anan lại nóng ruột nên đến bạch với Đức Thế Tôn một lần nữa:“ Ba giờ sáng rồi, Ngài có muốn khai thị cho các thầy điều gì không?” Đức Thế Tôn vẫn ngồi yên với các thầy cho đến 5 giờ sáng. Lúc này thầy Anan tới “Bạch Đức Thế Tôn, trời rạng đông rồi, Ngài có muốn nói gì với các thầy không?” Đức Thế Tôn nói: “Thầy muốn tôi nói gì nữa. Thầy trò ngồi với nhau như vậy chưa đủ hay sao.”

Thầy trò huynh đệ ngồi với nhau, thấy được và trân quý sự có mặt của nhau là một hạnh phúc rất lớn, rất được nuôi dưỡng. Tuy không có âm thanh nhưng giá trị bằng 10 lần âm thanh. Trong tác phẩm “Tỳ Bà Hành” cũng có một câu nói tương tự “Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.” Người nữ đó đàn tỳ bà, có lúc nàng im bặt và trong thời gian im lặng đó, giữa hai nốt nhạc rất hùng hồn, rất thấm thía. Còn hay hơn có âm thanh nữa.“Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.” Thử thời là bây giờ, vô thanh là không có âm thanh. Không có âm thanh mà hay hơn là có âm thanh. Trịnh Công Sơn đã thấy được điều đó. Ngồi với bạn bè không cần nói năng gì, chỉ cần có sự thông cảm và hưởng sự có mặt của nhau là đủ rồi. Tôi nghĩ sự an ủi lớn nhất của Trịnh Công Sơn là những giờ phút ngồi với bạn bè. Nhưng nếu bạn không biết ngồi chỉ biết uống rượu thôi thì những giây phút đó không còn quý nữa.

Chúng ta nghe lại bài Tình ca của người mất trí”

Tôi có người yêu, chết trận Pleime
Tôi có người yêu ở chiến khu Đ
Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà Nội
Chết vội vàng dọc theo biên giới

Tôi có người yêu chết trận Chu Prong
Tôi có người yêu bỏ xác trôi sông
Chết ngoài ruộng đồng chết rừng mịt mù
Chết lạnh lùng mình cháy như than

Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam
Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm
Gọi tên anh tên Việt Nam
Gần nhau trong tiếng nói da vàng.

Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam
Ngày mới lớn tai nghe quen đạn mìn
Thừa đôi tay dư làn môi
Từ nay tôi quên hết tiếng người

Tôi có người yêu, chết trận A Sao
Tôi có người yêu nằm chết cong queo
Chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu
Chết nghẹn ngào mình không manh áo

Tôi có người yêu, chết trận Ba Gia
Tôi có người yêu vừa chết đêm qua
Chết thật tình cờ chết chẳng hẹn hò
Không hận thù nằm chết như mơ.‎


Trịnh Công Sơn bị ám ảnh bởi cái chết. Chúng ta và nhiều người khác cũng thế. Vì sống trong hoàn cảnh đó, chúng ta đã chứng kiến không biết bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu người trẻ, bao nhiêu đồng bào của mình chết. Trịnh Công Sơn là người rất yêu đời và không muốn chết, nhưng ông biết rất rõ rằng một ngày nào đó mình sẽ chết. Có lần một ký giả phỏng vấn ông: “Nhạc sĩ có dự án nào cho tương lai không? Những ngày sắp tới, nhạc sĩ sẽ làm gì?” Trịnh Công Sơn trả lời: “ Sắp tới tôi phải làm việc nhiều hơn để lẫn trốn sự ám ảnh về cái chết”. Cái chết ám ảnh nhạc sĩ và ông nghĩ rằng để đừng bị cái chết làm ám ảnh mãi thì phải làm việc thật nhiều. Và Trịnh Công Sơn nghĩ rằng mình có sứ mạng là phải chuyển tới những người thương, những người hâm mộ mình một thông điệp, thông điệp của tình thương, của lòng nhân ái. Đó là lời nguyện của Trịnh Công Sơn.

Nếu lời nguyện của Đức Bồ Tát Địa Tạng là đi vào địa ngục để cứu độ chúng sanh, lời nguyện của Đức Bồ Tát Quan Thế Âm là lắng nghe tiếng kêu đau thương của muôn loài để tìm tới cứu khổ, thì lời nguyện của Trịnh Công Sơn là gởi tới những thính giả của mình thông điệp của tình yêu thương, tức là tưới tẩm hạt giống thương yêu và tha thứ nơi mọi người. Trong cuộc đời mà ai cũng được dẫn đạo bằng hướng đi như vậy thì thật là quý hóa. Tuy Trịnh Công Sơn đã được tiếp nhận hạt giống thương yêu từ mẹ, từ chùa nhưng chưa có cơ hội học hỏi và thực tập về phương pháp thiền quán để có thể tiếp xúc được với tự tính vô sinh bất diệt của mình. Vì vậy cho nên Trịnh Công Sơn chưa vượt thoát được nỗi ám ảnh của cái chết.

Tôi không bị ám ảnh bởi cái chết vì tôi có tuệ giác về sống chết, tôi đã thiền quán và tôi đã tiếp xúc được với tính vô sinh bất diệt của mình. Quý vị hãy nhìn lên đám mây trên bầu trời. Đám mây đó chiều nay hoặc ngày mai sẽ biến thành mưa. Đám mây đó từ đâu mà có? Có phải từ không mà trở thành hay không? - Không. Đám mây đó từ nước ao hồ, sông biển do sức nóng mặt trời bốc hơi lên ngưng tụ mà thành. Đám mây không phải từ không mà trở thành . Có lần Trịnh Công Sơn nói rằng, chúng ta từ hư vô tới và chúng ta sẽ trở về hư vô. Nói như vậy tức là chưa có tuệ giác của người tu thiền. Chúng ta không phải từ hư vô tới và chúng ta cũng không đi về hư vô.

Trong Thánh Kinh có nói chúng ta từ hạt bụi tới và chúng ta sẽ trở về cát bụi. Trịnh Công Sơn cũng có cùng quan điểm đó“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi. Hạt bụi không phải hư vô, hạt bụi cũng không đủ để hóa kiếp thân tôi. Nhiều nhân, nhiều duyên kết hợp lại tôi mới biểu hiện, chứ một nhân, một duyên thì tôi không thể nào biểu hiện được. Theo đạo Cơ Đốc thì Thượng Đế là nhân và là nhân duy nhất để có hiện hữu, nhưng trong đạo Bụt ý niệm về nguyên nhân duy nhất là vô lý. Không có cái gì có thể phát sinh ra từ một nhân duy nhất. Ví dụ như bông hoa này, phải có hạt giống của hoa, phải có đất, có phân, có ánh sáng mặt trời, phải có đám mây biến thành nước mưa… tức là nhiều nhân, nhiều duyên mới có thể làm cho bông hoa biểu hiện được. Thành ra ý niệm một nguyên nhân duy nhất không phù hợp với sự thật. Sự thật là đa nhân đa duyên “trùng trùng duyên khởi”.

Rất tiếc là Trịnh Công Sơn trong những năm tháng đó đã không có cơ hội lên chùa để học hỏi thêm về thiền quán. Trịnh Công Sơn có gởi cho tôi một tập nhạc đề là “Tặng thầy Nhất Hạnh”. Bây giờ tôi vẫn còn giữ. Tôi cũng có viết thư cho Trịnh Công Sơn yêu cầu Trịnh Công Sơn phổ nhạc dùm một số bài kinh. Vì tôi biết rằng nếu Trịnh Công Sơn phổ nhạc những bài kinh này thì Phật tử đọc, tụng, hát sẽ hay lắm, sẽ được nhiều lợi lạc. Thế nhưng thư của tôi bi thất lạc, đến khi Trịnh Công Sơn nhận được thư đó thì ông đã bị bệnh nặng nên không làm được. Thật đáng buồn! Nhưng Trịnh Công Sơn vẫn đang còn đó. Trịnh Công Sơn đang nghe lời tôi nói, mai mốt Trịnh Công Sơn sẽ sáng tác những bài thơ, bài nhạc, bài kinh theo tinh thần của Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn đang ở đây, đang ở trong quý vị. Trong số các thượng tọa, ni sư từ Việt Nam sang có Trịnh Công Sơn trong đó. Đừng tưởng Trịnh Công Sơn chết rồi. Trịnh Công Sơn đang sống hùng mạnh hơn bao giờ hết. Đám mây kia không phải từ hư vô tới và nó cũng không phải trở thành hư vô. Mai mốt nó sẽ biến thành mưa. Nó chỉ biến đổi hình thức thôi.

Bây giờ xin quý vị quán chiếu với tôi: giả dụ 2/3 đám mây kia gặp khí lạnh trở thành mưa, rơi xuống, một phần biến thành dòng, thành khe, một phần đi vào trong ruộng lúa xanh tươi. Đứng trên cao, đám mây kia nhìn xuống và nhận ra mình đang ở dưới đó. Một phần của mình biến thành ruộng lúa xanh tươi, một phần biến thành dòng suối. Rồi đám mây nói:“Chào em, tôi biết em là tôi, em là sự tiếp nối của tôi”. Như vậy đám mây kia đâu chết, khi không còn hình thức của đám mây nữa thì nó biến thành một hình thức khác, hình thức của dòng suối hay hình thức của đám mạ xanh tươi. Thế nên trong đạo Bụt nói bản tánh của chúng ta là “vô sinh bất diệt”, chúng ta chỉ thay đổi hình thức thôi. Tự tánh của đám mây cũng vô sinh bất diệt. Trịnh Công Sơn cũng vô sinh bất diệt.

Nếu ta có con mắt của Bụt, nếu ta có con mắt của thầy thì ta có thể thấy Trịnh Công Sơn có mặt một cách rất đích thực ngay trong thính chúng này. Quý vị có thấy được Trịnh Công Sơn trong trái tim mình hay không? Ngày hôm qua thầy nghe thầy Thông Hội hát nhạc Trịnh Công Sơn. Người ta thường hỏi: “Sau khi chết ta sẽ đi về đâu?” Câu hỏi đó làm tốn rất nhiều bút mực và nước bọt để giải thích. Thông thường muốn trả lời câu hỏi đó phải trả lời một câu hỏi khác là “Trong giây phút hiện tại chúng ta đang đi về đâu?” Chúng ta tưởng rằng sau khi thân xác này tàn hoại chúng ta mới đi, nhưng kỳ thực bây giờ chúng ta đang đi, chúng ta đang trở thành một cái khác.

Hãy tưởng tượng Trịnh Công Sơn lúc 5 tuổi và Trịnh Công Sơn lúc 25 tuổi, hai người rất khác nhau, và khi Trịnh Công Sơn 45 tuổi thì lại khác nữa. Chúng ta chuyển biến, sinh diệt trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Đứng về phương diện năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ta so sánh ta trước khi vào đây và ta bây giờ là đã có sự khác nhau rồi. Bao nhiêu sinh diệt, bao nhiêu biến chuyển đã đi qua trong chúng ta và chúng ta luôn luôn được tiếp nối. Nước mưa tiếp nối đám mây, sương mù cũng tiếp nối đám mây. Khi chúng ta nâng một tách trà lên để uống, nếu có chánh niệm, có tuệ giác của Bụt, thì chúng ta thấy rằng mây đang nằm đây trong ly trà này. Thay vì đang uống nước chúng ta đang uống mây. Đây là một sự thật rất khoa học. Nó không phải chỉ là thi ca mà thôi.

Tôi đang uống mây và đám mây chiều nay có thể trở thành một bài thơ, hay ngày mai mây trở thành bài pháp thoại. Mây biến hóa vô cùng. Cho nên ta phải có khả năng nhận diện sự có mặt của Trịnh Công Sơn dưới những hình thái biểu hiện khác của Trịnh Công Sơn. Thế nên ta không thể nói Trịnh Công Sơn chết được. Vì sự thực không có cái gì chết đi cũng không có cái gì sanh ra. Chết nghĩa là từ trở thành không, Trịnh Công Sơn không phải từ có trở thành không. Đã không có từ không mà trở thành thì cũng không thể nào từ mà trở thành không được. Nếu quý vị vừa mới mất một người thân mà quý vị tưởng người thân đó không còn nữa là quý vị lầm. Người thân đó bây giờ đang biểu hiện dưới một hình thức khác. Nhìn cho kỹ ta sẽ thấy được người thân của mình và ta nói: “Chào em, chị rất hạnh phúc nhận ra em dưới một hình thức mới”. Đó là diệu dụng của thiền quán.

Trong những năm 80, 90 nếu Trịnh Công Sơn có được tuệ giác đó thì Trịnh Công Sơn sẽ không bị ám ảnh bởi cái chết, vì Trịnh Công Sơn biết rõ mình không bao giờ chết cả. Trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, mình đã hiến tặng những lời nói, những lời ca, những tư duy và những hành động của mình cho đời và đó là sự tiếp nối của mình. Đó gọi là ba nghiệp. Ba nghiệp là thân, khẩu, ý. Cũng như cây đèn ***, khi được thắp sáng lên thì trong mỗi giây phút nó đều hiến tặng ánh sáng, sức nóng và hương thơm. Con người cũng vậy, trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, chúng ta đã hiến tặng tư duy, lời nói và hành động của ta. Nếu tư duy của ta đầy tham, sân, si thì những hiến tặng của ta sẽ không có giá trị, chúng sẽ làm hư xấu cuộc đời, như thế chúng ta sẽ không có sự tiếp nối đẹp đẽ. Còn nếu tư duy của ta có lòng thương yêu, có lòng nhân ái, có tha thứ, bao dung thì sự tiếp nối của ta sẽ đẹp đẽ.

Trịnh Công Sơn đã hiến tặng tư duy của mình qua nhiều hình thái khác nhau. Hình thái mà ta dễ thấy nhất là những ca khúc của ông. Trịnh Công Sơn đã cống hiến những ngôn từ, hành động, cử chỉ biết thương yêu, chăm sóc, biết tha thứ, bao dung. Có lần ngồi chơi với Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một quán cà phê ở Huế, cô bé bán quán bưng tới cho Trịnh Công Sơn một ly cà phê, nhưng vô tình, bé làm đổ hết ly cà phê vào chiếc áo vest của Trịnh Công Sơn, bé sợ xanh mặt, bà chủ tới la bé rất dữ dội. Cô bé sợ quá co rúm người lại. Rất tội nghiệp! Trịnh Công Sơn thấy vậy thương quá, liền nói: “Không phải nó làm đổ đâu, chính tôi làm đổ đó”. Và Trịnh Công Sơn móc túi lấy tiền ra trả cho ly cà phê ấy để cho bà chủ đừng la bé. Sau khi trả tiền Trịnh Công Sơn đứng dậy, nháy mắt cô bé đó rồi ra đi. Đó là một hành động biểu dương lòng tốt của tình thương trong Trịnh Công Sơn. Những cái đó không bao giờ mất đi cả. Đó là nghiệp. Chúng ta đừng hiểu nghiệp là xấu. Nghiệp có thể xấu mà cũng có thể là tốt. Nghiệp xấu gọi là ác nghiệp, nghiệp tốt gọi là thiện nghiệp.

Trịnh Công Sơn đã làm ra những thiện nghiệp và những thiện nghiệp ấy đang tiếp tục đi về tương lai. Chúng ta có thể nhận diện sự có mặt của Trịnh Công Sơn qua những thiện nghiệp mà Trịnh Công Sơn đã tạo tác ra qua những tư duy, lời nói và hành động của ông. Trịnh Công Sơn chưa bao giờ giết người. Trịnh Công Sơn không kỳ thị, Trịnh Công Sơn có can đảm dám nói ra sự thật, yêu nước, yêu dân. Ba mẹ Trịnh Công Sơn phải hãnh diện về điều đó.

Quý vị đã nghe và đã thấy Trịnh Công Sơn có mặt trong mình và bây giờ tôi muốn chia sẻ để quý vị thấy mình cũng có mặt trong Trịnh Công Sơn. Có một lần Trịnh Công Sơn được nhà báo hỏi: “Anh có bao giờ hình dung ra thân xác và tâm hồn mình lúc ở bờ bên kia chưa?”- “Chưa! Đó là tại do lười biếng mà ra.” Do không chịu quán chiếu. Mình có tự do, có thiền đường mà không chịu tham khảo đề tài sống chết, để rồi mai mốt khi nằm trên giường không biết mình đi về đâu. Trịnh Công Sơn công nhận mình làm biếng, không chịu giành thời gian để quán chiếu sâu sắc về vấn đề sinh tử. Các cô, các chú có thấy mình có trong Trịnh Công Sơn không?

Trịnh Công Sơn nói: “… Vì do lười biếng mà ra cả, mình không bao giờ chuẩn bị trước cho mình cái gì hết cho những ngày sắp tới, như thể là khi muốn về Huế là cứ bỏ đồ đạc vào vali mà đi thôi”. Ra Huế thiếu gì thì tính sau. Điều đó rất con người. Và ta thấy sự lười biếng đó nằm trong tất cả chúng ta. Chúng ta giãi đãi, làm biếng, như thể là mình sẽ sống cả ngàn năm và mình có cả ngàn năm để thiền quán, nhưng kỳ thực chúng ta không biết mình sống được bao lâu. Vì vậy chúng ta phải tinh tiến và phải làm thay cho Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn chưa làm được thì mình phải làm cho Trịnh Công Sơn. Thầy cũng đang làm cho Trịnh Công Sơn, các thầy, các sư cô cũng đang làm cho Trịnh Công Sơn. Quý vị cũng phải làm cho Trịnh Công Sơn. Chúng ta phải đưa Trịnh Công Sơn đi tới. Bởi vì Trịnh Công Sơn không phải là Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn là quý vị. Khi người ta hỏi Trịnh Công Sơn: “Không biết có cõi nào mà sau khi chết mình đi về hay không?” Thì Trịnh Công Sơn trả lời:

Nếu có một sự tiếp nối ở một cõi khác, một thế giới khác thì chắc là vui lắm. Và tôi nghĩ nếu thực sự có một cõi khác với cõi đời này thì tôi hy vọng chúng ta sẽ được rong chơi mãi mãi”.

Rong chơi là từ của Trịnh Công Sơn. Mình ở trên cuộc đời này là để rong chơi, và nếu hết cuộc đời này có một cõi khác, mình cũng sẽ tiếp tục rong chơi. Đó là hy vọng. Cõi đó gọi là thiên quốc hay thiên đường. Nhưng nếu Trịnh Công Sơn nhưng nếu biết quán chiếu sâu hơn thì sẽ thấy được rằng thân xác này chẳng qua là sự chấm dứt của một giai đoạn biểu hiện và mình sẽ được biểu hiện lại dưới một hình thức khác trong giai đoạn kế tiếp. Đám mây khi không còn là hình thức của đám mây nữa thì nó tiếp tục làm con suối hay làm tảng băng. Làm mây bay trên trời cũng vui mà làm mưa rơi xuống ruộng đồng cũng vui. Tại sao phải sợ?

Trịnh Công Sơn có thể rong chơi mãi mãi trên thế gian nầy mà không cần phải giả định có một thế giới khác hay có một cõi nào khác nữa. Không có cái gì tự nhiên mà có, cũng không có cái gì từ có trở thành không. Trịnh Công Sơn là một thực tại. Trịnh Công Sơn là mãi mãi. Trịnh Công Sơn tha hồ rong chơi, nếu không dưới hình thức của một người Huế, thì dưới hình thức của người Thụy Sĩ. Làm người Huế cũng vui mà làm người Thụy Sĩ cũng vui. Làm một bông hoa thủy tiên cũng hay, làm một bông sen cũng hay. Hình thức nào của sự sống cũng đẹp cả.

Khi Trịnh Công Sơn thấy được điều đó thì Trịnh Công Sơn sẽ thấy được tự tánh của mình là vô sinh bất diệt, mình có thể rong chơi mãi mãi hoài hoài. Mong rằng các thầy, các sư cô, các sư chú, các đạo hữu nắm được chân lý này và thấy được tự tánh vô sinh bất diệt của mình. Cho nên đối với tôi, Trịnh Công Sơn chưa bao giờ chết. Nếu thắp một nén hương cho Trịnh Công Sơn thì chúng ta không nên thắp bằng sự tiếc thương mà thắp bằng ý thức là Trịnh Công Sơn đang còn đó với mình và mình có thể mang Trịnh Công Sơn đi về tương lai, để Trịnh Công Sơn có thể tiếp tục sứ mạng của mình, sứ mạng chuyên chở thông điệp thương yêu. Chúng ta hãy cùng hát với nhau bài “Nối vòng tay lớn” để tưới tẩm hạt giống của tình huynh đệ, của hy vọng và của tình thương yêu trong ta.

Thanked by 3 Members:

#53 Búp Sen

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 644 Bài viết:
  • 1099 thanks

Gửi vào 08/04/2014 - 19:09

Thảnh thơi trong ràng buộc

(PGVN)

Nhu yếu của con người là mong sao cho đời sống của mình luôn luôn được thảnh thơi, an vui và hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, con người cần phải cố gắng, nỗ lực suy tính và vạch ra nhiều phương cách nhằm đáp ứng thỏa mãn các nhu cầu của cuộc sống.


Tuy nhiên, thực tế cho thấy ít ai có thể thực hiện được điều này, vì mỗi khi trong tâm ta vẫn còn hiện hữu sự tham vọng cầu toàn và cố tránh né những gì bất như ý xảy ra, thì đỉnh cao của thảnh thơi và hạnh phúc sẽ vắng mặt, ẩn tàng.

Bởi lẽ, khi chúng ta hiện hữu trên cõi đời này thì đương nhiên phải có nhiều mối quan hệ qua lại, nào là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, công việc, v.v… không một ai có thể tồn tại riêng lẻ, biệt lập. Và khi mối tương quan này hình thành thì dĩ nhiên con người sẽ bị ràng buộc trong sự thương ghét, lựa chọn và chiếm hữu. Cha mẹ luôn bênh vực cho con cái, anh sẽ bênh vực cho em, vợ phải bênh vực cho chồng… vì người này là thân thuộc của tôi, còn người kia là kẻ xa lạ, cho nên, dù biết người thân của mình sai phạm nhưng vẫn dùng lời lẽ và uy quyền để dành được phần hơn.

Nhưng, nếu chẳng may sự tranh giành ấy bạn bị thất bại thì sao? Thì chắc chắn rằng bạn sẽ bị sợi dây phiền não trói buộc, giam giữ và mất hết quyền tự chủ.

Do vậy, để được tự tại, thảnh thơi trong mối liên hệ chằng chịt đó là vấn đề không phải ai ai cũng có thể thực hiện được, đòi hỏi chúng ta phải thường trực quán niệm, soi chiếu thân tâm mình và hoàn cảnh đương tại, mới có thể thoát ra khỏi mọi xiềng xích giam giữ của bản ngã tham sân si.


Thực ra, để có một lối sống thảnh thơi, an lạc không nhất thiết ta phải đạt được một mục đích nào đó, lại càng không thể tránh xa những con người “khó ưa” để được yên ổn mọi bề, mà là giáp mặt với thực tại để thấy ra thói quen chống cự, ưa thích của cái ta tham vọng cầu toàn. Vì, chính thái độ chọn lựa, cầu toàn là đầu mối làm hoang phí sinh lực và đánh mất khả năng giác ngộ, giải thoát. Nếu bạn có ý niệm truy tìm sự thảnh thơi thì vô tình chính ý niệm ấy lại là thủ phạm tạo ra sự xao động, rối ren và bất an, chẳng khác gì có một người đi ra ngoài phố chợ rồi la lớn rằng, “tất cả mọi người hãy im lặng, tất cả mọi người hãy im lặng”! Hành động khờ khạo ấy không khiến cho những người ở phố chợ lặng im mà trái lại còn tạo thêm sự ồn ào và hao phí sinh lực.

Trong khi đó, bạn chỉ cần nhận biết rõ ràng mọi động dụng lăng xăng tìm cầu đang diễn ra ở nơi thân tâm mình, mà không cần phải chống đối, trừ khử thì niềm an vui hạnh phúc tức thời hiện hữu. Đây chính là kinh nghiệm mà đức Thế Tôn đã thực chứng và chỉ dạy lại cho chúng đệ tử rằng: “Này các vị khất sĩ! Mỗi khi nội tâm có tham dục, vị khất sĩ ấy ý thức là nội tâm có tham dục. Mỗi khi nội tâm không có tham dục, vị ấy ý thức là nội tâm không có tham dục. Mỗi khi trong tâm có sân hận, vị khất sĩ ấy ý thức là trong tâm có sân hận. Mỗi khi trong tâm không có sân hận, vị ấy ý thức là trong tâm không có sân hận. Mỗi khi tâm thức mình si mê, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình si mê. Mỗi khi tâm thức mình không si mê, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình không si mê. Mỗi khi tâm thức mình có thu nhiếp, vị ấy ý thức rằng tâm thức có thu nhiếp. Mỗi khi tâm thức mình tán loạn, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình tán loạn/…Và như vậy, vị ấy an trú một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận.” (Kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm, Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000, Thiền sư Nhất Hạnh soạn dịch, tr. 113).

Các sự vật hiện tượng trong vũ trụ này vốn không ràng buộc vào nhau, mà chỉ liên hệ trong sự tương giao, hội tụ và đổi thay như đám mây bay lơ lững trên bầu trời, khi đầy đủ điều kiện thì trở thành cơn mưa, dòng sông, con suối đến khi hết nhân duyên thì chúng chuyển sang tướng trạng khác nhau và vẫn thong dong từng cá thể.

Chính vì ta sống trong thất niệm mê mờ và không thấy rõ tính duyên sinh vô ngã của vạn pháp, nên bị bản ngã tham sân si điều động, sai sử rồi tạo ra sự rối ren, phân chia và chọn lựa. Trong khi đó, bản chất của các pháp vốn tự do bình đẳng và luôn luôn vận hành đúng theo tiến trình nhân-duyên-quả mà tự thân của mỗi người đã tạo ra trước đó.

Vì vậy, đoạn kinh trên chỉ dẫn rằng, khi trong tâm thức khởi lên một niệm sân hận hoặc là niệm hoan hỷ, thì bạn chỉ cần nhận biết trọn vẹn quá trình sinh khởi và hoại diệt của ý niệm ấy mà không chạy theo, nắm giữ hay tiếc nuối. Thói quen muốn được thỏa mãn các giác quan (dục ái) và nắm giữ những gì mình ưa thích (hữu ái) là sợi dây trói buộc ta vào vòng lục đạo luân hồi. Vì một khi ý niệm mong cầu đó không được đáp ứng, thì tâm trạng bực bội phiền muộn tức thời hiện hữu (phi hữu ái), tạo ra sự xung đột đấu tranh và hận thù.

Chính vì lẽ đó cho nên đức Thế Tôn dạy rằng: “Này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu. Thưa Tôn giả, làm sao không đứng lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi bộc lưu? Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta chìm xuống; khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt. Do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu” (Tương Ưng Bộ I, tr.9). Bước tới là chạy theo dục lạc tham muốn, còn đứng lại là nắm giữ, sở hữu cái mình ưa thích. Theo tuệ giác của đức Thế Tôn cho thấy, nếu ta bước tới hoặc đứng lại đều bị rơi vào cạm bẩy của vô minh tham ái. Chỉ có tâm định tĩnh sáng suốt mới dễ dàng ung dung tự tại để ngắm nhìn vẻ đẹp của cơn giận, lòng tham và nỗi buồn đang biểu hiện. Nếu bạn quán chiếu được điều này, thì ý niệm mong cầu để trở thành một cái gì đó trong tương lai sẽ tự động rơi rụng. Vì bạn đã hiểu được rằng, niềm an lạc, thảnh thơi không thể dùng ý chí hay lý trí để phá vỡ công trình tạo dựng ngàn đời của bản ngã, mà chỉ cần thấy rõ quy trình dựng lập của nó thì bạn sẽ tự do dạo chơi qua lại trong cõi sinh tử và Niết-bàn.


Tuy vậy, khát vọng phàm tình của kiếp người vẫn là mong ước được sống chung với những người hiền hòa dễ mến, và có một lối sống đầy đủ điều kiện thuận lợi để được an hưởng hạnh phúc lâu dài. Nhưng kỳ thực, không ai có thể tìm ra một con người hoàn hảo và với công việc thuận lợi êm xuôi, vì khi trong tâm thức ta vẫn còn chứa đựng sự thèm khát mong cầu thì cái thấy về con người, về hoàn cảnh xã hội sẽ bị phiến diện hạn hẹp, do đó ta không bao giờ thỏa mãn được những ước vọng cầu toàn.

Mặt khác, chính vì muốn sở hữu “cái này là của tôi” nên khi bị người khác chiếm đoạt thì tâm sân hận phát khởi và làm che mờ cái thấy biết trong sáng, hồn nhiên và trung thực. Và một khi tâm đã mang nặng nỗi buồn, cơn giận thì ta không thể nào tiếp xúc được các vẻ đẹp của thiên nhiên đồi núi, vẻ đẹp lúc mặt trời sắp ló dạng ở buổi ban mai, vẻ đẹp của bầy chim đang ríu rít bay nhảy trước sân nhà, vẻ đẹp hồn nhiên của lũ trẻ con đang nô đùa trong nắng sớm, v.v… cuộc sống vốn có rất nhiều cái hay, cái đẹp nhưng người biết cảm nhận và thừa hưởng thì quả thật quá hiếm hoi!


Vậy thì, chúng ta phải làm thế nào để đạt được tự do và hạnh phúc ngay trong cuộc đời này? Xin thưa, chính ý niệm “phải làm thế nào” lại là thái độ lăng xăng khẩn trương của bản ngã bày vẽ ra. Đơn giản, bạn chỉ cần thấy rõ các trạng thái xao động sinh diệt ấy thôi, không cần phải thêm thắt điều gì nữa cả, mọi hoạt động của thân tâm diễn ra như thế nào thì bạn nhận biết trọn vẹn y như thế đó. Hay nói cách khác, bạn sống tùy thuận theo dòng chảy của nhân duyên nghiệp quả mà không kháng cự, loại trừ, thêm bớt… thì ngay khi ấy bạn được tự do, tự tại.

Để từng bước vượt thoát mọi buộc ràng và thiết lập một lối sống thảnh thơi an lạc, không gì hơn bạn cần phải thân cận, học hỏi với các bậc minh sư phạm hạnh. Nhờ vào năng lượng vững chãi, bình an của vị thầy sẽ giúp cho bạn dần dần khai sáng tâm tư, và từ đó bạn phát huy được cái nhìn trong sáng, hồn nhiên và trung thực. Bởi lẽ, thảnh thơi an lạc hay ràng buộc khổ đau không hẳn là do hoàn cảnh từ bên ngoài tạo ra, mà nó tùy thuộc vào cách nhìn nhận ở nơi bạn và nơi tôi.

Viên Ngộ


Thanked by 2 Members:

#54 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 11/04/2014 - 21:47

NHỮNG THIẾU PHỤ CÔ ĐƠN

Khi người ta xét vấn đề hôn nhân theo quan điểm luân hồi và nhân quả, nghiệp duyên từ những kiếp quá khứ xa xôi, người ta không khỏi tự hỏi rằng tại sao lại có những người sống cô đơn không lập gia đình? Có nhiều phụ nữ, mặc dầu có một dung nhan khá đẹp và tính nết bình thường, nhưng cơ hội kết hôn dường như không bao giờ đến với họ!

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã giải thích vấn đề này như thế nào? Có một câu tục ngữ Pháp nói về vấn đề hôn nhân như sau:

“Hôn nhân ví như một thành trì bị bao vây, những người ở ngoài thì cố sức vào, còn những người ở trong thì muốn chạy ra!”

Câu này dường như đã nói lên một sự thật quá phũ phàng. Hôn nhân đã làm cho nhiều người đau khổ đến nỗi người ta phải ngạc nhiên mà thấy rằng vẫn còn rất nhiều kẻ khác muốn lọt vào vòng, không màng đến những đe dọa của nó đối với sự yên tĩnh của tâm hồn, và chỉ nhìn thấy những điều vui sướng mà nó hứa hẹn!

Mặc dầu người ta đã biết rằng hôn nhân có những sự khó khăn đau khổ như thế, nhưng những người độc thân nói chung thường cảm thấy rằng họ thiếu mất một cái gì quí báu, và cảm thấy đời sống khô khan, vô vị vì họ đã bỏ lỡ một cuộc đời!

Điều tất nhiên là trong tình trạng đó, yếu tố dục tình đóng một vai trò quan trọng. Sống độc thân, ít nhất là ở những xứ gọi là “văn minh”, có nghĩa là hoàn toàn tiết dục, hay ít nhất cũng là hạn chế hoạt động tình dục, dù đó là phụ nữ hay đàn ông.

Ở xã hội Tây phương ngày nay, việc sống độc thân, nhất là đối với phụ nữ, được xem là một sự “bất hạnh”. Những trường hợp kể ra dưới đây đều là những trường hợp của phụ nữ, vì trong các tập hồ sơ Cayce, phụ nữ tỏ ra băn khoăn thắc mắc về vấn đề này nhiều hơn đàn ông, và những trường hợp đau khổ của họ cũng bộc lộ rõ rệt hơn. Cô đơn! Có một cái gì tẻ lạnh ở trong danh từ này, một cái gì buồn thảm không thể nói ra cho xiết. Cũng vậy, khi một phụ nữ thốt ra câu “Tôi sống độc thân” thì có lẽ đó là câu nói buồn thảm nhất về hoàn cảnh hiện thời của cô ta.

Nếu không có một sự soi sáng tâm linh để giải đáp cho vấn đề này thì sự độc thân có lẽ là một trong những vấn đề khó khăn, tẻ lạnh nhất của đời người. Dưới đây là trường hợp của một người phụ nữ luôn cảm thấy khổ sở vì phải sống một cuộc đời quạnh hiu, đơn chiếc.

Cô là một người Na Uy rất đẹp và duyên dáng, làm thư ký ở New York. Cô đã trải qua hai đời chồng. Người chồng trước qua đời sau khi thành hôn một thời gian rất ngắn. Sau đó cô tái giá với một người khác lớn tuổi hơn cô nhiều, nhưng cuộc hôn nhân này lại không có hạnh phúc, và cuộc ly dị đã đến rất mau. Cô không có con, tất cả những người thân trong gia đình đều đã qua đời và cô chỉ còn trơ trọi có một mình. Công việc của một thư ký giúp cô có cơ hội tiếp xúc với nhiều người, nhưng đó chỉ là những giao tiếp bề ngoài. Cô ước mong tái giá lần nữa, nhưng dịp may mãi không thấy đến và cho đến nay cô vẫn sống cô đơn.

Khi yêu cầu ông Cayce soi kiếp, những câu hỏi của cô biểu lộ một tâm sự buồn thảm và đau thương:

– Tại sao tôi lại bị cô đơn tẻ lạnh như thế này? Có một lý do đặc biệt nào khiến tôi không thể tìm thấy một bạn tri kỷ trong hôn nhân? Tại sao tôi lại thất bại như thế này?

Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết rằng tình trạng cô độc này có một nguyên nhân rất sâu xa. Hai kiếp về trước ở Na Uy, cô đã làm một việc lầm lạc tai hại gây nên tình trạng bi đát hiện nay. Đó là cô đã tự tử trong một cơn thất chí! Trong kiếp đó, cô là mẹ của hai đứa con nhỏ và chồng cô vì một lý do nào đó đã bị trục xuất khỏi làng. Sau khi sinh đứa con thứ hai, cô quá thất vọng và nhảy xuống vực sâu tự tử. Ông Cayce nói:

– Bởi đó mà trong kiếp này cô phải chịu những lúc quạnh hiu, sầu thảm, hầu như không thể chịu nổi!

Quả báo trong trường hợp này thật là rõ rệt. Trong một lúc thất vọng, người đàn bà này đã tự tử, làm cho chồng con bị thiếu mất đi cái tình trìu mến săn sóc mà họ cần nơi người vợ và người mẹ. Cô đã không đếm xỉa đến bổn phận gia đình và trách nhiệm đối với chồng con, và bởi đó cô tạo nên cái hoàn cảnh bơ vơ lạc loài trong kiếp này.

Chỉ khi nào người ta bị thiếu thốn tình thương thì người ta mới biết quí trọng cái giá trị của nó. Đó là một trường hợp đáng cho ta suy gẫm.

Điều này cho thấy là mỗi người chúng ta đều phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình, kể cả việc tự mình chấm dứt sự sống của mình, vì điều đó gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho người khác. Mọi cử chỉ lãnh đạm, thản nhiên, thờ ơ hay khinh bạc, mọi sự lạm dụng và những hành vi trái đạo trong đời sống hằng ngày đều phải nhận chịu những quả báo tương ứng.

Trường hợp cô đơn dưới đây cũng gần giống như trường hợp trên, tuy rằng với những chi tiết khác hẳn. Đó là một phụ nữ người Anh dạy học ở một trường mẫu giáo và rất mong muốn lập gia đình. Cha mẹ đã qua đời từ khi cô còn nhỏ; cô được các bà dì nuôi nấng trong một bầu không khí lãnh đạm, khô khan và nghiêm khắc, kết quả là biến cô thành một con người không thể hòa hợp với những người đồng lứa tuổi. Suốt đời cô luôn cảm thấy cô độc đơn chiếc, cách biệt với mọi người, và những khuynh hướng của một tâm hồn khép chặt đã biểu lộ nơi cô.

Cô đã trải qua một cuộc tình duyên, nhưng đó chỉ là một sự hấp dẫn về thể chất, và mối tình này đã chấm dứt khi sự khác biệt về tâm tính với người yêu của cô ngày càng bộc lộ rõ rệt. Từ đó trở đi, cô cảm thấy cuộc đời dường như trống rỗng và vô vị. Cô làm việc sốt sắng và thành công về phương diện nghề nghiệp; thông minh lanh lợi và biết giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có những lúc cô đắm chìm trong một cơn thất vọng sầu thảm kéo dài nhiều tuần lễ và khó nguôi.

Trong những cơn khủng hoảng đó, cô thường nghĩ đến sự tự vẫn. Người ta không thể tưởng tượng rằng một người đàn bà vừa có nhan sắc vừa khôn ngoan lại có thể bị những cơn thất chí buồn bực sâu xa đến như thế!

Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong bốn kiếp về trước cô sống ở Ba Tư và đã tự tử khi những bộ lạc Ả Rập tấn công xứ này. Trong kiếp đó, cô là con gái của người tù trưởng trong xứ, và bị bắt làm tù binh của vị quốc vương Ả Rập, cùng lúc với nhiều người khác. Sau đó, cô bị đem gả làm hầu thiếp cho một viên phó tướng Ả Rập, sinh hạ một đứa con gái, và sau đó ít lâu vì thất chí nên tự vẫn. Đứa con gái nhỏ sống vất vưởng không người săn sóc giữa bọn tướng giặc, cho đến ngày kia có một vị giáo sĩ đi hành hương thấy vậy động lòng trắc ẩn và đem em bé ấy về nuôi cho đến khi trưởng thành.

Cuộc soi kiếp cho biết rằng người mẹ đã tự tử chỉ vì không thể chịu khuất phục theo ý muốn của người khác; và chỉ vì muốn thỏa mãn lòng tự kiêu của mình chứ không phải vì lý do tự vệ để bảo tồn trinh tiết, hay giữ gìn lý tưởng.

Cuộc soi kiếp không cho biết thêm chi tiết nào khác, nhưng người ta có thể hiểu rằng người đàn bà này có tâm địa kiêu căng, ngã mạn, tự tôn, và thà rằng cô tự hủy mình chớ không chịu bị đè nén, khuất phục, mặc dầu cô còn có một trách nhiệm với đứa con gái nhỏ mới sinh ra. Xét về tâm tính của cô trong kiếp này, nó biểu lộ dưới những cử chỉ tự do và hiên ngang như đàn ông, người ta sẽ hiểu rằng có lẽ thói tự kiêu của cô trong kiếp sống ở Ba Tư, chính là điều chướng ngại ngăn cách cô với phái nam trong kiếp sống hiện tại. Chính sự thiếu mềm dẻo, tế nhị, sự cứng cỏi ương ngạnh của cô làm cho những người đàn ông đều tránh xa và không muốn làm thân với cô.

Điều lạ lùng là trong kiếp này, cô luôn mong muốn có con. Nếu các bà dì của cô không ngăn cản thì có lẽ cô đã nuôi một đứa con nuôi từ lâu. Có một điều cô mang theo từ kiếp trước là cô thường nghĩ đến sự tự vẫn.

Từ khi có cuộc soi kiếp đưa đến những giải thích về tình trạng của cô, cô không còn nghĩ đến sự tự vẫn như một lối thoát nữa, vì hiểu rằng những gì mà cô muốn trốn tránh trong hiện tại sẽ trở lại với cô trong tương lai.

Tuy thế, trong một cuộc soi kiếp nữa, cô được cho biết rằng cô còn có thể hy vọng một cuộc hôn nhân trong kiếp này, nhưng vào lúc đã quá tuổi xuân; và trong khi chờ đợi, cô nên giúp đỡ bằng mọi cách những người mà cô tiếp xúc trong đời sống hằng ngày.

Khi được hỏi rằng còn bao lâu nữa cô mới có hạnh phúc đó thì ông Cayce trả lời rằng:

– Khi nào cô tỏ ra xứng đáng thì điều đó sẽ đến.

Khi cô hỏi:

– Tại sao trong khoảng năm năm qua tôi không gặp được một người đàn ông nào cả?

Thì câu trả lời là:

– Đó là sự thử thách tâm tính và mục đích sống của cô trong kiếp sống hiện tại.

Trên đây là hai trường hợp mà sự tự tử và bỏ con cái bơ vơ trong kiếp trước đã gây nên quả báo cô đơn tẻ lạnh và thất vọng trong sự mong ước thành lập gia đình trong kiếp này. Trong những tập hồ sơ Cayce, còn có một trường hợp thứ ba. Đó là của một nữ giáo sư âm nhạc ở tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Bà này cũng ở trong một tình trạng tương tự với những lý do giống nhau là đã tự tử trong kiếp truớc dưới thời kỳ quân chủ ở nước Pháp.

Tuy nhiên, người ta không thể căn cứ vào ba trường hợp để đi đến một kết luận chung về quả báo của những người bị sống trong cảnh cô đơn, độc chiếc, mà sự tự tử có lẽ là nguyên nhân gây ra trong kiếp trước. Ông Manly Hall, tác giả quyển “Luân hồi: sự tuần hoàn cần thiết của đời người”, nói rằng quả báo của sự tự vẫn là trong kiếp sau, đương sự sẽ bị chết vào lúc mà người ấy ham muốn sống và yêu đời nhất.

Trong các hồ sơ Cayce, không thấy có trường hợp nào xác nhận điều đó, dù rằng nghe ra thì có vẻ như rất hợp lý.

Tuy nhiên, sự cô đơn và không chồng trong kiếp hiện tại có thể có nhiều nguyên nhân khác. Thí dụ như trường hợp dưới đây cho ta thấy một lý do khác hẳn. Xét về trường hợp này, người ta nghĩ đến câu nói của ông Oscar Wilde:

– Trong đời chỉ có hai điều khổ, điều thứ nhất là muốn mà không được; và điều thứ hai là được như ý muốn!

Câu nói mâu thuẫn lạ kỳ này căn cứ trên sự kiện rằng con người vì bởi vô minh nên thường xét đoán sai lầm giá trị của cuộc đời. Trong kho tàng cổ tích có chuyện một bà tiên cho người kia được đưa ra ba điều ước nguyện và sẽ được như ý muốn. Câu chuyện ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng con người thường có những ước vọng dại dột điên rồ, và phải gánh chịu lấy hậu quả tai hại của sự dại dột ấy. Câu chuyện có một ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc về hai sự kiện này: Một là phần đông người đời không biết rõ họ muốn gì; và hai là sự đau khổ của con người là phần nhiều do những sự ước vọng sai lầm vì sự thiển cận và thiếu óc sáng suốt.

Trường hợp sau đây đã xảy ra từ thời kỳ ở châu Atlantide và đương sự hãy còn chịu quả báo ở kiếp này. Đó là một người đàn bà độ bốn mươi tuổi, có một thân hình nặng nề và thô kệch, nhưng điều này phần lớn là do bởi sự thiếu thể dục và sinh hoạt cẩu thả. Bà không bao giờ dùng đồ trang sức; quần áo cũng rất xuề xòa, không chạy theo thời trang. Bà chọn y phục theo tiêu chuẩn tiết kiệm hơn là để chưng diện và làm đẹp. Bà có nét mặt đều đặn và nếu được săn sóc ở mỹ viện thì cũng có thể trở thành một phụ nữ rất đẹp. Ngoài ra bà cũng có những cử chỉ duyên dáng, mặn mà, dễ thương. Trình độ văn hóa chỉ đến mức Tiểu học; bà làm việc trong các nhà máy và làm việc thủ công để nuôi thân.

Trong một cuộc trắc nghiệm tâm lý, bà có điểm cao nhất về mặt giao tế xã hội và tôn giáo, vì những thích thú lớn nhất của đời bà là đọc các sách Thánh Kinh tôn giáo và làm việc cứu tế xã hội dưới một hình thức nào đó. Tuy vậy, bà vẫn sống một cuộc đời cô độc, đơn chiếc. Những người trong gia đình không ai cùng chia sẻ những quan niệm của bà về tôn giáo. Trong đời bà, bà không hề biết có gì gọi là hương vị ái tình hay tình yêu lãng mạn.

Nói về quan điểm tâm lý, người đàn bà này thuộc về một trường hợp rõ rệt của sự “phản ứng nam tính” (protestation masculine), nghĩa là từ chối hay phủ nhận vai trò nữ tính của mình. Sự phản ứng này biểu lộ rõ rệt trong cái thái độ hiếu chiến và chống đối những gì thuộc về nữ tính của bà; thí dụ như việc không chịu trang điểm hay làm đẹp để hấp dẫn đàn ông. Khoa tâm lý học có thể đưa ra một giải thích về thái độ đó, nhưng sự giải thích này vẫn còn rất thiếu sót.

Cuộc soi kiếp bằng thần nhãn của ông Cayce đã đưa ra sự giải đáp cho vấn đề này. Trong một kiếp sống trước, bà là thân nhân của Thánh Jean Baptiste, và nhờ đó bà sinh trưởng trong một bầu không khí đạo đức thâm nghiêm. Điều đó cũng là cái nguyên nhân làm cho bà có khuynh hướng tín ngưỡng tôn giáo trong kiếp này. Trong tiền kiếp trước đó, bà sinh làm một người đàn ông ở xứ Palestine thời cổ, tại đây người này làm nghề thợ mộc và thợ đồng; điều này dường như đã để lại cho bà những quan niệm thực tế và những khả năng về máy móc trong kiếp hiện tại. Trong kiếp trước đó nữa, bà là một phụ nữ có địa vị cao ở châu Atlantide. Tại đây, một mối tình dang dở trong đời đã đem đến cho bà một sự xáo trộn tinh thần và nhiều đau khổ. Kết quả là bà “quyết định từ nay về sau sẽ không bao giờ yêu một người nào có thể làm cho bà bị thất vọng và gây cho bà những vết thương lòng”. Và đó là cái nguyên nhân làm cho bà quyết định sống tự do ngoài vòng trói buộc và đau khổ của tình trường.

Bởi đó, tình trạng độc thân và đơn chiếc của người phụ nữ này không phải là do quả báo gây ra. Trong trường hợp này không có sự liên hệ về nhân quả như trong những trường hợp tự tử đã kể trên, mà chỉ có sự ảnh hưởng của một dòng tâm thức liên tục, do sức mạnh ý chí của chính bà trong quá khứ. Ngày xưa, bà đã quyết định một thái độ là sẽ không bao giờ yêu ai, nhất là không để cho tình cảm lôi cuốn bà đến gần đàn ông. Bà có quyết định này, không phải do một điều ước nguyện tâm linh hay do lòng bác ái; mà là do ý muốn của bản ngã, quyết không bao giờ để cho bị ảnh hưởng bởi tình yêu dành cho kẻ khác. Trong nhiều giai đoạn của các kiếp sống theo sau đó, bà không bao giờ tìm thấy có lý do nào để thay đổi thái độ đó. Và ngày nay, bà phải chịu những hậu quả tương ứng của cái quyết định đó, cho đến khi nào bà có thể thay đổi ý định và có thái độ xử thế khác hơn về vấn đề này.

Cuộc soi kiếp không cho biết rõ rằng bà có hy vọng thành hôn hay không trong kiếp này. Nhưng ít nhất, bà đã cố gắng để có thể đem sự săn sóc và tình thương cho kẻ khác. Vì thiếu tình yêu, bà mới nhận thấy cái giá trị của nó. Trong sự cô đơn, bà đã thấy sự chai lòng, sắt đá của mình xưa kia là một điều sai lầm cần phải sửa đổi.

Nhà tâm lý học Carl Jung nói rằng mỗi người đều có đủ hai phần nam tính và nữ tính trong bản chất của mình, nhưng cái nọ có phần trội hơn cái kia, tùy theo trường hợp riêng của mỗi người. Tâm thức con người hàm chứa những khả năng tiềm tàng chưa khai mở thuộc về đối tượng khác phái. Sự kiện tâm lý này ông Carl Jung đã khám phá sau nhiều năm khảo cứu tìm tòi, và tỏ ra hoàn toàn phù hợp với quan niệm trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce về nguyên nhân và sự tiến hóa tâm lý của con người.

Nam và nữ đều có những đặc tính riêng; đại khái như uy lực, cương cường, tranh đấu, hung bạo, thuộc về nam tính; sự hiền từ, dịu dàng, mềm mỏng, thụ động, thuộc về nữ tính. Người thuần nam tính là một người rất thiếu sót và bất toàn. Bởi đó, anh ta cần được bổ khuyết bằng những đức tính thuộc về phái nữ. Trong hôn nhân, hai cá tính nam và nữ đều hỗ trợ cho nhau đến một mức độ nào đó, do sự kết hợp của những đức tính tương phản nhau.

Trong một cặp vợ chồng, mỗi người đều có sự dung hòa, bổ khuyết, sửa đổi cho người kia. Nhưng sự sửa đổi này vẫn còn bất toàn. Trong một kiếp sống ở thế gian, một người trội hơn về phần nam tính không đủ dung hòa bằng những đặc điểm nữ tính của người vợ anh ta, và ngược lại. Nhưng nhiều kiếp sống liên tục sẽ làm cho đàn ông và đàn bà có những kinh nghiệm dung hòa lẫn nhau. Một lần nữa, thuyết luân hồi đưa đến cho ta một giải đáp về các vấn đề khó khăn là chính do nhiều kiếp luân hồi mà con người mới có thể phát triển tâm linh một cách hoàn toàn.

Bất luận rằng những nguyên nhân của sự cô đơn hiu quạnh là như thế nào, dầu cho đó là sự tự vẫn, sự quyết định không yêu ai, hay một lý do nào khác, người ta cũng phải nhìn nhận rằng tình trạng độc thân và cảm giác cô độc có thể xem là một cơ hội để tu dưỡng về phần nội tâm. Vì muốn có bạn, ta phải tỏ ra sự thiện chí và tình thân hữu; vì muốn được yêu thương, ta phải biết dành tình thương cho người khác. Bằng cách trau dồi tình thương và lòng bác ái để đáp ứng được nguyện vọng của mình, những kẻ cô đơn hiu quạnh có ngày cũng sẽ thoát được ra khỏi tình trạng buồn chán trong hiện tại và đạt được hạnh phúc của tình yêu.
(st)

        


Thanked by 2 Members:

#55 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 26/04/2014 - 19:00

 

ĐÔI ĐŨA

Dù tự ái dân tộc có nở lớn đến thế nào đi chăng nữa, tôi cũng chẳng thể nói đũa là thứ quốc hồn quốc túy của đất nước ta. Chung quanh chúng ta, người Hoa, người Nhật, người Cao Ly... cũng dùng đũa. Nhưng đi vào nếp sống văn hóa của dân Việt Nam thì đũa có lẽ là một vị khách quý. Vơ đũa cả nắm. Ðũa mốc đòi chòi mâm son. Những câu tục ngữ đã "nâng cấp" cho đôi đũa lên hàng ẩn dụ tinh thần. Tôi vừa nhặt được trong cuốn tiểu thuyết Phố của nhà văn Chu Lai một từ Hà Nội: Bánh mì đũa cả.

 Ðời sống tình cảm của người dân Việt trong ca dao cũng dính vào đôi đũa khá nhiều.  

Tôi đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào
Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho vừa.  
Ðũa lệch thì nản chết. Nó gợi lên một sự so le thảm thương. Lệch nhau cũng hình dung bằng đôi đũa, bằng nhau khít khao cũng đũa một đôi.  

Ðôi ta như đũa trong kho

Không tề, không tiện, không so cũng bằng. 

Ðũa mốc không được nằm trên mâm son. Trèo cao quá coi không được mắt.. Phải ngang hàng với nhau, xứng hợp với nhau, con mắt mới vừa. 

Ðôi ta là bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trên mâm vàng
Bởi chưng thày mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau. 
Vui cũng đũa, buồn cũng đũa, trách móc cũng đũa. Ðũa dính vào cái ăn nên đũa cũng nằm dềnh dang trong đầu. Cứ nghĩ tới đôi tới cặp, người Việt chúng ta nghĩ ngay đến đũa. Nghĩ tới nữa, bàn tay cầm đũa còn mách bảo tính tình, tư cách của người cầm đũa. Có những ngón tay khéo léo tháp vào đôi đũa như ngàn đời ăn ý với nhau đẹp thùy mị như một bức tranh, có những ngón tay xuôi nhịp nhàng theo đũa chân thật như canh với cà. Nhưng cũng có những ngón tay cứng cáp dằn vặt như đanh đá hành hạ đôi đũa, có những ngón tay vụng về e dè xoay xoay lưỡng lự như ngượng nghịu với đũa. Và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên đã vẽ ra đôi tay bối rối tập tành biết yêu như tập tành cầm đũa.

tình mới lớn, phải không em, rất mỏng?
cách tập tành nào cũng dễ hư hao
thuở đầu đời cầm đũa thấp cao
và nâng chén, dĩ nhiên, đổ vỡ
 
Chúng ta sinh ra hình như đã biết cầm đũa. Không biết thì... đói. Chúng ta cầm đũa tự nhiên, như thở. Nhưng, trong tiệm ăn, thấy tây đầm cầm đũa hẩy hẩy thức ăn lên miệng mới biết cầm đũa chẳng phải là chuyện dễ. Huống chi cầm đũa cho đẹp, cho quý phái, cho ra dòng ra giống. Nhưng cái lọng cọng của đôi đũa trong những bàn tay chuối mắn của tây đầm cộng với những đôi mắt xanh ánh lên nét hào hứng như đang tham dự vào một trò chơi thích thú thấy cũng có nét dễ thương. Cái dễ thương mà chúng ta cảm thấy một cách kẻ cả, như một đấu thủ thuộc hạng chuyên nghiệp nhìn xuống một đấu thủ mới tập tễnh ra lò. Nó như một thứ... tự hào dân tộc!


MẸ, CON GÁI VÀ ÐÔI ÐŨA

Thuở còn thơ bé, những ai từng được bà, được mẹ kể cho nghe câu truyện cổ tích "Cây tre trăm đốt" hẳn đều thương anh Khoai thật thà, chăm chỉ bị lão phú ông thách cưới bằng việc vào rừng tìm về cây tre trăm đốt. Cây tre ấy sẽ dùng để vót đũa cho đám cưới anh Khoai với con gái phú ông. Những đôi đũa cưới có thể đem lại niềm hạnh phúc mà cũng có thể làm mất đi giấc mơ đẹp nhất cuộc đời anh. Ông Bụt tốt bụng thương người hiền lành đã giúp anh Khoai biến giấc mơ đó thành sự thật với câu thần chú "khắc nhập, khắc xuất" diệu kỳ. Tôi vẫn tưởng tượng trong ngày đám cưới anh Khoai, những đôi đũa vót từ cây tre trăm đốt sẽ được đặt trang trọng trên mỗi mâm cơm, là minh chứng cho hạnh phúc của chàng trai nghèo khó ấy.  

Không phải ngẫu nhiên mà đôi đũa thường được dân gian ví với hình ảnh đôi vợ chồng. Hai chiếc đũa luôn đi liền với nhau thì mới làm được điều có ích, cũng như hai vợ chồng khi đồng tâm cộng lực thì có thể cùng nhau tát cạn cả biển Ðông. Người con gái bị mẹ ép gả vào nơi không tương xứng, phải lấy người mình không yêu thương đã thốt lên lời than cay đắng:  

"Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng"  
Chuyện vợ chồng trăm năm quan trọng là thế, vậy mà có khi dân gian đánh giá không bằng chuyện một đôi đũa: "Vợ dại không hại bằng đũa vênh". Thế mới biết người dân mình cẩn trọng trong việc lựa chọn những chiếc đũa sao cho tương xứng với nhau. Rất nhiều những lời khuyên bổ ích khác được xây dựng bởi hình tượng đôi đũa như: "So bó đũa chọn cột cờ", "Vơ đũa cả nắm", "Ðũa mốc lại chòi mâm son"…  

Bài học đầu tiên tôi được học khi ngồi trong mâm cơm là bài học về đôi đũa. Phải cầm đũa sao cho đúng, gắp được thức ăn mà không làm rơi **** lung tung. Ngày đầu tiên được cầm đôi đũa là một ngày khá trọng đại với một đứa bé "thích làm người lớn" bởi chỉ người lớn mới đủ khéo léo để điều khiển đôi đũa thật nhanh nhẹn, nhịp nhàng. Bố tôi cầm đũa tay trái nên thường ngồi đầu nồi hoặc ngồi cách xa người bên cạnh để hai bên không chạm vào nhau. Những đôi đũa không chỉ có một loại mà bao gồm đũa để ăn cơm, đôi đũa dài cho mẹ nấu nướng, đôi đũa cả dùng để xới cơm. Ngày nay khi nhà nhà đều dùng nồi cơm điện có lẽ nhiều đứa trẻ lớn lên mà không biết về những đôi đũa cả đã từng tồn tại. Như khi xưa tôi được mẹ dặn rất kỹ rằng trước khi xới cơm thì nhúng đũa sơ qua vào nước cho khỏi dính. Xới cơm xong dùng chiếc nọ gạt cơm khỏi chiếc kia chứ không được gõ vào nhau thành tiếng bởi âm thanh ấy là dấu hiệu gọi ma đến nhà. Ðũa ăn cơm không được cắm thẳng lên trên bát bởi người ta chỉ làm thế trong đám ma. Ðứa trẻ con khi ấy là tôi nghe nói đến ma chay là khiếp vía, chẳng bao giờ dám không làm theo lời mẹ.  

 Rồi nhà tôi cũng chuyển sang dùng nồi cơm điện. Ngày gói đôi đũa cả bóng loáng nước tre, mòn vẹt cả một đầu cất vào góc sâu nhất trong chạn bát, tôi thấy trong mắt mẹ thoáng chút ưu tư. Ngày bố mẹ ra ở riêng trong gian tập thể bé xíu của cơ quan bố, hành trang hai người chỉ có một valy quần áo. Trong đó đựng luôn cả chục bát ăn cơm, chục đôi đũa con và một đôi đũa cả. Mười một đôi đũa ấy chính tay bà ngoại đã vót cho mẹ mang theo để mỗi bữa ăn còn lưu lại chút hình ảnh của quê hương. Hơn chục năm trời mẹ ngồi đầu nồi xới cơm cho cả gia đình rồi hướng dẫn các con cách xới cơm sao cho đúng mực, đôi đũa cả đầu tiên bà ngoại cho đã không còn. Nhưng đôi đũa nào cũng in dấu bàn tay mẹ, cũng là chứng nhân cho những bữa cơm gia đình đầm ấm, rộn vang tiếng chuyện trò, cười nói của các con. Cất đi một đôi đũa là gói lại trong lòng bao nhiêu kỷ niệm. Mẹ đã từng nhắc bố không bao giờ được dùng đũa cả để răn đe các con giống như nhiều gia đình khác vẫn làm. Khi con mới lớn lên, biết chơi chuyền, chơi chắt, con len lén về lấy trộm chục đũa của mẹ làm chuyền. Biết được mẹ không hề la mắng, chỉ dặn con rằng không được dùng đũa ăn cơm để nghịch bởi đôi đũa gắn với miếng ăn trong miệng, phải trân trọng giữ gìn. Vậy mà cũng chính bàn tay mẹ đã vót cho con đôi que đan đầu tiên trong đời bằng một đôi đũa mới bởi giữa thành phố thật khó tìm được đốt tre ưng ý, mà con thì sốt ruột, muốn học rồi phải được đan ngay bằng chính que đan của mình…

Nhớ những ngày hè về thăm ông nội, tôi vẫn thường ngồi xem ông vót đũa, bàn tay ông nhanh thoăn thoắt thật tài tình. Vừa vót đũa ông vừa kể chuyện ngày xửa ngày xưa mà không hề làm sai một chút. Bây giờ mỗi lần đi siêu thị, mắt hoa lên với hàng chục loại đũa không chỉ từ tre mà còn làm bằng nhựa, bằng i-nốc, bằng gỗ mun, gỗ kim giao, gỗ dừa…, không chỉ đũa Việt Nam mà còn nhập về từ các nước, tất cả đều làm bằng máy, thẳng đều tăm tắp , tôi lại nhớ về những đôi đũa mộc mạc của ông bà năm xưa. Ngày ông mất, bác cả tự tay vót đũa cắm trên bát cơm quả trứng đặt lên quan tài cho ông. Nhớ về ký ức đau buồn ấy, tôi vẫn thấy hiện lên chùm nan tre loăn xoăn của đôi đũa thấp thoáng trước tấm ảnh ông hiền hậu như đang muốn mỉm cười. Ðôi đũa gắn bó với con người khi còn sống và cũng theo con người đi về nơi an nghỉ cuối cùng.  

Rồi mai đây trở thành người mẹ, trong bữa cơm đầu tiên con được dùng đôi đũa, tôi sẽ kể với con rằng: Con có biết xung quanh đôi đũa là bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu nét đặc trưng của văn hoá Việt Nam ta?...


BÀI THƠ ÐÔI ÐŨA


Ðọc bài thơ em viết cho anh
Kể chi li em nói về đôi dép
Là vật dụng song hành thật đẹp
Anh liên tưỏng về: "Ðôi đũa" chẳng kém chi.
 
Ðôi đũa kia trông có vẻ nhu mì
Nhưng quấn quýt bên nhau, sao mà chặt thế
Dao, rĩa, môi, thìa cũng đành vị nể
Thoăn thoắt, nhịp nhàng, không thể rời mâm.
 
Sánh gắp bên nhau đôi lúc cũng âm thầm
Ðể hưởng thụ nhâm nhi cùng chén rượu
Rơi một chiếc coi như là bất hiếu
Số phận chiếc còn đành lặng lẽ nằm im.
 
Tiệc muốn ngon lại phải kiếm tìm
Một chiếc khác để giúp mình gắp tiếp
Hai chiếc cạnh nhau, luôn là thông điệp
Gánh vác hết mình cho đến lúc tàn mâm.
 
Với như ta, đôi lúc cũng còn nhầm
Chọn chồng thấp, vợ cao là khập khễnh
Khi đôi đũa kia, không bằng mà lệch
Chắc chắn đau lòng người dự tiệc khi ăn.
 
Ðôi đũa vô tri: tre, gỗ khô cằn
Nhưng khăng khít bên nhau không ganh tị
Hai chiếc đũa cùng nhau chung một ý
Bữa ăn nào cũng phải có mặt cả đôi.
 
Cùng với nhau theo ta trọn cuộc đời
Dẫu bằng: gỗ, tre, ngà,...hay bằng nhựa
Nhưng vẫn bên nhau cùng giữ gìn lời hứa
Gắn bó cả đời suốt bữa tiệc cùng mâm.
 
Hai chiếc đũa bên nhau có vẻ âm thầm
Sẽ ngừng gắp khi mất đi một chiếc
Chỉ còn một là mất đi bữa tiệc
"Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia".
 

ĐŨA CẢ

Thưa dần những bụi tre làng rì rào trong nắng gió, theo đó thói quen dùng đũa cả xới cơm cũng không còn nhiều nếu không muốn nói là đang mất hẳn trong mỗi gia đình Việt, dù ở thành thị hay nông thôn.

Người Việt thường có thói quen tự tay “sáng chế” ra các vật dụng đơn giản trong gia đình bằng những nguyên liệu quen thuộc. Cũng giống như cái cuốc, xẻng… có cán được tạo nên nhờ gỗ của những thân cây quanh vườn, đôi đũa cả - vật dụng không thể thiếu trong bữa cơm gia đình người Việt được vót từ thân tre mộc mạc.

Thời nay, con người được hưởng nền công nghệ tiên tiến với sự ra đời ồ ạt của các vật dụng hiện đại và vô cùng tiện ích trong gia đình. Những vật dụng đó làm giảm tải đi phần nào khó khăn mà con người gặp phải do quỹ thời gian chật hẹp. Và, nét đẹp trong bữa cơm hàng ngày của người dân Việt cũng vì thế mà không còn giữ nguyên vẹn. Bây giờ, người ta nấu nồi cơm điện nên không còn dùng đến đôi đũa cả để xới cơm nữa. Thay vào đó, người ta dùng môi nhựa để. Cơm nấu nồi điện, bốc khói nghi ngút và kêu một tiếng “tách” để báo chín. Chỉ chờ có thế, người ta lấy luôn ra ăn. Có nhà lấy môi đánh tơi cơm rồi múc vào bát cho mọi người, nhà thì không đánh tơi mà xấn luôn một khối, vừa môi cơm và xúc vào bát. Thế nên những người có tuổi, từng một thời gắn liền với đôi đũa cả, thường nuối tiếc về hình ảnh bếp than hồng, nồi gang nấu cơm dẻo thơm cùng với chiếc đũa cả thô mộc.
 
Tre được chọn làm đũa cả thường phải là tre già, nếu làm bằng tre non thì đũa cả sẽ không để được lâu và dễ bị mọt. Những người phụ nữ khéo tay sẽ vót được đôi đũa cả đều tăm tắp, bằng nhau về kích thước và trông thật trơn tru.

Người ta dùng đũa cả để đảo khi cơm sôi, để ghế cơm và để xới cơm nữa… Vật dụng quen thuộc, nhỏ bé, mộc mạc là thế nhưng chứa đựng trong nó không ít những triết lí sâu sắc về lễ nghi gia đình, về nếp nhà của mỗi người. Chả thế mà quan sát cách xới cơm cho các thành viên trong gia đình của các bà, các chị là thấy ngay được nề nếp, trật tự, sự lễ phép của con cái đối với bố me, ông bà, của vợ đối với chồng…
Mùi mộc của tre quyện trong hương lúa mới thấy nao cả lòng. Chợt ước ao được một lần trở lại bên mâm cơm ngày xa xưa, cả nhà quây quần thật ấm cúng, giơ đôi bàn tay lũn chũn đón lấy bát cơm được xới từ cây đũa cả mẹ vót trong chiều đông. Cũng giống chiều đông ấy, nhưng hôm nay có bóng chiều hanh vàng hắt chút nắng nhẹ đầu Xuân trên những khóm hoa – như một sự tiếc nuối của thời gian về những gì đã qua đi…

 Theo Món ngon Hà Nội

 


Thanked by 2 Members:

#56 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 07/05/2014 - 19:53

Vu Lan, Nghĩ Về Mẹ và Quê Hương

Một danh ngôn mà chúng ta thường nghe “thế giới có rất nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt vời và vĩ đại nhất vẫn là trái tim người mẹ” Thật vậy, bao nhiêu thơ viết về mẹ cũng không đủ, bao nhiêu nhạc hát về mẹ cũng không vừa. Biển Thái Bình bao la, nước sông Hằng cuồn cuộn nhưng không sao có thể so sánh được với tấm lòng của mẹ. Bản nhạc nào viết về mẹ cũng hay, bài thơ nào viết về mẹ cũng cảm động bởi vì ngôn ngữ dành cho mẹ là ngôn ngữ của trái tim.

Mẹ là biểu tượng trọn vẹn và tuyết đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu có một người để chúng ta có thể san sẻ những điều thầm kín, riêng tư nhất, thì người đó phải là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho chúng ta dù phạm phải bất cứ một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người mẹ. Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ý nghĩ đầu tiên của một ngày, thay vì để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là để nghĩ về mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn dò của mẹ hay thậm chí chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an lành và hạnh phúc.

Mẹ là người mang ta đến cuộc đời, và cũng là nơi ta trở về. Người đàn bà chân mang đôi dép ngược, khoát chiếc mền rách, như trong một câu chuyện thiền mà chúng ta có thể đã từng nghe kể, dù bao mùa mưa nắng vẫn không than van, không oán trách, vẫn chờ đơi ngày về của đứa con mãi mê trên đường đi tìm chân lý. Nếu chân lý mà chàng trai trẻ kia đi tìm là tình thương và sự thật thì chân lý sẽ không ở đâu xa mà trái lại vô cùng gần gủi. Trong tấm thân gầy yếu nhỏ nhoi của người mẹ chứa đựng cả một đại dương của hy vọng, tình yêu, sự thật và lòng vị tha sâu thẳm.

Hơn mười năm trước, tôi có viết một bài thơ về mẹ, trong đó có hai câu đã trở thành quen thuộc:

Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi. Tôi viết rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều. Những dòng chữ, những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp ủ trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để tuôn ra. Tôi không làm thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở bên tai mình. Nguyên văn bài thơ như thế này:

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương

Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

Bài thơ đơn giản và dể hiểu, không có gì phải cần bình giải. Tất cả chỉ để nói lên tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá xa cành, mười năm chưa về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã ngoài 60 tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống 8 năm.

Nhớ lại đêm cuối cùng ở Sài Gòn, tôi đón xe xích-lô từ cửa sông về chào mẹ. Trời mưa lớn. Nhưng khi gặp mẹ, với tâm trí ngàn ngập những lo âu, hồi hộp cho chuyến đi, tôi không kịp nói một câu cho trọn vẹn ngoài ba tiếng “con đi nghe”. Và như thế tôi đi, đi không ngoảnh lại, đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ của chúng tôi được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào khuya ngày 13 tháng 6 năm 1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn về phía Nam, tôi biết quê hương và mẹ đã ngoài tầm tay vói của mình. Đời tôi từ nay sẽ như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào hay cơ hội nào trở về nguồn cội.

Nếu có một quốc gia mà những người dân của quốc gia đó đã phải từ chối chính đất nước mình, từ chối nơi đã chôn nhau cắt rốn của mình, tôi nghĩ, đất nước đó không còn bao nhiêu hy vọng. Việt Nam sau 1975 là một đất nước sống trong tuyệt vọng như thế. Dân tộc Việt Nam những năm sau 1975 là một dân tộc sống trong tâm trạng những kẻ sắp ra đi. Sài Gòn giống như một sân ga. Chào nhau như chào nhau lần cuối và mỗi ngày là một cuộc chia ly. Bắt tay một người quen, ai cũng muốn giữ lâu hơn một chút vì biết có còn dịp bắt tay nhau lần nữa hay không. Gặp người thân nào cũng chỉ để hỏi “Bao giờ anh đi, bao giờ chị đi”, và lời chúc nhau quen thuộc nhất mà chúng thường nghe trong những ngày đó vẫn là “Lên đường bình an nhé.”

Đất nước tuy đã hòa bình rồi, quê hương đã không còn tiếng súng nhưng lòng người còn ly tán hơn cả trong thời chiến tranh. Đêm cuối ở Sài Gòn lòng tôi ngổn ngang khi nghĩ đến ngày mai. Ngày mai sẽ ra sao? Nếu bị bắt tôi sẽ ở tù như lần trước nhưng nếu đi được thì sẽ trôi dạt về đâu?

Suốt sáu năm ở lại Sài Gòn, tôi chỉ nghĩ đến việc duy nhất là ra đi. Khi chiếc ghe nhỏ bị mắc cạn trong một con lạch ở Hải Sơn buổi sáng ngày 11 tháng 6 năm 1981, trời đã sáng, nhiều người, kể cả một trong hai người chủ ghe, cũng bỏ ra về, nhưng tôi thì không. Tôi phải đi dù đi giữa ban ngày. Tôi phải tìm cho được tự do dù phải bị bắt và ngay cả phải trả giá bằng cái chết. Tự do đầu tiên, biết đâu cũng sẽ là cuối cùng và vĩnh viễn. Nhưng hai ngày sau, khi đứng trên boong tàu Mỹ, tôi biết mình vừa mất một cái gì còn lớn hơn ngay cả mạng sống của mình. Đó là đất nước, quê hương, bè bạn, con đường, tà áo, cơn mưa chiều, cơn nắng sớm, và trên tất cả, hình ảnh mẹ. Không phải những người ra đi là những người quên đất nước hay người ở lại bám lấy quê hương mới chính là người yêu nước. Không. Càng đi xa, càng nhớ thương đất nước, càng thấm thía được ý nghĩa của hai chữ quê hương. Không ai hiểu được tâm trạng người ra đi nếu không chính mình là kẻ ra đi.

Nói như thế không có nghĩa là tôi hối hận cho việc ra đi. Không, tôi phải đi. Nhưng chọn lựa nào mà chẳng kèm theo những hy sinh đau đớn. Bài hát Sài Gòn Vĩnh Biệt, tôi thỉnh thoảng nghe trên đài VOA khi còn ở Việt Nam như những mũi kim đâm sâu vào tâm thức. Bao nhiêu điều hai ngày trước tôi không hề nghĩ đến đã bừng bừng sống dậy. Bao nhiêu kỷ niệm tưởng đã chìm sâu trong ký ức đã lần lượt trở về. Tự do, vâng, tôi cuối cùng đã tìm được tự do nhưng đó chỉ là tự do cho chính bản thân mình. Những gì tôi đánh mất còn lớn hơn thế nữa.

Nhớ lại đêm thứ hai trên biển, khi biết chiếc ghe chiều dài vỏn vẹn mười mét rưỡi nhưng chứa đến 82 người của chúng tôi vừa cặp vào thành tàu chiến của Mỹ thay vì Ba-Lan hay Liên-Xô như mọi người trên ghe lo sợ, ai cũng hân hoan mừng rỡ. Đám bạn tôi, có đứa thậm chí còn hô lớn “USA, USA” và ôm chầm lấy những người lính hải quân Mỹ đang dang tay đỡ từng người bước lên khỏi chiếc cầu dây đang đong đưa trên sóng. Tôi cũng vui mừng, biết ơn và cảm động nhưng không ôm chầm hay hô lớn. Lòng tôi, trái lại, chợt dâng lên niềm tủi thẹn của một người tỵ nạn. Chiếc cầu dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm, trở thành chiếc cầu biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc tài và tự do, của quá khứ và tương lai, mà còn giữa có quê hương và thiếu quê hương. Tôi nghĩ thầm, cuối cùng, tôi cũng như nhiều người Việt Nam khác, lần lượt bỏ đất nước ra đi mà thôi. Dù biện minh bằng bất cứ lý do gì, tôi cũng là người có lỗi với quê hương.

Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.

Trong tâm trí tôi, hình ảnh bà mẹ Hòa Hưng, đêm đầu tiên trong căn nhà không vách trên vùng Kinh Tế Mới, khoảng 20 cây số phía Nam thị trấn Đồng Xoài vào năm 1976. Cánh rừng vừa được khai hoang vội vã này không ai nghĩ một ngày sẽ được gọi bằng một cái tên rất đẹp, khu Kinh Tế Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi chiều chỉ hơn mười mét do những bàn tay học trò của thanh niên xung phong dựng lên, nối nhau chạy dọc theo cánh rừng hoang.

Tôi kính yêu me. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này.

Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy Xuyên. Đêm đêm nằm nghe cha kể chuyện thời trai trẻ buồn nhiều hơn vui của đời ông. Những ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày sống trong túp lều tranh dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng đó, cha mẹ tôi đã gặp nhau, đã chia nhau ly nước vối chua chua thay cho chén rượu tân hôn nồng thắm. Dù sao, bên khung cửi vải, bên lò ươm tơ, họ đã cùng nhau dệt một ngày mai đầy hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia rặng tre già, mặt trăng rồi sẽ tròn bên kia giòng sông Thu, những ngày chiến tranh, tản cư cực khổ sẽ qua đi nhường bước cho hòa bình sẽ đến.

Nhưng rồi chiến tranh như một định nghiệp, đeo đuổi theo số phận của đất nước chúng ta, đeo đuổi theo số phận của đời tôi. Năm tôi 13 tuổi, chiến tranh đã cướp đi cha tôi, người thân yêu cuối cùng của tôi. Chiến tranh lan tràn đến làng Mã Châu, đẩy tôi ra khỏi xóm lụa vàng thân quen để làm người du mục trên quê hương đổ nát của mình. Từ đó tôi ra đi. Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp trong con hẻm 220 Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Hòa Hưng, trại tỵ nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng đầu tiên trong hành trình tỵ nạn của tôi hàng vạn dặm.

Hình ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre già ở làng Mã Châu. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ mẹ. Nhổ những bụi cỏ hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Tôi ưu tư về cuộc đời và về thân phận của mình ngay từ thuở chỉ vừa năm, bảy tuổi. Tại sao tôi chỉ có một mình? Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ tôi đi? Nếu mai mốt ba tôi cũng đi thì tôi sẽ sống với ai? Lớn lên tôi sẽ làm gì? Tại sao đất nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên kia sông là ai? Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của mẹ, tôi để lòng tuôn chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích tụ. Từ khi năm bảy tuổi tôi đã linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những ngày đầy biến cố. Tôi đã nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ đi xa khỏi rặng tre già, khỏi ngôi làng tơ lụa Mã Châu dường như thôn làng nhỏ bé này sẽ không đủ lớn để chứa hết những buồn đau, u uất của tôi. Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những cánh diều bay, với những con bướm vàng thơ mộng thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ tôi là một chuổi ngày ưu tư và chờ đợi một điều gì sắp đến.

Mẹ tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có ngay cả một tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo, tôi giống cha nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại càng không thể tìm đâu ra được một nét nào của mẹ trong những người thân còn sống. Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối. Khi nhìn ánh trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn mặt dịu dàng của mẹ, nhìn nước chảy ra từ dòng suối mát tôi nghĩ đến dòng sữa mẹ, nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nhìn những vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ. Nói chung, hình ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được tôi nhân cách hóa nên hình ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không những tuyệt vời mà còn tuyệt đối.

Tôi về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm 1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ đầy cỏ mọc hoang vu. Sau 1975, ngay cả người sống cũng không ai chăm nom đừng nói gì chuyện chăm nom cho người đã chết. Hôm đó, tôi ngồi nơi tôi đã từng ngồi trong thời thơ ấu và kể cho mẹ nghe đoạn đời chìm nổi của mình. Tôi nói với mẹ rằng tôi sẽ ra đi khỏi nước và hứa sẽ về dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn mẹ mà thôi. Tôi cầu mong mẹ phò hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được bình an trong những ngày sóng gió sắp xảy ra.

Ôi đời mẹ như một vầng trăng khuyết
Vẫn nghìn năm le lói ở đầu sông.

Vâng, vầng trăng bên dòng sông Thu Bồn từ đó không còn tròn như trước nữa.

Ai cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai. Vết thương nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi bất hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc Việt Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều hơn cả, không phải vì tôi mất mẹ, không phải vì tôi xa mẹ nhưng chính là sự chịu đựng của hàng triệu bà mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang đến cả hòa bình.

Trên thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ý cũng thương con như một bà mẹ Việt Nam. Trong lúc tình yêu của một bà mẹ ở quốc gia nào cũng bao la, cũng rộng lượng, cũng vô bờ bến, tôi vẫn tin một bà mẹ Việt Nam thì khác hơn nhiều. Bà mẹ Việt Nam, ngoài là biểu tượng cho tất cả những nét đẹp của quê hương, đất nước, tình thương, còn là những hình ảnh đầy thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan, khổ cực không thể nào đo lường hết được. Hình ảnh bà mẹ giăng tấm vải dầu trên một góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang đói khát. Hình ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của mẹ đi lạc nhiều tuần trên biển. Hình ảnh bà mẹ chết trong mỏi mòn tuyệt vọng dưới gốc me già trên góc phố Sài Gòn vào một ngày mưa bão. Hình ảnh bà mẹ chết cô đơn trong chiếc thuyền chài nghèo nàn. Tất cả hình ảnh đau thương đó đã trở thành mối ám ảnh thường xuyên trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều đến nổi, dù viết về bất cứ chủ đề gì, thể loại gì, văn hay thơ, cuối cùng tôi cũng trở về với hình ảnh mẹ. Mỗi bước chân tôi đi trên đường đời mấy chục năm qua vẫn còn nghe vọng lại tiếng khóc của những người phụ nữ Việt Nam bất hạnh, đã khóc trong chiến tranh, khóc trong hòa bình, khóc trong bàn tay hải tặc giữa biển Đông và khóc trên xứ người hiu quạnh.

Mơ ước lớn nhất của tôi, vì thế, không phải cho tôi mà cho những người mẹ đang chịu đựng, để các mẹ có cơ hội được sống trong một đất nước không còn hận thù, rẻ chia, ganh ghét, một đất nước chan chứa tình đồng bào, một đất nước thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc. “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” trong một ý nghĩa rộng hơn là ước mơ của tôi, của anh chị, của cô chú và của tất cả những ai còn nghĩ đến sinh mệnh của dân tộc, về một ngày đẹp trời cho đất nước mình. Quá nhiều máu và nước mắt đã đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ Việt Nam. Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hãy trở về với mẹ như trở về với chính cội nguồn uyên nguyên của dân tộc mình. Trong đêm rằm tháng Bảy này, xin hãy cùng nhau thắp lên những ngọn nến, dù nhỏ, dù đơn sơ nhưng được làm bằng chất liệu dân tộc, nhân bản và khai phóng đã được tổ tiên chúng ta hun đúc sau hơn bốn ngàn năm lịch sử.

Đời tôi là những cơn mưa dài. Mưa khi tôi rời làng Mã Châu, mưa trong đêm đầu tiên trong căn gác trên đường Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới gốc đa già ở Chùa Viên Giác, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra đi. Nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là hố thẳm. Tôi không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng đường mới của đời mình. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những khắc nghiệt đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa hoàn cảnh của chính mình.

Trong cuộc đời này, tôi đã nhiều lần vấp ngã nhưng nhiều người cũng đã giúp vực tôi dậy, lau khô những vết thương trên thân thể và trong cả tâm hồn. Tôi mang ơn xã hội nhiều đến nỗi biết mình sẽ không bao giờ trả hết. Tôi biết ơn những người đã che chở cho tôi và cũng cám ơn cả những người đã dạy tôi hiểu giá trị của gian lao, thử thách. Cám ơn đất nước đã cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn mẹ Duy Xuyên mang tôi đến thế gian nầy, cám ơn mẹ Hòa Hưng nuôi nấng tôi trong những ngày bà con thân thuộc đã ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa già chùa Viên Giác che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng. Nếu một mai tôi ra đi không kịp viết điều gì, thì đây, những kỷ niệm của một lần ghé lại.
(ST)

Thanked by 2 Members:

#57 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 05/06/2014 - 19:34

SEN BUỒN


Chỉ một mình thôi… Một nụ, một đóa, một đài… Sen đứng chơ vơ trên mỗi một cọng, nằm kề cạnh từng chiếc lá xoe tròn… Tháng ngày lênh đênh lặng lẽ trong thế giới của riêng mình. Sinh ly - tử biệt như muôn loài. "Sớm nở tối tàn", sen cũng mau phai, chóng tàn theo lẽ vô thường: sinh-trụ-dị-diệt nơi cõi bụi bặm trần ai.

Đời sen là thế! Thân phận "ba chìm bảy nổi, chín nhấp nhô". Đón nhận chướng duyên. Rồi thành hình hài. Chịu trầm mình chìm lỉm dưới bùn lầy. Từ trong cõi lạnh lẽo ướt át tối tăm, thân sen phải cố ngoi lên. Ngẩng đầu lên khỏi mặt nước. Mắt sen ngước nhìn lên hướng tơi ánh sáng chói ngời! Trời đất vũ trụ thênh thang. Nhận biết bao tín hiệu tình yêu say đắm nơi vạn vật. Từ đó, tim sen xanh biếc rộn ràng.

Sự sống đáng yêu quá! Sen ước gì mình là một sinh linh mang nhân quả tình yêu. Muốn đón nhận được tình yêu, sen nghĩ ra cách tự mình phải xứng đáng đẹp rạng rỡ, cao thượng thanh thoát. Đêm ngày chờ đợi mối tình sắt son… Từng cánh hoa e ấp. Tỏa hương thơm dịu dàng ngọt ngào. Giữ kín nụ, che chở hoa tinh khiết, vô nhiễm. Toàn thân toát ra hương sắc vẹn toàn. Từ tâm hồn đến thân xác mang giá trị đích thực cho sự sống. Sen sống đẹp như mơ… như thơ…

Mà cớ sao sen lại buồn? Vì chê cõi bùn đen hôi tanh hay vì bùn kia giờ đã đổi thay? Vũng lầy đã dần khô cạn và ngày càng co hẹp vô cảm chai cứng! Lẽ nào loài sen có mặt hàng trăm triệu năm trên mặt đất lại đang chết dần chết mòn mà chưa tỏ hết nỗi lòng! Còn có bao người dành chút thời gian chiêm nghiệm về một loài hoa cố hương, cố quốc? Sen buồn vì những ý nghĩa vô thường, ngũ thường giờ đã biến thành tầm thường.

Sen đi vào lịch sử các lĩnh vực rồi đó. Vậy mà nhiều người từ bé tới già chỉ thuộc vài câu ca dao xưa như trái đất trong văn học dân gian… "Trong đầm gì đẹp bằng sen…", "Tháp Mười đẹp nhất bông sen…" Có người còn chê thơ văn tả sen sao mà vừa quê mùa lại vừa ít ỏi. Vẻ đẹp của sen đã đi vào nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc, hội họa, nhiếp ảnh… Nhưng chỉ là chuyện cổ đại. Hiện đại thì sen lẻ loi vắng bóng. Ngày càng ít người thao thức muốn nhìn ngắm bộ mặt thật thà đơn sơ, nồng nàn của sen.

Sử dụng sen đa phần tách rời hoa lìa đất, hồn xác chia ly cách biệt. Nghĩ đến sen là nghĩ đến mua hoa sen về trang trí cắm vào bình cho đúng kiểu sành điệu. Ăn uống sen làm đẹp da, đẹp dáng. Chẳng cần biết nguồn gốc loài hoa thủy sinh độc đáo. Người trồng sen, hái sen cực khổ thế nào!

Thực lòng các bà các cô nhớ cách nấu nướng sen ẩm thực hơn nhớ loài hoa tôn quý. Sen thật có ích. Ăn được tất cả từ gốc rễ đến bông ngọn… Đủ các món khoái khẩu như: chè hạt sen, mứt hạt sen, gỏi ngó sen, củ sen hầm xương, cơm lá sen, cốm lá sen, trà ướp sen… Thu hút và hấp dẫn hơn là chốn y dược học. Người ta nghiên cứu chế biến sen thành thuốc dược thảo chữa các bệnh về máu huyết, giải độc, an thần hữu hiệu. Chưa ai lý giải vì sao sen chuyên trị thần kinh và máu huyết - hai hệ thống có mặt đầu tiên của bào thai con người.

Người ta cho rằng sen cao quý vì cao giá ở chợ. Chẳng hề biết hồn sen lang thang nơi đâu? Nhiều nhà khoa học giải mã bí mật nằm trong lá sen. Mỗi lá sen ẩn chứa hàng ngàn vân mạch li ti. Nhờ đó lá sen luôn sạch sẽ. Khi hạt sương rơi trên lá sen, giọt nước cứ cuộn tròn long lanh sáng như viên ngọc. Đề tài nghiên cứu công nghệ sạch sinh học Nano dựa vào cấu trúc lá sen đã thành công… Còn nhiều thứ bí ẩn trong cây sen mà nhân loại chưa khám phá hết để ứng dụng nâng cao giá trị cuộc sống.

Sen buồn... nhưng không hề giận người, giận đời!

Hãy cùng sen vào ngôi chùa tĩnh lặng... Nơi đây hồn sen linh thiêng sống động làm sao. Một loài hoa mang giá trị tâm linh văn hóa, văn minh tôn giáo châu Á bất tử tự bao đời.

Hồn sen diệu vợi từ thuở hồng hoang. Sen đại diện cho sự kiên nhẫn, bao dung, từ bi, bác ái, phẩm giá trinh trong… Rễ sen nhẫn nại ẩn mình chờ thời gian chín muồi nhân duyên lý-hóa-sinh… nảy mầm. Mùa sen nở là mùa hạ. Dưới ánh nắng gay gắt, hoa vẫn mỉm cười tươi khoe sắc thắm hồng sen. Thân sen hành trực ngay thẳng, gai không nhọn sắc nguy hiểm. Bề mặt lá hoa tự tạo chất trừng thanh, tiệt trùng làm sạch tránh ô nhiễm. Không thấm bùn, không thấm nước. Không loài ong bướm nào hút nhụy sen. Cánh hoa bao bọc gương sen, che chở sự sống hạt mầm tương lai êm đềm chắc chắn. Bên trong ruột sen tất cả đều rỗng mang hình cầu tròn "ngẫu không". Toàn thân nhẹ nhàng như siêu thoát vượt lên trên sự tầm thường.

"Cư trần bất nhiễm trần". Sen là tòa nhà, là lâu đài lộng lẫy. Chốn thiền nghỉ ngơi cuối cùng cho người tu hành đắc đạo ngự trị. Hồn sen dường như nhập vào tâm hồn người tu hành. Những vị chân tu đáng kính. Dám từ bỏ, hy sinh riêng tư, lợi lộc tục trần để chọn con đường dấn thân tu hành. Khổ luyện chiêm nghiệm chân lý, triết lý "đền trọn mối tình" cao sâu của sự sống - sự chết… giải thoát khổ đau cho muôn người.

Buồn vui chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi trong cuộc đời hư ảo mong manh. Ngày nào còn biết yêu thương hồn nhiên. Xin được gởi trao nhau câu hát "Đóa hoa vô thường"…

"... Sen hồng một độ

Em hồng một thuở xuân xanh

Sen buồn một mình

Em buồn đền trọn mối tình..."

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



(nguồn tham khảo: giacngo.vn)

Thanked by 1 Member:

#58 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 21/07/2014 - 18:10

SUY NGẪM VỀ CÂU THƠ THẦN CỦA Y THÁNH VIỆT NAM

Thiền sư Tuệ Tĩnh được dân tộc Việt Nam tôn vinh là Y thánh. Cụ để lại hai bộ sách quý giá: Hồng Nghĩa Giác tư Y thư và Nam dược thần diệu. Cụ khuyên bảo giữ gìn sức khoẻ bằng một câu thơ: “Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần - Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình”. Câu thơ nhắc nhở bảy điều cốt yếu. Tiếc rằng, sau này câu thơ bị hiểu sai nội dung và dùng nhầm từ ngữ. Đã có những bài báo giải thích không đúng. Ví dụ: giải thích “quả dục” là hạn chế giao hợp tình dục, hoặc dùng từ sai là tiết dục, đọc “tàng thần” thay cho “tồn thần”, hiểu “thủ chân” là giữ gìn chân lý. Thiết tưởng cần suy nghĩ lại.

Câu đầu nêu lên ba yếu tố cần thiết và quý báu của cuộc sống (tam bảo): Tinh, Khí, Thần.
Tinh là các chất tinh hoa nuôi dưỡng con người. Cơ thể là một bộ máy trao đổi chất với thiên nhiên bằng cách ăn uống, hít thở. Các chất ăn uống qua tiêu hóa thành cốc khí, không khí được hít thở, cung cấp tông khí qua bộ máy hô hấp, cốc khí và tông khí kết hợp, cùng trở thành tinh chất nuôi cơ thể. Các cơ quan, các tạng (Tâm, can, tỳ, phế, thận) dùng các tinh chất ấy nuôi mình, đồng thời tạo thành các chất tinh tuý, tinh hoa. Tạng hàm nghĩa là kho tàng, là cơ quan tàng trữ các chất tinh hoa. Ở giai đoạn này, các tinh hoa là chất dự trữ để điều hòa các hoạt động của bản tạng. Phần tinh hoa của mỗi tạng dư thừa chuyển vào thận. Thận là “tổng kho” các thứ tinh. Sách nói thận tàng tinh. Sách cũng nói thận liên quan đến tủy trong cột sống, đến não. Não được gọi là “tủy hải” (bể tủy). Tinh của thận chuyển hóa lên tủy, tới não để nuôi tủy não. Tinh ở thận cũng tạo thành tinh sinh dục. Dịch hoãn của nam giới được gọi là ngoại thận. Khái niệm về thận trong y học cổ truyền (YHCT) rất rộng và rất quan trọng. Tóm lại, tinh là chất tinh hoa bao gồm cả tinh sinh dục, không phải là chỉ là tinh sinh dục.Tinh chất là nguồn nuôi dưỡng cơ thể. Tinh chất tạo thành khí, khí làm cho cơ thể hoạt động. Ở đây có thể hiểu khí theo nghĩa hẹp là năng lượng, năng lượng tạo thành nội lực làm cho cơ thể hoạt động. Ngược lại, khí (nội lực) làm cho bộ máy tiêu hóa, bộ máy hô hấp hoạt động để chuyển hóa các chất tạo thành tinh chất. Tinh là thứ vật chất, nếu không có khí không chuyển hóa được. Khí là sự hoạt động sinh lý (nội lực). Không có tinh chất, khí không tiếp tục hoạt động được. Sự hoạt động là thứ phi vật chất. Bởi vậy, theo thuyết âm dương, tinh (vật chất) là âm, khí (phi vật chất) là dương. YHCT còn gọi âm tinh và dương khí. Âm tinh là cơ sở phát sinh và nuôi dưỡng dương khí. Dương khí là “động cơ” làm cho âm tinh chuyển hóa. Hai thứ ràng buộc nhau, không thể thiếu một thứ nào. Sự yếu kém rối loạn của thứ này ảnh hưởng xấu đến thứ khác và trở nên bệnh lý.
Khí (sự hoạt động của nội lực) có thứ riêng của từng bộ phận, ví dụ tỳ khi là sự hoạt động cơ năng của hệ tiêu hóa. Tâm khí là sự hoạt động cơ năng của hệ tuần hoàn tim mạch… Khí cũng có thứ chung của toàn thân, do khí của từng bộ phận hợp lại, chúng phải hoạt động nhịp nhàng, cân bằng với nhau, trong đó có sự hoạt động của hệ kinh lạc, được gọi là Kinh khí. Tạng làm chủ của khí chung toàn cơ thể là phế. Khí của một, hai bộ phận yếu kém, rối loạn sẽ hại tới khí chung toàn thân. Khí của toàn thân yếu kém, rối loạn dẫn tới cơ thể suy vong.
Một dạng hoạt động đặc thù của khí là Thần. Nói cách khác, thần là sự biểu hiện tổng hợp cao cấp của khí. Khí nhờ tinh làm cơ sở, thì thân cũng nhờ tinh làm cơ sở. Khí và thần đều thuộc dương, nhơ vào tinh thuộc âm. Thần trở nên một thực thể có khả năng chi phối, luôn ảnh hưởng tới khí, tới sự hoạt động cơ năng của các cơ quan. Con người là đông vật cao cấp, phần thân gồm có tư duy, tâm lý. Những cảm xúc tiêu cực đều có thể ảnh hưởng xấu đến sự hoạt động cơ năng của tạng phủ, đến sức khoẻ. Ví dụ giận quá hại đến can, gây chứng mặt đỏ, nhức đầu, hộc máu. Tạng làm chủ, chứa thần là tâm.
Muốn giữ cho tâm – thần được yên ổn, phải thanh tâm, quả dục
Thanh tâm là giữ cho tâm trong sáng, không bị vẩn đục, không làm điều đê hèn, đố kỵ, tàn ác, cố chấp, không quá ham chuộng vật ngon của lạ, không quá lo tranh danh, đoạt lợi… Thanh tâm phải tu tâm dưỡng tính, trau dồi đạo đức cao thượng, hành vi thanh nhã thuần khiết. Sống thanh cao thì tâm được thanh thản các tạng hoạt động điều hòa, sức khoẻ được duy trì, thoải mái.
Quả dục là ham muốn ít thôi. Làm người ai cũng có lòng ham muốn: – muốn có cơm ăn, áo mặc đầy đủ, học hành đỗ đạt, làm việc thành công, mưu cầu hạnh phúc, làm lợi cho cộng đồng. Những điều nhân bản không thể thiếu được. Song những ham muốn cao xa, quá đáng… thúc giục tìm mọi cách giành giật, khi không được thì gây đau khổ, lo nghĩ, thất vọng, tâm trạng rối bời, mất ăn mất ngủ… thì làm sao mà khoẻ mạnh được?!
Thanh tâm, quả dục là những biện pháp lớn để có một tâm lý lành mạnh, nhưng cũng cần phải có một thân hình vững vàng tức là phải rèn luyện cơ thể, luyện hình.
Luyện hình chủ yếu là vận động cơ thể. Vận động thuộc bản chất tự nhiên của các sự vật. Không hoặc ít vận động là trái với quy luật tự nhiên. Vận động chân tay hay vận động trí óc đều cần thiết. Nhưng vận động từng mặt chưa đủ. Người công nhân đứng máy suốt tám tiếng đồng hồ chỉ vận dụng tay, mắt cũng là loại hình vận động không toàn diện. Muốn có sự vận động toàn diện phải tập thể dục. Sự vận động làm lưu thông khí huyết, các thế vận động xoa bóp nội tạng. Một số phương pháp thể dục của phương Đông trong lúc tập luyện đã cùng một lúc động viên cả bốn phần: tâm, ý, khí, hình. Tập thể dục thật là cần thiết vì có tác dụng lớn cho sức khoẻ, phụ trợ cho việc chữa bệnh. Trong nhiều trường hợp nó có thể thay thế cho thuốc mà thuốc không thể thay thế cho nó.
Tất cả những thuật vận động cơ thể bảo dưỡng tinh, khí, thần hoạt động sinh lý đều phải phục hồi, duy trì khí chân nguyên của sức sống. Chân nguyên là gì? (xem bài cuộc sống quý vô ngần).
Chân nguyên là tiềm năng tự nhiên của mỗi người. Chân nguyên là một hiện tượng tổng hòa từ nhiều yếu tố tự nhiên tạo nên: khí tiên thiên (mang tính di truyền), khí hậu thiên (qua sự trao đổi chất) và nhiều điều kiện khác (môi trường)… Có cách gì thấy phần nào cái “vẻ” chân nguyên ấy không? Hãy quan sát một cháu ít tháng, ít năm (còn đỏ, xích tử như Lão Tử vẫn gọi). Cháu thở sâu bằng kiểu thở bụng, giấc ngủ của cháu thật là thần tiên, cháu sống hồn nhiên: đói thì khóc, vui thì cười. Vẻ chân nguyên ấy đã mất đi ở người lớn tuổi vì những điều kiện sinh hoạt, hoàn cảnh gia đình, xã hội, nghề nghiệp. Từ đó có các chứng: thở không sâu, mất ngủ, lo lắng buồn phiền… tạp niệm như ngựa lồng trong não. Đạo dưỡng sinh khuyên: cần giữ lấy chân nguyên – thủ chân. Để “thủ chân” YHCT có những phép điều hòa âm dương, tư âm, bổ hòa, an bình ngũ tạng…
Thủ chân là điều cốt lõi số một của Đạo dưỡng sinh. Câu thơ của cụ Tuệ Tĩnh nhắc ta hàng ngày cần bồi dưỡng sức khoẻ, lẽ ra đã có sách dạy rõ nội dung từng thuật. Tiếc rằng, cho đến nay chưa ai tìm được nguyên bản nào như vậy.
Câu thơ được truyền tụng đã lâu đời nhưng chúng tôi nghĩ nên thêm hai thuật nữa: Kiện vị và Thừa phong.Vị nghĩa đen là dạ dày. Chữ Vị (viết hoa) là một thuật ngữ của YHCT được dùng chỉ sự tiêu hóa các thức ăn uống. Không nói, ai cũng biết việc ăn uống rất quan trọng. Ăn uống gì, nấu nướng ra sao, liều lượng thế nào… đòi hỏi nhiều kiến thức, kỹ thuật, chế độ… phù hợp cho từng người, từng lúc.
Phong là gió. Gió là một hiện tượng thiên nhiên do nóng lạnh biến đổi. Danh từ phong đại biểu cho sáu thứ khí: nóng, lạnh, ráo, ẩm, nắng, gió.
Lục khí chi phối con người từng giờ, từng phút. Một năm có bồn mùa nóng lạnh thay đổi. Cuộc sống của con người phải thích ứng với các biến đổi của thế giới khách quan. Con người là sản phẩm của thiên nhiên, người theo Dưỡng sinh biết lợi dụng, thừa hưởng những yếu tố khách quan gọi tắt là biết “thừa phong”.
Thừa phong, kiện vị cần thiết như vậy nên xếp thế nào trong một thể thơ lục bát? Thiết nghĩ thuyết thanh tâm, quả dục thuộc lĩnh vực tâm lý, có thể xếp vào phạm vi của việc tồn thần. Vì vậy nên chăng gói gọn như sau:
“Bảo tinh, dưỡng khí, tồn thần,
Thừa phong, kiện vị, thủ chân, luyện hình”.
Chúng tôi dùng chữ “bảo” thay chữ “bế”. Nhiều người không thích chữ “bế” khi nghĩ theo nghĩa “tinh sinh dục” vì chữ này có vẻ nghiêm khắc quá, như “bế quan toả cảng”. Đối với nhà tu hành thì được, nhưng đối với người đang sung sức thì có vẻ thiếu tự nhiên. Mà điều thiếu tự nhiên thì không có lợi. Đổi dùng chữ “bảo” càng phù hợp hơn với các từ kép: bảo dưỡng, bảo tồn (dưỡng khí, tồn thần).
Nêu lên điều này có vẻ thất lễ với cụ Tuệ Tĩnh, mang tội dám chữa câu thơ. Nhưng chúng tôi xin cụ xá cho. Chúng tôi có thay đổi vài chữ vẫn là tuân thủ chủ ý của cụ: cụ muốn cho mọi người lớn nhớ tới những điều cần thiết cho sức khoẻ, chắc cụ không nỡ chấp nệ một vài từ.
Câu thơ có sự liên kết giữa các phần chủ yếu:
- Bảo trì khí tiên thiên, phải “thủ chân”
- Điều lý khí hậu thiên, phải “kiện vị”
- Cân bằng, tăng cường chất lượng sống:
+ Về tâm phải “tồn thần”
+ Về thể phải “luyện hình”
- Muốn các phần trên hoạt động tốt, phải “dưỡng khí”
- Muốn khí được nuôi dưỡng tốt, phải “bảo tinh”
- Muốn thích ứng với thiên nhiên, cần “thừa phong”.
Bảy điều trên đây là bảy thuật cơ bản, bảy “vị” công hiệu của bài thuốc bổ “thập toàn”. Thập toàn vì chúng đem lại những tác dụng toàn diện cho chất lượng sống và tuổi thọ. Từ bảy điều ấy có thể mở rộng thêm những vấn đề liên quan hoặc những thuật phụ trợ khác.
Từ câu thơ thần của Y thánh Việt Nam, Thiền sư Tuệ Tĩnh mà có câu thơ mới dễ nhớ, tâm niệm hàng ngày. Người yêu đạo cần ra công tìm hiểu nội dung, kiên trì tu luyện để sống mạnh khoẻ, hạnh phúc, tăng thọ, hữu ích.
“Bảo tinh, dưỡng khí, tồn thần
Thừa phong, kiện vị, thủ chân, luyện hình”

Nguồn: 

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn






Thanked by 1 Member:

#59 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 31/10/2014 - 10:31

TẢN MẠN TRÀ

Hầu như mọi dân tộc, mọi xứ sở trên trái đất đều biết uống trà. Ước tính đây là loại nước uống phổ biến nhất sau "nước" và mỗi ngày thế giới tiêu thụ chắc không dưới một tỉ tách trà đủ các loại.

Theo sách vở ghi lại thì tục uống trà của nhân loại bắt nguồn từ Trung Quốc. Lục Vũ tự là Lục Hồng Tiệm một danh y đời Ðường, thường lang thang ngâm thơ rồi khóc. Ông để lại cho đời sách Trà Kinh gồm ba quyển bàn về trà, gốm trà, cách pha và uống trà, được người đời sau gọi là ông tiên trà, thờ làm ông tổ của trà đạo Trung Quốc.
 
Sách viết tục uống trà bắt đầu từ thời Thần Nông, truyền sang Chu Công nước Lỗ. Như vậy loài người biết uống trà vào khoảng năm 3300 - 3100 trước Công nguyên. Qua các thời đại, tục uống trà và tác dụng của cây trà ngày được nâng cao và khai thác triệt để. Cách uống trà cũng theo những con đường buôn bán tơ lụa, đồ gốm và qua sự giao lưu của các thương gia tỏa ra khắp thế giới.

Cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12, cùng với thiền, trà ở Trung Hoa tràn sang Nhật. Người Nhật tiếp thu cả hai thứ văn hoá vật chất và tôn giáo này, đem nó hoà quyện với văn hoá bản địa và nâng lên thành triết lý riêng của dân tộc Nhật gọi là Trà đạo. Theo truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian này, có một vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, sư Eisai mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Phẩm Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà.

Những công dụng của trà về mặt y khoa và hương vị hấp dẫn đặc biệt của trà đã thu hút nhiều người dân Nhật đến với cái thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tính Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo. Trà đạo phát triển dựa trên triết lý xem uống trà như là một thú tiêu khiển thanh t*o và nghi lễ của việc uống trà do các sư Thiền tông đặt ra để giữ cho họ thức tỉnh.

Đến đời thiền sư Senno Rikyu (1521-1591) thì trà đạo ở Nhật thực sự trở thành một nghệ thuật gắn liền với đời sống thiền thông qua việc định nghĩa các yêu cầu của trà đạo như là sự hài hòa, tĩnh lặng, thanh khiết và trang trọng. Như Kakuzo Okakura đã viết trong cuốn "Quyển sách về Trà" xuất bản vào năm 1906: Trà đạo là một giáo phái được sáng lập dựa trên lòng tôn thờ cái đẹp, cái đẹp giữa những thực tế nhớp nhúa trần ai.

Trà đạo bao gồm những nghi lễ thiêng liêng thấm đượm chất tâm linh tôn giáo, biến việc uống trà trở thành một cuộc lễ. Bất cứ một thiền thất nào của môn phái Trà đạo đều có những trà thất. Tuy được xây dựng hết sức giản dị, tự nhiên nhưng được coi là nơi thiêng liêng nhất. Đó là những gian nhỏ được ghép bằng tre, gỗ, lợp tranh rất nguyên sơ. Trong nhà bài trí một vài bức thư pháp cổ, hoặc tranh thuỷ mạc. Một bếp đun nước, một lò hương thơm, một lọ hoa cắm chỉ một bông như mọc lên từ kẽ đá. Ngồi trong căn phòng lặng im nghe tiếng nước sôi nhè nhẹ như tiếng gió.

Người ta cảm thấy như ngồi giữa một thảo am nơi sơn dã, chỉ có mây trắng và tiếng nhạc thiên nhiên làm bạn, lòng cảm thấy thanh thoát. Con người như vượt lên trên những giới hạn tương đối và một thoáng nhìn vào vĩnh cửu. Ấm trà được sắp lên toả hương thơm thanh cao, tinh khiết. Uống chén thứ nhất thấy lòng tĩnh lặng, tâm không còn dao động, tự soi được vào cõi tâm mình. Thiền nhân gọi đó là trạng thái vấn tuệ. Uống xong chén thứ hai thấy nơi ấn đường ấm nóng, tư duy thiền sắp được khai thông. Uống xong chén thứ ba cả hai trạng thái trên đều biến mất. Thân xác như hoà vào trời đất. Người ta nói đó là đạt tới thiền và là Trà đạo.

Theo hai cuốn sách “The Empire of Tea: The Remarkable History of the Plant That Took Over the World” (Đế Quốc Trà) của vợ chồng Alan và Iris Macfarlane, và “Tea: Addiction, Exploitation, and Empire” (Trà: Nghiện, Bóc Lột, và Đế quốc) của Roy Moxham mới xuất bản gần đây, các tác giả người Anh này cho biết bọn nhà buôn Tây phương để ý đến trà vào khoảng thế kỷ 17. Cuốn “Đế quốc trà” mở đầu với một hồi ký ngắn và cảm động của Iris Macfarlane về nhận thức văn hóa mà bà mang theo cùng chồng đến nông trại trồng trà Assam. Bà viết: "Tôi lớn lên với tất cả những mưu mẹo, những lời nói hoa mỹ : rằng ‘Bên ấy ở Ấn Độ’ có những người da ngăm thấp kém không thể cứu chữa, những người rất may mắn được chúng ta cai trị". Sau đó thì tác giả kể lại những tình trạng đối xử tàn bạo đối với những công nhân làm việc trong các nông trại trồng trà, những hồi tưởng buồn bã.

Cuốn "Đế quốc trà" phân tích một cách dí dỏm sắc nước của trà và qua đó suy luận về vai trò của trà trong việc duy trì một hệ thống trật tự xã hội theo đẳng cấp ở Anh. Tác giả còn tìm cách trả lời một câu hỏi: Có phải quả thật trà đã thuần hóa người Anh? Có phải trà làm cho những người da trắng, thích ăn thịt đỏ và uống bia trở thành những người hiền lành hơn và dễ mến hơn? Không! Đó là câu trả lời. Những người Anh, chủ đồn điền trà, khinh miệt công nhân người bản xứ, họ cho đó là những cu-li (coolies). Họ đối xử tàn bạo đối với những phu người địa phương và gây cho cái chết cho hàng trăm ngàn người.

Theo thống kê của Moxham, cho đến năm 1900, hơn 200 ngàn mẫu trà được khai khẩn và trồng trong rừng Assam, và nó làm mất đi sinh mạng của hàng trăm ngàn người phu Ấn Độ nhưng chỉ vài mạng người Anh. Đó chỉ là một thảm nạn trồng trà ở vùng Assam; nhiều thảm nạn còn xảy ra ở Darjeeling, Tích Lan (Ceylon), và nhiều nơi khác.

Quy trình sản xuất trà ở Ấn Độ được mô phỏng theo cách tổ chức sau cuộc Cách mạng kỹ nghệ: giờ làm việc dài, điều kiện làm việc cực xấu, và thiếu an toàn. Macfarlane viết: “Công nhân trở thành một phần của bộ máy sản xuất khổng lồ. Trong bộ máy đó họ là những con người làm việc không hồn. Cái giá nhân sinh mà con người phải trả cho những công việc nhàm chán và không cần đến trí óc, đó là chưa kể đến tình trạng công nhân phải đứng hết giờ này sang giờ khác để hái trà. Thật khó tưởng tượng nổi!”

Trà, ngoài là thức uống và những công dụng tốt cho sức khỏe , cái lá cây thơm ngát này đã là đề tài làm say mê nghệ nhân để sáng tạo ra những bình sứ thời xưa ở Việt Nam, Nhật Bản và Trung Hoa. Trà đã là chất xúc tác khuyến khích các tay thực dân Âu châu; là chất châm ngòi cuộc chiến tranh Nha phiến; là cảm hứng cho cho những nhà thiết kế thuyền bè vào thế kỷ 19; và là một trong những nguồn cung cấp sinh lực cho cuộc Cách mạng kỹ nghệ.

Gần đây ở Việt Nam có nhiều "trà quán" mở cửa theo nhu cầu của thị trường, tôi tình cờ đọc một số bài viết so sánh và tỏ ý ngưỡng mộ nghệ thuật uống trà của Nhật và Trung Hoa. Phải công nhận là các nước khác thành công hơn Việt Nam trong việc quảng bá truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ. Trà đạo của Nhật nổi tiếng đã lâu, và Trung Hoa thì cũng vậy. Mặc dù theo truyền thuyết thì Việt Nam đã biết đến trà từ thời Ðông Hán và trà đạo Việt thành hình khoảng vào đời nhà Ðường.

Sách Trà Kinh của Lục Vũ nhập đề rằng "trà là loài cây lớn ở phương nam". Chứng tích trà đạo Việt còn lưu lại trên những bình bát trà gốm Việt Dao từ thời Bắc thuộc, lên đến tột đỉnh thời Lý, Trần, thời Phật giáo thịnh nhất trong lịch sử VN. Trà đạo Việt là đạo mà không đạo, đạo vô môn quan: không cửa vào, không lối ra. Cũng như Việt Nam, lúc bấy giờ Phật giáo ở Nhật bén rễ vào giới thế quyền. Tăng sư là khách quý của các sứ quân và các phú hào. Họ học Phật rồi tiêm nhiễm luôn đạo thưởng trà. Uống trà nhằm luyện con người khu trừ những chướng ngại phiền não, để đạt chỗ rốt ráo của an bần lạc đạo, hòa đồng với Tự Nhiên, tức là Chân Như. Và uống trà, hành trà đạo phải có các trà khí mà ngành gốm Nhật bấy giờ rất phôi thai. Nên trà gốm từ Cao Ly, Trung Hoa, Ðại Việt đưa sang giá đắt, chỉ được sử dụng giới hạn trong hàng sứ quân và đại phú.

Thay vì hấp thu nếp thanh bần, họ bèn mượn trà đạo làm trò trà dư tiêu khiển, đặt ra các quy tắc kiểu cách (Cha No Yu), muốn vào phải qua cổng Hữu Môn Quan. Trà đã đưa thiền vị đạm bạc vào trú ngụ chỗ đền các xa hoa. Trong khuôn viên cung đình nguy nga, các lãnh chúa sai dựng nên trà thất bắt chước lều cỏ bần hàn của ẩn sĩ để hành trà đạo. Còn bên nước Việt, đạo đã từ cung cấm ra đi, bỏ phú quý phù vân để phiêu bồng nơi cảnh thật của "rừng trúc lắm chim" (Trúc lâm đa túc điểu) như thơ ngài Huyền Quang. Các vua Lý, Trần bỏ kinh về núi, thực hiện hạnh tầm đạo, dẫm theo bước chân của đức Phật. Đây là chỗ khác biệt trong lịch sử thiền đạo Việt - Nhật.

Thời đại chúng ta đang sống, kỹ thuật hiện đại cho phép mọi người tiếp xúc với môi trường bên ngoài, với các nền văn hoá khác nhau trên thế giới, tạo điều kiện cho việc học hỏi các điều mới lạ và bổ ích để mở mang kiến thức , để áp dụng cho lợi ích của bản thân và đất nước . Nhưng chúng ta phải biết gạn lọc và đừng quên gốc rễ của mình. Ngưỡng mộ , thích và trân trọng Trà đạo của Nhật Bản hay Trung Hoa thì cũng tốt, nhưng so sánh và chê bai nghệ thuật và phong cách uống trà hay trà Việt Nam là một điều không đúng và nhất là khi dựa vào chỉ mấy "trà quán" phục vụ nhu cầu nhất thời của thị trường. Cái áo Kimono của Nhật, áo sường - sám của Trung Hoa, cái áo dài của Việt Nam.... mỗi cái có những nét đẹp riêng. Ở đời không có gì là tuyệt đối hoàn hảo. Và người ta thường nói " có nằm trong chăn mới biết chăn có rận", và không có một quốc gia nào hoàn hảo hơn một quốc gia nào.

Tách trà thơm ở Việt Nam đã từ lâu là quà đón khách, là tâm tình của chủ nhà với khách viếng thăm. Không thể nói là vì người VN không pha chế trà cầu kỳ như người Nhật hay người Trung hoa và vì vậy mà thịnh tình của chủ với khách suy giảm. Phần tôi thì với nghệ thuật uống trà theo Trà đạo của Nhật bản hay Trung hoa thì cũng rất ngưỡng mộ, và áo Kimono hay sường sám, cũng rất đẹp mắt... Nói cách khác là tôi chỉ "cỡi ngựa xem hoa" . Nhưng tách trà Việt nam tôi sẽ pha đãi khách và chiếc áo dài VN vẫn là đẹp nhất , gần gũi thân thương nhất. Lý do rất đơn giản: Vì tôi là người Việt Nam.

Riêng về phong cách uống trà hay thiền đạo thì vô môn quan (Việt Nam) hay hữu môn quan (Nhật Bản) ... "tốt" hơn ? Tôi xin phép gởi đến các bạn câu truyện "Trà Đạo" dưới đây:

"Khách đến viếng một trà thất, chủ nhân tiếp đón theo nghi phong trà đạo Nhật Bản, khách thì lại cứ rót uống tự nhiên không theo luật lệ nào cả. Chủ nhân liền thuyết trình về trà đạo, về cách pha trà và phong thái uống trà v.v. Nghe xong khách nói:

- À, thì ra trà đạo là vậy. Tôi lại tưởng đạo trà là khát thì uống thôi chứ.

Rồi khách xuất khẩu ngâm:

Xưa nay trà là đạo.

Khát cứ việc uống thôi.

Nghĩ thêm trà với đạo.

Ðầu thượng trước đầu rồi!"

Mời các bạn tách trà thơm (pha kiểu Việt Nam) và chúc tất cả một cuối tuần như ý.
(Theo www.cityofworld.com)









Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |