Jump to content

Advertisements




NHỮNG CÂU CHUYỆN THƯỜNG NGÀY


256 replies to this topic

#31 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 15/03/2014 - 01:11

Gửi một đồng xu
Cao Huy Thuần


"May mắn nhất cho văn hóa của ta, trong lĩnh vực đạo đức, là cả dân tộc cùng san sẻ một niềm tin căn bản: tin ở phúc đức" - GS Cao Huy Thuần (Đại học Picardie - Pháp) trò chuyện cùng TTCT trong câu chuyện mà Bàn tròn văn hóa (TTCT số 1, ngày 1-1-2012) đã mở ra.

* Thưa giáo sư, vẫn là một câu hỏi cũ: nhìn vào đời sống văn hóa Việt Nam bây giờ, ông thấy điều gì là cái "được", điều gì là cái "đáng lo ngại"?

Giáo sư Cao Huy Thuần: Tôi xin kể cô nghe một bài học của tôi lúc nhỏ trong Quốc văn giáo khoa thư lớp 3. Một người kia đến gặp một ông chủ xí nghiệp để xin làm việc. Ông chủ nói hãng không tuyển nhân viên nữa. Người kia ra về. Ông chủ nhìn theo. Đến giữa sân, người kia cúi xuống lượm một vật gì đấy, phủi bụi cẩn thận rồi bỏ vào túi. Đó là một đồng xu ai đánh rơi xuống đất. Ông chủ cho người kêu anh kia lại, tuyển dụng anh ta. Dưới mắt ông, một người biết quý một đồng xu như thế sẽ là một người biết kiếm ra tiền cho hãng ông.

Chuyện chỉ có thế nhưng tôi nhớ cả đời. Xét đoán ai, nhiều khi tôi thấy nhân cách của một người lộ ra nơi một cử chỉ vặt. Cũng như thế, nơi một chuyện vặt, nhiều khi tôi học được một bài hay. Bởi vậy, để trả lời câu hỏi của cô, tôi nhớ đến vài chuyện cũ...

Chuyện thứ nhất là giải thưởng "Sách hay" của Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh, lần đầu tiên được tổ chức vào đầu tháng 9-2011. Tôi chú ý chuyện này bởi vì đây là giải thưởng của người dân, không phải của Nhà nước. Giải Phan Châu Trinh làm tôi nghĩ đến các giải văn chương ở Pháp - sự kiện văn hóa lớn hằng năm - đều của người dân, như giải Goncourt, giải Renaudot, giải Médicis, giải Fémina và vô số giải khác đã làm xôn xao dư luận, khích lệ xuất bản, thúc đẩy sáng tác.

Phan Châu Trinh là sáng kiến mở đầu của những giải thưởng trong tương lai mà tôi ước mong cũng làm rộ lên sinh động văn hóa như thế. Một trong những người nhận giải năm rồi là ông già tám mươi Phạm Toàn, cặm cụi dưới đèn dịch quyển Nền dân trị Mỹ của Tocqueville, tác phẩm lớn của thế kỷ 19 mà không ai bước chân vào đại học Pháp không biết. Đóng góp ấy, người dân vinh danh là quá đúng.

Chuyện vặt thứ hai không được ai vinh danh cả, nhưng không người trí thức nào nghe nói đến mà không động lòng. Đó là chuyện nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn âm thầm dạy triết không tiền cho bất cứ ai muốn học triết. Ban đầu anh mở lớp tại nhà riêng, nhưng sau đông người quá anh xin được tá túc trong một trường đại học. Trong một thế giới ồn ào, anh lẳng lặng làm ông đồ trao kiến thức. Chỉ riêng thái độ lặng yên khiêm tốn, đơn độc ấy thôi đã là một đặc tính văn hóa từ xưa còn sót lại, hiếm có. Một con én chỉ biết đưa thoi, mùa xuân có đến hay không, én không đặt vấn đề.
Chuyện vặt thứ ba, báo chí có đăng. Đó là cái "chòi sách" miễn phí của một nhóm sinh viên thiện nguyện, mở cửa vào mỗi sáng chủ nhật, giờ thể thao của dân Sài Gòn trong công viên Lê Văn Tám. Ban đầu "thư viện" ấy chỉ là một chiếu sách, do các em mang đến, bày ra dưới bóng mát của các cây cổ thụ, ai muốn đọc cứ lấy đọc. Dần dà khách đến đông, chiếu sách trở thành "chòi sách" thu hút đủ mọi lứa tuổi.

Giữa "chòi sách" trong công viên, lớp học của anh Sơn và quyển sách dịch của anh Phạm Toàn có một sợi dây liên hệ mật thiết mà Tocqueville đã phân tích rất kỹ trong xã hội Mỹ: đặc điểm của dân chủ ở Mỹ là sự tham gia tích cực và tự ý của dân chúng vào các hiệp hội dân sự. Trong đêm tối của dửng dưng, vô cảm, đó không phải chỉ là những hành động văn hóa, đó còn là những hành động đạo đức. Đó là những việc thiện.

* Còn cái "đáng lo ngại", là vô cảm, dửng dưng, là ác?

- Cái "đáng lo ngại" mà ai cũng thấy hiện nay là cái ác đang diễn ra một cách thản nhiên, như thể đó không còn là cái ác nữa. Trước bất lực của xã hội, biết làm gì hơn là vô tư, hồn nhiên, trong trắng làm những hành động thiện? Thắp một cây diêm, thắp một ngọn nến. Để còn có người nhìn vào xã hội mà nói: không, xã hội này không phải chỉ là vô cảm, dửng dưng.

* Giáo sư có một quan niệm rất rộng về thiện ác. Vậy theo ông, thế nào là thiện, thế nào là ác?

- Tôi đố cô định nghĩa được thiện là gì, ác là gì, mà định nghĩa đó được mọi người chấp nhận. Tôi lấy một ví dụ thôi. Tôn giáo nào cũng nói không được giết người. Nhưng trên sự giống nhau đó, khác nhau còn sâu đậm hơn. Tại sao không được giết người? Tại sao giết người là ác? Huống hồ trên mỗi một chữ "giết" thôi đã khác nhau rồi. Phật giáo chẳng hạn, không nói "giết" mà nói "sát sanh". Nghĩa là làm hại sự sống, bất cứ sự sống của sinh vật nào. Bởi vậy, tàn hại môi trường là đại sát sanh.

Phật giáo cũng không nói đó là một răn cấm, một mệnh lệnh đến từ một đấng thiêng liêng nào mà nói: Anh không làm hại sự sống thì chính anh cảm thấy nhẹ nhàng, chính anh dần dần mở rộng lòng thương, chính anh tạo ra nhân lành, nghiệp tốt.

Tôi san sẻ quan niệm đạo đức cho rằng nền tảng của đạo đức nằm ngay trong chính con người chứ không phải ở đâu bên ngoài, trên cao. Tôi trân trọng lời hứa không phải vì một nguyên tắc nào buộc tôi phải thế, mà vì tự tôi thấy như vậy là có ích, có lợi cho tôi và cho người khác, cho xã hội.

Căn bản của đạo đức nằm nơi hậu quả của hành động: một hành động đem đến niềm vui cho tôi, cho người khác là một hành động thiện. Ai học triết thì biết đó là quan niệm của trường phái Bentham, nổi tiếng từ thế kỷ 19 đến nay.
Tôi nghĩ các em sinh viên làm cái chòi văn hóa trong công viên không nghĩ gì đến thiện ác, tốt xấu. Các em làm là vì thấy có ích, có lợi, là vì việc làm đó đem đến hạnh phúc cho các em và hạnh phúc đó lan tỏa đến nhiều người khác. Chắc chắn đứng trong công viên, nhìn người ta đến đọc sách, các em thấy hạnh phúc trong lòng, hạnh phúc nơi mình và hạnh phúc nơi người.

Tiêu chuẩn của thiện là vậy. Và tôi san sẻ quan niệm ấy là vì tôi nghĩ nếu ai ai cũng thắp lên với các em một cây diêm, một ngọn nến thôi, bóng tối cũng bớt đen đi và cái ác cũng mất đi thiên đường vô cảm của nó. Nếu "tự thiên tử chí ư thứ dân", ai cũng biết nghĩ đến hậu quả nơi hành động của mình, biết vui vì ích lợi chung, biết se lòng khi việc làm của mình gây tác hại thì ấy là thiện. Tôi nghĩ nên bắt đầu với quan niệm đạo đức như vậy.

* Thưa giáo sư, nếu chỉ nhìn vào những tin tức mà truyền thông đăng tải ngày này qua tháng khác thì dễ thấy cái ác rồi đổ lỗi cho cá nhân ác. Nhưng từ đâu mà con người bị tha hóa? Nhiều người cho rằng điều quan trọng trong giáo dục hiện nay là trang bị cho mỗi người bản lĩnh, nhận thức về cái ác, để gặp ác mà không thành ác. Để có được bản lĩnh này, chúng ta phải bắt đầu từ đâu?

- Phải bắt đầu từ mình thôi, không có cách nào khác. Tự mình cứu mình. Thông thường nơi con trẻ học luân lý, đạo đức là nhà trường. Nhưng nhà trường bây giờ có lúc không làm được chức năng giáo dục căn bản ấy. Vậy chức năng đó nằm ở đâu nữa ngoài gia đình? Gia đình vẫn là, luôn luôn là trụ cột của giáo dục. Câu hỏi đặt ra là gia đình có dạy đạo đức cho con trẻ được không? Dạy gì? Dạy thế nào? Tôi quả quyết: được!

Giáo dục tuyệt hảo nhất là giáo dục bằng chính bản thân mình, giáo dục bằng cách làm gương. Mình thế nào thì con mình thế ấy, không nhiều thì ít. Vậy mình phải thế nào? May mắn nhất cho văn hóa của ta, trong lĩnh vực đạo đức, là cả dân tộc cùng san sẻ một niềm tin căn bản: tin ở phúc đức. Trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam, ai cũng nghe một tiếng nói nhỏ trong lòng: ăn ở thế nào cho có phúc đức. Không hẳn phúc đức cho mình: phúc đức cho con.
Tại sao ai cũng tin có thể để lại phúc đức cho con? Tại vì, cũng may mắn nữa cho đạo đức dân tộc, nhiều người tin có kiếp sau. Niềm tin ấy cũng là tự do: tự do lựa chọn hành động, tự do lựa chọn thiện ác, lựa chọn số phận của mình. Hãy triệt để sử dụng tự do đó mà dạy mình và dạy con nếu không muốn con mình làm nô lệ cho cái ác. Ai cứu con mình nữa đâu ngoài chính mình!

* Nhưng thưa giáo sư, nếu cá nhân có thể gây ảnh hưởng trên đạo đức xã hội thì xã hội cũng phải góp phần vào việc chặn đứng tha hóa cá nhân? Nếu cá nhân thắp diêm mà gió chướng trong xã hội cứ thổi tắt diêm thì đêm tối cứ mặc sức cười khà...

- Từ đầu tôi đã nói rất khó định nghĩa thế nào là thiện, thế nào là ác. Thông thường, hai nguồn gốc để từ đó rút ra tiêu chuẩn định nghĩa là phong hóa - tập tục và tôn giáo. Nhưng phong hóa cũng thay đổi với thời đại và tôn giáo thì chỉ liên quan đến tín đồ của mình thôi. Có một nguồn gốc thứ ba, ràng buộc mọi người: ấy là luật pháp.

Cứ hỏi một thanh niên ngày nay: làm thế nào phân biệt thiện và ác? Nếu cậu trả lời thế này thì xã hội còn may phước lắm: "thiện là điều gì được phép làm, ác là điều gì cấm làm". "Được phép" và "cấm" là khái niệm về luật. Từ đó suy ra trong đầu cậu thanh niên "chính luật pháp quy định cái gì là thiện, cái gì là ác, và luật pháp là do xã hội đặt ra".
Nếu luật pháp làm được vai trò đó trong xã hội ta thì bóng tối của cô cũng chưa chắc đã dám cười khà. Có điều là luật cũng có luật tốt luật xấu, luật công bằng, luật bất công, và hơn nữa có cả một trường phái học thuyết xem luật tự nhiên cao hơn luật của nhà nước. Rồi cũng có điều là xã hội ta đã biết trọng luật chưa? Nếu có người "tri pháp" mà chẳng "úy pháp" chút nào thì bóng tối nó cười cho, làm sao dạy con trẻ?

Cho nên tôi nhắc lại một lần nữa để cô thấy rằng chúng ta không rời thực tế đâu, chúng ta nói chuyện anh Bùi Văn Nam Sơn, nói chuyện ông già Phạm Toàn được giải thưởng sách hay, nói chuyện chiếc chiếu văn hóa trong công viên... Trong xã hội đó các nhân vật "hèn mọn" ấy có nói đâu, họ chỉ làm, làm được gì thì cứ làm, bỏ một hạt muối vào chum nước cô tưởng nước không mặn thêm sao? Không thực tế sao?

Trong tinh thần lạc quan đó, tôi có mong ước này xin gửi đến các thầy cô tiểu học mà tôi quý trọng nhất trên đời này vì đó là hình ảnh của cha tôi ngày xưa. Tại sao chúng ta, nghĩa là chính các thầy cô, không cùng nhau viết một sách giáo khoa dạy đạo đức làm người cho con trẻ từ 6-12 tuổi?

Hãy nhắm vào các tệ nạn trong xã hội hiện tại mà viết, viết sinh động, thiết thực, viết cho con trẻ học luân lý như học trò chơi, một thứ luân lý ứa ra từ trái tim, không phải là công thức, mệnh lệnh nhàm chán. Từ sách ấy, chúng ta hãy tự lấy trách nhiệm rút ra một bài giảng hằng ngày để nói chuyện năm, mười phút đầu buổi sáng với con em. Và hãy làm sao để sách ấy sẽ nằm trong mọi gia đình, để mọi phụ huynh đều có thể dạy con trẻ.

Cho tôi cái hạnh phúc gửi đến bạn đọc một đồng xu này.
Bất cứ nhà giáo dục nào cũng biết tuổi để dạy cho con trẻ những căn bản của luân lý, đạo đức là từ 6-12 tuổi. Trước tuổi ấy, ở mẫu giáo, trẻ con chỉ có thể lĩnh hội được vài phép tắc thông thường, chưa phải là luân lý vì chưa đủ ý thức để hiểu tại sao phải làm như vậy. Sau tuổi đó, khi trẻ đã lên trung học, thói quen đã thành thói quen, quá trễ để sửa chữa, để đặt nền móng đạo đức trong đầu. Vậy nhà trường dạy cho lớp tuổi từ 6-12 những giá trị căn bản gì?
Hãy dạy trẻ làm người cho ra người. Tôi thử kể một vài giá trị căn bản. Trước hết là lễ phép. Từ nhỏ, tôi đã nghe lải nhải "tiên học lễ hậu học văn". Nhưng cụ thể lễ phép là gì? Biểu lộ qua hành động thế nào, ngôn ngữ ra sao? Làm sao dạy trẻ hiểu rằng lễ phép là trọng người và trọng mình? Vì trọng mình cho nên lễ phép không phải là khúm núm, xun xoe, gãi đầu gãi tai, cúi cổ và cúi cả cái lưng. Thế nào là lễ phép bắt nguồn từ trái tim và lễ phép bắt nguồn từ những công thức, lề thói xơ cứng? Nhường bước cho người già bắt nguồn từ đâu?
Sau đó tôn trọng kỷ luật của đời sống tập thể. Vì sao? Vì ích lợi cho mình và cho tập thể. Đến trường đúng giờ. Sắp hàng vào lớp. Học thuộc bài. Tập trung chú ý. Im lặng. Im lặng cả khi kéo một chiếc ghế, lúc nhỏ tôi học như vậy, bây giờ mới biết ở các thiền viện đó là cách thức nhấc một chiếc ghế lên. Mục đích là gì? Là tạo thành thói quen tốt để khi lớn lên thói quen ấy thành nếp, làm một cách tự nhiên. Tôi nghĩ 6 tuổi đã có thể hiểu được để dạy thế nào là danh dự, thế nào là phẩm giá, ngay cả trong trò chơi...
Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi pth77: 15/03/2014 - 01:11


Thanked by 6 Members:

#32 Tâm Thiện

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 5383 Bài viết:
  • 18882 thanks

Gửi vào 15/03/2014 - 23:53

Cám ơn pth77 với những bài sưu tầm có giá trị nhân bản đã nói lên thực trạng đau lòng hiện đang xảy ra trên quê hương chúng ta. Thân
"Cái "đáng lo ngại" mà ai cũng thấy hiện nay là cái ác đang diễn ra một cách thản nhiên, như thể đó không còn là cái ác nữa. Trước bất lực của xã hội, biết làm gì hơn là vô tư, hồn nhiên, trong trắng làm những hành động thiện? Thắp một cây diêm, thắp một ngọn nến. Để còn có người nhìn vào xã hội mà nói: Không, xã hội này không phải chỉ là vô cảm, dửng dưng".

Sửa bởi tamthien: 15/03/2014 - 23:55


Thanked by 2 Members:

#33 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 18/03/2014 - 00:01

Lá thư của một người cha
Tôn Vận Tuyền
Đây là một lá thư của ông Tôn Vận Tuyền, một chính khách nổi tiếng của Đài Loan gởi cho các con của ông lúc ông còn sống.


Các con thân mến,

Đời sống là vô thường, không ai biết trước mình sống được bao lâu, có những việc cần nếu được nói ra sớm để hiểu thì hay hơn.

Dưới đây là những điều nên ghi nhớ trong cuộc đời :

1. Nếu có người đối xử với con không tốt, đừng thèm để tâm cho mất thời giờ.

Trong cuộc đời này, không ai có bổn phận phải đối xử tốt với con cả, ngoại trừ cha và mẹ của các con. Nếu có người đối xử tốt với con, ngoài việc các con phải biết ơn, trân quý, các con cũng nên thận trọng một chút, vì người đời thường làm việc gì cũng có mục đích của nó, chớ có vội vàng cho là bạn tốt của mình ngay.

2. Không có người nào mà không thể thay thế được cả; không có vật gì mà nhất thiết phải sở hữu, bám chặt lấy nó.

Nếu hiểu rõ được nguyên lý này, thì sau này trong cuộc đời, lỡ người bạn đời không còn muốn cùng đi trọn cuộc đời, hay vì lý do gì con bị mất đi những gì trân quý nhất trong đời, thì cũng nên hiểu, đó cũng không phải là chuyện trời sập.

3. Đời người ngắn ngủi, nếu hôm nay ta để lãng phí thời gian, mai đây hiểu được thì thấy rằng quãng đời đó đã vĩnh viễn mất rồi!

Cho nên, nếu ta càng biết trân quý sinh mạng của mình càng sớm, thì ta được tận hưởng cuộc đời mình càng nhiều hơn. Trông mong được sống trường thọ, chi bằng mình cứ tận hưởng cuộc đời mình ngay từ bây giờ.

4. Trên đời nầy chẳng hề có chuyện yêu thương bất diệt. Ái tình chỉ là một cảm xúc nhất thời. Cảm giác này, tuyệt đối sẽ theo thời gian, hoàn cảnh mà biến thiên, thay đổi.

Nếu người yêu bất diệt rời bỏ con rồi, hãy chịu khó nhẫn nại một chút, để thời gian dần dần trôi qua, để tâm tư mình từ từ lắng đọng, cái đau khổ cũng sẽ từ từ nhạt nhòa đi. Không nên cứ ôm áp cái ảo ảnh yêu thương mãi, cũng không nên quá bi lụy vì thất tình!

5. Tuy có nhiều người trên thế giới này thành công, nổi tiếng mà chẳng có học hành nhiều, có bằng cấp cao, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là không cần học hành nhiều sẽ thành công.

Kiến thức đạt được do việc học hành, giáo dục là vũ khí trong tay của mình. Ta có thể lập nên sự nghiệp với bàn tay trắng, nhưng không thể trong tay không có tấc sắt. Nên nhớ kỹ điều này !

6. Ba không yêu cầu các con phải phụng dưỡng ba trong nửa quãng đời còn lại của ba sau này. Ngược lại, ba cũng không thể bao bọc nửa quãng đời sau này của các con. Lúc các con đã trưởng thành, độc lập, đó cũng là lúc ba đã làm tròn thiên chức của ba. Sau này, các con có đi xe bus công cộng hay đi ô tô nhà, các con ăn súp vi cá hay ăn mì gói, đều là trách nhiệm của các con.

7. Các con có thể yêu cầu mình phải giữ chữ TÍN, nhưng không thể bắt người khác phải giữ chữ TÍN với mình. Các con có thể yêu cầu mình phải đối xử TỐT với người khác, nhưng không thể kỳ vọng người khác phải đối xử tốt với mình.

Mình đối xử người ta thế nào, không có nghĩa là người ta sẽ đối xử lại mình như thế ấy. Nếu không hiểu rõ được điều này, sẽ tự chuốc lấy buồn phiền cho mình.

8. Trong hai mươi năm qua, ba tuần nào cũng mua vé số, nhưng vẫn nghèo trắng tay. Điều này, chứng tỏ muốn phát đạt, phải siêng năng làm ăn mới khá được. Trên thế gian này, không có cái gì miễn phí cả.

9. Sum hợp gia đình, thân thích đều là duyên phận, bất luận trong kiếp này chúng ta sống chung với nhau được bao lâu, như thế nào, nên trân quý khoảng thời gian chúng ta được chung sống với nhau. Kiếp sau, dù ta có thuơng hay không thương, cũng không có dịp gặp lại nhau đâu.

Sửa bởi pth77: 18/03/2014 - 00:01


Thanked by 5 Members:

#34 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 18/03/2014 - 01:37

Dưới chân thầy
Võ Tá Hân


Năm 1994, ông Kwek Hong Png, người sáng lập tập đoàn Hong Leong ở Singapore, tạ thế! Ông là một nhân vật xuất chúng và những công trình của Hong Leong đã đóng góp rất nhiều cho sự phồn thịnh của Singapore nhưng ngày nay dường như rất ít người, ngay cả ở Singapore còn biết đến tên ông!

Sinh ra trong một gia đình nghèo ở Phúc Kiến, Trung Quốc, ông bỏ xứ sang Singapore năm 1928 khi mới 17 tuổi với 8 đô trong túi và một chiếc chiếu trên vai. Thế nhưng vào những năm cuối đời, ông Kwek Hong Png đã được tạp chí Forbes xếp hạng là người giàu nhất Singapore và cũng là một trong những người giàu nhất thế giới!

Khi mới đến Singapore, ông giúp việc trong một cửa hàng bán vật liệu xây dựng với số lương tháng là 5 đô. Mười ba năm sau, dành dụm được chút vốn, ông mở một công ty riêng và mời ba người em trai từ Phúc Kiến sang Singapore để hợp tác. Từ buôn bán sắt thép xi măng, ông bước sang lĩnh vực sản xuất, bất động sản, tài chính và khách sạn... Người em trai của ông là Kwek Hong Lye được giao trách nhiệm phát triển “mô hình Hong Leong” ở Malaysia để rồi sau này nhánh Hong Leong Malaysia lại trở thành một tập đoàn có tầm cỡ ngang ngửa với Hong Leong Singapore.

Cuối thập niên 1980 thì ông Kwek bắt đầu nhường dần việc điều hành tập đoàn cho hai người con trai. Tại thời điểm của bài viết này (2014), tổng tài sản của tập đoàn Hong Leong Singapore đã vượt quá 30 tỉ đô Sing, với hơn 40.000 nhân viên hoạt động tại 19 quốc gia trên thế giới.

Là một ngân hàng gia quốc tế, tôi được Bank of Montreal chuyển đi làm việc tại nhiều nơi trước khi đến Singapore năm 1981. Sau khi rời ngân hàng năm 1986, tôi được mời làm Tổng giám đốc của công ty bất động sản City Developments Limited (CDL), con chim đầu đàn của Hong Leong. Hai năm sau thì tôi được chuyển sang giữ chức vụ Tổng giám đốc Singapore Finance thuộc cánh tài chính của tập đoàn và đồng thời trở thành một thành viên HĐQT của CDL, bắt đầu một chuỗi những chức vụ khác trong các lĩnh vực kỹ nghệ, thương mại, đầu tư, khách sạn của Hong Leong suốt 25 năm.

Các chương trình điện toán siêu nhanh ngày nay rất dễ khiến con người cảm thấy “tự tin” hơn để đi đến... những quyết định nông cạn!

Làm việc với cụ Kwek trong tám năm trước khi người cha đẻ của Hong Leong qua đời, tôi luôn muốn biết xem làm sao mà một người không hề được đào tạo từ một trường lớp kinh doanh nào và cũng chưa xong trung học, lại có thể xây dựng được một sự nghiệp khổng lồ như thế? Ngày rời đại học với hai mảnh bằng về quản lý, có lẽ cũng như bao nhiêu bạn trẻ ngày nay, tôi đã có cái ảo tưởng là với khả năng “chẻ sợi tóc ra làm tám”, tất cả mọi bài toán kinh doanh cũng như bao chuyện khác đều có thể phân tích và giải quyết được.

Dưới chân thầy, tôi mới thấy rằng quản lý không phải chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. Cách quản lý của cụ Kwek, hay nói chung là của phương Đông, đôi lúc thấy thật đơn giản chứ không phức tạp như phương Tây, nhưng đã mang lại những kết quả to lớn không ngờ. Những cách quản lý ấy có còn áp dụng được trong thời buổi này hay không, tôi mong sẽ có dịp mang ra bàn bạc trong những bài viết sắp tới. Tuy nhiên có một điều nổi bật nhất là cách dùng người. Cụ Kwek chỉ quan tâm đến những người làm được việc và có đáng tin cậy hay không, chứ tuyệt nhiên không hề chú trọng đến bằng cấp. Dưới trướng của cụ không hề thấy bóng một vị tiến sĩ nào cả vì cụ cho rằng phần đông họ là những lý thuyết gia.

Giữa thập niên 1980, khi Singapore đang trải qua một cơn bão kinh tế khốc liệt thì thị trường tràn ngập các bất động sản được tung ra bán để trả nợ ngân hàng. Trong số những dự án mà tôi đã duyệt qua, có khách sạn Orchard với 350 phòng, tọa lạc tại một vị trí rất tốt ở trung tâm thành phố! Mặc dầu giá chào bán rất rẻ nhưng trước viễn cảnh kinh tế u tối, tôi đề nghị không nên đầu tư! Thế nhưng mặc những lời can ngăn từ mọi phía, cụ Kwek Hong Png quyết định đổ tiền ra mua lại khách sạn này và không những thế lại chi thêm 12 triệu đô để mua ba biệt thự ở bên cạnh. Mọi cơn bão rồi cũng đi qua, vài năm sau đó cụ cho phá ba ngôi biệt thự cũ ấy để xây thêm 350 phòng, biến Orchard Hotel thành một khách sạn 700 phòng. Ngày nay khách sạn này là ngôi sao sáng chói nhất trong toàn bộ 110 khách sạn thuộc nhánh Millenium & Copthorne Hotels của CDL!

Kỷ niệm thứ hai với cụ Kwek là lúc CDL xây tòa nhà Republic Plaza. Tôi còn nhớ ngày bước vào văn phòng cụ Kwek, cầm trên tay bản phân tích dự án xây dựng tòa nhà 64 tầng cao nhất Singapore này, tôi cất lời: “Thưa cụ, tôi đã phân tích kỹ phương cách tài trợ và bây giờ chỉ còn khoảng... 20 câu hỏi muốn xin ý kiến cụ để triển khai dự án này!”. Cụ Kwek liếc mắt nhìn bảng in điện toán dày đặc các con số rồi lẳng lặng đưa ba ngón tay ra trước mặt tôi và chậm rãi nói - bằng một giọng tiếng Anh đặc sệt Phúc Kiến: “Mr. Hân à! Tôi muốn anh nhớ cho tôi 3 điều: Thứ nhất là phải giữ giá xây dựng không được quá xxx đô mỗi thước vuông. Thứ hai là anh không trả quá 20 triệu đô để nới rộng mảnh đất ra con đường bên cạnh, và thứ ba...”. Thế rồi ông xua tay ra hiệu cuộc họp đã chấm dứt! Chỉ trừ khi có người phụ tá bên cạnh để thông dịch, các cuộc họp với cụ thường không kéo dài vì tôi không nói được tiếng Hoa còn cụ thì nói tiếng Anh không sõi lắm! Bước ra khỏi phòng họp, tôi cảm thấy bực mình! Nhớ lại ngày còn là chuyên viên cao cấp phân tích những dự án tài chính quốc tế khổng lồ của Bank of Montreal ở Toronto như xây đường ống dẫn dầu xuyên Canada, khoan mỏ dầu khí dưới vùng biển Kavalas, xây nhà máy hạt nhân, mua nhà máy lọc dầu... tôi phải viết những bài phân tích dày cộm, bàn bạc kỹ lưỡng và tranh cãi dai dẳng, thế nhưng bây giờ với dự án mấy trăm triệu đô này mà tất cả chỉ cần... ba ngón tay thôi sao?

Dưới chân thầy, tôi mới thấy rằng quản lý không phải chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật.

Mãi sau này khi đã “dày dạn chiến trường” ở châu Á hơn, tôi mới thấu hiểu được cách suy nghĩ của cụ! Được đào tạo từ những trường lớp quản lý kinh doanh và làm việc ở phương Tây, tôi chỉ biết nhìn các vấn đề một cách rất máy móc. Các chương trình điện toán siêu nhanh ngày nay rất dễ khiến con người cảm thấy “tự tin” hơn để đi đến... những quyết định nông cạn! Chỉ là một người chưa học xong trung học nhưng mấy chục năm “xông pha thương trường” dày dặn kinh nghiệm đã giúp cụ Kwek có một cái nhìn sâu rộng và một trực giác kinh doanh vô cùng bén nhạy. Cụ không hề bận tâm đến những điểm không quan trọng mà nhìn thấy cái “lý” của sự việc, không khác gì một cao thủ võ lâm biết nhắm vào các yếu huyệt của đối phương để tấn công! Không những chỉ cần chú tâm đến ba “yếu huyệt” của một dự án, cụ Kwek còn nhìn rất xa và biết lúc nào cần “ra tay” như trong dự án khách sạn Orchard. Cửa sổ cơ hội thường chỉ hé mở trong một khoảnh khắc rất ngắn mà nếu không biết nắm bắt thì cơ hội sẽ vụt bay không bao giờ trở lại!

Thế nào cũng sẽ có lắm người phê bình rằng hai điều trên đây thì chẳng có gì mới lạ, vì vấn đề muôn thuở vẫn là tiền lấy... từ đâu để đầu tư? Thôi thì chúng ta sẽ bàn đến chuyện này trong một dịp khác vậy!
nguồn: TBKTSG

Sửa bởi pth77: 18/03/2014 - 01:38


Thanked by 3 Members:

#35 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 20/03/2014 - 05:23

TAM TẠNG PHÁP SƯ CƯU MA LA THẬP VÀ CUỘC THIÊN DI VĨ ĐẠI CỦA TRÍ TUỆ BỒ ĐỀ

PHẠM LƯU VŨ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trước khi nhập Niết Bàn, Đức Phật dặn các đệ tử đặt mình quay đầu về phía Bắc, ngụ ý đạo Phật rồi sẽ phải truyền về phương Bắc.
Hơn chín trăm năm sau (khoảng trước, sau năm 400 SCN trở đi), đạo Phật quả nhiên truyền sang Trung Quốc, một phần để tránh những cuộc xung đột đẫm máu với một số tôn giáo khác, một phần cũng nhằm bảo vệ và tiếp tục truyền bá kinh tạng…
Cuộc thiên di vĩ đại này có những “nhân duyên” hết sức ly kì, kèm theo những sự kiện làm kinh động cả trời đất, quỷ thần…
Thầy Thích Thông Lai (sinh năm 1952), một vị Tỳ Kheo hiện sinh sống và hành đạo ở Mĩ đã nói về chuyện này trong một buổi pháp thoại, lại khéo bắt đầu từ một câu chuyện rất chi là… đời nay. Với lối biện giải tuyệt vời, uyên áo, không những chỉ ra những “nhân duyên” ghê gớm dẫn đến cuộc “thiên di” kinh điển không tiền khoáng hậu đó, thầy còn cho ta thấy sự thẳm sâu, ẩn tàng, tầng tầng, lớp lớp những “vỉa quặng” trí tuệ trong từng đoạn, từng phần, trong từng câu, từng chữ của văn chương Phật Giáo (Kinh Phật). Đó là một điều mà người đọc kinh đời nào cũng không thể xem thường.
Với tư cách là một người vô cùng hâm mộ và biết ơn các bậc tiền nhân, tôi mạn phép thầy Thông Lai, xin được viết lại câu chuyện này dựa theo những lời giảng trong buổi pháp thoại của thầy.
Có một vị tỳ kheo trong nước được Ban quản trị của một ngôi chùa ở Mĩ bảo lãnh mời sang du lịch thuyết pháp với thời hạn một năm. Do có sự nghịch duyên (?) với BQT ngôi chùa này, nên giấy tờ di trú của vị thầy (bỗng) bị trục trặc và có nguy cơ bị trục xuất sớm về Việt Nam. Ái ngại cho hoàn cảnh của thầy, một vị nữ cư sĩ (là Việt kiều) trong chùa đã mời thầy về nhà mình để tìm cách giúp đỡ. Vợ chồng người nữ cư sĩ này có một cô con gái là kĩ sư, lại theo đạo Tin Lành, không quan tâm gì đến đạo Phật. Rước ông thầy về nhà, vị nữ cư sĩ nhờ cô con gái thuê luật sư để làm lại giấy tờ di trú cho ông thầy, đặng giúp ông thầy có thể ở lại một cách hợp pháp.
Cô gái ban đầu từ chối vì không muốn vướng bận thêm việc, sau vì sự thuyết phục và nể bố mẹ nên cũng đồng ý. Vì vợ chồng vị nữ cư sĩ kia không biết lái xe nên trong thời gian đi lại làm giấy tờ, cô con gái cũng kiêm luôn lái xe chở ông thầy đi. Hơn 6 tháng trời, cô gái đã nhiệt tình bỏ công, bỏ của thuê mướn luật sư (tổng cộng 12 ngàn đô la). Cuối cùng, ông thầy đã được chính phủ Mĩ cấp giấy chứng nhận thường trú theo diện thẻ xanh tôn giáo. Và… nghiệp chướng đã xảy ra.
Hơn 6 tháng ở chung một nhà, ngồi chung một xe, cô gái đã đem lòng… yêu ông thầy. Và cô đã trình bày với bố mẹ ý định “rủ” ông thầy hoàn tục để kết hôn với nhau. Khỏi cần nói cũng biết, đối với bà mẹ là một cư sĩ thuần thành, thì điều đó là không thể chấp nhận. Thế còn vị thầy? Vị thầy ấy đã trả lời bà mẹ: “tôi không có tình ý gì với con gái bà, nhưng vì mang ơn nên tôi muốn đền đáp lại. Cô ấy muốn thế nào, tôi sẽ đền đáp như thế ấy…”. Bà mẹ tuyên bố dứt khoát, rằng không muốn ông thầy đọa địa ngục, nhất là cô con gái mình, bà viện dẫn kinh Địa Tạng, kinh nói con gái thế gian mà quyến rũ Tỳ kheo, đệ tử của Phật thì sẽ bị đọa vào ngục Vô Gián, đời đời kiếp kiếp không thể nào thoát ra được…
Đến lượt vị thầy lại viện dẫn câu chuyện thời Đức Phật còn tại thế, có tôn giả Thất Lai xuất gia vào chùa tu rồi lại hoàn tục để cưới vợ, trước sau tổng cộng đến 7 lần mà cuối cùng vẫn chứng quả A La Hán. Bà mẹ càng giận lắm: “tôi nói phần thầy thì có thể hoàn tục 7 lần, chuyện đó tôi không lo. Nhưng tôi lo là lo con gái tôi sẽ bị đọa địa ngục 7 lần…”.
Khá khen cho lòng quyết tâm của cô con gái. Mấy ngày sau, cô tìm đến một ngôi chùa gần đấy, đem việc rủ rê của mình ra hỏi vị sư trụ trì. Vị sư trụ trì hướng dẫn cô gái, rằng nếu quả có nghiệp vợ chồng, thì vị kia nên xả giới Tỳ kheo, hoàn tục làm cư sĩ tu ngũ giới tại gia rồi cưới vợ thì Đức Phật cũng không ngăn cản. Đức Phật chỉ quở trách những Tỳ kheo chưa xả giới hoàn tục mà lén lút làm chuyện dâm thì mới bị đọa vào ngục Vô Gián. Về phần “rủ rê” của cô gái, vị sư trụ trì dẫn kinh Lăng Nghiêm, nói việc con gái Ma Đăng Già quyến rũ tôn giả A Nan, mà cuối cùng vẫn đắc quả A La Hán trước cả tôn giả A Nan. Cô gái vớ được lời sư như vớ được của báu, bèn về nhà làm dữ, quyết liệt đòi mẹ cho kết hôn với ông thầy.
Đến lượt bà mẹ đích thân đến gặp vị sư trụ trì kia, yêu cầu giải đáp tại sao lại hướng dẫn “bậy bạ” cho con gái mình. Không ngờ vị sự trụ trì lại an nhiên trả lời: “tôi thấy trong kinh có trường hợp tương tự như vậy, thì tôi cũng theo kinh mà giải thích…”. Bà mẹ càng tức giận: “tôi không đọc và cũng không tin những chuyện ấy…”. Vị sư hỏi vậy bà không tin chuyện tôn giả Thất Lai hay sao? chẳng hay hàng ngày bà thường tụng những kinh gì? Bà mẹ trả lời rằng xưa nay, mỗi ngày vợ chồng bà chỉ tụng kinh Pháp Hoa, và chỉ tin vào kinh Pháp Hoa mà thôi. Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật đâu có dạy tỳ kheo hoàn tục để cưới vợ? Và bà càng bất ngờ hơn khi vị sư trụ trì mỉm cười bảo: “Ồ, nếu bà chuyên tụng kinh Pháp Hoa và tin kinh Pháp Hoa, thì hãy về đọc kĩ lại từ đầu tới cuối, sẽ thấy trong quyển kinh ấy có trường hợp tương tự như trường hợp của con gái bà”.
Tôi, người đang viết những dòng này nghe tới đây cũng cảm thấy kinh ngạc, bởi tôi cũng từng nhiều lần đọc kinh Pháp Hoa. Suốt hai mươi tám phẩm của bộ kinh ấy, tuyệt không có lấy một chữ nào ngụ ý đến một trường hợp tương tự. Vậy mà vị sư trụ trì kia lại khẳng định, lại tự tin đến thản nhiên như thế? Tất nhiên bà mẹ kia cũng giống như tôi. Chán nản vì không thể tìm ra lời dạy của Đức Phật nói về chuyện ấy trong bộ kinh, vợ chồng vị nữ cư sĩ bèn viết thư, gọi điện hỏi hầu hết các các vị Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng… trong khắp nước Mĩ, kết quả cũng không thầy nào tìm ra để chỉ cho bà.
Chính thầy Thông Lai lúc ấy cũng không là ngoại lệ. Một người đã thọ giới tỳ kheo ngót bốn chục năm trời, đã từng giảng bao nhiêu bộ kinh (trong đó có cả kinh Pháp Hoa), thì kinh Pháp Hoa đối với thầy kể như đã thuộc lòng. Vậy mà thầy vẫn phải lật lại toàn bộ bộ kinh để dò từng câu, từng chữ rồi suy nghĩ đến mất ngủ…
Điều cần tìm lặn sâu tận đâu đó trong quyển kinh? Câu nói của vị sư trụ trì kia: “hãy về đọc kĩ lại từ đầu tới cuối…”. Phải có điều gì ẩn trong câu nói đó chứ không phải tự nhiên mà vị ấy nói ra… Thầy Thông Lai lại mở kinh ra. Câu đầu tiên: “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, quyển thứ nhất, đời Diêu Tần, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập phụng chiếu dịch…”. Phải chăng có chuyện gì đó ẩn mình trong 8 chữ: “Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập”? – thầy Thông Lai suy nghĩ.
Quả có chuyện thật, và đây, câu chuyện về Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập:
Hoàng đế nước Phù Tần là Phù Kiên (337-385 SCN) rất tôn sùng đạo Phật, nghe lời tâu của quan Khâm thiên giám rằng: “Bệ hạ muốn có người tài giỏi, tinh thông cả tam tạng kinh điển, mà lại thông thạo cả tiếng Hán để dịch kinh Phật từ tiếng Phạn, thì phải mời cho được một vị Tam Tạng Pháp Sư là ngài Cưu Ma La Thập về đây để giúp Bệ hạ phiên dịch kinh điển.”
Thế là “nhân duyên” để kinh Phật truyền sang Trung Quốc đã bắt đầu phát lộ từ lời tâu của vị quan trên. Song Tam Tạng kinh điển đâu phải chuyện đùa, và cái “nhân duyên” ấy đâu chỉ đơn giản nằm trong một chữ “mời” mà xong. Pháp sư Cưu Ma La Thập lúc ấy đang là một vị thuộc hàng Quốc bảo của quốc vương nước Quy Tư (tức Apganistan ngày nay). Nước Quy Tư nằm giữa Trung Quốc và Ấn Độ nên cư dân ở đó hầu hết biết cả tiếng Phạn và tiếng Hán. Pháp sư Cưu Ma La Thập chính là con trai của vị công chúa độc nhất của Quốc vương nước Quy Tư. Biết rằng không dễ gì mà Quốc vương Quy Tư lại để cho đứa cháu ngoại nối dõi của mình sang hoằng pháp tại Phù Tần, Hoàng đế Phù Kiên bèn cử Đại tướng là Lữ Quang đem mấy trăm vạn binh mã sang đánh nước Quy Tư nhằm cướp cho được Ngài Cưu Ma La Thập đem về làm Quốc sư.
Mặc dù Ngài Cưu Ma La Thập khuyên Quốc vương Quy Tư nên để cho mình sang Phù Tần, giúp Phù Tần phiên dịch kinh điển vài năm để tránh cho dân chúng khỏi nạn binh đao. Song Quốc Vương Quy Tư không nghe, vẫn đem quân chống lại. Kết quả sau 6 tháng giao chiến, Quốc vương Quy Tư thua trận bị giết, Lữ Quang bắt được Ngài Cưu Ma La Thập đem về Phù Tần.
Trên đường trở về, một hôm, Lữ Quang đóng quân tại một thung lũng để nghỉ qua đêm, Pháp Sư Cưu Ma La Thập nhập thiền định và biết đêm đó sẽ có động đất và mưa lớn ngay tại vị trí đóng quân. Ngài khuyên Lữ Quang nên rời khỏi chỗ đó nếu không sẽ gặp tai họa. Lữ Quang không tin và cứ đóng quân ở lại. Quả nhiên đêm ấy trời mưa lớn kèm theo động đất, nước dâng lên kèm theo đá từ trên núi lăn xuống làm chết tới phân nửa quân sĩ. Bấy giờ Lữ Quang mới tin rằng Ngàu Cưu Ma La Thập có tài biết trước cả thiên cơ.
Một nửa quân số còn lại của Lữ Quang tiếp tục trở về kinh đô nước Phù Tần. Giữa đường bỗng nghe tin trong nước có biến loạn, hoàng đế Phù Kiên bị Đại tướng của mình là Diêu Trường (331-394) giết chết và cướp ngôi, đổi thành nước Diêu Tần. Cả vợ con Lữ Quang cũng bị Diêu Trường tàn sát. Lữ Quang vì thế không thể trở về, bèn đóng quân lại ở vùng biên cương rồi chiếm lấy một vùng, lập ra một nước nhỏ làm căn cứ.
Ngài Cưu Ma La Thập ở trong quân của Lữ Quang, nghĩa là Tam Tạng kinh điển đang trên đường truyền sang phương Bắc. Những việc kinh động ấy của Trời, Đất, của nước Phù Trần kia đều nằm trong những “nhân duyên” ghê gớm của một cuộc thiên di vĩ đại. Kể cả việc Ngài cùng với quân sĩ của Lữ Quang rồi sẽ phải nằm lại thêm mười năm ròng rã ở chốn biên cương này mới hội đủ “duyên” cho những pho kinh điển bất hủ của cả Trời, Đất, quỷ thần kia chính thức chuyển sang thành Hán ngữ.
Lữ Quang vô cùng oán hận, chỉ vì một Cưu Ma La Thập mà cả vua mình lẫn vợ con mình đều bị giết. Xưa nay làm tướng cầm quân xông pha trận mạc, chỉ một là cướp đất, tranh thành, hai là cướp châu báu, gái đẹp. Có đâu lại đi cướp một ông… thầy chùa để đến nỗi nước mất, nhà tan. Lữ Quang những muốn đem Ngài Cưu Ma La Thập ra chém quách cho hả giận, nhưng nhớ lại trận động đất, mưa gió kinh hoàng khi trước mà Ngài đã báo trước, cộng với uy tín, tiếng tăm của Ngài đã đồn ra khắp thiên hạ làm Lữ Quang e ngại chưa dám ra tay.
Bấy giờ, những quân sư của Lữ Quang cũng căm việc ấy lắm, bèn bày kế dùng gái đẹp để dụ cho Ngài phạm giới để có cớ đem giết đi. Lữ Quang lập tức cho người đi khắp nơi, tuyển lấy một nghìn gái đẹp, đưa vào hầu hạ Ngài suốt cả ngày đêm đồng thời cử người theo dõi. Suốt mười năm liền như thế, Ngài Cưu Ma La Thập vẫn vững lòng một mực giữ giới, không hề lay động mảy may. Từ chỗ oán hận, dần dần Lữ Quang đã đổi thành sự kính phục đối với Ngài. Và, âm mưu thử thách đó, những kẻ phàm tục đời mạt pháp làm sao có thể hiểu được, rằng nó cũng nằm trong cái “nhân duyên” kì diệu của công cuộc truyền tống kinh điển của Ngài sau này.
Mười năm sống cùng những mĩ nữ ở khắp các vùng thuộc đất Trung Quốc đã khiến cho Ngài Cưu Ma La Thập trở nên tinh thông tiếng Hán hơn bao giờ hết. Bấy giờ mới hội đủ “duyên” cho Tam Tạng Kinh điển bắt đầu có thêm một ngôn ngữ mới: tiếng Hán. Năm 395, Diêu Trường chết, con là Diêu Hưng (396-416) lên nối ngôi. Diêu Hưng là một ông vua sùng Nho học, đề cao Phật Giáo, đã sai sứ đến gặp Lữ Quang thương thuyết, xóa bỏ hận thù và đón Ngài Cưu Ma La Thập về kinh phong làm Tam Tạng Quốc Sư, bắt đầu công cuộc phiên dịch kinh Phật. Bấy giờ là vào năm 401 SCN.
Thế là trải qua bao sự kiện kinh thiên động địa kể từ khi “nhân duyên” phát lộ, cuộc thiên di vĩ đại của Tam Tạng kinh điển đã tới cái nơi cần tới, đúng như sự tiên tri của bậc Toàn Giác ngót một nghìn năm về trước. Vua Diêu Tần huy động một lực lượng khổng lồ gồm 800 vị Tỳ kheo, 1200 vị Tú tài, 500 vị Bảng nhãn và 10 vị Tiến sĩ để hỗ trợ Ngài Cưu Ma La Thập dịch kinh. Trong lúc dịch, tất cả những vị này đều phải ngậm nhang. Suốt thời gian dịch phải trường chay giữ giới để giữ trọn ba nghiệp tuyệt đối thanh tịnh…
Không cần phải liệt kê ra đây những bộ kinh mà Ngài Cưu Ma La Thập đã phiên dịch trong công cuộc này. Chỉ biết rằng văn chương tuyệt hảo và chất lượng của những bản dịch ấy xứng đáng là mẫu mực cho môn dịch thuật khắp muôn đời về sau. Đến nỗi trước khi viên tịch, Pháp Sư Cưu Ma La Thập có lời nguyện rằng, nếu ông đã phiên dịch những bộ kinh ấy đúng với ý Phật, thì khi hỏa thiêu, lưỡi ông sẽ còn nguyên. Ngược lại, toàn thân ông cùng cái lưỡi sẽ cháy hết ra tro. Kết quả sau khi thiêu, ông đã để lại cho đời sau chiếc lưỡi đã biến thành xá lỵ, còn nguyên vẹn và bền vững như kim cương không gì phá hủy nổi.
Quay trở lại câu chuyện “trần tục” đời nay trên kia giữa ông thầy Tỳ kheo muốn xả giới và cô con gái vị nữ cư sĩ nọ. Cả một cuộc thiên di vĩ đại của Tam Tạng kinh điển ẩn phía sau 8 chữ: “Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập” ở đầu quyển kinh như đã nói, quả có một chi tiết liên quan đến sự “hoàn tục” của một vị Tỳ kheo. Đó là chuyện Đại tướng Lữ Quang dùng 1000 mĩ nữ để “dụ” cho Ngài Cưu Ma La Thập phá giới nhưng bất thành. Song, câu chuyện đó chỉ có chút “liên quan”, quyết không phải là “một trường hợp tương tự” như hoàn cảnh của ông thầy và cô con gái, mà vị sư trụ trì ở ngôi chùa nọ muốn ngụ ý nhắm tới. Vậy phải chăng còn “vỉa quặng” nào nữa nằm sâu phía sau 8 chữ đó vẫn chưa được “đào” tới?
Và câu chuyện, thì ra còn phải lần tới… đời cha của Ngài Cưu Ma La Thập.
Cha Cưu Ma La Thập là Cưu Ma La Viên, vốn là một vị tể tướng của một nước thuộc Ấn Độ. Ngài vì ham muốn đạo Giác ngộ, Giải thoát nên đã từ chức tể tương để xuất gia tu hành. Trên đường hoằng pháp, Ngài đi qua kinh đô nước Quy Tư vào đúng thời gian Công chúa độc nhất của nước Quy Tư đang gieo cầu kén chọn Phò mã. Công chúa nước Quy Tư lúc đó là người vốn cũng rất hâm mộ đạo Phật nên ăn chay từ thuở bé, tới năm 16 tuổi, Công chúa đòi xuất gia tu hành. Quốc vương nước Quy Tư vì chỉ sinh được mình Công chúa nên ra sức khuyên răn Công chúa lấy chồng để có người nối dõi ngôi vua. Khuyên bảo mãi, cuối cùng, Công chúa cũng đồng ý với điều kiện vua cha phải để cho Nàng được tự do kén chồng. Thế là đài gieo cầu được dựng lên giữa kinh đô nước Quy Tư.
Công chúa nước Quy Tư không phải người thường, mà có biệt nhãn, có thể xem được tướng mạo của mọi người trong khắp thế gian. Vì thế đài dựng lên đã được 3 năm mà vẫn không kén được ai ưng ý. Bất ngờ hôm ấy thấy một vị Tỳ kheo đang đi ngang qua, Công chúa nhìn tướng, biết vị này tu hành tuy khó thành chính quả, song có quý tướng sinh ra con Thánh, bèn rung chuông báo hiệu, sai người mời vị Tỳ kheo kia về.
Vị Tỳ kheo ấy chính là Ngài Cưu Ma La Viên. Thế là “màn” dụ dỗ, ép buộc xả giới để hoàn tục diễn ra. Công chúa nói thẳng với Ngài Cưu Ma La Viên rằng Ngài dẫu có tu đến cho hết đời cũng không thể trở thành chính quả. Song nếu kết hôn với Nàng, thì Ngài và Nàng có thể sinh một đứa con Thánh, sau này chính đứa con ấy mới có khả năng “độ” cho Ngài chóng được Giác ngộ, Giải thoát. Thế là một bên là cái chết, một bên là làm Phò mã và sẽ sinh con Thánh, rốt cuộc Ngài Cưu Ma La Viên đã đồng ý xả giới, từ bỏ kiếp tu hành để kết hôn với Công chúa, làm Phò mã nước Quy Tư.
Đến đây thì quả đã có việc “tương tự” với trường hợp ở đời vị lai này như đã nói ở trên. Vị sư trụ trì ở ngôi chùa nọ quả là một nhà tu hành có trí tuệ thâm sâu. Ngài Cưu Ma La Viên kết hôn cùng Công chúa nước Quy Tư, sau sinh ra Ngài Cưu Ma La Thập. Chú bé Cưu Ma La Thập cũng ham thích đạo Phật và ăn chay từ nhỏ. Năm lên 6 tuổi, Ngài được truyền tam quy ngũ giới và chính thức xuất gia tu hành. Ngay lúc đó, cả cha mẹ Ngài là Ngài Cưu Ma La Viên và Công chúa cũng đồng thời cạo đầu xuất gia. Cả ba người về sau đều thành chính quả.
Thế là rốt cuộc, phải “đào” sâu tít mãi phía bên trong của 8 chữ nằm ngay đầu quyển kinh Pháp Hoa ấy, mới tìm thấy quả có một câu chuyện tương tự, lại có được một cái “kết” vô cùng có hậu, đó là vô lượng công đức mà Ngài Cưu Ma La Thập đã, đang, và sẽ dành cho vô lượng kiếp của lớp lớp những chúng sinh sau này. Mới hay khi đọc những bộ kinh như kinh Pháp Hoa, thì không thể bỏ qua bất cứ một chữ nào, kể cả những ghi chú ở ngay đầu quyển kinh.
Không biết khi nghe được đến đây, thì bà mẹ cư sĩ kia có bị thuyết phục hay không? Và câu chuyện của ông thầy và cô con gái kia sẽ kết thúc thế nào? Thầy Thông Lai có một cách lý giải rất hay. Rằng tuy trong quyển kinh Pháp Hoa quả có chuyện tương tự, song về bản chất, câu chuyện thời quá khứ ấy vẫn khác một trời một vực với câu chuyện trần tục kia ở đời vị lai này. Tât cả đều xuất phát từ thâm ý của Đức Phật trước khi Ngài nhập Niết Bàn, rằng Tam Tạng Kinh điển cùng với sự hoằng dương rực rỡ của Đạo Phật, rồi sẽ được truyền sang phương Bắc. Để mà tận chín trăm năm sau, mới có thể xuất hiện những “nhân duyên” cho công cuộc thiên di vĩ đại, không tiền khoáng hậu đó. Vậy thì câu chuyện xả giới hoàn tục của Ngài Cưu Ma La Viên, sự xuất hiện của vị Công chúa ở cõi trần này, phải chăng không là ngẫu nhiên, mà chính là những “huyền cơ”, những “nhân duyên” không thể nghĩ bàn… tất cả nhằm cho ra đời một vị như Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập? Và cả ba vị, phải chăng là những vị Bồ Tát, La Hán thị hiện xuống cuộc đời ngũ trược này để thực hiện công cuộc thiên di Tam Tạng kinh điển vĩ đại đó?

Tháng 2 năm Giáp Ngọ.


Sửa bởi pth77: 20/03/2014 - 05:24


Thanked by 4 Members:

#36 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 21/03/2014 - 00:41

Tin tức có hại cho bạn – Từ bỏ thói quen đọc chúng khiến bạn hạnh phúc hơn

Tin tức gây lệch lạc
Lấy ví dụ sự kiện sau đây (mượn từ Nassim Taleb). Một chiếc xe lái qua một cây cầu, và cây cầu sập. Giới truyền thông tập trung vào điều gì? Xe. Người trong xe. Nơi ông ta đến. Nơi ông dự định đi . Trải nghiệm ông đã phải trải qua trong vụ tai nạn (nếu còn sống). Nhưng tất cả chúng chẳng đáng để chúng ta phải bận tâm nhiều. Thế thì cái gì đáng để bận tâm? Đó là tại sao câu *** sập, đó mới chính là mối nguy hiểm tiềm tàng, có thể đang ẩn nấp trong các cây cầu khác nữa. Chiếc xe ấy hào nhoáng, nó gây ấn tượng cảm xúc mạnh, và nhân vật chính là một con người chứ không phải một vật vô tri khác. Thế nhưng điều quan trọng nhất đó chính là việc khai thác khía cạnh đó để đưa tin nhàn và tốn ít chi phí hơn nhiều so với việc đi phân tích các cây cầu.
Tin tức làm chúng ta bị lệch lạc hoàn toàn trong việc đánh giá cái gì là nguy hại và cái gì thì không. Chủ nghĩa khủng bố bị phóng đại thái quá. Stress do làm việc quá sức thì bị xem nhẹ. Ảnh hưởng của sự sụp đổ của các ngân hàng lớn thì bị thổi phồng. Trách nhiệm của những nhà dự báo kinh tế thì bị chẳng được nhắc đến. Người ta xem trọng phi hành gia quá mức. Còn y tá thì bị đánh giá thấp. Danh sách cứ tiếp diễn mãi như vậy. Bạn có nghĩ ra trong những tin tức mà giới truyền thông VN khai thác và mổ xẻ thời gian gần đây, cái gì bị thổi phồng quá mức mà những thông tin quan trọng khác bị phớt lờ không? Cứu nạn máy bay Malaysia gặp nạn? Vụ Huyền Chíp? Hôi của?
Chúng ta thường thiếu lý trí, sự bình tâm và dễ dàng bị truyền thông dắt mũi. Chứng kiến trực tiếp một vụ tai nạn máy bay trên truyền hình sẽ thay đổi thái độ của bạn đối với chính rủi ro đó, bất kể một thực tế đã được chứng mình rằng xác suất thực sự của việc rơi máy bay là cực nhỏ, và nó là phương tiện giao thông an toàn hơn ô tô, tàu hỏa rất nhiều. Nếu bạn đang nghĩ rằng ý tưởng tin tức có thể ảnh hưởng đến tư duy và thái độ của mình thật buồn cười, rằng mình hoàn toàn có thể đọc nó mà không bị nó tác động hay làm cho mình bị lệch lạc đi thì bạn đã lầm to. Những ông chủ ngân hàng và các nhà kinh tế học, những người mà đáng lý quyết định của mình phải dựa trên lý trí và các bằng chứng thực tế thay vì xu hướng của đám đông hay sự nhảy nhót nhất thời của giá cả đã cho thấy rằng con người hành động dựa trên cảm tính nhiều thế nào và ít dùng lý trí ra sao.
Aritxtốt từng nói rằng để một tâm trí có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn một ý kiến, một quan điểm mà không phải chấp nhận, không phải tin vào nó đòi hỏi một sự giáo dục rất lớn. Vậy nếu bạn không có khả năng nhìn được tổng thể, đa chiều ở một sự kiện mình chưa hiểu thực sự rõ và không muốn để truyền thông dắt mũi, bạn phải làm gì?
Giải pháp đơn giản nhất đó chính là cắt bỏ hoàn toàn khỏi việc tiêu thụ tin tức.

Tin tức ít có giá trị
Trong số 10 nghìn tin tức bạn đã đọc trong vòng 12 tháng trở lại đây, hãy thử kể tên điều gì đã thực sự giúp bạn tư duy tốt hơn, ra quyết định khiến cho cuộc sống của bạn tốt hơn, sự nghiệp của bạn tốt hơn? “Có đọc có hơn” là một sự lừa mị to lớn. Nếu bạn là một người thực tế, hãy để kết quả ngoài cuộc sống là câu trả lời chính xác nhất, chứ đừng là một tư duy đầy cảm tính và phổ biến sau đây : “Đọc báo không có lợi ở mặt này thì có lợi ở mặt khác, chưa phải bây giờ thì là sau này”. Như đã nói, con người không lý trí như mình nghĩ, và thực sự ít người có thể giỏi trong kiểu tư duy được-mất đó. Phần lớn bạn sẽ rơi vào nhóm những người bị mất hơn là được.
Mọi người càng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm ra cái gì thực sự phù hợp cho bản thân mình, hay lớn hơn là kiểu tư duy của mình có còn phù hợp với xã hội ngày nay, với thời đại hiện giờ nữa hay không? Các tập đoàn truyền thông đưa cho bạn một giải pháp giản đơn cho câu hỏi đó : càng cập nhật những thông tin mới nhất, hiểu biết mới nhất về thế giới sẽ tạo cho bạn một lợi thế cạnh tranh to lớn so với người khác. Thế nhưng thực sự thì điều gì phù hợp với con người bạn mới giúp bạn đi đúng hướng, những điều mới nhất nhưng khiến cho bạn đi lệch khỏi bản chất của bạn chỉ tổ khiến cho bạn tốn thời gian vô ích. Tin tức không phù hợp chỉ tăng thêm tính bất lợi cho bạn mà thôi. Càng ít tiêu thụ chúng càng tốt cho bạn hơn.
Họ nói rằng nên đọc báo. Họ nói rằng nó sẽ khiến tôi tốt hơn.

Tin tức không cho bạn biết được điều gì đang thực sự diễn ra
Các mẩu tin là những cái bong bóng nhỏ nổ trên bề mặt chứ không cho bạn biết được điều gì đang tạo ra những bong bóng kia ở sâu bên dưới những gì bạn có thể nhìn thấy. Thu thập những mẩu dữ kiện đó có thể giúp bạn hiểu cách thế giới vận hành? Đáng buồn là không phải vậy. Những điều đang vận hành thế giới hay thay đổi thế giới này là những trào lưu, là những vận động ở dạng ngầm ẩn mà các nhà báo khó mà có thể phát hiện ra được.
Hãy nghĩ về những phát minh đã làm thay đổi thế giới. Trước khi chúng trở thành sự thật, trở thành một thế lực khiến giới truyền thông quan tâm đến là cả một thời kỳ dài tích lũy, nghiên cứu và phát triển trong âm thầm. Bill Gates bắt đầu được báo chí để mắt khi ông ở tầm tuổi 30, nhưng thực sự ông đã bắt đầu lập trình từ khi ông 13 tuổi. Nói cách khác một tài năng được thành hình trong lặng lẽ trong hai chục năm. Sẽ phải đòi hỏi một năng lực siêu phàm thì các nhà báo mới có thể phát hiện ra được những tài năng, những trào lưu đột phá đang âm thầm phát triển xung quanh họ. Thêm nữa, đó cũng chẳng phải việc nhà báo được trả lương phải làm. Báo chí và tin tức sẽ chỉ cho bạn biết
thêm thông tin về những ai đã nổi tiếng, đã thành công mà thôi.
“Không có tiềng kèn nào được cất lên khi những quyết định quan trọng được tạo ra. Định mệnh được tạo nên trong âm thầm”
Bạn càng tiêu hóa nhiều mẩu tin tức vụn vặt kiểu đó, bạn càng có ít hiểu biết về bức tranh toàn cảnh của vấn đề. Nếu như nhiều thông tin hơn sẽ dẫn đến thành công cao hơn trong cuộc sống thì chắc hẳn những nhà báo, những học giả hay những người giao dịch chứng khoán hay những người đọc tin tức nhiều nói chung sẽ là những người giàu có và quyền lực nhất trong xã hội. Thực tế thì khác xa như vậy.

Tin tức độc hại đối với cơ thể của bạn.
Nó liên tục kích hoạt hệ viền (limbic system) thuộc não bộ . Những câu chuyện đáng sợ thúc đẩy việc phát tán của các dòng của glucocorticoid (cortisol) . Điều này làm nhiễu loạn hệ thống miễn dịch của bạn và ức chế sự phát tán của các hormone tăng trưởng . Nói cách khác, cơ thể sẽ gặp phải tình trạng căng thẳng mãn tính (chronic stress). Các mức độ glucocorticoid cao khiến cho tiêu hóa trục trặc, xương và tóc gặp trục trặc trong khả năng phát triển và tình trạng mẫn cảm với bệnh truyền nhiễm. Các tác dụng phụ có thể bao gồm sợ hãi, hung hăng, và thiếu nhạy cảm.

Tin tức làm tăng nhận thức lỗi.
Tin tức nuôi dưỡng mầm mống của một loại lỗi nhận thức phổ biến : sự củng cố thành kiến (confirmation bias). Nói như Warren Buffett: “Những gì con người làm tốt nhất là giải thích tất cả các thông tin mới làm sao cho các kết luận trước đó của họ vẫn chính xác.” Tin tức chỉ liên tục khiến bạn tin thêm vào những gì bạn đã biết trước đó. Điều đó khiến cho bạn trở nên tự tin thái quá, chấp nhận những rủi ro ngu ngốc và đánh giá sai lệch các cơ hội.
Hiện nay trên báo chí đầy rẫy những suy luận, gán ghép hết sức chủ quan và sai lệch. Nó đôi khi còn được ngụy trang bằng những gợi ý nho nhỏ, bạn nên suy nghĩ thế này, nên suy luận thế kia. Các bạn có quen thuộc với những câu chữ suy luận dạng “Công ty phá sản vì X…” “Thế giới được thay đổi bởi Y…” trong khi hoàn toàn thiếu những chứng cứ thuyết phục. Tôi đã thực sự chán ngấy khi đọc những bài báo đưa tin về 1 sự kiện diễn ra ngắn ngủn đi kèm với 1 nhận định đầy chủ quan và nguy hiểm ở cuối bài rồi. Các bạn chắc hẳn cũng chẳng xa lạ gì với điều kể trên, vậy tại sao vẫn tiếp tay cho chúng bằng việc tiếp tục đọc những tin tức kiểu đó, những tờ báo kiểu đó?

Tin tức ức chế suy nghĩ
Suy nghĩ đòi hỏi sự tập trung. Muốn tập trung được bạn cần thời gian không bị gián đoạn. Tin tức được thiết kế đặc biệt để gây sao nhãng, cản trở việc tư duy của bạn. Tin tức làm cho tư tưởng của chúng ta trở nên nông cạn.
Nhưng tin tức còn tồi tệ hơn cho khả năng ghi nhớ của bạn. Có hai loại bộ nhớ : ngắn hạn và dài hạn. Khả năng của bộ nhớ dài hạn (long-range memory) là gần như vô hạn, nhưng bộ nhớ ngắn hạn (working memory) có giới hạn rất nhỏ. Đường đi từ trí nhớ ngắn hạn đến trí nhớ dài hạn là một nút thắt cổ chai của quá trình tư duy, nhưng bất cứ điều gì bạn muốn hiểu và ghi nhớ đều phải đi qua. Bởi vì tin tức nhồi vào trí nhớ ngắn hạn quá nhiều thông tin, khiến nó trở nên quá tải, ta sẽ chẳng nhớ và hiểu nổi thông tin nào một cách đầy đủ và tường tận. Tin tức trực tuyến thậm chí còn tệ hơn. Trong một nghiên cứu năm 2001, hai học giả Canada cho thấy khả năng hiểu giảm khi số lượng các siêu liên kết (hyperlink) trong một tài liệu tăng lên. Tại sao vậy? Bởi vì bất cứ khi nào một liên kết xuất hiện, bộ não của bạn phải chia sẻ một ít trí năng của mình để phán đoán xem có click hay không. Nói cách khác báo chí và tin tức là một hệ thống được tạo nên với mục đích làm phân mảnh và rời rạc sự tập trung cũng như tư duy của bạn : Đọc mỗi thứ một tí, chỗ này một ít, chỗ kia một tẹo.

Tin tức thay đổi cấu trúc bộ não
Khi đã theo dõi một chủ đề nào đó, ta sẽ có xu hướng tìm đọc và cập nhật những diễn biến mới của câu chuyện đó. Hình ảnh một người đăng một post lên Facebook và refresh liên tục để xem có ai like hay bình luận gì không có quen thuộc với bạn không? Cảm giác chờ đợi thứ đó gì đó mới kiểu vậy không khác mấy cảm giác khi chúng ta nghiện thứ gì đó : thuốc lá, rượu, cờ bạc, ma túy…
Trước kia các nhà khoa học nghĩ rằng cấu trúc vật lý của bộ não từ lúc trưởng thành cho tới lúc chết là không thay đổi , tuy nhiên điều này đã được khẳng định là không đúng. Bộ não người, kể cả những người trưởng thành đều rất mềm dẻo và dễ thay đổi. Nơron liên tục cắt đứt các kết nối cũ để hình thành nên các kết nối với nơron mới và cấu trúc vật lý của bộ não cũng như thói quen tư duy của chúng ta sẽ thay đổi theo. Càng nghiện thứ gì, thứ đó lại càng trở thành thói quen ưa thích, cách tư duy ưa thích của chúng ta. Ngày nay một vấn nạn dễ thấy đó là khả năng mất tập trung và khó tiêu hóa nổi những bài viết dài. Chỉ sau 5-10 phút đọc là chúng ta không thể tập trung để đọc tiếp được nữa, trong số đó có cả những người trước kia đã từng là độc giả trung thành của những quyển sách dày. Cấu trúc bộ não của họ đơn giản là đã bị thay đổi vì thói quen đọc báo.

Tin tức làm tốn thời gian vô ích
Nếu bạn đọc báo 15 phút mỗi buổi sáng, bạn sẽ lại tiếp tục tìm kiếm những tờ báo trong 15 phút buổi trưa, và chốc chốc mỗi 5 phút bạn lại thấy mình lên các tờ báo để tìm kiếm những thông tin mới. Cuối cùng bạn mất cả đống thời gian để tìm xem có gì mới hơn trên các tờ báo nữa hay không.
Thời đại ngày nay, thông tin không còn là một thứ thiếu thốn nữa, nhưng sự tập trung thì có. Thông tin là vô hạn, nhưng thời gian của bạn thì luôn luôn là hữu hạn. Bạn sẽ chẳng bao giờ tiêu tốn một cách vô trách nhiệm với những thứ quan trọng khác như tiền bạc, sức khỏe hay danh tiếng của mình. Vậy tại sao lại hành xử thiếu trách nhiệm như vậy với thời gian và tâm trí đến vậy?

Tin tức giết chết sự sáng tạo.
Cuối cùng, những điều chúng ta đã biết hạn chế sự sáng tạo của chúng ta. Đây là một lý do khiến các nhà toán học, nhà văn, nhà soạn nhạc và doanh nhân thường tạo ra các tác phẩm sáng tạo nhất của họ khi còn trẻ. Bộ não của họ được hưởng một không gian rộng rãi và không bị chiếm chật ních bởi những thứ vô bổ, điều chẳng giúp ích gì trong việc kích thích họ sản xuất những ý tưởng mới lạ. Tôi không biết một tâm trí thật sự sáng tạo nào như nhà văn, nhà soạn nhạc, nhà toán học, bác sĩ, nhà khoa học, nhạc sĩ, nhà thiết kế, kiến trúc sư hoặc họa sĩ mà lại là một người nghiện tin tức. Mặt khác, tôi biết một loạt các tâm trí độc ác không sáng tạo, những người tiêu thụ tin tức như thuốc phiện. Nếu bạn muốn đưa ra các giải pháp cũ, hãy đọc tin tức. Nếu bạn đang tìm kiếm những giải pháp mới, đừng đọc.
Xã hội cần báo chí – nhưng theo một cách khác. Báo chí điều tra luôn luôn là cần thiết, để phơi bày những sự thật được che dấu mà chúng ta chưa được biết. Nó cũng đưa cho chúng ta biết về các chính sách mà các tổ chức, định chế quan trọng của xã hội đang thực thi. Nhưng các mẩu tin ngắn sẽ chẳng có giá trị gì. Các bài phân tích dài và các cuốn sách chi tiết là đủ cho chúng ta và một xã hội dân chủ có thể vận hành tốt.
Tôi đã trải qua bốn năm mà không có tin tức, vì vậy tôi có thể nhìn thấy, cảm nhận và tường thuật những tác động của nó một cách trực tiếp và chân thực. Tâm trí cũng như cuộc sống của tôi ít gián đoạn hơn, ít lo lắng hơn, suy nghĩ sâu sắc hơn, nhiều thời gian hơn, nhiều hiểu biết thực tế hơn. Từ bỏ việc đọc tin tức không phải dễ dàng, nhưng nó đáng giá.

Elnino dịch, theo

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi pth77: 21/03/2014 - 00:44


Thanked by 4 Members:

#37 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 21/03/2014 - 00:57

Võ học: Đường về tâm pháp

Thế giới ngoại tại vốn cực kỳ phồn tạp, muôn vẻ nghìn màu và không ngừng biến động. Vạn hữu luôn trôi chảy như dòng thác đổ, luôn biến dịch trongtừng mỗi sát na. Thế giới sâm la vạn tượng ở sát na này đã khác với cái thế giới trong một sát na trước đó. Vạn hữu luôn mới tinh khôi, như lần đầu tiên được sáng tạo. Do đó, chỉ có cái-giờ-đây mới là cái thực. Theo truyền thống phương Đông, tìm hiểu thế giới mà cứ mãi chạy theo hình tướng bên ngoài, đem tâm đuổi theo vật, đó là nỗi nguy hiểm khôn lường. Trang Tử bảo “Ngô sinh dã hữu nhai, nhi tri dã vô nhai.Dĩ hữu nhai tùy vô nhai, đãi hỷ! ” (Đời ta vốn có hạn, mà cái biết thì vô hạn. Đem cái hữu hạn để theo đuổi cái vô hạn thì nguy vậy! – Nam hoa kinh, Dưỡng sinh chủ).
Các bậc chân nhân phương Đông khi muốn khám phá cái mênh mông diệu vợi của thế giới ngoại tại thì lại quay vào chỗ tận cùng sâu thẳm của tâm hồn, để đối diện với cái chân tính của mình. Giữ lòng như tấm gương sáng để nhìn thấy cả thế giới hiển lộ toàn chân, đó chính là tâm pháp mầu nhiệm của phương Đông. Võ học, đạo học, y học, thư pháp, hội họa, thi ca … khi hiển thị được tâm pháp đó đều trở thành những phương tiện thiện xảo giúp con người hồn nhiên quay về nẻo đạo.Thấu hiểu Dịch học chính là nâng cao y thuật, tập viết thư pháp chính là rèn luyện võ công. Tiếng đàn, nét bút đều có thể hàm chứa tinh hoa của võ học.
Tương truyền Bồ Đề Đạt Ma – vị sơ tổ của Thiền tông Đông độ -người dựng lên ngọn Thiền phong cao chót vót giữa lịch sử tư tưởng Trung Quốc cũng chính là người đã khai sáng môn võ Thiếu Lâm được xem như là cái nôi của võ học Trung Quốc. Dẫu Bồ Đề Đạt Ma không phải là nhân vật lịch sử đi nữa thì điều đó cũng cho thấy tinh thần phương Đông vẫn luôn nỗ lực kết hợp võ công và triết giáo. Nói theo thuật ngữ triết học Phật giáo thì tinh thần Thiền tông là “Thể”, còn võ học có thể xem như là “Dụng”. Dụng là phương tiện để biểu hiện Thể, còn Thể là mạch ngầm hàm dưỡng cho Dụng. Chỉ có tác giả thấm nhuần được “tâm pháp phương Đông” như Kim Dung mới có thể đưa nó hóa thân vào tiểu thuyết kiếm hiệp một cách nhẹ nhàng “niêm hoa vi tiếu”. Nhiều tác giả sách võ hiệp luôn muốn để các nhânvật chính của mình phô trương bản lĩnh và tài hoa một cách cường điệu, với những tình tiết lâm ly. Nhân vật chính luôn phải có cái gì đó thật khác người : đẹp trai, hào hoa phong nhã, võ công trùm đời, và luôn lạnh lùng lập dị, với những lớp sương mù huyền thoại. Chung quanh họ phải là rượu và những giai nhân say mê đắm đuối. Những thứ trang sức rẽ tiền đó có thể hấp dẫn được một số độc giả nhưng nó sẽ nhanh chóng trở thành phù phiếm, như con rồng đã vẽ xong trên tờ giấy. Trông thật đẹp nhưng lại cứng đờ thiếu sinh khí. Điều quan trọng phải có một ngọn bút thần để điểm mắt nó. Đó gọi là “Họa long điểm nhãn” theo truyền thống phương Đông. Được “điểm nhãn” thì con rồng giấy sẽ biến thành rồng thật, nó sẽ cuộn mình ra khởi tờ giấy chết để bay vút lên trời cao lồng lộng. Chỉ lúc đó nó mới thực làm mưa làm gió để hý lộng giữa sương mù. Ngọn bút điểm nhãn ấy chính là “huyền môn tâm pháp phương Đông”.
Bao thế kỷ qua, trước sự tấn công dữ dội của nền văn minh cơ khí phươngTây, tâm pháp phương Đông đã nhanh chóng bị đánh bại bởi những thế hệ học giả sính lô gíc học. Và nó lại âm thầm quay về ẩn tàng trong các thiền viện, trong nghệ thuật bắn cung, trong kiếm đạo Nhật Bản … để tiếp tục hàm dưỡng cho thế giới tâm linh huyền ẩn của phương Đông. Và Kim Dung là một trong những tác giả hiếm hoi biết cách nắm bắt được tính thần ấy để đưa tiểu thuyết võ hiệp một cách tài tình.Trong tinh thần ấy, võ học không còn là môi trường phô diễn kỹ thuật, mà phươngtiện để biểu hiện tâm pháp. Cái ầm ĩ huyên náo của những anh chàng Sơn Đông mãi võ sẽ không còn nữa, vì võ học khi đến đỉnh cao, tức trên đường quay về tâm pháp,cũng tiến dần đến chỗ tinh nhất. Tự thân võ học sẽ mất đi tất cả những mọi chi tiếtrườm rà, để kết tinh thành cái đơn nhất. Rồi chính cái đơn nhất đó tự nó cũng tiêu dung lặng lẽ, hòa nhập với Tâm. Mà tâm lại không có hình tướng, nhưng quán thôngkhắp mười phương. “Phóng chi tắc di lục hợp; thoái chi tắc tàng ư mật” (khi buông ra thì bao trùm khắp sáu cõi, khi thu về thì ẩn nơi sâu kín) (Trung Dung). Cừ tùy nghi mà vận dụng. Giữ lòng như gương sáng. Hư kỳ tâm. Tĩnh và Định. Cứ tùy vật đến mà cảm ứng. Bao nhiêu kỹ thuật về côn, quyền, đao, kiếm, chưởng, chỉ… cứ tự nhiên lưu chuyển và phản chiếu toàn bộ trong tấm gương lòng. Đó mới là cực đỉnh của võ học.
Lâm Tế làm một thiền sư vĩ đại đời Đường. Sư chuyên giáo hóa đồ đệ bằngnhững tiếng hét và cây gậy thay cho những bài thuyết pháp. Những lúc cần phải thuyết pháp thì những lời thuyết pháp của sư cũng rực cháy như có lửa, để biến thành một tiếng hét vang rền khắp tùng lâm.
Đạo lưu, tâm pháp vô hình, quán thông thập phương. Tại nhãn viết kiến. Tạinhĩ viết thính. Tại tỵ khứu hương. Tại khẩu đàm luận. Tại thủ chấp tróc. Bản thị nhấttinh minh, phân vi lục hòa hợp. Nhất tâm ký vô, tùy xứ giải thoát”.
道 流, 心 法 無 形, 貫 通 十 方, 在 眼 曰 見, 在 耳 曰 聽, 在 鼻 臭 香, 在 口 談 論,在 手 執 捉, 本 是 一 精 明, 分 為 六 和 合. 一 心 既 無, 隨 處 解 脫.
(Này các đạo lưu, tâm pháp vô hình, nhưng thông suốt cả mười phương. Tại mắt là thấy. Tại tai là nghe. Tại mũi ngửi mùi. Tại miệng đàm luận. Tại tay nắm bắt. Vốn là một tinh minh, phân ra thành sáu hòa hợp. Một tâm đã không thì cứ tùy chỗ mà giải thoát).
Đó cũng chính là tâm pháp trong võ học đỉnh cao. Khi đã triệt ngộ được diệu lý của võ thì võ công hoàn toàn hợp nhất với thân tâm. Chiêu thức tung ra đều “đắc tâm ứng thủ”. Giống như một người đã giác ngộ thì nói năng động tĩnh đều phát huy diệu dụng, đi đứng nằm ngồi đều biểu lộ huyền cơ.
Người đã ngộ được tâm pháp của võ học sẽ tự nhiên quán thông được mọi võhọc trên đời. Như Trương Vô Kỵ hiểu được Càn khôn đại nã di tâm pháp, như Thạch Phá Thiên phá giải được đồ hình của Thái huyền kinh trên vách đá, như Lệnh Hồ Xung tâm hội được Độc Cô cửu kiếm. Gặp phái Hoa sơn thì sử dụng Hoa sơn kiếm pháp, gặp phái Kim Ô thì triển khai đao pháp Kim Ô. “Phùng Phật sát Phật, phùng Tổ sát Tổ” (gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ), hồn nhiên du hý thần thông.Khi đã ngộ được lẽ “tâm như hư không, vô sở chướng ngại”, thì đấy mới chính là trạng thái cực cao trong võ học. Không có gì lại không có thể trở thành võ học.Không có cảnh giới nào mà đi vào đó lại không ung dung tự tại. Lá hoa, cọng cỏ đều có thể trở thành vũ khí. Tâm ứng tại thân thành nội lực, ứng tại lòng tay thành chưởng pháp, ứng tại chân thành cước pháp, ứng tại tay thành quyền pháp, ứng tại gươm thành kiếm pháp, ứng tại đao thành đao pháp, ứng tại ngón tay thành chỉ pháp, ứng tại miệng thành “Sư tử hống”. Chưởng có thể biến thành quyền, quyền hồn nhiên thành chưởng, chỉ pháp tự nhiên thành kiếm pháp đao pháp, cứ mặc nhiên tùy tâm mà vận dụng. Như cây đàn trong tay người nghệ sĩ kiệt xuất, tâm ứngvào đàn là tự thành giai điệu, như nước chảy mây bay. Tất cả đều viên dung vô ngại.Đó chính là cái mà thiền sư Lâm Tế bảo là “nhất tâm ký vô, tùy xứ giải thoát”. Lúc đó mọi chiêu thức đều hiển thị trong cõi tĩnh lặng mênh mông của tâm thức, không còn sự phân biệt giữa võ công và người sử dụng võ công, không còn một chút dấu vết kỹ thuật khổ luyện.
Không phải ngẫu nhiên mà Kim Dung để những người đạt đến cảnh giới “lô hỏa thuần thanh” trong võ học lại là những bậc chân tu như các đại sư Không Kiến, Phương Chứng, nhà sư vô danh trong Tàng kinh các, đạo sĩ Trương Tam Phong hoặc những người có tâm hồn nhiên hư tĩnh như Châu Bá Thông. Cái đầu óc thông minh và tài hoa tột đỉnh như Hoàng Dược Sư vẫn còn mang nhiều dấu vết của lý tính nên võ công không thể nào đi vào “hóa cảnh”. Đến chỗ rốt ráo của “bách xích can đầu” , thì cái diệu lý của võ học không còn liên quan đến kỹ thuật rèn luyện, cũng như Thiền tông chối bỏ mọi văn tự, ngữ ngôn.
Đọc Kim Dung hay Ngọa Long Sinh, điều hấp dẫn người đọc một cách sâu xa chính là điểm ấy. Nói như thi sĩ Bùi Giáng thì:
Đọc truyện vũ hiệp là một trong những phép tu dưỡng kí ức và khơi dẫn nguồn vui ẩn mật trong mình. Đọc theo lối hồn nhiên, hoặc vừa đọc vừa suy gẫm. Chưởng lực, kiếm thế, nội kình phát ra có thể là tinh thể của tinh thần phát hiện.
Riêng đối với bạn thi sĩ, sách vũ hiệp có thể giúp bạn làm thơ lai láng mộtcách không ngờ. Điều đó không có chi lạ : ban sơ vũ học,văn học, thi nhạc cùng phát khởi tại một cỗi nguồn : uyên nguyên của tinh thần xuất phóng“.
Và “tinh thần xuất phóng” ấy chính là đường quay về của võ học, trong phương trời lồng lộng của huyền môn tâm pháp phương Đông.

Nguyễn Đức Long


Sửa bởi pth77: 21/03/2014 - 00:57


Thanked by 2 Members:

#38 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 24/03/2014 - 05:32

Tất cả đàn ông đều đểu
Avertrenko, Arkadi

1
Trưởng phòng điều vận đầu máy xe lửa, lão già Miskin, gọi cô nhân viên đánh máy chữ Nina Riadnova vào phòng làm việc của mình và chìa ra hai tập tài liệu, bảo cô đánh máy lại sạch sẽ.
Khi Miskin trao hai tập giấy cho Nina, ông ngó cô chằm chằm; nhờ ánh dương quang, lần đầu tiên ông mới được trông thấy cô thật rõ ràng.
Trước mặt ông là một cô gái tầm thước, phổng phao, ngực cao vổng. Gương mặt xinh đẹp trắng hồng của cô toát ra vẻ thản nhiên, chỉ trong đôi mắt mới thỉnh thoảng ánh lên những đốm lửa màu xanh sẫm.
Miskin bước đến gần sát bên cô và nói:
- Thế này, nhờ cô... đánh máy mấy tờ giấy này. Tôi không làm phiền cô chứ?
- Tại sao ạ? - Nina hơi ngạc nhiên. - Cháu được trả lương là để làm việc ấy mà.
- Thế, thế... lương. Đúng vậy, lương. Cô đánh máy có đau ngực không? Thật đáng buồn để bộ ngực đẹp như thế kia lại bỗng nhiên bị đau.
- Ngực cháu không bị đau gì cả.
- Tôi rất mừng. Cô có lạnh không?
- Tại sao cháu lại có thể lạnh được ạ?
- Áo ngoài của cô mỏng và trong suốt thế này... Kìa, đấy, nhìn rõ cả cánh tay. Đôi tay cô đẹp quá. Cơ trên tay cô có săn chắc không?
- Để tay tôi được yên!
- Cưng... một phút nào... khoan... Sao lại giằng ra thế? Để anh xem, tay áo mỏng quá...
- Sao ông dám! Bỏ tay ra... Tôi đau... Đồ đểu!
Nina Riadnova vùng ra khỏi đôi tay gân guốc của lão già Miskin, chạy vào gian phòng lớn, nơi những nhân viên khác của phòng điều vận đang làm việc.
Tóc cô bị xô lệch sang bên, tay trái cô, chỗ phía trên khuỷu, đau âm ỉ, khó chịu.
- Đồ mất dạy, - Nina rủa thầm. - Ta sẽ không bỏ qua chuyện này đâu!
Cô đậy vỏ lên chiếc máy chữ, mặc áo khoác ngoài, rời khỏi nơi làm việc; khi đã ra ngoài phố, cô dừng lại trên vỉa hè, ngẫm nghĩ: "Mình phải đến gặp ai nhỉ? Đến luật sư vậy".
2
Luật sư Iazưtrnicov ngay lập tức tiếp Nina và nghe cô kể rất chăm chú.
- Đểu đến thế là cùng! Mà lại già nữa kia đấy! Bây giờ cô muốn gì? - luật sư Iazưtrnicov dịu dàng hỏi cô.
- Có thể tống lão đi Xibiri được không? - Nina hỏi.
- Xibiri thì không được... Nhưng khởi kiện bắt hắn ta phải chịu trách nhiệm nói chung thì được.
- Thì anh khởi kiện đi.
- Cô có nhân chứng không?
- Tôi là nhân chứng đây! - Nina đáp ngay.
- Không được, cô là người bị hại. Nếu như không có nhân chứng thì cô có dấu vết xâm hại nào không?
- Tất nhiên là có. Lão ta xâm hại tôi rất thô bỉ. Bóp chặt lấy tay tôi. Có lẽ bây giờ vẫn còn vết tím bầm.
Luật sư Iazưtrnicov trầm ngâm, nhìn bộ ngực lộng lẫy của Nina, nhìn cặp môi đẹp và đôi má ửng hồng - một giọt nước mắt nhỏ trào ra và chảy dài bên má của cô gái. - Cho tôi xem tay nào, - luật sư nói.
- Ở chỗ này, trong áo ấy.
- Nhưng phải cởi áo ra.
- Nhưng anh không phải bác sĩ, mà là luật sư, - Nina ngạc nhiên.
- Điều đó không có ý nghĩa gì hết. Chức năng bác sĩ và chức năng luật sư gần nhau đến mức nhiều khi chúng hòa lẫn vào với nhau. Cô có biết bằng chứng ngoại phạm là gì không?
- Không, tôi không biết.
- Ấy thế đấy. Để xác định tội phạm, tôi trước hết cần phải xác định bằng chứng ngoại phạm của cô. Cởi áo ra.
Nina đỏ mặt, thở dài, vụng về tháo mấy cái móc khuy áo và kéo một bên vai áo xuống.
Luật sư giúp cô cởi áo. Khi cánh tay mềm mại trắng hồng của Nina lộ ra với một chỗ lõm nhỏ nơi khuỷu, luật sư đưa mấy ngón tay sờ lên chỗ có vết đỏ gần bờ vai trắng hồng và lịch thiệp nói:
- Xin lỗi, tôi cần phải xác nhận bằng chứng. Giơ tay lên. Thế, cái gì đây? Ngực à?
- Đừng động vào tôi! - Nina hét lên. - Làm sao anh dám?!
Run rẩy toàn thân, cô chụp vội lấy tay áo khoác và vội vã mặc vào.
- Gì mà cô giận dữ thế? Tôi còn cần phải xác định để loại bỏ khả năng kháng kiện...
- Anh là đồ mất dạy! - Nina cắt ngang, dập mạnh cửa, bước ra khỏi phòng.
Bước đi ngoài phố, cô thầm nhủ:
- Mình đến gặp luật sư để làm gì nhỉ? Đáng ra mình cần đến gặp bác sĩ xin giấy chứng nhận về việc xâm hại thô bỉ này mới phải.
3
Bác sĩ Dubiago là một người đàn ông đứng tuổi đạo mạo. Ông tỏ vẻ hết sức thông cảm với Nina, lắng nghe cô kể, chửi rủa lão trưởng phòng điều vận và gã luật sư, rồi nói:
- Cởi đồ ra.
Nina cởi áo ngoài, nhưng bác sĩ Dubiago xoa tay bằng một động tác rất chuyên nghiệp và nói:
- Cô, thế này, cởi hết ra...
- Hết là thế nào? - Nina bùng lên.
- Lão ta túm lấy tay tôi. Tôi chỉ cho ông xem tay thôi.
Bác sĩ ngắm nghía thân hình Nina, bờ vai trắng như sữa của cô, và dang hai tay ra.
- Dù sao thì cô cũng phải cởi hết... Tôi cần phải có một cái nhìn tổng thể về cô. Xin lỗi, để tôi giúp cô.
Ông cúi xuống bên Nina, khám phá cô bằng đôi mắt cận thị, nhưng chỉ một phút sau cái vung tay của Nina đã đánh văng khỏi mũi ông cặp kính cận, khiến bác sĩ Dubiago nhất thời mất đi không chỉ khả năng có một cái nhìn tổng thể, mà cả cái nhìn bình thường cũng không thể có.
- Để tôi yên.. Lạy Chúa! Tất cả đàn ông đều đểu.
4
Rời khỏi nhà bác sĩ Dubiago, Nina toàn thân run rẩy vì giận dữ và phẫn nộ.
"Đấy - những người bạn của loài người đấy! Những con người trí thức đấy!... Không, cần phải vạch mặt, phanh phui, tố giác tất cả cái lũ đểu giả mang mặt nạ đạo đức này".
Nina đi loanh quanh trên các hè phố một hồi, bình tĩnh lại ít nhiều, rồi quyết định đến gặp nhà báo Gromov, một nhân vật tên tuổi, có tiếng là đàng hoàng, trung thực, không thể mua chuộc được, một tuần từ hai đến ba lần thẳng tay vạch mặt sự dối trá.
Nhà báo Gromov thoạt đầu tiếp Nina không được niềm nở cho lắm; nhưng sau khi nghe xong câu chuyện của cô, anh đã tỏ vẻ cảm thông với những phiêu lưu bất hạnh của cô.
- Cha cha! - anh cười cay đắng.
- Thấy chưa, những con người tốt đẹp có trách nhiệm chữa trị vết thương và giảm nhẹ đau đớn cho loài người đau khổ! Thấy chưa những kẻ bảo vệ nhân dân bị áp bức và lăng nhục, những đại diện cho chân lý công bằng! Họ đã bị rơi mặt nạ văn hóa ngay trong lần đụng chạm vớ vẩn nhất với cuộc sống. Một lũ man rợ, đến tận giờ vẫn sống bằng xác thịt... Cha - cha! Ta biết họ mà.
- Có phải cởi áo ra không ạ? - Nina rụt rè hỏi.
- Cởi áo? Cởi để làm gì? Mà... cũng có thể cởi ra. Thử xem những cái dấu vết... hừm... của văn hóa.
Nhìn thấy cánh tay trần và khoảng vai của Nina, Gromov nheo mắt lắc đầu:
- Nhưng mà... tay của cô em... chẳng lẽ có thể đem trưng những hiện vật như thế này ra để quyến rũ nhân loại ư? Mặc vào đi. Hay là... không... gượm đã... Có mùi thơm gì thế này? Thế nào, nếu như tôi hôn vào cánh tay này, vào đây, ở khuỷu... Chà, hừm... chắc cô em cũng đồng ý rằng cô em chẳng thiệt hại gì, mà tôi lại có được một cảm giác thú vị mới mẻ để...
Gromov không có dịp được hưởng cái cảm giác thú vị đó. Nina kiên quyết từ chối nụ hôn; cô khoác lại áo vào và bỏ đi.
Về đến nhà, cô cười trong nước mắt.
"Lạy Chúa tôi, đàn ông rặt một lũ đểu cáng và ngu ngốc!".
5
Buổi tối, Nina ngồi khóc trong phòng.
Rồi bởi vì rất muốn chia sẻ nỗi đau khổ của mình với một ai đó, cô thay áo và đi sang phòng chàng sinh viên tự nhiên học Ikhnevmonov sống bên cạnh trong cùng khu chung cư.
Ikhnevmonov suốt ngày đêm chỉ ôm lấy đống sách, bao giờ người ta cũng trông thấy anh cúi sát khuôn mặt đẹp, xanh xao trên những trang sách in, vì vậy Nina gọi đùa anh là ngài giáo sư.
Khi Nina bước vào, Ikhnevmonov ngước đầu lên khỏi trang sách, hất tóc ra sau và nói:
- Chào cô Nina! Nếu cô nàng muốn uống chè, thì chè và giăm bông ở kia. Còn Ikhnevmonov phải đọc nốt chương này đã.
- Hôm nay em bị làm nhục, anh Ikhnevmonov ạ, - vừa ngồi xuống Nina vừa nói.
- Sao?.. Ai?
- Một luật sư, một bác sĩ, một lão già. Toàn bọn đểu!
- Người ta làm nhục bạn như thế nào?
- Một người bóp tay đến bầm tím, còn bọn khác thì dòm ngó và cứ bám riết lấy...
- Thế... - Ikhnemonov lật trang sách, nói. - Thiệt quá đáng.
- Tay vẫn đau, khó chịu, - Nina than vãn.
- Một lũ đê tiện! Bạn uống trà đi!
- Có lẽ, - Nina buồn rầu mỉm cười, - cả anh cũng muốn xem tay em như mấy người kia?
- Xem để làm gì? - chàng sinh viên mỉm cười. - Có vết bầm - bạn nói tôi tin rồi mà.
Nina uống trà. Ikhnemonov giở từng trang sách.
- Đến tận giờ cánh tay vẫn rát, - Nina lại than thở. - Có phải đắp thuốc không anh nhỉ?
- Tôi không biết.
- Hay là để anh xem tay? Em biết anh không như những người khác, em tin anh.
Ikhnevmonov nhún vai.
- Làm phiền bạn làm gì?... Nếu tôi là thầy thuốc thì tôi đã giúp bạn rồi. Nhưng tôi học tự nhiên...
Nina cắn môi, đứng dậy và khẩn khoản:
- Nhưng dù sao anh cũng nhìn qua một tí.
- Thì nào, đưa tay bạn đây... Đừng lo... bạn chỉ tuột áo khỏi vai... thế... Đây à?.. Hừm. Đúng là vết bầm. Cái lũ đàn ông này. Nhưng nó sẽ chóng khỏi thôi.
Ikhnemonov lắc đầu đầy thông cảm và lại ngồi xuống chúi đầu vào quyển sách.
Nina ngồi im lặng, làn da trên vai màu sữa sáng đục lên dưới ánh đèn vàng vọt.
- Bạn khoác áo vào đi, - Ikhnemonov nói. - ở đây lạnh lắm.
Tim Nina thắt lại.
- Lão lại còn véo chân em nữa, - Nina bất ngờ nói sau một hồi im lặng.
- Cái đồ đốn mạt! - Chàng sinh viên lắc đầu.
- Chỉ anh xem nhé?
Nina cắn môi và muốn kéo váy lên, nhưng chàng sinh viên đứng dậy nói:
- Để làm gì? Bạn lại phải cởi cả tất, mà ở đây gió lùa lạnh lắm. Bạn sẽ cảm mất thôi, chẳng hay ho gì. Tôi có biết mô tê gì về y học cả đâu, như trong dân gian người ta vẫn nói ấy. Bạn uống trà đi.
Chàng lại vùi đầu vào sách. Nina ngồi thêm một lúc, thở dài và lắc đầu:
- Thôi em về đây. Không thì nói chuyện làm anh mất tập trung công việc.
- Không sao đâu, - Ikhnevmonov nói, bắt tay Nina thật chặt khi tiễn cô ra cửa.
Bước vào phòng mình, Nina thả người xuống giường. Và, khép mi mắt lại, một lần nữa cô thì thầm:
- Tất cả đàn ông đều đểu!



Viên chức và nhà buôn - Hai nét tính cách "Người Hà Nội"
Lại Nguyên Ân

Còn nhớ, hồi giữa những năm 1960, đám trẻ chúng tôi từ các miền quê ra Hà Nội học đại học, một trong những chuyện khiến chúng tôi thường xuyên để tâm quan sát và luận bàn cùng nhau, ấy là những nét tính cách chung của “người Hà Nội”, người “thị dân” nói chung, điều mà chúng tôi chưa thấy, chưa biết, khi còn sống tại các vùng quê và tỉnh lẻ.
Sau lớp chúng tôi, mỗi năm lại có thêm các lớp học trò khác tới Hà Nội, không chỉ ở đây học hành dăm ba năm, mà thường sau đó còn ở lại làm việc, định cư tại Hà Nội. Vậy là trên đề tài hồi xưa còn có thể luận bàn không chỉ từ sự quan sát những ai ai kia khác đã sống trước mình tại đây, mà còn có thể quan sát lẫn nhau, quan sát chính mình. Bởi mình và bạn bè cùng lứa mình, từ dạo ấy, đã dần dần trở thành “thị dân”, thành “người Hà Nội”.
Trong tiếng Việt, từ “thành phố” gồm hai phần trỏ hai không gian chức năng của cái không gian chung gói trong danh từ đó: “thành” và “phố”. “Thành” là khu vực của vua quan, nha lại, công bộc, binh lính; “phố” là khu vực của thường dân, “thị dân”. Đây là loại thường dân ít nhiều “đặc biệt”: họ không trực tiếp làm ra nông phẩm để “tự sản tự tiêu” như nông dân ở hầu khắp các làng quê, trái lại, họ chủ yếu làm những công việc đáp ứng nhu cầu của lớp người trong “thành”, nói bằng chữ của ngày nay, họ chủ yếu làm “dịch vụ”, bên cạnh đó họ là những người chuyên làm các nghề thủ công, hoặc buôn bán, đáp ứng cả nhu cầu của người trong “thành” lẫn người ở các làng quê.
Thời thế đổi thay, từ trung đại sang cận hiện đại, “thành” và “phố” càng ngày càng bớt tách biệt, càng ngày xen lộn nhau. Công sở, trại binh có khi phình ra tràn ra, lấn chiếm các khu dân cư; nhưng dinh thự đương thời các bậc cha chú quan cao bổng hậu cũng có thể sẽ đến lúc biến thành tư thất của đám “cậu ấm” không thành quan nhưng được hưởng thừa kế. Và tuy “quan” bao giờ cũng tách biệt, khác biệt “dân”, nhưng quan lại và bộ máy phục vụ quan lại lúc nào cũng cần đến các loại dịch vụ của dân ngoài phố, còn dân phố thì cũng cần trông vào các loại nhu cầu của đám người quyền thế kia để có việc làm, trong khi đó, các loại cửa hàng cửa hiệu cũng luôn luôn muốn áp sát các công sở.
Càng sang thời cận, hiện đại, bộ máy cai trị, quản lý càng có xu hướng phình ra, nhu cầu quản lý dường như luôn luôn muốn tăng lên; ở những lĩnh vực nhất định, việc quản lý từ chỗ là việc cai trị dần dần trở thành những loại dịch vụ, nhờ vậy, nghề viên chức được kể như một nghề nữa của thị dân.
Có một lời tục truyền bảo rằng, các gia đình hàng Ngang hàng Đào thời xưa luôn luôn chuyên chú vào hai thứ: phải lo sao cho có một quầy hàng tấm (vải sợi, tơ lụa) đàng hoàng, “ra tấm ra món”, và trong nhà phải có ít nhất một tiểu thư đoan trang hiền thục.
Vì đâu các nhà buôn ấy lại đặt nặng sự “đầu tư” vào con gái thay vì con trai? Là vì con trai nhà giàu dễ thành kẻ phá gia chi tử hơn là kẻ có chí nối nghiệp nhà, bởi thế, người ta phải lo sẵn nong sẵn né chờ các chàng rể quý – những người từ các vùng quê ra đây đỗ ông nghè ông cống, làm quan trong triều ngoài quận, đem lại uy thế cho ông nhạc bà nhạc. Ngay hồi quân chủ, giới thị dân đã biết “săn đầu người”, làm “chảy máu chất xám” của dân quê như thế, đâu phải đến thời hiện đại, khi các cậu nhà quê ra đây học cao đẳng đậu bác sĩ kỹ sư, tiếp tục là đối tượng săn đón của các nhà giàu Hà Nội.
Dạo tôi mới ra trường đi nhận công tác, lần đầu được nghe một vị được coi như đứng đầu làng “báo nói” đến giảng bài, đã thấy thú vị vì một vài chuyện nghề ông đem ra nói hôm ấy, nhưng sau đó còn thấy thú vị hơn nữa khi nghe mấy anh lớn tuổi hơn kể về mối tình thời trẻ của chính con người nổi tiếng kia. Hóa ra thời ông từ một làng quê ra Hà Nội học, chàng sinh viên luật ấy đã say mê một thiếu nữ Hàng Đào. Mẹ chàng từ tỉnh Đông lặng lẽ ra Hà thành như một người qua phố, quan sát xem thử cơ ngơi nhà cô gái ra sao; vậy mà bà mẹ cô gái cũng biết được sự việc, kịp bố trí người làm hắt một chậu nước ra khoảng vỉa hè trước cửa hàng đúng lúc vị lữ khách sắp bước tới, như vô tình mà hữu ý đưa một tín hiệu khinh mạn trước bà điền chủ nhà quê có cậu con trai si tình. Nhưng rồi những kiêu kỳ hay thiện chí của hai phía thông gia tương lai đều không phát huy tác dụng gì, bởi do một sự cố nào đấy, cô gái quyết định trốn nhà đi theo chàng trai. Vậy mà mẹ nàng cũng không phải buồn phiền gì lâu, bởi khi chế độ mới thay chế độ cũ trên đất Hà thành thì chàng rể của bà đã nghiễm nhiên là một cán bộ cao cấp! Có thể bà mẹ vốn là nhà buôn ấy còn phải suy nghĩ rất lâu để hiểu xem con gái bà đã chỉ lãng mạn chạy theo tình yêu hay còn được hướng dẫn bởi một mẫn cảm thời thế nào khác?
Con người lớn lên ở thôn quê, gắn với thôn quê, thường rất mẫn cảm với những đổi thay của thời tiết, thời vụ, mùa màng; nhưng sự cảm nhận những đổi thay xã hội thì người thị dân, người lớn lên ở đô thị dường như lại nhạy bén hơn.
Từ giữa những năm 1950, khi lý thuyết giai cấp và bảng giá trị các thành phần xã hội tương ứng (đề cao công nông binh, kỳ thị địa chủ, tư sản, tiểu tư sản) bắt đầu chi phối cuộc sống con người trên đất Bắc, ngay ở Hà Nội cũng hầu như biến mất hình ảnh nhà buôn, chỉ còn hình ảnh người công nhân, viên chức.
Một số nhà máy mọc lên ngay tại trung tâm, giờ tan ca, màu xanh áo thợ tràn ra các con đường Ngô Quyền, Ngô Thì Nhậm, nơi có nhà máy ô-tô 1/5, nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà, nhà máy dệt kim Đông Xuân, cách đấy không xa là nhà máy rượu…
Làm công nhân trong nhà máy xí nghiệp nhà nước là thợ, làm xã viên trong các hợp tác xã tiểu thủ công, hợp tác xã vận tải, xích lô, ba gác… cũng coi như là thợ, Hà Nội những năm 1960s chỉ thấy những thợ là thợ. Không phải thợ có lẽ chỉ có thành phần cán bộ viên chức thuộc các Bộ của cơ quan trung ương hoặc các Sở trực thuộc thành phố. Những người là “nhân dân”, lĩnh tem phiếu thực phẩm hạng N, hầu như chỉ gồm người già và trẻ em; nhưng ngay trong hạng “nhân dân” ấy vẫn còn một số người mang dáng dấp thợ: ấy là những nhân viên các “tổ phục vụ” ở các phường các ngõ phố, chuyên đun nước bán nước sôi và làm một số tạp vụ khác, dịp tết thì bán thêm củi, lá dong, luộc bánh chưng, luộc giò giúp các nhà trong phố…
Ở cái xã hội bao cấp ấy tưởng như mọi thứ đều được hoạch định sẵn, mọi mặt hàng làm ra đều có địa chỉ tiêu thụ, mọi dịch vụ trù định đều được coi là đã đủ lấp kín các nhu cầu… Với xã hội bao cấp, loại hoạt động thương mại không nhắm địa chỉ cố định là loại hoạt động xa xỉ không đáng có. Thương mại “chính quy” đã được nhà nước hóa, từ những người phụ trách đến nhân viên bán hàng thuộc các tổng công ty điện máy, bách hóa, nông sản thực phẩm,… tất thảy đều là cán bộ viên chức, thì còn đâu chỗ cho những con buôn tự do?
Thế nhưng, mọi sự có vẻ như vậy mà không phải như vậy. Những con buôn tự do vẫn có mặt ở Hà Nội, ngay những năm tháng bao cấp chặt chẽ nhất. Từ những đầu ô luôn luôn có những người gánh rau vào phố. Ruộng rau đã vào hợp tác xã, ở đâu ra gánh rau “tự do”? Xin thưa: rau từ phần ruộng 5%, ăn không hết, đến lứa, “nhà cháu” phải đem đi bán!
Khu vực chợ giời, ngay thịnh thời bao cấp, vẫn họp chợ ngày ngày. Mua bán gì? Xin thưa: đồ cũ đủ loại, đồng nát, giấy vụn, sách báo cũ, đồ gốm sứ cũ, đồ điện máy, trăm thứ giời ơi, nhiều thứ quý hiếm nữa, không dùng thì người ta bán, cấm sao được? Lại còn những hộp sữa, cân đường, chiếc lốp chiếc vành xe đạp, vài mét vải phin vải pô-pơ-lin vải si-mi-li, toàn hàng mậu dịch được mua bằng cắt ô tem phiếu, người ta chưa dùng thì người ta đem bán lại. Có bán ắt có mua, mua để dùng hay để bán lại cho người thứ ba, – là việc không thể quy định và cấm đoán. Thế là lớp “con buôn” tự do (nghĩa là người buôn bán không phải “người nhà nước”) tái xuất hiện; ban đầu họ bị gọi là “con phe”.
Một loại người buôn nữa lần lần tái xuất giữa Hà Nội là chủ các quán cóc, bán nước chè chén, thuốc lá cuộn, rượu “cuốc lủi”, kẹo lạc, kẹo bột… bao giờ ngồi bán hàng cũng là người già hoặc trẻ em trong độ tuổi học sinh. Sau này dân gian tổng kết: đây là loại hình “buôn chết rét, lãi quan viên”: không thể ngờ bà cụ ngồi cạnh cổng trường bán mấy chiếc kẹo vừng với mấy mớ ổi xanh táo xanh lại nuôi nổi một gia đình bốn năm miệng ăn, hơn đứt lương anh công chức ba cọc ba đồng! Nghịch lý nghề buôn có lẽ cũng là sức hấp dẫn của nó, hệt như bí ẩn của những mảnh ruộng 5% đã gợi ý cho “khoán chui”, “khoán hộ”.
Ngồi bán quán thì tất nhiên là có địa chỉ xác định, cán bộ phường biết rõ họ tên; trong khi đó, đám người bị gọi là “con phe” đứng đường thì luôn luôn mang tính chất ẩn danh, – rất khó biết họ thực sự là ai. Tại chỗ họ đứng săn hàng bán hàng, nếu bị hỏi, họ sẽ có vô vàn cách nói, chẳng hạn, làm như mình chỉ tình cờ đứng đây hôm nay, chốc nữa sẽ đi ca, sẽ vào làm ca ba…, tóm lại, mình cũng là dân thợ, không phải con buôn. Tại khu phố, họ vẫn được xem như cán bộ sở A., nhân viên công ty B., nhưng chẳng ai biết đó là vai trò hiện tại hay là vai trò của hai ba năm trước; chỉ một vài người thật sự biết chuyện mới đôi khi lỡ buột mồm: “Vẫn đi làm ở sở ấy à? Sở nào? Có mà sở lừa!”
Nói “con phe” hay chủ quán cóc như là một vài kiểu dễ thấy nhất của hạng con buôn tự do “tiên phong” chui qua đêm dài bao cấp, thật ra chỉ là nói phần nổi, bởi họ có vô số kẻ đồng lõa và tiếp tay, ngay trong giới những người được ưu tiên ưu đãi đương thời. Các cửa khẩu đóng chặt, qua lại biên giới quốc gia chỉ có những người được nhà nước cử đi, vậy mà những thứ hàng ngoại vẫn thường khi xuất hiện chốn chợ giời, – chuyện ai buôn bán qua biên giới là quá dễ trả lời!
Như người ta nói, rồi mọi thứ đều có thời của nó. Sang những năm 1980s, dân “con phe” vừa tăng lên về số lượng – chứng cứ là số tụ điểm của họ tăng hẳn lên – lại vừa như có uy hơn. Ít ai còn nhớ sự việc có thật này: chính “con phe” là nhóm người đã phổ cập thời trang trên vỉa hè Hà Nội thời gian này! Diện các loại áo bay Nga, áo lông Đức, áo Natô… từ châu Âu đưa về, quần bò kính râm từ Thái đưa lậu sang, dám lần đầu khoác lên thân hình người nữ những màu chói gắt, những tấm áo bó chặt khoe đường cong thân thể, v.v… tất cả đều do “con phe” đưa ra khoe hàng trên các vỉa hè, khi mà tại Hà Nội có rất nhiều hội trường, rạp hát rạp chiếu bóng, nhưng hoàn toàn không có địa điểm nào cho trình diễn thời trang. Từ vỉa hè, các thứ mốt lặng lẽ và chậm chạp lan dần vào công sở. Son phấn, các thứ nước hoa, các thứ kem tô má tô môi bôi da, … cũng sống lại trên đất Hà thành theo cung cách đó.

Sau vài năm cao trào đổi mới, đến giữa những năm 1990s, lực lượng “con phe” có nhiều thay đổi; trong số họ có những người từ ẩn danh trở thành hiển danh, trưng họ tên chính cống mở công ty tư nhân, mang các chức danh giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị, xuất hiện trước công chúng trong complet cravatte oai vệ như ngầm đua thời trang với các chính khách! – Không, không, nói vậy chứ chẳng dám đua tranh, ngược lại, rất sẵn sàng chụp ảnh cùng quan cỡ bự để in phóng chưng bày tại phòng khách nhà mình. Một số khác không thật hiển danh mà cũng không đến nỗi ẩn danh, tuy từ nay bị gọi chung là “cò”, làm đủ loại dịch vụ phức tạp hơn hẳn công việc của các “con phe” thuở xưa, nào môi giới đưa bệnh nhân đến bác sĩ, đưa người tìm việc đến chủ thuê, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài... Một số nhà báo – thức thời hay xu thời chả biết – vội vã dùng từ “doanh nhân” thay cho từ “doanh gia” vốn đã có từ cuối thế kỷ XIX.
Trong xu thế tự do kinh doanh thời nay, nhà nhà mặt phố đều mở cửa bán hàng, ai ai cũng có thể là nhà buôn, ngoài việc chịu thuế ra chẳng có chuyện gì ngượng ngùng đáng dấu diếm nữa, tưởng như “con phe vô danh” không còn, vậy mà đôi khi lực lượng này vẫn tái xuất hiện, chẳng hạn trước cửa sân vận động, cửa rạp hát khi có trận bóng hay hoặc khi có suất diễn được cho là khá, vé ít nhiều “sốt”…
Có điểm đáng chú ý là xưa cũng như nay, thị dân Hà Nội thường không vì nghề buôn đang thịnh mà quên đầu tư cho tiềm năng về “trí” của con em; đứa nào học được sẽ được học cho đến hết mức cố gắng, nếu được thì cho đi du học, mai sau có danh mà lợi ắt cũng có; đứa nào sức học vừa phải, sẽ được tìm tới những chỗ làm vừa sức; đứa nào sức học yếu, mạnh chân tay hơn đầu óc, thường sẽ vất vả hơn khi tìm việc làm, tìm chỗ đứng, xưa kia đi đạp xích-lô, nay đi chạy xe ôm, làm bảo vệ các cửa hàng cửa hiệu khách sạn đóng tại phường mình hay phường bên cạnh… Một gia đình ba bốn thế hệ họp mặt, thế nào cũng đủ hầu hết các thành phần; ngay khi được hàng phố trầm trồ “nhà ấy đại trí thức đấy” thì nhẩm tính cũng chỉ có người ông nội hay người chú có đỗ bằng cấp gì đó ở nước ngoài, còn lại đều có qua hay chưa qua đại học, cao đẳng trong nước, lại có cả những thành viên chưa qua hết phổ thông.
Dân viên chức ở đô thị ngày nay, tư chức đông không kém công chức. Công chức cấp cao thì coi như quan rồi, thời bao cấp xưa cũng như thời nay đều được ở nhà công, biệt thự hẳn hoi; lương tháng nghe nói không cao lắm, nhưng sinh hoạt cách biệt hẳn với các cấp dưới, đi lại có xe riêng đưa đón, không họp hành, tham quan nước ngoài hoặc công cán tỉnh xa thì cũng đi đánh golf, đi pic-nic, họp mặt chơi bời với các hạng “quan” đồng cấp hoặc doanh gia cỡ đại…
Dân công chức trung cấp trở xuống, thời bao cấp là chuyên viên ở các bộ hoặc cơ quan tương đương, lúc về hưu leo hết 9 bậc chuyên viên là tương đương thứ trưởng, được phân nhà riêng, không phải biệt thự mà thường chỉ là căn hộ trong các khu nhà tập thể. Thời “hậu bao cấp” ngày nay, trong đám thường thường bậc trung này có thêm giới khoa học, giảng viên đại học, chuyên viên tại các viện nghiên cứu,… Quen biết nhiều người trong giới này, tôi dần dà nhận thấy, như một “nguyên lý”: người thị dân loại này, dù mức lương công chức viên chức là tạm đủ cho sự ăn sự mặc, họ vẫn không đoạn tuyệt với “nghề nghiệp” buôn bán!
Thật thế. Thời du học sang Nga hay Đông Âu kiếm tấm bằng “phó tiến sĩ” về nước để có chỗ làm vững chắc, họ đã “vừa học vừa … buôn”, lăn lộn khắp các loại cửa hàng lớn nhỏ nước người để gửi về nhà từng thùng hàng gồm đủ thứ, từ dây may-so đến thuốc lá, quạt điện, phích đá, máy khâu, máy mài, tủ lạnh… tức là tất tật những thứ gì đem bán trong nước sẽ có lãi; bên nhà thì gửi sang quần bò, áo phông, kính râm, túi du lịch, những hàng hóa có nguồn từ Thái Lan,… rồi bột nghệ, túi cói làn cói chiếu cói “đặc sản” quê nhà … tức là tất thảy những thứ có thể bán cho dân Nga và Đông Âu thuở ấy cũng đang thời bao cấp. Đối với anh nghiên cứu sinh nhà nghèo thuở bấy giờ, vợ con bên nhà đang thật sự đói ăn thiếu mặc, thì những việc buôn bán cho dù có làm “chân dung” anh ta và giới anh ta nhếch nhác đi ít nhiều, vẫn là điều có thể hiểu được.
Sang thập niên đầu thế kỷ XXI, phần lớn những người nguyên là nghiên cứu sinh kia đã là cán bộ đầu ngành các khoa các trường các viện trong nước, mỗi dịp từ thủ đô đi tới các tỉnh thành lớn là có vô số học trò kéo đến gặp thăm nom hỏi han, mà học trò của họ không chỉ là học trò: đó có khi là chánh phó giám đốc sở này sở kia, xoàng ra cũng là giảng viên trường cao đẳng, vẫn ngầm chịu ơn thầy đã hướng dẫn hoặc phản biện hoặc tham gia hội đồng chấm cái luận án năm nọ, nhờ tấm bằng ấy mà được giữ những chức này chức khác.
Oai phong, danh giá thật đấy, nhưng trong túi thì cũng vẫn nhẹ tênh. Lương tuy tạm đủ ăn đủ mặc, nhưng chẳng dư giả gì mấy. Mỗi năm hướng dẫn mấy cái luận án sau đại học, mỗi cái theo quy định ngân sách chỉ chi cho thầy hướng dẫn không quá 3 triệu đồng, trải ra trong 3 năm hoặc nhiều hơn; mỗi năm phản biện chừng mươi luận án, mỗi cái được ngân sách cho vài trăm ngàn đồng; có ngồi hội đồng các cuộc bảo vệ luận án tiến sĩ thạc sĩ đi nữa, ngân sách cũng chỉ cho thầy thêm chừng một trăm ngàn mỗi cuộc. Trong số các nghiên cứu sinh, đôi khi có người mang tới biếu thầy chút quà, trị giá từ dăm bảy trăm ngàn đến dăm ba triệu, nhưng cũng có anh học trò nhe răng cười trừ với thầy. Giáo sư H. hay kể chuyện một nghiên cứu sinh vừa viết luận án vừa buôn rượu từ quê ra phố, lúc “bảo vệ” xong cái phó tiến sĩ, bèn xách một can rượu đến phòng thầy, tưởng nó loay hoay cái gì, hóa ra nó bảo, thầy có cái chai nào em rót mời thầy nếm một chút vị men quê em, mà xưa nay mình có uống được đâu! Hẳn đấy là một ca ít nhiều “cá biệt” khiến thầy nhớ lâu đến thế, chứ trong đời hẳn không nhiều kẻ học trò “mắt trắng” thế đâu.
Không đến nỗi “tiếng cả nhà không”, nhưng là viên chức hạng trung thì chẳng giàu có gì, mà nhu cầu tiêu pha thì không hề nhỏ, xét theo tiềm năng phát sinh. Lễ lạt bạn bè họ hàng, đám hiếu đám hỉ, – là chuyện thường ngày; cái quan trọng hơn là phải dự trù những món lớn, khi cần phải “chạy”, chẳng hạn, đứa con sẽ đi du học nước ngoài, hoặc ông chồng sẽ đứng trước cơ may lên chức, – những món phải tính bằng trăm triệu đồng hoặc chục ngàn đô, không trù liệu từ trước thì cầm chắc sẽ bỏ lỡ cơ hội. Tạo nguồn dự trữ bằng cách nào là câu chuyện riêng từng gia đình, nhưng chung quy khó nằm ngoài công việc buôn bán. Không phải buôn bán nhỏ lẻ hàng ngày, nhưng tựu chung vẫn là buôn bán, mà “mặt hàng” thông thường lại chính là nhà ở, đất ở.

Những thanh niên thanh nữ từ vùng xa đến Hà Nội, ban đầu thường ở trong các ký túc xá sinh viên, ra trường đến nhận việc tại một cơ quan nào đó sẽ được bố trí đến ở trong nhà tập thể; lúc lấy vợ lấy chồng, may mắn thì được ở nhờ nhà bố mẹ bên chồng hoặc bên vợ, không được thế thì ban đầu thuê nhà, lần hồi sẽ có nhà riêng, do cơ quan chia cho, hoặc do tự mua lấy. Từ căn hộ nhỏ người ta sẽ đổi sang căn hộ rộng hơn. Cái chu trình thay đổi chỗ ở của người viên chức đô thị gần như đã gợi ý cho mỗi người thuộc giới này chuyện buôn bán nhà cửa.
Trên danh chính ngôn thuận, thời bao cấp, không có chuyện mua bán nhà ở, tuy trong thực tế nó vẫn xảy ra, với những giấy tờ viết tay chỉ có giá trị đối với hai bên liên quan; thời ấy chỉ thường nghe các chuyện phân phối nhà ở, với những từ mô tả “chiến tranh nhà cửa” làm sôi động đời sống một cơ quan mỗi khi có đợt phân nhà. Sang thời “hậu bao cấp”, việc mua bán nhà trở nên công nhiên, và khi chưa xuất hiện các công ty môi giới nhà đất chuyên nghiệp thì tham gia mua bán nhà đất là việc của bất cứ ai; viên chức đang tại chức là một lực lượng đáng kể.
Một ông bạn từng có lúc làm việc cùng cơ quan với tôi, suốt đời là một dịch giả, cả khi làm việc ở nhà xuất bản hay khi ở viện nghiên cứu, vài năm lại có một cuốn sách được in; nhưng có gần anh mới biết ở anh đầy ắp những thông tin nhà đất; thành thử, năm nay nghe nói nhà anh ở phố này, năm sau lại được biết đã chuyển sang phố khác; mua để ở một vài năm rồi bán lại, hoặc mua rồi sửa sang rồi bán lại, chẳng có vẻ gì là buôn bán mà thực ra chính là buôn bán, … mọi thứ diễn ra tự nhiên như kết thúc một đoạn văn dịch rồi đặt bút chấm xuống dòng!
Nói ra thì khó tin, nhưng trải qua mấy năm đầu “hậu bao cấp”, tức là đầu những năm 1990, một loạt cán bộ nghiên cứu viện nọ viện kia mượn cớ dành thời gian viết luận án sau đại học để ít lui tới cơ quan, nhưng thực ra chăm chuyện buôn hơn chuyện nghề. Mươi năm đi qua, họ giàu lên rõ rệt, đổi đời rõ rệt, nhiều người có biệt thự, trang trại, mà cái luận án tiến sĩ cũng hoàn thành, lễ bảo vệ, nếu muốn, sẽ “hoành tráng” với hàng trăm người dự, luôn thể khổ chủ chiêu đãi toàn viện, cũng chẳng đáng là bao!
Vài ba năm trước, một lần tôi đến thăm một anh bạn từng học cùng trường ở tỉnh lẻ, đang bị bệnh nặng. Bên giường bệnh, bọn tôi nhắc lại chặng đường đã qua, anh học xong ở lại dạy ở một đại học miền trong, dăm năm sau mới được gọi về Bộ; nhưng rồi anh không thành một quan chức quản lý, cũng không theo nghiệp nghiên cứu, mà xin về dạy một trường điểm ở thủ đô và đứng vững trong nghề luyện thi; bạn bè có con sẽ thi đại học luôn tin tưởng gửi cho anh. Hôm ấy, hình như anh cảm thấy đang trải qua những ngày tháng cuối đời nên anh “tự bạch” cả những việc ai cũng ngại hỏi. Hạ thấp giọng, anh bảo, vài chục năm vừa dạy vừa luyện thi, bây giờ tạm nằm đây, mình nhẩm tính những thứ mình có: căn hộ đang ở này (căn hộ ở khu tập thể cũ), một căn nữa ở nhà cao tầng Trung Hòa Nhân Chính, hoàn thiện xong sẽ cho thuê này, một mảnh đất gần trăm mét vuông trong làng ven đê La Thành này, với lại chừng 4 tỷ tiền gửi ngân hàng nữa. Tất cả có thế thôi, không có quyển sách nào cả, dù bài vở luyện thi soạn sẵn thì nhiều, cũng có “đứa” bảo sẵn lòng in giúp! – Anh thở dài, chẳng ra mãn nguyện hay chua chát.
So với các vùng làng quê với cư dân ổn định, đời nọ nối đời kia ở yên một chỗ, thì đô thị là nơi cư dân biến động thường xuyên. Một bộ phận đáng kể di dân là những người tới đô thị làm viên chức. Nhưng làm viên chức ở đô thị không phải là nghề có thể “truyền” lại cho con cháu như nghề nông ở làng quê. Khi lương viên chức không đủ nuôi gia đình, người đang làm viên chức đã phải tính kế làm thêm, buôn bán thêm. Đến đời con đời cháu, nếu không tìm được việc làm trong nghề viên chức như cha mẹ, chắc chắn những đứa con sẽ làm những nghề buôn bán gì đó để tiếp tục sống ở đô thị chứ rất ít khi quay về quê cha làm nghề nông.
Thị dân, nhất là thị dân ở những đô thị lớn như Hà Nội, luôn mang trong mình tố chất viên chức và tố chất con buôn, – hai nét bổ sung nhau, làm nên chân dung người thị dân, xưa kia cũng như hiện tại.

(26/11/2012)

Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn, số Tết Quý Tỵ 2013

Sửa bởi pth77: 24/03/2014 - 05:34


Thanked by 2 Members:

#39 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 25/03/2014 - 05:37

NẾU KHÔNG CÒN… “THẦN TƯỢNG"?

Toàn văn bài phỏng vấn Bùi Văn Nam Sơn



TT: Thưa ông, ông có quan tâm đến hiện tượng suy tôn thần tượng của giới trẻ Việt những năm gần đây không ạ? (Suy tôn thần tượng ngôi sao Hàn Quốc, thần tượng Ngô Bảo Châu và thần tượng ai đó giàu có hay nổi tiếng…)


BVNS: “Suy tôn thần tượng” - với tất cả sự đa dạng của nó - không chỉ có ở giới trẻ Việt Nam và không chỉ có ở… giới trẻ ! Ở đâu cũng có và nơi mọi lứa tuổi. Đó là một nhu cầu tâm lý, một hiện tượng xã hội phổ biến, vừa thú vị vừa quan trọng, cần được chia sẻ, tìm hiểu và tìm cách tiếp cận cho phù hợp. Như nhiều người khác, tôi cũng có… thần tượng và ước mong được tự do trong “không gian lý tưởng” ấy của riêng mình.


TT: Dưới góc nhìn triết học, thì thần tượng thường mang những đặc tính gì mà đám đông (không kể trẻ già) lại hay mê mệt đến mức… cuồng si, thưa ông?


BVNS: “Người trong mộng” thì thời nào cũng có, nhưng “thần tượng” (idol) mà ta bàn ở đây dường như ra đời cùng với nền giải trí được công nghệ hoá, và, ngày nay, được toàn cầu hoá. “Idol” bắt nguồn từ chữ Hy Lạp “eidolon”, là hình ảnh đã trở thành biểu tượng để được tôn thờ, như thế, dù “hiện đại” đến đâu, ta vẫn thấy rõ ý nghĩa tín ngưỡng cổ xưa của từ này. Từ chỗ thần thoại hoá một tính cách đến thần tượng hoá một “ngôi sao” chỉ là sự tiếp tục trong hình thức khác. Jean-Luc Marion, trong “The Idol and Distance” (Thần tượng và Khoảng cách), có nhận xét rất hay: “Tôi phải gọi tình yêu này là tình yêu của tôi, vì lẽ nó ắt không lôi cuốn tôi như thần tượng, nếu, trước hết, nó không mang lại cho tôi hình ảnh về chính mình, như một tấm gương vô hình. Tình yêu không thể không kết thúc như là yêu chính mình, trong hình ảnh của một sự tự-thần tượng hoá”. Trước tiên, ta “thần tượng hoá” đồ vật hữu hình (túi xách, xe hơi, nhà lầu…), gọi là “bái vật hàng hoá”, sau đó là thần tượng hoá những ham muốn, ý tưởng, lý tưởng, đức tin, hệ tư tưởng vốn là gốc rễ của loại trước, và sau cùng, là đi tìm những giây phút “thăng hoa” cho chính mình, vượt ra khỏi khuôn khổ nhàm chán của đời thường, tự đo mình bằng những thước đo khác, cao hơn.


TT: Sự ngưỡng mộ ở mức suy tôn, theo ông dừng ở mức độ nào (từ cả hai phía) thì sẽ nhiều yếu tố tích cực và đến mức độ nào thì cần phải báo động sự tiêu cực về mặt trí và đức?


BVNS: Trừ những trường hợp cá biệt, tiếc rằng ngày nay mức độ này thường không do hai phía định đoạt cho bằng do tác động của các cơ quan truyền thông, giải trí và tổ chức sự kiện với nhiều kỹ thuật tinh vi. Ranh giới giữa tích cực và tiêu cực, thậm chí giữa hợp pháp và không hợp pháp cũng rất khó phân định. Không có gì thay thế được sự trải nghiệm của bản thân và nền tảng văn hoá cố hữu của mỗi người.


TT: Lý giải cách nào khi người ta sẵn lòng bỏ chẳng hạn 100 đồng cho thần tượng của họ trong khi chính họ sẽ không dám tiêu 100 đồng ấy cho bản thân mình hoặc chưa bao giờ họ dành số tiền ấy cho người thân? Trong phạm vi của sự ảnh hưởng, những người được suy tôn có quyền năng với đám đông của họ, nhưng còn pháp luật thì sao, có ngoại lệ không ạ?


BVNS: Sử dụng cho bản thân là tiêu dùng. Dành cho người thân là biếu tặng. Còn cho “thần tượng” là… hiến dâng! Một sự kiện luôn có nhiều tầng ý nghĩa, và hiến dâng là kích thước khác hẳn với tiêu dùng và biếu tặng, không thể so sánh và đánh giá đơn giản. Nhưng, lạm dụng việc ấy lại là chuyện của luật pháp: người nhận phải khai báo và đóng thuế… thật nặng, không có ngoại lệ!


TT: Nhìn vào sự náo loạn của “đám đông” khi đến với thần tượng, có phải đó là hệ quả của sự lệch chuẩn trong nhiều khía cạnh sống hiện tại không, thưa ông?


BVNS: Thế nào là “chuẩn” để biết có sự lệch chuẩn? Một xã hội nghiêm trang, khắc nghị, đơn điệu, không có “náo loạn” là chuẩn? Một nghiên cứu trong lĩnh vực sư phạm truyền thông cho biết thêm những lý do của những thần tượng tuổi-“teens”: sự “náo loạn” thường phản ánh những tệ trạng xã hội, với cảm giác bất an và không vừa lòng. Thậm chí nó là hậu quả của những trải nghiệm đau khổ hay chấn thương từ cả hai phía. Có người ngưỡng mộ tài năng và sức sáng tạo của “thần tượng”. Có người lấy cảm hứng từ đó để “phản ứng” với phụ huynh và tiến một bước đến sự tự trị. Số khác cảm nhận rằng những lời nói, ca từ có ý nghĩa xã hội quan trọng nào đó và thích hợp với mình. Số khác xem cộng đồng “fans” là chỗ dựa tinh thần và mối dây xã hội mà họ không tìm được ở chỗ khác. Nói ngắn, đối với “fans” trẻ tuổi, có nhiều khả năng để sử dụng “thần tượng” theo hướng tích cực và chưa đủ bằng chứng cho thấy việc này nhất thiết sẽ dẫn đến hành vi phá hoại và tự huỷ.


TT: Và có lỗi không, khi truyền thông bằng nhiều cách khác nhau đã đưa đến với công chúng những hình ảnh hoặc quá lung linh hoặc vô cùng méo mó để thần tượng cùng nỗi cuồng si cứ trồi sụt như giá… chứng khoán, thưa ông?


BVNS: Nhìn lại lịch sử, quả thật truyền thông giữ vai trò rất lớn, nếu không nói là quyết định trong lĩnh vực này. Ở phương Tây, thời kỳ hoàng kim của “thần tượng” là những năm 1980 thế kỷ trước với ảnh hưởng rộng khắp của máy truyền hình. Nhưng thời ấy, không thể trở thành “thần tượng” nếu không có cơ quan truyền thông đứng đàng sau “đạo diễn”, biến những thần tượng nhân tạo thành những “cổ máy làm tiền”. Từ những năm 1990, người xem bắt đầu nhàm chán, và bản thân những “thần tượng” hàng đầu cũng muốn trở thành nghệ sĩ đích thực hơn là “thần tượng”. Ngày nay, internet dần thế chỗ cho TV, rất thuận tiện cho việc trở thành “thần tượng” với phí tổn thấp, và nhiều người có thể xây dựng một nhóm những kẻ ái mộ, nhỏ nhưng vững chắc. Ta bước vào thời kỳ của số đông những “thần tượng”, số đông những “fan club”, song hành với tiến trình đa dạng hoá của sở thích và dân chủ hoá xã hội. Hệ thống truyền thông nói chung, công nghệ giải trí nói riêng, vận hành theo quy luật riêng của nó, khó có thể rao giảng đạo đức ở đây. Chính những phương tiện truyền thông khác, cách thức truyền thông khác, tự chúng, sẽ dần thay thế và điều chỉnh.


TT: Lời khuyên nào từ quan điểm triết học cho những người trót bị/được vào hào quang thần tượng, những ứng xử tối thiểu để họ không rơi vào cảnh ném ra ánh sáng, những sơn son thếp vàng không còn che nổi pho tượng đất?


BVNS: Triết học, theo chỗ tôi hiểu, thường tiết kiệm lời khuyên! Nó chỉ phân tích và soi sáng vấn đề để con người tự quyết định lấy. “Bị ném ra ánh sáng” là giá phải trả cho sự trưởng thành. Triết học không muốn làm điều gì khác hơn! Nhưng, đó nên là một tiến trình tự nhiên, phù hợp với tâm sinh lý của từng lứa tuổi. Đừng để xảy ra bi kịch thương tâm như mới đây ở Trung Quốc. Ông bố, Chu Khải, trong cơn nóng giận, giết chết cô con gái, Tiểu Nam, 13 tuổi vì cô suốt ngày say cuồng nhóm nhạc EXO của Hàn Quốc và hỗn láo với cha mẹ. Ông ân hận, tự sát nhưng không chết và đang bị khởi tố!

Lỗi tại ai? Cô bé 13 tuổi làm gì có tội, thậm chí chưa biết tội là gì! Ban nhạc EXO? Thật vô lý khi quy lỗi cho họ. Vậy, nếu ông bố bình tâm nghĩ rằng: ở tuổi 13, cô bé biết mơ mộng, biết “hiến dâng”, thì ở lứa tuổi khác, nhất là khi trưởng thành, cô sẽ càng biết hiến dâng cho những điều khác nữa.


Có người còn xét việc thần tượng hoá những hiện tượng phi-vật chất trên bình diện xã hội. Vấn đề sẽ là: ta không còn thần tượng hoá như thế nào, mà cùng nhau thần tượng hoá cái gì? Trong quyển Idols of Our Times (Những thần tượng của thời đại chúng ta), Bob Goudzwaard cho rằng sự giàu có, an ninh, cách mạng và chủ nghĩa dân tộc là “những lý tưởng của thời đại chúng ta”. Nhưng đó là vào năm 1984. Vào năm 2014, những “thần tượng” ấy có thay đổi? Ta có những thần tượng xã hội “mới”? Dân chủ? Đoàn kết? Bình đẳng? Nhân quyền và dân quyền? Quyển Political Visions and Illusions (Những viễn kiến và ảo tưởng chính trị) của David Koyzis bàn khá sâu về những câu hỏi ấy. Đồng thời nảy sinh nhiều câu hỏi khác: những thần tượng xã hội có “khác” với thần tượng cá nhân? Hay thần tượng xã hội chỉ là sự mở rộng thần tượng cá nhân? Hay chúng không thể là những thần tượng cá nhân? v.v…


Trở lại với câu hỏi của chúng ta. Hiếm có ai là… “fan cuồng” như Bùi Giáng qua hai câu sau đây:


Bây giờ tôi dại tôi điên

Chắp tay tôi lạy một miền Hà Thanh!


Nhưng chắc không ai nghĩ Bùi Giáng “dại và điên” thật sự bởi giọng hát Hà Thanh như bởi một “miền” ái mộ!

Ta chỉ thấy đời vui hơn và đẹp hơn! “Trưởng thành” - như nói trên đây - không phải là dửng dưng, vô tình, khô héo như hoang mạc.

TT: Là một người nghệ sĩ, nhất là đã trở thành thần tượng của nhiều người, thì có hay không trách nhiệm của họ với danh tiếng, với nghề nghiệp, những thứ đã mang lại cho họ hào quang, thưa ông? Danh tiếng như phù hoa nhưng có thể đi theo suốt cuộc đời, ứng xử sao, cách nào để hình ảnh ấy không “phản bội” tình yêu, sự si mê của công chúng?

BVNS: “Nghệ sĩ” có trước hay “thần tượng” có trước? Thông thường, sự nghiệp sáng tạo làm nên người nghệ sĩ. Danh tiếng và “trở thành thần tượng” đến sau như là kết quả tự nhiên. Nhưng, từ khi có “công nghệ” tuyên truyền và quảng cáo, trình tự thường bị đảo ngược! Điều này góp phần gây nên ảo tưởng cho cả “thần tượng” lẫn người ái mộ. “Thần tượng” sa đoạ thành “ngẫu tượng” của sự tự huyễn hoặc cho phía bên này và mê muội cho phía bên kia. “Ngẫu tượng” là sản phẩm được dựng lên, đã không tự chủ, thì làm sao có ý thức trách nhiệm? “Không phải cái gì lấp lánh cũng là vàng”. Người nghệ sĩ đích thực, với mỹ cảm thiên phú, ý thức điều này hơn ai hết. Họ sống cho cái đẹp, hơn là muốn “cái đẹp” phục vụ cho mình. Như có nói ở trên, sau sự sụp đổ của nhiều “thần tượng” ở các nước (vướng vào ma tuý, lừa đảo, tội phạm…), nhiều thần tượng hàng đầu khác trong làng giải trí chọn trở lại làm người nghệ sĩ.


Cát Khuê thực hiện








Những ký ức Sài Gòn


Sài Gòn bây giờ náo nhiệt, thay đổi nhiều, phố xá sang trọng, kiểu cách nổi bật lên ở khu trung tâm Q.1, nhất là các đường Lê Lợi, Đồng Khởi, Nguyễn Huệ. Mỗi ngày tôi thường qua đây, nhưng vẫn không quên được góc phố cũ khu Lê Thánh Tôn - Tự Do (Đồng Khởi bây giờ) với quán cà phê Chùa (La Pagode). Xích xuống phía dưới, trước nhà hát thành phố, đối diện khách sạn Continental là cà phê Givral và rạp xi nê Eden, còn bên kia đường Nguyễn Huệ là rạp Rex.

Hồi trước, những ngày cuối năm khu vực đó thật rộn ràng, nam thanh nữ tú đưa nhau đi bát phố, vào thương xá mua quà tặng, ngồi cà phê nhìn chiều xuống chậm, đợi đèn đường bật lên sáng bừng hàng me xanh, sau đó dẫn người yêu vào rạp coi phim. Những bộ phim chọn lọc, nhớ đời. Bây giờ thú rong chơi cuối năm ấy đâu còn nữa, những quán cà phê, rạp chiếu phim ấy đã mất dấu, chỉ còn hiện ra trong hồi tưởng cuối năm thôi.
Xa hơn một chút, góc Pasteur - Lê Lợi có rạp xi nê Casino Sài Gòn, một rạp hạng B nhưng bọn trẻ yêu nhau rất thích, thường ngồi ở cánh gà A hoặc B trên lầu khá tình tứ, lãng mạn. Bây giờ rạp này mất tăm, chỗ ấy người ta đang xây dựng công trình gì đó rất hoành tráng. Tôi nhớ nhất (và nhiều người cùng thời với tôi chắc cũng vậy) con hẻm sát bên rạp Casino dẫn vào khu ăn uống với đủ các món 3 miền. Thanh niên nam nữ đi từng nhóm, các cặp tình nhân thường vào đây. Bún chả, bánh tôm, phở... thứ gì cũng có, giá cả phù hợp túi tiền học sinh, sinh viên. Tôi có quá nhiều kỷ niệm về con hẻm này. Một thời đã qua, tái hiện như giấc mơ. Thoáng chốc đã là quá khứ, đã là ngày xưa... Ai còn ai mất, ai vẫn ở Sài Gòn, ai xa cách mấy phương trời còn ngồi nhớ?
Người ở Sài Gòn trước đây hầu như ai cũng biết 3 thương xá lớn nằm ngay trung tâm Q.1, cũng có nghĩa trung tâm Sài Gòn: Thương xá Eden góc đường Đồng Khởi - Lê Lợi, ngoài những quầy bán mặt hàng tiêu dùng sang trọng còn có cả rạp chiếu phim Eden, ngày đó là một trong những rạp chiếu phim bậc nhất của Sài Gòn. Ngoài mặt tiền Eden, ngay góc đường là quán cà phê sang trọng, nổi tiếng theo phong cách Pháp, nơi báo giới đến nắm bắt tin tức, quán Givral. Thương xá Eden, rạp chiếu phim Eden và quán cà phê Givral nay cũng đã biến mất.
Ở góc Nguyễn Huệ - Lê Lợi, ngay vòng xoay hồ nước là thương xá Tax. Khu thương xá này rộng lớn, bán nhiều mặt hàng tiêu dùng: kim khí điện máy, vải vóc, vàng… Ở khu tứ giác Lê Lợi - Công Lý (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) - Trương Công Định - Lê Thánh Tôn là thương xá Cystal Palace, cao mấy tầng lầu. Ở tầng 1 tôi còn nhớ có quầy nhạc Phạm Mạnh Cương, quầy sách Tuổi Ngọc của Duyên Anh, dưới trệt là quầy nhạc Minh Phát, bên kia là quán cà phê Kim Sơn, nhà hàng Thanh Thế nổi tiếng vì giới văn nghệ sĩ thường la cà ở đó. Đặc biệt ngay góc Lê Lợi - Trương Định có quầy sách báo rất hoành tráng của cô Nga, đám văn nghệ sĩ thường gọi là Nga ốm, vì cô nhỏ con, rất gầy và… móm. Nhưng cô chủ quầy thật dễ thương, sẵn sàng cho mấy anh nhà thơ nhà văn nghèo tới đọc cọp sách báo, thậm chí cho mượn tiền uống cà phê mà ít đòi. Người thường xuyên có mặt ở đây là nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn.
Bây giờ hầu như tất cả chỉ còn trong trí nhớ.

Từ Kế Tường


ps: sao cứ dính nhau thế nhỉ, không tách được, chả hỉu?

Sửa bởi pth77: 25/03/2014 - 05:39


Thanked by 2 Members:

#40 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 29/03/2014 - 11:41

Học làm người là việc học suốt đời, không bao giờ tốt nghiệp
Dalai Lama


1. Thứ nhất, “học nhận lỗi”.

Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng. Thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.

2. Thứ hai, “học nhu hòa”.
Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên. Cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được.

3. Thứ ba, " học nhẫn nhục”.
Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.

4. Thứ tư, “học thấu hiểu”.
Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm.Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?

5. Thứ năm, “học buông bỏ”.
Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, biết buông bỏ thì mới tự tại được!

6. Thứ sáu, “học cảm động”.
Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.

7. Thứ bảy, “học sinh tồn”.
Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tất cả chân lý đều ở trong cuộc sống này, khi sống với tham sân si thì đó là luân hồi đau khổ, khi đoạn tận tham sân si thì đó là Niết-bàn tịch tịnh. Vậy bài học là thấy ra đâu là đau khổ, đâu là Niết-bàn và nguyên nhân của nó ngay trong chính mình và cuộc sống chứ không phải cố gắng cho những ảo tưởng ở tương lai… Lắng nghe, quan sát lại chính mình trong tương giao với cuộc sống, sẽ thấy ra (vipassati) mọi chân lý mà chư Phật đã chứng ngộ.

Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ. Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhịn.

Phần lớn chúng ta khổ vì muốn được thường, lạc, ngã mà không thấy vô thường, khổ, vô ngã trong vạn pháp. Trong vô thường mà muốn thường hằng, trong khổ đau mà muốn hạnh phúc, trong vô ngã mà muốn đó là ta, của ta và tự ngã của ta: Đây được gọi là những điên đảo tưởng.
Mọi sự mọi vật do duyên sinh đều có biến đổi, có thành hoại, có sinh diêt. Do đó ai muốn chúng thường còn thì tự chuốc lấy khổ đau. Ví dụ như hoa Mai có nở có tàn nhưng ai muốn hoa Mai nở mãi không tàn thì sẽ khổ đau thất vọng .

Mọi sự mọi vật do ái dục + vô minh, tức tham-sân + si chi phối trong các hành động tạo tác mà đưa đến sầu khổ. Ví dụ như đời người có sinh, già, đau, chết nhưng ai tham sống sợ chết thì sẽ khổ đau phiền muộn.

Mọi sự mọi vật vốn vận hành theo quy luật tự nhiên của chúng, còn ý niệm “ta, của ta, tự ngã của ta” được gán ghép vào đó chỉ là ảo tưởng. Và chính ảo tưởng này đem lại khổ sầu. Ví dụ như mắt thấy mà cho là “ta thấy”, tai nghe mà cho là “ta nghe”… rồi “đây là con ta”, “đây là tài sản của ta”… nên mới khổ.

Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới chung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ”
“Ra đời hai tay trắng.
Lìa đời trắng hai tay.
Sao mãi nhặt cho đầy.
Túi đời như mây bay”.

Hãy thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình.

Thiên Đàng, Cực Lạc, chỉ là cách gọi tên thôi. Phật giáo, Thiên Chúa giáo chỉ là hệ thống tổ chức Tôn giáo và Giáo lý thôi. Trên thực tế Chân Lý vẫn là một đối với người đã giác ngộ. Giống như người miền Trung gọi là củ sắn thì người miền Nam gọi là củ mì, còn người nào ăn củ đó rồi thì mới thấy chỉ là một củ thôi …

Khi còn tranh cãi nhau về cách lập ngôn hay còn chấp giữ hệ thống lý thuyết riêng của mình thì vẫn còn chưa thấy Chân Lý… Chính ý niệm của con người chia cắt manh mún Sự Thật thành cái của tôi và của anh mà thôi.

Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta? Nhận thức rằng “ Vạn vật đồng nhất ”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài.

Có hai cách biết: Một là cái biết thực tính (paramattha), hai là cái biết chế định (paññatti) với khái niệm.
Khi biết thực tính thì không qua khái niệm và không phản ứng tạo tác (không làm: vô vi, hoặc làm mà không tạo tác: duy tác).
Khi biết chế định với khái niệm thì có hai cách: Một là làm thiện theo nhu cầu cần thiết, hai là làm bất thiện theo tà kiến và tham ái.
Vì vậy, thấy biết chân thật là chính, còn làm hay không là một động lực tất yếu từ sự thấy biết này.

“Sống với đạo Phật:
- Nếu không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp; đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác.
- Nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức; đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.


Trí tuệ không để bản ngã xen vào (= chấp thủ của các tư kiến) sự vận hành của các Pháp được gọi là Minh. Chỉ có Minh mới chấm dứt được toàn bộ tiến trình của bản ngã trói buộc con người, làm cho con người bị động trong vòng luân hồi sinh tử.

“Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu.
- Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô.
- Anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.


– Trong lành là tuyệt đỉnh của Giới.
– Tĩnh lặng là tuyệt đỉnh của Định.
– Sáng suốt là tuyệt đỉnh của Tuệ.
Thực ra, chỉ có buông xả mới đạt được tuyệt đỉnh của Giới Định Tuệ mà thôi…

“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.
Ví như trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác.
Vì thế, nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí tuệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.”


Hãy tin vào tất cả nhưng cũng đừng tin vào điều gì cả, hay nói chính xác hơn là đừng bám víu vào bất cứ điều gì. Tin vào mọi sự, mọi người, mọi vật… vì tất cả điều gì đến với mình đều có nhân duyên với mình, đều là bài học giúp mình học ra cái đúng cái sai, cái xấu cái tốt, cái chân cái giả…
Do đó phải biết ơn và phải học cho thật nhiệt tình, tận tâm và chuyên chú… chứ không nên chểnh mảng.

Nhưng phải cẩn thận, đừng bám víu vào điều gì, vì bám víu là dính mắc, dính mắc là trói buộc, trói buộc là đau khổ, là không còn thong dong tự tại…
“Hạnh phúc không phải là thứ có sẵn, Nó đến từ chính hành động của bạn.. .
Tín ngưỡng của tôi rất đơn giản. Không cần có các chùa chiền, không cần các triết lý cao siêu. Tim và óc của tôi là các chùa chiền; triết lý của tôi là lòng tốt.

Sửa bởi pth77: 29/03/2014 - 11:53


Thanked by 5 Members:

#41 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 31/03/2014 - 13:58

Nghèo Là Một Cái Tội

Alan Phan

Một bạn để ý là tôi có nhiều sách về những câu châm ngôn phát đi từ các danh nhân và triết gia trong tủ sách. Được hỏi câu nào mang nhiều ý nghĩa nhất, tôi buột miệng theo tiềm thức, “Nghèo là một cái tội.” Trước khi ném đá và giương cao ngọn cờ “đấu tranh giai cấp”, xin các bạn cho ông già này giải thích.

Tôi đã nhiều lần rỗng túi, chạy quanh đường phố để suy nghĩ mà không biết ngày mai tiền sẽ từ đâu đến để trả cho cả trăm cái bills (hóa đơn). Tôi cũng đã từng có rất nhiều tiền mà suốt ngày phải họp với các chuyên gia thuế vụ để tìm cách làm “giảm hay hoãn” thuế. Nhìn lại, dù có tiền hay không, hạnh phúc hay đau khổ của tôi trong những hoàn cảnh này đều không liên quan đến tiền. Tuy nhiên, dù khóc hay cười, tôi nghiệm ra một điều là “có tiền” thì vẫn thú vị hơn. Mặt khác, tôi cũng có thể chắc chắn một điều: dù “không tiền”, tôi vẫn chưa bao giờ “nghèo”.

“Nghèo” không đơn thuần chỉ là “không tiền”. Dưới góc nhìn chủ quan của tôi, một con người toàn diện phải hội đủ 6 thành tố: sức khỏe, trí tuệ, tinh thần, tâm linh, xã hội và tài chánh.Một người có nhiều tiền nhưng nghèo sức khỏe vẫn hoang phí tháng ngày. Nghèo kiến thức thì dù là một đại gia vẫn được xếp vào hạng ngu. Cha mẹ cho rất nhiều tiền nhưng tinh thần và tâm linh kém cỏi, yếu đuối thì trước sau gì cũng đi vào khổ lụy. Thêm nữa, dù có một gia đình bền chặt và một kết nối xã hội tốt, bạn vẫn không làm gì được cho ai nếu không có tài chánh.

Nghèo” là người không có gì để “cho”. Dĩ nhiên, ta không thể cho những gì ta không có.

Ngoài những người bất hạnh với tật nguyền bẩm sinh, sứ mệnh của con người theo nhiều tôn giáo, triết thuyết … là để đóng góp một “cái gì đó” cho tha nhân. “Nghèo” hay không có gì để đóng góp có phải là một tội lỗi?

Tôi nhận xét một điều là ở Việt Nam, người dân không thiếu cơ sở hay dữ kiện để truy cập và phát triển về những yếu tố quan trọng như trí tuệ, tinh thần, tâm linh, xã hội, gia đình hay sức khỏe. Trong khi đó, vì chuyện chính trị là một vùng nhậy cảm cho nhà cầm quyền, nên kiến thức về kinh tế tài chánh lại thiếu hụt, kém chính xác và luôn bị những định hướng chính trị bẻ cong.

Do đó, trong bài viết này, tôi sẽ giới hạn suy nghĩ của mình về yếu tố tài chánh. Tôi cố gắng phân tích ra những lý do cốt lõi đã gây nên cái nghèo “tiền” cho gần 90% dân số. Dĩ nhiên, tiền không phải là hiện thân của tất cả giá trị con người, nhưng từ ngàn xưa, văn hóa Đông Phương đã hiểu rằng, “dân có giàu, nước mới mạnh”. Giàu phải là một nghĩa vụ quốc gia, mà tôi cho rằng cũng quan trọng không kém nghĩa vụ quân sự hay văn hóa.

1. Tư duy nghèo

Từ nhỏ và ngay cả khi bắt đầu biết đọc sách, suy nghĩ, tâm trí của tôi chịu ảnh hưởng nhiều từ một văn hóa và môi trường “ghét người giàu, và đồng hóa cái nghèo với trong sạch”. Dù chế độ VNCH cũ được coi như là một tiền đồn của chủ nghĩa tư bản, chánh phủ vẫn giáo dục người dân về các “tội lỗi” của người giàu (không biết có phải vì cạnh tranh để mua lòng dân nghèo với Cộng Sản?).

Từ chánh phủ với chính sách “người *** có ruộng” hay “xây nhà bình dân” đến trong lớp học, ngoài đời, văn hóa “thanh bần và trọc phú” là những biểu hiện thường trực. Những câu chuyện khổ nạn của Oliver Twist, Les Miserables, Grapes of Wrath…rất phổ biến, tạo một tư duy “nửa xã hội nửa tiểu tư sản”. Nếu sinh ra thời đó, Bill Gates, Warren Buffett…có lẽ là những tên tuổi xấu thay vì được ngưỡng mộ như gần đây.

Descartes nói, “Je pense, donc je suis” (tôi trở thành người tôi nghĩ). Mỹ có thành ngữ,” Tư duy tạo nên hành động, hành động tạo thói quen, thói quen tạo cá tính và cá tính tạo định mệnh.” Một tư duy “nghèo” chắc chắn phải đem đến một định mệnh “nghèo”.

Đây là suy tưởng của những người miền Nam đã sống với “tư bản Pháp rồi Mỹ”. Còn những người miền Bắc sống với “xã hội của Mác Lê” thì chắc chắn không được phép tư duy “giàu”. Khi mọi suy nghĩ đều cho rằng “nghèo” hơn “giàu” thì từ cá nhân đến xã hội không thể nào vượt trên tư duy đó.

2. Kiến thức nghèo:

Trong những người giàu có mà tôi hân hạnh được quen biết, họ đều chia sẻ một cá tính chung “rất chịu khó học hỏi tìm tòi và sẵn sàng chấp nhận những mới lạ thay đổi”. Ngoài các quan chức và đại gia làm giàu nhờ quan hệ dựa trên quyền lực, ngay cả những người giàu từ các chế độ XHCN đều thể hiện tinh thần và phong thái cởi mở nói trên.

Người Do Thái suy nghĩ rất nhiều về tiền bạc, nhưng họ cũng chịu khó bỏ ra một số lượng thời gian khá lớn để học hỏi các phương cách làm giàu, từ gia đình bạn bè hay sách vở kinh giảng. Trong trường đại học của tôi, có nhiều social clubs (câu lạc bộ) cho các sinh viên có chung sở thích từ thể thao, từ thiện, chính trị…đến toán học, kịch nghệ hay tranh luận (debate). Nhiều bạn Do Thái chỉ gia nhập how-to-get-rich clubs (làm giàu).

Người Trung Quốc cũng đam mê giàu có từ bản chất. Họ rất bén nhậy với cơ hội, cần cù, nâng đỡ nhau trong các bang hội…để cùng làm giàu. Họ thực tế, không hoang tưởng và mặc cho sự giáo huấn của đảng cộng sản 70 năm qua, bản sắc làm giàu vẫn tiềm tàng mạnh trong mỗi gia đình và cá nhân.
Làm giàu là một hành trình lâu bền và khổ cực. Kiến thức là phương tiện quan trọng để thâu ngắn chặng đường. Nghèo kiến thức thì nghèo kết quả.

3. Môi trường nghèo:

Một đặc điểm của tôn giáo Do Thái là việc đề cao sự giàu có vật chất. Trong khi Ki Tô Giáo và Phật Giáo khuyến thị tín đồ phải “ép xác” hay “tránh tham” để tự giải thoát tinh thần và tâm linh khỏi vòng khổ nạn, lãnh tụ các tôn giáo này thường nâng cấp góc cạnh “nghèo” qua các bài giảng. Kết quả là một đa số quần chúng coi giàu là một tội lỗi, người giàu là một địch thủ. Sự thù hận, đố kỵ này được các chính trị gia Mác Lê lợi dụng triệt để để thâu tóm quyền lực, tạo nên một môi trường “của người nghèo, do người nghèo và vì người nghèo”. Dĩ nhiên, đó chỉ là thủ đoạn, họ và các phe nhóm hay con cháu…thì không bao giờ nghèo.

Ngay cả trong những nước tư bản tự do làm giàu, một đứa trẻ sinh ra trong một môi trường nghèo như tại các khu ổ chuột thành phố, hay các vùng quê xa xôi hẻo lánh, thường bị ảnh hưởng nặng nề bởi con người và hoàn cảnh bao quanh. Trừ một thiểu số có ý chí và tư duy mạnh mẽ, đa số âm thầm chịu đựng rồi đổ thừa cho số mệnh. Câu “cái số mình nó thế” nghe rất quen thuộc ở những môi trường nghèo.

Con người có đặc tính “bầy đàn”. Khi đám đông nghèo thì ta cũng “hạnh phúc” với cái nghèo, biện luận là phải “chia sẻ” với láng giềng. Nhiều người lại còn tự hào về cái hạnh phúc trong nghèo đói của mình.

4. Nghèo hành động:

Tôi quan sát (hoàn toàn chủ quan, không kiểm chứng được) là những người nghèo thường thích “nói” nhiều. Họ luôn luôn có những kế hoạch thần sầu để trở thành một đại gia “top ten” của quốc gia hay thế giới. Kế hoạch luôn thay đổi vì chưa làm gì thì đã có một ý tưởng mới hay hơn, tốt hơn. Hoặc có làm thì thường bỏ cuộc sau 5 phút vào trận đấu vì thực tế thị trường không tươi đẹp như trên giấy tờ hay các khẩu hiệu.

Nói chung, họ thích nhàn (không muốn nhận là lười biếng) và coi đây là một triết lý sống khôn ngoan. Nếu nhờ chút mánh mun mà kiếm được tiền hay quyền, họ sẽ coi họ là đỉnh cao của xã hội. Nói phét, nổ bậy …trong các bàn tiệc nhậu nhẹt be bét là một thói quen rất dễ nhận ra.

Nhiều người nghèo khác thì lười nhưng thích ra dáng trầm uất, bất cần đời…hay khơi động lòng thương hại của người khác. “Xin-cho”, “ăn mày quá khứ”…là những hành xử phổ thông của các nhóm nghèo này.

5. Chọn bạn nghèo:

Một châm ngôn thông dụng của Âu Mỹ là “bạn cho tôi biết thu nhập của 5 người thân thiết nhất trong đời bạn, và tôi sẽ tính ra con số thu nhập trung bình của bạn”. Á Đông thì rõ ràng hơn, “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Tôi nhớ những ngày còn trẻ, tôi hay la cà cùng bạn bè ở quán cà phê, quán rượu, garage nhà hàng xóm. Chúng tôi miên man mơ mộng và nói về những tương lai khi chúng tôi giúp nhau giàu có để trả hận đời. Một ngày, tôi chợt nhận ra là tất cả bạn này đều nghèo rớt mồng tơi như tôi. Tụ họp ngày ngày với nhau, tôi chắc chắn tương lai duy nhất của chúng tôi là sẽ trở thành những ông già nghèo rớt mồng tơi. Sau khi nhận ra chân lý, tôi dứt khoát rời bỏ đám đông “tình nghĩa” này đề đi tìm cho mình một tương lai khác.

Qua những trải nghiệm và suy nghĩ của mình, tôi đúc kết 5 nguyên nhân cốt lõi trên mà tôi cho rằng đang cột chặt bạn với cái nghèo. Tôi có thể sai, tôi còn nhiều thiếu sót, tôi có nhiều định kiến chủ quan…Có lẽ vậy. Nhưng đây là kết luận của một người đã từng rất nghèo, rất ngu và biết thay đổi kịp thời.

Quốc gia nghèo

Một điều nữa. Khi chia sẻ với nhau, nhiều bạn có gởi tôi những cuốn sách, những bài khảo luận về đề tài “lý do khiến một quốc gia nghèo”. Có những lý thuyết rất cao siêu từ tháp ngà hàn lâm (vì chúng làm tôi ngủ thật ngon sau vài trang), có những khôn ngoan rất dễ hiểu (như các bài viết hay phát ngôn của Warren Buffett). Tuy nhiên, tôi cho rằng 5 lý do khiến một cá nhân nghèo như tôi đã trình bày, cũng rất giống 5 lý do cốt lõi khiến một quốc gia nghèo.

Nói về lý do chọn bạn chẳng hạn. Nhìn qua lịch sử, bạn của anh nhà giàu Hoa Kỳ thường giàu theo như Tây Âu, Nhật, Úc, Singapore…Còn bạn của các anh Liên Xô, Trung Quốc, Cuba…vẫn nghèo rớt mồng tơi (ngôn ngữ Việt phong phú nhỉ).

Văn hóa Á Đông thường chê trách về chuyện “giàu đổi bạn, sang đổi vợ”. Tôi không dám nói về chuyện vợ chồng vì sẽ bị ném đá, ngay tại nhà. Nhưng nếu có những ông bạn suốt ngày cứ ca tụng chuyện nghèo, tôi sẽ không ngần ngại tránh xa. Họ độc hại hơn các hóa chất trong thực phẩm của Trung Quốc. Lỡ ăn nhầm, vẫn có thể vào bệnh viện bơm ruột. Nhưng nếu tư duy nghèo đã ăn vào trí não và xương tủy, thì cả cuộc đời trở thành lãng phí.

Tôi nhớ một câu message (tin nhắn) thú vị, nhiều người thâu vào hộp thư thoại (voice mail box) của họ,” Xin để lại tên và điện thoại của bạn. Tôi đang tìm cách thay đổi đời mình. Nếu tôi không gọi lại bạn, thì bạn nên hiểu bạn là một trong những thay đổi đó”.
Không biết bao giờ các lãnh đạo của Việt Nam mới can đảm nói với “xứ lạ” điều này?

Alan Phan

Sửa bởi pth77: 31/03/2014 - 14:00


Thanked by 3 Members:

#42 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 03/04/2014 - 11:52

Tình yêu và tiếng hát
Trịnh Công Sơn
Tuần san Thanh Niên, 1998


Tình yêu cho phép những ca khúc ra đời. Nỗi đau và niềm hân hoan làm thành bào thai sinh nở ra âm nhạc. Âm nhạc như thế là tình yêu, là trong bản thân nó hàm chứa 1 cõi nhân sinh bề bộn những khổ đau và hoan lạc. Không có bất hạnh và nụ cười có lẽ âm nhạc cũng không thể có duyên ra đời.
Có người đi đến với cuộc đời và ngẫm nghĩ: nếu đời sống vắng bóng âm nhạc và tiếng hát thì ta sẽ như thế nào đây? Ở đâu có con người , ở đó có tiếng hát. Trên mặt đất , trần gian này tiếng hát nhắc nhở ta 1 điều giản dị: tôi hát là tôi hiện hữu. Tôi tồn tại có nghĩa là tôi sẽ mất đi. Tôi mất đi, mọi người cũng sẽ mất đi, nhưng tiếng hát còn ở lại. Ở lại như chiến tích vừa buồn bã vừa huy hoàng của 1 cõi đời.
Tiếng hát thường làm nhớ nhung con người. Nhớ một con người là nhớ cả một trần gian. Cái thân thể mĩ miều của trần gian này nọ đã từng vạch ra những lối đi mờ ảo, hoang đường trong bể dâu của cuộc sống. Thân thể ấy bỗng tự thân đã biến thành thánh địa cho cuộc chiêm ngưỡng tình yêu. Âm nhạc và tiếng hát ra đời để ca tụng một gót chân, một bàn tay, những môi, mắt, má, và đôi khi một mái tóc trầm hương và sau đó là nụ cười, nước mắt của một đời người.
Tiếng hát là con đẻ của thân xác. Từ thân xác bay lên những giai điệu và lời ca. ca hát là để nhớ nhau và đôi lúc, để an ủi mình. An ủi một cái gì còn ở lại và than thở một điều gì đã ra đi.
Tất cả mọi điều sẽ qua đi, sẽ biến mất, nhưng tiếng hát, câu ca, một khi đã được khai sinh với ngày thôi nôi huy hoàng của nó thì sẽ ở lại với đời mãi mãi. Đó là một cuộc rong chơi ngậm ngùi của hữu hạn muốn chộp bắt cái vô hạn làm món quà thế chấp cho đời mình.

Đành vậy với tình yêu
Cho đến cuối thế kỷ này, khi mà những khám phá khoa học đã bóc trần mọi lớp vỏ huyễn hoặc của thế giới quanh ta thì con người vẫn tiếp tục hồn nhiên chất vấn mình và chất vấn nhau: Tình yêu là gì? Tình yêu có thật hay không ?
Bao nhiêu thế kỷ qua đi và tình yêu cũng thay hình đổi dạng. Đắm chìm vào những cuộc vong thân ngoạn mục, tình yêu đã hoá thân và theo từng thời kỳ, mang những khuôn mặt khác.
Tình yêu cuối thế kỷ này không còn mộng mị nữa. Những giấc mơ hão huyền đã ra đi. Con người đến với tình yêu bằng một ngôn ngữ khác. Có một thứ hình bóng của mộng du len lỏi vào giữa cái điều mà người ta gọi là tình yêu. Và cứ thế người ta lao vào cái điều "tưởng như" ấy một cách đồng bóng và đánh mất dần cái hồn phách thơ mộng của những ngày đã xa xưa.
Đừng bao giờ nói một lời có tính cách khẳng định về tình yêu. Mới ngày hôm qua là như thế hôm nay đã khác rồi. Tình yêu tưởng vĩnh viễn ra đi mà không ra đi. Tình yêu vờ như ở lại mà không ở lại. Kể lại một chuyện tình thường khi là kể lại một cái gì đã mất. Nhưng cũng không hiếm những trái tim lạc hướng bỗng một hôm lại ngoạn mục quay về. Không thể nói nhiều về tình yêu mà không mắc lỗi lầm. Cứ để nó yên ở một vị trí nào đó và nhìn ngắm, quan sát hoặc chờ đợi. Tình yêu là bất khả tư nghì.
Không ai điên gì mà tự xưng mình là kẻ biết rõ về tình yêu nhất. Đau khổ cả trăm lần vẫn cứ là một đứa trẻ thơ trong tình yêu. Tình yêu có lẽ là lời nói dối uyên thâm nhất của trái tim. Một trái tim kim cương không tì vết, không thách thức nhưng ngạo nghễ và thích đùa. Một thứ đùa cợt làm bằng bi hài kịch và trên sân khấu của cuôc hành trình đã làm nổ tung ra những cơn thịnh nộ của núi lửa hoặc của những mùa băng rã tuyết tan.
Dù thế nào cũng đừng phỉ báng tình yêu bởi nghĩ cho cùng nó vẫn là nguồn an ủi duy nhất. Nó là trò chơi dối trá cần thiết và qua nó chỉ có con ngưòi mới hiểu được thế nào là đau khổ để rồi có lúc phải thốt lên: Tôi buồn quá....
Tình yêu là không khoan nhượng. Cái khía cạnh ác độc của tình yêu không ai có thể đo lường được. Khi cần dập chết một cuộc tình nó sẽ không cần biết nương tay. Nó lạnh lùng thản nhiên trước cơn hấp hối của "con bệnh tình". Vì thế xin các hoàng tử, quí công nương hãy biết kềm giữ mình khi đứng bên mép bờ hiu hắt và luôn luôn chuẩn bị sẵn cho mình một bài kinh thiền định để giữ được cõi lòng bình an, tĩnh lặng. Mọi cơn bão sẽ qua đi và trên các bờ bãi, biển đã để lại bao nhiêu là sinh vật biển cho một bữa tiệc dù muộn màng, phù du, nhưng cũng đủ để làm hồi sinh một nỗi khát sống và xoá đi những thương tích tuồng như không đáng có.
Tình yêu không có thắng bại. Ở đây không phải đấu trường mặc dù vẫn có những vết thương. Thậm chí đôi khi còn mang đến những cái chết, những cái chết không báo trước nhưng cũng nhuốm đầy đủ màu sắc tai ương, của một kiếp nạn. Những cái chết như thế không còn mới mẻ gì nữa, chỉ đủ gây ngạc nhiên thoáng qua để có dịp nhắc nhở lại một thời kỳ vàng son của triều đại lãng mạn. Thế nhưng ở đâu đó trên các vỉa hè trong lòng các đô thị, nhất là dưới ánh đèn mờ tỏ ở các ngoại ô, tiếng xì xào vẫn cứ vang lên như một ngọn gió xót thương qua các đền thờ của ảo giác. Đó cũng là lời tôn vinh phù phiếm nhằm làm thăng hoa tình yêu hầu khôi phục lại một thứ lòng tin đã bị đánh mất.
Nếu có dịp chạm vào tình yêu thì hãy thử mượn một cỗ xe chở lòng bất kính đến trước. Có thể không hẳn là lòng bất kính mà một cái gì đó gần với sự thờ ơ, lãnh đạm hoặc một phương cách lịch sự bóng bẩy phường tuồng. Đó là lá chắn cần thiết, một thứ bùa hộ mạng để chống đỡ những mũi dao vô đạo có thể gây thương tích bất ngờ trên lòng tự trọng.
Tình yêu hình như không di chuyển trên một mặt phẳng. Nó thường dẫn người trong cuộc đi qua những nơi chốn không hề dự phòng trước. Thế rồi một hôm bỗng dưng mọi chuyện cứ lệch lạc hẳn đi và người trong cuộc thấy mình không còn là mình nữa. Như trong mùa biển động, những con sóng dữ tha hồ nhảy múa và nó rút dần tinh lực của con người.
Có những kẻ thấy được thiên đường. Có những kẻ thấy được địa ngục. Và có không ít những kẻ bị chọc mù đôi mắt khi đi qua tình yêu. Những giấc mơ hồng, những ác mộng đen. Đôi khi có những cái bóng vô hồn ngoan ngoãn tới lui trong không gian vô hình của những câu thần chú. Khi nhóm lửa đốt lòng mình trên những mê hoặccủa lời thề nguyền thì lúc ấy chỉ còn âm binh nói chuyện với âm binh. Giấy vàng bạc bay lả tả phủ hết con đường tỉnh thức để mở ra một cõi đời son phấn ngào ngạt hương hoa mơ mơ, tỉnh tỉnh, muội muội, mê mê nhưng đầy một thứ lạc thú riêng tư, một cõi trời bay bổng.
Chấp nhận tình yêu là chấp nhận một thứ có có, không không, đùa đùa, thật thật. Nó vô hình tướng nhưng làm rã tan hồn phách. Không có nó thì đời sống không biết sẽ tẻ nhạt đến dường nào. Thôi thì đành có nó vậy.
Xuân ''98

Sửa bởi pth77: 03/04/2014 - 11:53


Thanked by 1 Member:

#43 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 04/04/2014 - 14:27

Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây
Phan Chu Trinh

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Bài diễn thuyết của cụ Phan Chu Trinh diễn tại nhà hội Việt Nam ở Sài gòn, đêm 19.11.1925)
Do Lạc Việt Chia Sẻ Trên GNA comments ngày 4/4/2014


Thưa các anh em đồng bào!
Anh em đồng bào thấy tôi là người tuổi tác, ở lâu năm bên Pháp về, anh em đồng bào có lòng quá yêu, nhường cho tôi bước đầu lên diễn đàn nhà hội “Việt Nam” ta đây, để tỏ ý kiến là hy vọng của tôi đối với xã hội Việt Nam ta từ ấy đến giờ, thì tôi rất lấy làm cảm tạ vô cùng.
Không nói, tưởng anh em đồng bào cũng đã biết tôi vì quyền lợi của dân tộc Việt Nam mà phải lăn lóc đến mười tám năm nay. Trong khoảng 18 năm đó (hơn 14 năm ở Pháp) thường mong mỏi được gặp mặt anh em đồng bào cố hương, đặng tỏ chút ý kiến về những sự đã được nghe thấy trong khi tôi trôi nổi nơi đất khách quê người. Không ngờ giấc mộng được thành, trở về nơi chôn nhau cắt rốn, giáp mặt anh em đông đủ thế này. Tôi mừng quá.
Thưa anh em đồng bào, nay tôi đã được gặp anh em đông đủ ở đây, tôi xin anh em cho phép tôi được giải bày đôi chút ý kiến về “Đạo đức luân lý Đông Tây” mà mong rằng anh em để ý hiểu cho. Đáng lẽ theo thời nay, không thiếu chi vấn đề rất quan trọng làm rung động các dân tộc trên toàn cầu, tôi có thể nói chuyện cùng anh em được, thế mà tôi lại không lựa đến mấy vấn đề mới mẻ ấy, chỉ chọn lấy cái vấn đề “Đạo đức và luân lý” rất tầm thường mà rất cũ kỹ thế này.
Tôi chọn lấy vấn đề này, là vì tôi tưởng rằng từ xưa đến nay bất cứ dân tộc nào, bất luận quốc gia nào, dầu vàng, dầu trắng, dầu yếu, dầu mạnh, đã đứng cạnh tranh hơn thua với các dân tộc trên thế giới thì chẳng những thuần nhờ sức mạnh thôi, mà phải nhờ cái đạo đức làm gốc nữa; nhất là dân tộc nào bị té nhào xuống, nay muốn đứng lên khỏi bị người đè lên trên thì lại cần có một đạo đức vững chặt hơn dân tộc đang giàu mạnh hơn mình.
Câu chuyện đạo đức tôi sẽ giải ra sau này không cao xa gì, mà cũng không như câu chuyện đạo đức các ông thuộc về phái thủ cựu thường đã nói. Đạo đức đây chỉ là: “Phàm đã là một dân tộc sinh tồn trên hoàn vũ, đã có một lịch sử chính đáng, thì phải giữ gìn những sự vẻ vang trong lịch sử của dân tộc mình”, nghĩa là giữ lấy những đức hay tính tốt mấy trăm nghìn năm ông cha để lại, khiến cho nuớc nào dân tộc nào đối với mình cũng đem lòng kính trọng. Nói tóm lại là một cái tính chất của một dân tộc đã trải lâu năm kết tinh lại như hòn ngọc mài không mòn, như sắt nguội đánh không bể thì mới gọi là đạo đức được.
***
Thưa các anh em đồng bào!
Tôi lâu nay lưu lạc, bây giờ trở về mới liếc mắt trông qua vài hiện trạng của mước nhà ta, tôi rất lấy làm buồn lắm. Than ôi! Cái đạo đức cũ đã mất từ bao giờ không khác gì trái cây khô, mà đạo đức mới cũng chưa hình thành gì cả. Thử xem các ông cựu học thì bo bo nói rằng phải buộc bọn thiếu niên tân tiến theo đạo đức cũ. Nhưng chán thay, các ông chỉ nói thế thôi, xét ra thì những lễ, nghĩa, liêm, sỉ các ông bỏ mất không biết gì đến rồi, mà đạo đức cũ ông cha ngày xưa để lại cũng theo dòng nước chảy xuôi, Đó là nói các ông không biết giữ gìn đó thôi, chớ như đem ngay cái luân lý cũ kỹ mấy nghìn năm trước mà so sánh với luân lý của thế giới ngày nay thì cũng trái ngược lắm rồi. Còn các bạn thiếu niên thấy ông lù khù như thế lại càng làm giàu thêm cái tính kiêu căng, học được chút ít đã vội tưởng mình hơn các cụ già rồi, không giữ gìn tính nết, thành ra cách ăn ở Tây không ra Tây, mà Nam cũng không ra Nam. Điều này không chỉ tôi nói ra đây mà thôi, chính người Pháp ở thuộc địa lâu ngày viết sách chê đến đã nhiều.
Anh em ta đây tất cũng thấy người ta thường nhóm năm nhóm bảy với nhau rằng cái tính của người Tây kiêu ngạo hay khinh người, nhưng ta hãy tự hỏi ta điều đó, ta xem cách ta ăn ở có đáng cho người ta kính trọng không? Sự đó không thiếu gì là gương cũ ta có thể kể ra được. Đã mấy mươi năm nay, nhờ cái phong trào của thế giới xô đẩy mà trong nước ta cũng có đảng Thủ cựu, đảng Duy tân, đảng Hòa bình, đảng Kịch liệt làm ồn ào cả lên mà rút cục lại chẳng thành hiệu quả gì. Đến khi đổ vỡ ra thì thấy toàn những đầu trâu mặt ngựa cả, chỉ bêu xấu cho cái danh giá của dân tộc mình, khiến cho người ta trông vào thấy thế càng khinh dễ thêm, càng vày đạp thêm.
Ông Khổng nói rằng: “Tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi” nghĩa là mình tốt thì trời đất giúp thêm cho, mà mình đã nghiêng đổ thì trời đất lại xô đạp thêm. Ông Mạnh cũng nói rằng: “Nhân tất tự vũ nhi hậu nhân vũ” nghĩ là mình có tự khinh mình thì người ta mới khinh mình. Vậy không trách mình thì còn trách ai! Bữa nay tôi chọn cái vấn đề này mà nói chuyện cùng anh em đồng bào, chính là vì cái chính ý đó.
Xưa nay ta học chỉ đọc ngoài miệng thôi, ít khi chịu tách bạch cho phân minh từng nghĩa nên nhiều khi hiểu lầm. Như chữ đạo đức và luân lý ta thường cho là một nghĩa chớ không biết rằng đạo đức là đạo đức, luân lý là luân lý. Đạo đức gồm cả luân lý mà luân lý chỉ là một phần trong đạo đức mà thôi. Đã là người thì cần có nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, cần, kiệm. Nhân là có lòng thương người, nghĩa là làm việc phải, lễ là ăn ở cho có lễ độ, trí để làm việc cho đúng, tín là nói với ai cũng giữ lời cho người ta tin mình mới làm được việc, cần là làm việc siêng năng, kiệm là ăn ở dành dụm trong lúc no để phòng lúc đói, lúc có để phòng lúc không v.v.. Người có đạo đức là người ở trong đạo làm người vậy. Đạo đức như thế thi không có mới có cũ, có đông có tây nào nữa, nghĩa là nhất thiết đời nào, người nào cũng giữ được cái đạo đức ấy mới là trọn vẹn. Dầu nhà bác học xướng ra học thuyết nào khác nữa, dầu chính thể khác nhau hoặc dân chủ, hoặc quân chủ, hắc cộng sản nữa, cũng không tài nào vượt qua khỏi chân lý của đạo đức nghĩa là đạo đức thì không bao giờ thay đổi được.
Luân lý thì không thế. Luân lý có thể thay đổi được luôn. Luân lý thì mỗi người mỗi khác. Thí dụ như nước ta về thời nhà Đinh lập được năm bà Hoàng Hậu mà đến các đời sau như Lê, Lý, Trần, Tây Sơn, Nguyễn, thì chỉ lập có một hoàng hậu mà thôi; như đời Trần thì người trong họ được lấy nhau mà tục ấy đời sau lại cấm. Đời nhà Trần khi nào trong nước có giặc thì vua triệu những bậc phụ lão trong nước vào điện để bàn bạc, mà đến đời sau thì chỉ một lũ vua tôi làm chuyên chế với nhau mà thôi.
Lại thí dụ như xứ này hễ cha mẹ chết thì đem ăn thịt hoặc đốt đi, mới gọi là hiếu, mà xứ kia thì phải làm đám táng có kèn trống linh đình mới phải đạo làm con. Xem những cớ đó thì đủ biết rằng luân lý có phải là thứ thiên niên bất dịch đâu mà kỳ thật có thể tùy thời mà thay đổi vậy. Người ta có thể thay đổi luân lý mà không thể thay đổi được đạo đức. Ấy luân lý và đạo đức khác nhau là thế. Nói cho rõ hơn là luân lý như cái áo tùy người lớn nhỏ mà thay đổi, nhưng cũng không mất hình cái áo đi, chí như đạo đức là như cơm, như nước, như đồ bổ dưỡng, cần cho mọi người dẫu muốn thay đổi cũng không thay đổi được, nếu thay đổi được là đạo đức giả.
Tôi giải rõ hai chữ luân lý và đạo đức khác nhau như thế là cốt ý sẽ bàn về sự thay đổi luân lý của nước ta và đề phòng khi anh em đông vào nghe đến “thay đổi luân lý” khỏi lấy làm giật mình. Trước khi tôi chưa giải rõ nghĩa hai chữ luân lý đạo đức, nếu tôi nói: “Ngày nay ta phải bỏ quân chủ lập dân chủ mới họp thời” thì chắc cũng có mấy ông hiểu lầm hai chữ luân lý là đạo đức đều ứng lên mà la rằng: “Bỏ quân chủ thì nền đạo đức cũ của nhà Nam ta cũng đổ nát theo còn gì!” Nhưng bây giờ thì anh em cũng không đến nỗi hiểu lầm như thế nữa.
Vậy tôi xin bàn qua hai chữ luân lý Đông Tây:
Luân lý của người Âu Tây dạy cho con trẻ phải thờ cha kính mẹ, thương yêu bà con họ hàng, tưởng cũng còn hơn cái luân lý của ta dạy bằng “Tam Tự Kinh” và “Tam Thiên Tự”. Luân lý của họ cũng không khác gì mình, duy theo pháp luật thì con trai con gái họ đến 21 tuổi là tuổi trưởng thành, thì có thể lìa cha mẹ mà độc lập được, nghĩa là “đến tuổi có nghĩa vụ mà trách nhiệm đối với luân lý quốc gia tất nhiên phải nhẹ gánh gia đình đi”. Người mình thấy luân lý của người ta khác mình và có lẽ lại sơ lược hơn mình thì cho là mọi rợ, chớ biết đâu khi xưa họ cũng như mình. Song từ khi cái tư tưởng quốc gia của họ đã tiến lên thì cái tư tưởng gia đình lần lần nhẹ bớt đi, ấy cũng là lẽ tiến hóa tự nhiên … Cũng như ngày nay cái phong trào xã hội bên châu Âu mạnh quá, khiến cho lắm nhà triết học đã nghĩ đến cách làm thế nào phá tan cái vòng gia đình chật hẹp kia, cho mọi người trong nước được bình đẳng, nghĩa là kẻ giàu người nghèo đều được giáo dục và sinh hoạt như nhau, không đến nỗi như ngày nay xa nhau một trời một vực, phá cái thành “phân cách” chặn ngang các hạng người như thế, là cốt giữ gìn trật tự trong xã hội và ai ai cũng được bình đẳng như nhau.
Nói về quốc gia luân lý châu Âu
Quốc gia luân lý châu Âu phát đạt từ hồi trung cổ nghĩa là từ thế kỷ thứ XVI nền quân chủ đang thịnh. Vua của họ hồi ấy cũng như vua của ta, nghĩa là tự thánh tự thần làm chuyên chế quá cho nên mới nảyra nhiều nhà đại triết học thuyết minh vua là gì, nước là gì, nói ra có giới hạn, rất phân minh, khiến cho ai nấy đều hiểu quốc gia có quan hệ mà nhẹ bớt gia đình.
Thứ hai là từ thời có dân tộc ở châu Âu đều có tính háo chiến cho nên thường lấy sự thắng trận làm vinh, thua trận mà làm nhục đánh nhau lung tung. Vì tính háo chiến đó, cho nên dân các nước bên châu Âu về thời đó, đều có một nền quốc gia luân lý rất bền chặt vững vàng.
Ấy, quốc gia luân lý của họ mà thành là vì hai cớ đó.
Đến bây giờ thì thời cuộc thịnh như đã suy, từ khi bốn năm đại chiến như vừa rồi, nước thua dân bị lầm than thì đã đành, mà nước được dân cũng lắm nỗi khốn thành ra trăm việc đều hư nát mà nào có ích cho ai! Vì thế nên mấy nhà đại chính trị, đại triết học, đại giáo dục đều biết rằng cái thời đại quốc gia đã qua, không thể duy trì được nữa đành phải bỏ mà tiến lên thời đại xã hội vậy. Tuy nước nào cũng có một đảng thủ cựu phản đối kịch liệt, nhưng cái phong trào xã hội bây giờ cuồn cuộn như nước nguồn đang đổ, thì làm sao ngăn lại được nữa. Cuộc đại thắng của xã hội luân lý sau này cũng là một việc dĩ nhiên.
Ấy là bước tiến lên, bỏ quốc gia luân lý mà bước lên xã hội luân lý, cũng như khi bỏ gia đình luân lý mà tiến lên quốc gia luân lý vậy.
***
Xã hội không phải là cái luân lý cường quyền của chính phủ đối với dân, cũng không phải là sức mạnh của nước nọ đối với nước kia, mà chính là trong nước thì lấy người này đối với người kia, suy rộng ra thế giới thì lấy loài người đối với loài người.
Trong buổi quốc gia luân lý bên Âu châu đang thịnh, có câu nói rằng: Một người đối với một người thì có công lý, còn một dân tộc đối với một dân tộc thì không có công lý, ngày nay lòng người xu hướng về xã hội luân lý thì lại có câu nói trái lại rằng: Một người đối với một người đã có công lý thì mấy trăm nghìn, mấy ức triệc người nhập lại thành một nước, tài nào lại không có công lý.
Đó là tôi tỏ ra rằng chủ nghĩa xã hội luân lý hiện nay bên châu Âu đã mở mang như thế. Muốn cho dễ hiểu câu “trong nước người này với người kia” nghĩa là: người có giúp cho người không, người mạnh giúp cho người yếu như là: bên nước họ mấy nhà giàu bỏ tiền lập nhà thương, trường học cho con nhà nghèo; những kẻ đi đường thấy người yếu bị đè nén thì hết sức bênh vực v.v… Nói tóm lại xã hội luân lý là sự suy tự lòng công đức mà công đức là suy ở tư đức mà ra.
Vì sinh kế, vì lợi quyền, người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà thôi. Chí như công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng quyền lợi cho nhau thì họ vẫn không bỏ. Tôi nói như thế chắc anh em nghĩ cho tôi bên Tây lâu rồi nên tán tụng như thế chăng. Xin thưa bên Âu châu họ cũng xấu chán, dân đức của họ cũng chưa đến nỗi hoàn toàn, song dân nào cho dù có 30% hoặc 50% biết giữ luân lý thì tưởng cũng đủ gọi là họ có rồi. Phong tục họ có xấu mặc lòng, nhưng trong nước họ còn có đảng Thượng lưu biết lo đời, như mấy nhà đại chính trị, đại triết học, đại văn hào, đại giáo dục, đứng lên hô hào nào làm sách, nào viết kịch, nào làm báo, nào diễn thuyết. Cốt phá bỏ những chứng hư tật xấu của người đời, rồi bọn thiếu niên xã hội, bọn thiếu niên dân chủ cũng tán thành ó ré theo để lo cứu chữa những đồi phong ác tục trong nước. Chẳng những họ lo ở trong nước họ mà thôi, họ còn lo đến cả thế giới nữa.
Lấy một việc đó mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu hổ rồi; huống hồ là nói đến việc xã hội nhân quần, họ hơn ta xa như thế thì làm sao ta không kính trọng họ cho được?
Bây giờ tôi xin đem cái luân lý của ta so sánh với luân lý của Tây-Âu.
Trên tôi đã nói luân lý của ta có năm mà thuộc về gia dình hết ba, nghĩa là cha con, anh em, vợ chồng. Nếu nói theo trí tưởng luân lý từ xưa để lại mà làm cho đúng thì tưởng cũng không còn chỗ nào chỉ trích được. Như ông Khổng nói: “Cha con có thân, vợ chồng có biệt, anh em có thứ lớp” nếu ta theo thế mà diễn dịch ra, dẫu gia đình luân lý của ta hẹp hòi, không được rộng rãi chăng nữa, thì đáng lẽ phải tốt lắm mới là phải, chớ đâu có tồi bại thế này! Cái nền luân lý ở Á Đông, nhất là ở nước ta ngày nay đổ nát như thế là bởi các nhà vua chuyên chế làm sai hết cả đạo Khổng mà ra.
Chẳng những vua quan chuyên chế mà thôi, họ còn lập mưu khép cả kẻ làm cha, kẻ làm chồng vào cái cạm độc ác ấy nữa để cho tiện việc chuyên chế của bọn họ. Một bọn hủ nho mắc cạn còn vẽ rắn thêm chân vào, đem những tư tưởng rất nông nỗi truyền bá ra để trói buộc dân gian. Như là: “Quân thần chí nghĩa bất khả đào ư thiên địa chi gian”, nghĩa là mình sinh ra xứ này phải đội ông vua lên đầu. Tư cách ông vua thế nào, các ông không cần biết đến. Hễ có cái huy hiệu là ông vua thì các ông đội lên thôi! Các ông đã tôn vua lên, tất nhiên các ông phải tôn cha lên mà nói: “Thiên hạ vô bất thị để phụ mẫu” nghĩa là trong trời đất không có cha mẹ nào quấy. Ôi hủ nho! Hủ nho! Cũng vì mấy câu tà thuyết của các ngươi mà gia đình luân lý của nước nhà ta ngày nay trụy lạc đến thế này.
Tôi xin kể ra đây một chuyện rất tầm thường, mắt ta thường thấy, nhưng tưởng ít ai chủ ý đến. Chuyện ấy là chuyện bài ca và mấy bức tranh Nhị Thập Tứ Hiếu lòe loẹt trên nóc nhà người Nam ta ngày nay, những bức tranh gai mắt ấy, những câu ca rười tai ấy tả ra câu chuyện rất vô lý dị đoan bày rõ một cái án tội nhân của đạo đức Khổng Mạnh. Kẻ tốt quá, người xấu quá đã không nhằm vào đâu, mà những việc tả ra đó y như là quỷ thuật, không phải là sự ăn ở thật của loài người. Các anh em nghĩ thử bụi tre mùa đông lá đã rụng khô hết, khóc thế nào mà mọc được măng; nằm trên giá thế nào mà cá nhảy lên được? Những chuyện hoang đàng ấy tự là Quách Thủ Chính đời Minh làm ra chớ không phải đã lâu. Nhiều người mắc mưu của Thủ Chính đem các bức tranh ấy treo vào vách thay mặt cho đạo Nho, thế mà không ai dám chê bai đến. Luân lý gia đình như thế thì làm sao mà càng ngày càng không lụn bại cho được. Ta thử nghĩ xem gia đình của ta bây giờ thì cha mẹ coi con như của, nói rằng của mình đã sinh ra, mình muốn thế nào thì phải thế. Đại khái cha mẹ không muốn lo việc đời, thì cũng không muốn cho con lo việc đời, cha mẹ không muốn đi xa nên cũng không muốn cho con đi xa, cha mẹ muốn lòn cúi các ông lớn này, ông lớn nọ để con làm các sở cho vẻ vang thì cũng bắt con như thế, thật không còn gì là cho con một chút tự do. Ấy là tôi nói mấy nhà giàu, còn như các nhà nghèo thì dạy con thì tát, thì chửi, thì đánh thì nói rằng thương con cho roi cho vọt, mà không biết rằng làm như thế là nuôi cho con một cái tính phục tùng nô lệ. Khi còn ở trong gia đình thì thở cái không khí chuyên chế của gia đình, khi đến trường học thì thở cái không khí trong trường học (tính mình hay thích giao con cho một ông thầy dữ đòn) thì làm sao khi bước chân ra ngoài xã hội khỏi quen tính nô lệ, chịu lòn cúi người. Cái tính nô lệ của người mình ngày nay chính là mang từ lúc trong gia đình chuyên chế mà ra vậy.
Trong luật ta cho cha mẹ và chồng có quyền nhiều. Đạo cha con xem ra thì chỉ còn thấy những kẻ tay lấm chân bùn còn biết cắm cúi lo làm để nuôi cha nuôi mẹ, chí như bọn thượng lưu trung lưu thì ta không còn thấy chữ hiếu nữa.
Bọn ấy thường nhiều mượn những lốt lễ nghĩa rất kỳ khôi của bọn tà nho mang vào để che miệng thế gian, chớ không có một chút gì gọi là hiếu là thuận cả. Nào là nằm đường, nào là chống gậy, nào là khóc mả, nào là ở dơ, nhưng kỳ trung có thương xót, có yếu đuối gì đâu, chỉ đem một trò giả dối diễn ra trước mặt mọi người mà thôi vậy. Chẳng những bọn ấy giả dối trong khi cha mẹ họ tử hậu mà trong lúc sinh tiền họ cũng không ăn ở thật lòng.
Về đạo vợ chồng thì ta vẫn nói là “Phu xướng phụ tùy” là “Thiếu phụ dĩ thuận vi chính” hoặc “xuất giá tùng phu” song ta rút cuộc lại nhà nào thuận hòa tức là vợ chồng nhà ấy có đạo đức có tính cách ngang nhau mới được thế. Nếu nhà nào vợ khôn hơn chồng thì vợ làm chủ. Xem đó thì cũng đủ biết rằng cái sự gầy dựng ra không theo tính tự nhiên của loài người thì dẫu có quyền chuyên chế mạnh đến đâu cũng không buộc người ta theo được.
***
Bàn đến quốc gia luân lý thì tôi xin thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên không có. Tôi xin nói tạm rằng quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng chật hẹp của vua và tôi. Không nói đến “dân và nước” vì dân không được bàn đến việc nước!
Vua là gì? Vua là người cầm quyền chính trong nước, là người đầu sỏ trong bộ lạc ấy hoặc là người anh hùng thấy dân đồ thán ra đánh đổ cường quyền, khôi phục lấy đất nước của ông cha để lại rồi tự đặt lên làm chúa tể cả muôn người; hoặc người gian hùng nhân thời ly loạn dùng mưu quỷ chước thần đánh đổ con cháu một dòng vua rồi tự đặt mình lên cái địa vị ấy; hoặc người cùng một nước đánh nhau đặng cầm quyền chuyên chế; hoặc người nước ngoài lấy sức mạnh đến đánh đặng cầm lấy chìa khóa quyền lợi. Nói tóm lại vua là người lấy quyền người làm quyền mình, lấy công quyền làm quyền tư, lấy đất người làm đất mình, lấy đất công làm đất tư vậy.
Tôi là gì? Tôi là người tùng phục vua (vua chư hầu) hoặc là ngươi làm nô lệ cho vua, hoặc là người làm công cho vua. Đem mình ra đầu tên mũi đạn đổi lấy một mảnh giấy vàng, một dấu ấn đỏ; dang đầu ra giữa trận mưa dầu nắng lửa để đổi lấy chung rượu lạt, tiếng ban khen. Nói tóm lại, tôi là người tôi mọi, bán rẻ vừa hồn lẫn xác cho vua vậy.
Quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay chỉ gồm có thế, cho nên dân trong nước không biết quyền dân là gì, nghĩa vụ là gì. Vua của ta ngày xưa là thế, tôi của ta ngày xưa là thế, sử sách của ta gọi nước là thế! Cho nên dân không biết vua và nước có có cái giới hạn gì khác nhau không. Vì thế cho nên dân chỉ biết tôn quân mà không biết nghĩa ái quốc, gặp vua tử tế làm nhiều công bình thì dân thương, dân liều chết ra đánh giặc giúp vua; gặp vua tàn bạo làm nhiều điều độc ác thì dân ghét, muốn rửa hờn mở cửa thành cho giặc vào. Thí dụ như hồi nước Pháp đánh Bắc Kỳ chỉ có 90 tên lính mà trong 24 giờ thì hạ được bốn thành, mà lính Nam không ai bắn trả lại một phát súng. Hồi ông Nguyễn Huệ kéo quân ở Huế ra Thăng Long, Nguyễn Chính có quân đóng ở đó, song chưa đánh đã thua, khiến vua Chiêu Thống phải chạy, đi đường bị dân bóc lột. Ông Mạnh có nói rằng: “Vua coi dân như cỏ rác, thì dân coi vua như người đi đường”, đã coi như người đi đường thì còn luân lý gì. Việc gì mà chẳng bóc lột.
Xem như thế thì xưa nay nước ta không có quốc gia luân lý, chỉ có một cái luật vua tôi bắt buộc dân phải theo. Vua với dân không có luân lý gì dính nhau, chẳng qua vua và tôi tớ của vua hiệp nhau lấy sức mạnh để đè nén dân mà thôi vậy.
Trừ ra đời nhà Trần thì vua với dân gần nhau lắm. Con vua cũng đi chơi với con dân, những phụ lão đều dự bàn việc nước, và những vua đã truyền ngôi cho Hoàng Thái Tử rồi thì thường đi khắp nhân gian xem xét phong tục, chính trị để sửa sang cho hiệp với lòng ước vọng của dân; cho nên dân mến đức mà cảm phục, mấy lần tử chiến với giặc Mông Cổ, mấy phen hiệp sức để giúp vua mới thắng trận một cách vẻ vang như thế.
Ngày nay đọc một đoạn vinh dự sử của nhà Trần đều lấy làm vui; ta đọc đến khúc bi thảm sử của nhà Lê, nhà Nguyễn thì đều lấy làm buồn, nhưng có mấy khi ta chịu xét đến cái gốc rễ của lẽ thắng bại đâu.
Người nào có học chữ Pháp một chút thì cũng biết rằng trong sách ấu học hoặc sách tiểu học, bắt đầu đều dạy: phải thương nhà, thương người đồng loại; thế mà ngày nay không có ai dám mở miệng ra nói một tiếng “thương nước” thì nghĩ có đáng chán không! Hơn sáu mươi năm nay ở dưới quyền một nước bảo hộ rất văn minh, rất tự do mà cái mầm tự do không nẩy ra được là bởi tự đâu?
Không phải cái độc chuyên chế từ xưa đã thâm căn cố đế trong óc người nước ta rồi đấy ư? Tiếng thương nước đã có luật Gia Long cấm (chữ in đậm do HVCD nhấn mạnh). Những kẻ học trò và dân gian không được nói đến việc nước, lo việc nước.
Thương nước thì phải tù tội (!) cho nên những nhà thế phiệt giữ mình cho đến nỗi uốn nắn con từ trong nhà, lấy sự lo việc đời, sự thương nước làm sợ. Sợ quá! Hình như nói đến sự đó thì phải bị khinh, bị nhục như kẻ cắp kẻ trộm vậy. Rất đỗi bây giờ người Nam đã ở dưới chính trị Pháp là giống người cho sự thương nước làm tính tự nhiên của loài người mà cũng không ai dám nói tới; xem chừng còn lo sợ hơn khi còn ở dưới quyền chuyên chế nữa. Có người cho lời tôi nói là chuyện chiêm bao, cãi lại rằng: ở bên Pháp người ta dạy thương nước như thế, chớ bên này thì người ta không dạy như thế đâu. Hễ ai nói đến thương nước thì trong sổ kín của sở mật thám đã ghi tên vào rồi; họ cho là phản Tây làm loạn, như thế bảo người Nam không sợ sao được?
Việc đó tôi cũng đã biết chán, tôi xin thưa rằng cái lỗi ấy bởi ông cha ta để lại. Cái “dây xiềng sắt” ấy chính tay ông cha ta đã làm ra để buộc ta. Người ta nhân lấy đó mà cột mình, nào có phải người ta bày đặt ra hay là mang ở bên Pháp qua mà cột mình đâu! Họ làm như thế vì họ thấy mình không trả lời được. Nay mình trả lời như thế này thì họ cấm sao được: “Một nòi dân cùng một giọt máu xẻ ra, cùng một thứ tiếng nói, ở trong miếng đất mà ông cha nó đã đổ máu, đổ mồ hôi, đổ nước mắt để vỡ vạt ra, thành ra một nước lưu truyền từ bốn nghìn năm đến giờ, thì cho phép được hưởng quyền lợi trong miếng đất ấy, được sống ở đó chết chôn đó, giàu nhờ đó, nghèo nương đó, làm gì thì làm không ai cấm đoán được. Loài dân ấy không đến nỗi như dân Do Thái ở châu Âu, không đến nỗi như bọn hắc nô ở Mỹ châu đi tới đâu cũng bị chết chóc, thì cũng không khi nào chịu quên ơn miếng đất mà chúng nó thường gọi là “Tổ Quốc” của chúng nó bao giờ. Một loài như thế mà bảo chúng đừng thương “Tổ Quốc” thì bảo chúng thương ai?”. Nếu ta trả lời hẳn hoi như thế thì dầu gặp kẻ tàn bạo thế nào cũng không thể bỏ ta được. Thế thì sao ta không dám nói thương nước?
Cái thương nước tôi nói đây không phải là xúi dân “tay không” nổi lên, hoặc đi lạy nước này cầu nước khác để phá hoại trong nước đâu! Tôi xin thưa: Nước ta đã hư hèn bị mắc trong tay người ta rồi, thì bây giờ ta phải đem lòng thương nước, bênh vực lẫn nhau, mà giúp cho nhau để cứu chuộc lại cái danh giá cùng lợi quyền của ta về sau. Hễ người ta làm việc gì bất công thì mình phải hiệp sức nhau lại mà chống, còn làm việc gì phải chăng thì mình cũng phải nhìn nhận, chớ có thấy chính quyền mình mất rồi mà đem lòng căm tức không kể đến việc hay của người ta. Thế thì lòng thương nước của dân Việt Nam có làm gì hại đến quyền lợi người Pháp không? Tôi xin thưa rằng: không! Dân Việt Nam thấy người nào làm hại cho nước nó thì nó ghét, ấy là lẽ tự nhiên.
Theo ý tôi tưởng, chẳng qua dân Việt Nam mình hèn hạ nên người ta mới đè nén, nếu dân Việt Nam biết thương nước Việt Nam nhờ thì người ta tất cũng phải kiếm đường xúi giục cho người mình càng biết thương nước hơn, vì có biết thương nước mới biết chọn nước nào làm lợi, nước nào làm hại cho nó. Thương nước cho phải đường mới gọi là thương nước, nếu thương không phải đường thì đã không giúp gì cho ai mà lại còn làm hại sinh linh nữa. Nay ta nói thương nước, nhưng thương bằng lỗ miệng, nằm ỳ ra đó kêu người đến thì có khác gì đem đầu đi làm đầy tớ với anh khác. Tôi dám tưởng nếu người Pháp họ không cho ta thương nước, để ta nằm ỳ mãi ra đó thì đã không lợi gì mà lại khiến cho ta chán nản, không tội gì trung thành một cách vô ích với họ nữa, thế thì sự thương nước cũng có lợi cho người Pháp.
Tôi nói đây thật chưa hết nhưng đã dài lắm rồi, vậy xin anh em cho phép tôi tóm lại đoạn đã nói ở trên.
“Từ nay dân Việt Nam ta phải biết thương nước là tính tự nhiên trời đã phú cho, không thù nghịch gì với người Pháp. Phải có quốc gia luân lý in sâu vào óc thì sự ước ao tự do độc lập của dân tộc ta sau này mới thành tựu được. Tôi ở Pháp về mà nói như thế chắc anh em lấy làm lạ, vì nay người bên Âu châu đã đào sâu chôn chặt cái ái quốc chủ nghĩa rồi, nay tôi lại đem về tuyên bố trong dân gian hóa ra trái ngược với phong trào bên ấy lắm ru? Xin thưa rằng không phải.
Chúng ta phải biết rằng: “Một loài dân trong một nước cũng như bọn học trò trong trường học, phải có thứ lớp, phải tuần tự mà tiến tới, phải qua lớp dưới mới lên lớp trên, không bao giờ nhảy lớp được, nghĩa là phải do gia đình luân lý tiến lên quốc gia luân lý, rồi do quốc gia mà tiến lên xã hội vậy.” Thế thì chúng ta cũng phải bước qua cái nền quốc gia luân lý trong đôi ba mươi năm đã, rồi mới có thể mong tiến lên xã hội luân lý được.
***
Xã hội luân lý thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lý thì người mình còn dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lý được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì.
Tuy trong sách Nho có câu: “Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ”. Hai chữ “thiên hạ” đó tức là xã hội. Ngày nay những kẻ học ra làm quan cũng võ vẽ nhắc đến hai chữ đó nhưng chỉ làm trò cười cho kẻ thức giả đấy thôi. Cái chủ ý bình thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi.
Cái chủ nghĩa xã hội bên Âu châu rất thịnh hành như thế, thế mà người bên ta điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì. Thương hại thay! Người nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người đã đành, đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả. Bên Pháp mỗi khi người có quyền thế hoặc chính phủ lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận động kỳ cho đến được công bình mới nghe.
Vì sao mà người ta làm được như thế? Là vì người ta có đoàn thể, có công đức biết giữ lợi chung vậy. Họ nghĩ rằng nếu nay để cho người có quyền lực đè nén người này thì mai ắt cũng lấy quyền lực ấy đè nén mình, cho nên phải hiệp nhau lại phòng ngừa trước. Người ta có ăn học xét kỹ thấy xa như thế, còn nước mình thì sao? Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không liên quan đến mình.
“Đã biết sống thì phải bênh vực nhau” ông cha mình ngày xưa cũng đã hiểu đến. Cho nên mới có câu: “Không ai bẻ đũa cả nắm” và “Nhiều tay làm nên bộp.” Thế thì dân tộc Việt Nam này hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, biết công ích, cũng có góp gió làm bão, giụm cây làm rừng, không đến nỗi trơ trọi lơ láo, sợ sệt, ù lỳ như ngày nay.
Dân không biết đoàn thể, không trọng công ích là bởi bốn trăm năm trở về đây, bọn học trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bã vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối nịnh hót, chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân. Bọn ấy muốn giữ túi tham mình được đầy mãi, địa vị mình được giữ mãi, bèn kiếm cách thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân.
Dầu trôi nổi, dầu cực khổ thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưỡng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong! Dân khôn mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý! Chẳng những thế mà thôi, “một người làm quan một nhà có phước”, dầu tham, dầu nhũng, dầu vơ vét, dầu rút tỉa của dân thế nào cũng không ai phẩm bình; dầu lấy lúa của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai. Người ngoài thì khen đắc thời, người nhà thì dựa hơi quan, khiến những kẻ ham mồi phú quý không đua chen vào đám quan trường sao được. Quan đời xưa đời nay của ta là thế đấy! Luân lý của bọn thượng lưu, tôi chỉ mượn hai chữ thượng lưu nói cho anh em dễ hiểu mà thôi – ở nước ta là thế đấy!
Ngày xưa thì bọn ấy là bọn Nho học đã đỗ được cái bằng cử nhân, tiến sĩ, ngày nay thì bọn ấy là bọn Tây học đã được cái chức ký lục thông ngôn; có khi bồi bếp dựa vào thân thế của chủ cũng ra làm quan nữa. Những bọn quan lại đã nói ở trên này chỉ còn một tiếng chỉ đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy.
Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền cũng bén mùi làm quan. Nào lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược, nào chạy xuôi, dầu cố ruộng, dầu bán trâu cũng vui lòng, chỉ cầu được lấy chức xã trưởng hoặc cai tổng, đặng ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi. Những kẻ như thế mà không ai khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay! Thương ôi! Làng có một năm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lý cả. Đó là nói người trong một làng đối với nhau, chí như đối với dân kiều cư ký ngụ thì lại càng hà khắc hơn nữa. Ôi! Một dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được!
Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế (xã hội chủ nghĩa ở đây Phan Chu Trinh dùng theo nghĩa tinh thần và ý thức xã hội, khác với cụm từ XHCN của đảng CSVN-HVCD).
Nay muốn một ngày kia nuớc Việt Nam được độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này.
Nói về đạo đức Âu châu và đạo đức Á Đông
Mới xem ngoài mặt thì ta đều cho dân Âu châu là một dân tộc háo thắng, độc ác, dữ tợn; nhưng không, ta lầm đấy, ta ở lâu mới thấy họ có nền đạo đức cao hơn ta nhiều. Nền đạo đức của họ cao hơn ta là nhờ họ đã thâm những tư tưởng tự do truyền bá từ đời Hy Lạp, La Mã trở xuống. Họ cũng trải qua một hồi chuyên chế nhưng dân khí họ không như dân khí ta. Dân khí của họ rất phấn phát, nguời của họ rất anh hùng. Càng chuyên chế bao nhiêu càng nẩy ra những nhà hiền triết làm ra sách để truyền bá tư tưởng trọng dân bấy nhiêu. Dẫu hành hình khổ sở cũng không làm họ khiếp sợ, cho nên tên tuổi của họ mới sống tượng đồng bia đá đến ngày nay. Anh em đây ai đã đi qua Paris một lần tất cũng đã xem thấy những cái hình đồng mấy nhà triết học chống lại với đạo Gia Tô vậy.
Nói đại khái thì về thế kỷ XVII như ông Jean Jacques Rousseau làm ra “Dân ước” (Contrat social), ông La Fontaine làm ra “Ngụ ngôn” (Fables), ông Montesquieu làm ra “Pháp ý” (L’Esprit des lois), ông Pascal, ông Voltaire v.v… đều là những tay kiếm hết cách mở cái chìa khóa chuyên chế để giúp đồng bào ra chỗ tự do. Tôi kể bấy nhiêu ông đó là chỉ tỏ rằng trong đời chuyên chế mà vẫn còn có người ra lo việc đời như thế, chí như đời bây giờ được tự do ngôn luận, được tự do xuất bản, được tự do diễn thuyết thì người ra lo việc nước, việc đời bên họ biết là bao nhiêu.
Đem so với Á Đông đời xưa duy có mấy ông trong đời Xuân Thu, Chiến Quốc bên nước Tàu như là ông Khổng, ông Mạnh, ông Mặc, ông Lão, ông Trang có thể ngang được với mấy ông kia, còn từ Tần trở về sau thì cả Á Đông cũng không có người như thế nữa, chớ đừng nói đến nước Việt Nam ta.
Trong nước ta bây giờ có ông nào gọi là nhà đạo đức không? Nói xa hơn nữa thì trong triều nhà Lê có ông nào gọi là nhà đạo đức như mấy ông tôi đã kể không? Thế mà đời nào cũng có người được triều đình khen, được làm miễu thờ.
Rút lại, những tôi tớ nhà vua đã tôn lên thì không ai dám đè xuống, mà những kẻ vua đã đè xuống thì không ai dám tôn lên. Làm như thế thì trách nào những nhà đạo đức nước ta không chóng mất sao được? Người có tư tưởng tự do chẳng những ai cũng cho làm lạ, mà như vua thấy thế cũng sợ hại đến quyền chuyên chế của mình nên lập mưu đập chết đi. Ở trong một dân tộc như thế thì những đứa nịnh hót không càng ngày càng nhiều sao được?
Ông Montesquieu có nói: “Dân sống dưới quyền chuyên chế của nhà vua thì chẳng biết gì là đạo đức cả, chỉ lấy thế vị lớn nhỏ làm danh dự mà thôi; duy dân chủ mới thật còn có đạo đức.”
Ấy, chúng ta muốn nước ta có nhà chân đạo đức thì nên nhân dịp này phá tan dây xích chuyên chế đã ràng buộc ta hơn nghìn năm nay và thu nhập tư tưởng tự do của Âu châu để làm một phương thuốc cho người nước ta vậy. Được như thế thì nhà đạo đức mới có thể xuất hiện trong đất nước này. Tôi không muốn thí dụ nhiều, tôi chỉ xin kể chuyện ông Trần Quý Cáp trong năm 1908 thì anh em sẽ biết chế động quân chủ ở nước ta có hại cho nhà có luân lý đạo đức là thế nào.
Ông Trần là người rất thảo thuận, học hành rộng, tính nết tốt, làm giáo thọ ở Nha Trang, chỉ theo việc bổn phận mình là ông thầy, khuyên dân mở thêm trường học mà bị tên Phạm Ngọc Quát bố chính ở tỉnh ấy, nhân loạn bắt ông, trong 24 giờ thì chặt đầu. Cái thảm trạng ấy há không phải ở quyền chuyên chế mà ra sao?
Đạo đức lớn ta không có đã đành, nay xin hỏi đạo đức nhỏ, tư đức của mỗi người, ta có hay không? Thưa rằng: Không! Một xứ đã bị chuyên chế thì tính chất gì thuộc về đạo đức cũng không thể nào sinh sản được.
Tôi thường thấy người mình, kẻ nào khôn hơn chút đỉnh, giao thiệp với người kém hơn chút đỉnh thuần chỉ nói dối. Đứa “ăn cắp có giấy” làm minh bạch đã xong mà đứa ăn cắp chưa cấp bằng cũng đều một mực như thế cả. Tôi xem thấy lắm người danh dự không bằng ai, học thức không hơn ai, mhắm lại mình chưa khỏi hai chữ “đầy tớ người” mà khi ra đối với người đồng bào đồng chủng đã có ý kiêu căng, bảo ta là thầy đây! Ta là ông đây! Chớ không có tự nghĩ cho rằng: Thầy đây, ông đây đã làm được điều gì ích lợi cho bọn “dân Việt Nam” tay lấm chân bùn kia chưa? Tôi cũng đã từng thấy nhiều người viết báo than thở rằng đạo đức luân lý nước nhà trụy lạc, nhưng nói như nước chảy lá môn chẳng có hiệu quả gì. Vì sao vậy? Là vì các ông nói mà các ông ít chịu thực hành thì người ta không dám theo các ông cũng phải (chữ in đậm do HVCD nhấn mạnh). Huống chi luân lý các ông giảng đó tự tệ tục của chính thể chuyên chế tạo nên, thành ra, không chính đáng, không hợp thời thì người ta không thèm nghe cũng không thấy gì làm lạ vậy.
Bây giờ ta đem đạo đức luân lý Âu châu về có gì chống với đạo Khổng Mạnh chăng?
Từ nãy đến giờ tôi chỉ trích luân lý của ta, khen ngợi luân lý Âu Tây, chắc anh em nghe lạ tai, cho tôi là người bội đạo Khổng Mạnh chăng? Xin thưa rằng từ khi tôi hiểu chút ít đạo đức của Khổng Mạnh thì tôi rất sùng bái lắm. Vẫn biết đạo Khổng Mạnh hay thật nhưng bây giờ ta biết kiếm nơi đâu? Qua Tàu đem về chăng? Kiếm trong các sách sử Việt Nam này chăng? Tưởng thắp đuốc tìm cũng không thấy nữa, là vì nước Nam, nước Tàu bỏ mất đạo ấy đã lâu rồi.
Đạo Khổng Mạnh không phải là cách chuyên chế của các nhà vua mà anh em đã mộng tưởng đâu. Đạo Khổng Mạnh dạy “quân dân tịnh trọng” (vua dân đều trọng) và rất bình đẳng; vua và dân đều cần đạo đức luân lý, nghĩa là dân phải kính trọng vua như cha mẹ mà vua cũng suy lòng đó mà yêu dấu dân như con đỏ vậy.
Trong sách Đại Học thầy Tăng Sâm dẫn lời đức Khổng rằng: “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân nhất thị giai sĩ tu thân vi bổn”: Từ vua cho đến dân đều phải lấy việc sửa mình làm gốc. Sửa mình là việc lớn mà đức Khổng Tử buộc dân và vua đều phải như thế, chẳng là bình đẳng lắm ru? Cái chính thể ấy bên Âu châu thực hành đã lâu rồi, nghĩa là cái chính thể quân dân cộng trị mà Tàu dịch ra là quân chủ lập hiến vậy.
Hiện nay có nước Anh, nước Bỉ và nước Nhật đang theo chính thể ấy. Dân trí hai nước trên đã tiến tới nhiều, cho nên quyền vua cũng đã tiến giảm bớt nhưng dân cũng thương vua mà vua vẫn yêu dân. Nước Nhật thì có kém thua nhưng đã theo chính thể lập hiến thì trước sau rồi cũng tới nơi vậy.
Đến đời ông Mạnh, các vua chư hầu chuyên chế thái quá thì ông lại xướng lên cái chủ nghĩa dân chủ. Như ông nói rằng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Nghĩa là dân quý hơn hết, đất cát thứ nhì, vua là khinh. Ngày nay bên Đức, bên Pháp, bên Nga tuy chính thể của họ có khác nhau chút đỉnh nhưng cũng đều thực hành cái chủ nghĩa dân chủ cả. Thế thì cái văn minh Âu châu bây giờ có trái gì với đạo Khổng Mạnh đâu. Đức Khổng đã nói rằng: Vua phải thương dân, dân phải thương vua, song nếu vua không thương dân, dân phải làm sao? Tiếc thay! Ngài không dạy đến. Ông Mạnh cũng nói rằng: Dân quý mà vua khinh, nhưng ngày nay dân hỏi vua, vua bảo rằng vua quý mà dân khinh thì dân phải làm sao? Ông cũng không hề nói đến. Vậy cho nên từ khi Khổng Mạnh đã qua rồi thì dân Tàu cũng thế mà dân ta cũng thế, hễ họ vua nào hơn thì lấy được nước, họ vua nào thua thì mất nước; vua công bình thì dân theo, vua tàn bạo thì dân giết, thành ra đời nào bền lắm thì là mấy chục năm, thay đổi tranh giành gây ra lắm cuộc trị loạn làm cho giết hại lẫn nhau; cha giết con, con giết cha, anh giết em, em giết anh, vua giết tôi, tôi giết vua không còn gì là đạo lý luân thường nữa.
Đạo Khổng Mạnh đã mất rồi, nay ta muốn nước ta có một nền đạo đức luân lý vững vàng, thì có gì hay bằng ta hết sức đem cái chủ nghĩa dân chủ Âu châu về. Chủ nghĩa dân chủ chính là một vị thuốc rất thần diệu để chữa bệnh chuyên chế của nước ta vậy. Đem văn minh Âu châu về tức là đem đạo Khổng Mạnh về. Đạo Khổng Mạnh là đạo trung dung thường dùng như cơm nước thường ngày; như kính trọng cha mẹ; như thương người đồng loại, chớ không phải mê tín như các đạo khác. Thế thì đem văn minh Âu châu về đã không hại gì mà lại còn làm cho rỡ ràng đạo Khổng Mạnh ra.
Tôi nhắc lại một lần nữa rằng: “Đem văn minh đây là cái chân văn minh Âu Tây hòa hợp với chân Nho giáo ở Á Đông,” chớ không phải là tự do độc lập ở đầu lưỡi ở mấy anh Tây học lem nhem mà cũng không phải là quốc hồn quốc túy ngoài môi của các nhà Hán học dở mùa đâu.
Cứ theo lời tôi đã nói thì anh em đồng bào cũng hiểu rằng: vì học đạo Khổng Mạnh một cách lầm lạc như thế cho nên hơn nghìn năm nay hết thảy những nước theo đạo tà nho đều yếu hèn và phải mất một cách nhục nhã. Như nước Cao Ly, hễ Mãn Châu tới thì theo Mãn Châu, Mông Cổ tới thì theo Mông Cổ, đến khi Nhật Bản tới thì Nhật Bản lấy. Như nước Tàu thì nhà Tống mất bởi nhà Nguyên (Mông Cổ), nhà Minh mất bởi nhà Thanh (Mãn Châu). Chao ôi! Nước Tàu bị Mãn Thanh, Mông Cổ lấy nước, Cao Ly bị Nhật Bản lấy không phải là tội nơi những kẻ tà nho hủ bại của nước Tàu, nước Cao Ly đấy ư?
Một nước bao nhiêu triệu dân mà chỉ giao phó quyền chính cho một ông vua thì chẳng là ngu xuẩn lắm ư? Gặp được ông vua thông minh còn e lo chưa hết bổn phận thay, huống là gắp phải anh vua u mê làm ròng những sự độc ác, cấm dân có ăn học không được lo việc nước (chữ in đậm do HVCD nhấn mạnh), thì dân khốn khổ biết bao, và còn ai dám ra mà gánh vác. Một nhà không ai lo chủ trương, một nước không ai lo chủ trương, thì nhà nước ấy làm sao không tan không mất được.
Nước Tàu mà mất ấy, nước Cao Ly mà mất ấy cũng là lẽ tự nhiên, Nói đến nước ta lại càng đau đớn lắm nữa. Vua Lê Thánh Tông đem luật nhà Minh về chưa đầy 50 năm thì bị nhà Mạc đánh đổ. Nhà Trịnh lên khôi phục cũng chỉ có tiếng khôi phục đấy thôi, vua Lê cũng bị giết lên giết xuống, còn quân thần gì đâu, còn luân lý gì đâu! Đến vua Gia Long nhà Nguyễn thỉnh luật Càn Long về lại càng chuyên chế hơn nữa. Chưa đầy 80 năm đã bị mất nước một cách hèn hạ.
Mất nước một cách hèn hạ nhục nhã như thế há không phải tại vua tôi nhà Lê nhà Nguyễn đấy ư?
Mới đây Cao Ly đã thâu nạp được văn minh Âu Mỹ nên năm 1919 mới có cuộc độc lập vận động. Nước Tàu cũng thế, xướng ra việc bài ngoại vận động làm cho Anh Pháp đều phải nể mặt không dám hung hăng như ngày xưa. Xem như thế thì đủ biết rằng cái tư tưởng quốc gia đã nảy ra trong đầu người Tàu, người Cao Ly rồi vậy.
Người nước ta thì sao? Người nước ta vẫn còn say sưa trong giấc ngủ nghìn năm, chưa có chút gì gọi là giật mình mở mắt cả. Bọn già thì lo làm quan để kiếm tiền nuôi vợ con, bọn trẻ thì lo làm thầy đặng kiếm gạo nuôi miệng, ngoài cái lo xác thịt ra thì không có một tư tưởng gì khác.
Lại thêm một bọn ra vênh mặt múa may tự xưng là ái quốc ái chủng, nhưng hỏi đến họ cách khuếch lợi, trừ hại, tự cường, tự lập thì họ ập ạ như người mơ ngủ, chỉ ngồi ngong ngóng mơ nước ngoài tràn vào mà thôi.
Dân tộc Nhật Bản được giàu mạnh như ngày nay là chỉ theo cái văn minh hình thức của Âu châu hay có sửa đổi gì luân lý không?
Người nước ta thường tự xưng là đồng loại, đồng đạo, đồng văn với Nhật Bản; thấy họ tiến thì nức nở khen chớ không khi nào chịu xét vì sao mà họ được tiến tới như thế? Họ chỉ đóng tàu đúc súng mà được giàu mạnh hay là họ còn trau dồi đạo đức, sửa đổi luân lý mới được như ngày nay? Ai có đọc đến lịch sử Nhật Bản mới biết họ cũng bồi đắp nền đạo đức của họ lắm. Từ lúc Minh Trị duy tân cho đến 24 năm sau hạ chiếu lập hiến trong nước Nhật biết bao nhiêu người lo khuynh Mạc Phủ lo lập hiến pháp, biết bao nhiêu kẻ đổ máu rát cổ mới gây dựng nên một nước tân tiến rất giàu rất mạnh như bây giờ. Tôi rất lấy làm lạ cho những người đã qua Nhật Bản về! Không biết họ qua bển làm gì!? Người ta có câu: “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng”. Sao những kẻ sang Nhật sao không đem cái tốt về cho dân Việt Nam nhờ, mà chỉ làm giàu thêm cái tính nô lệ như thế? Rất đỗi những việc hèn hạ một người dân tầm thường không làm, mà những kẻ ấy cũng làm được hết thảy! Hay là đạo đức luân lý đã chết trong lương tâm của người mình rồi, cho nên không hấp thụ được đạo đức luân lý của người chăng? Hay là người mình như kẻ đã hư phổi rồi, cho nên một nơi có thanh khí như nước Nhật mà cũng không thở nổi chăng? Lấy lịch sử mà nói thì dân Việt Nam không phải là một dân tộc hèn hạ, mà cũng không phải là một dân tộc không thông minh, thế thì vì lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn 60 năm mà vẫn còn mê mê muội muội, bít mắt vinh tay không chịu xem xét, không chịu học hỏi lấy cái hay cái khéo của người?
Có người nói rằng tại Pháp họ đè nén mình không cho mình học làm súng ống, làm máy bay, tàu ngầm, nên dân mình mới ngô nghê như thế! Những người nói câu ấy là những người không học lịch sử Pháp hoặc có tính yêu mình thái quá, nên chỉ biết trách người mà không biết tự trách mình. Sao không nhớ khi Pháp sang, sợ mình theo Tàu, cho người mình sang Pháp học mà mình vẫn khư khư không chịu sang bên đấy ư? Người Pháp cho mình 2.000 khẩu súng, 5 chiến thuyền mà mình không dám thuê lấy một người Pháp trông nom, để lính mình làm xằng bậy mà hư hỏng hết đấy ư? Tôi nói thế không phải là khen người Pháp có lòng tốt, nhưng chỉ lối ngoại giao của người ta khôn khéo là thế, mà mình dở dang là thế, cho anh em đồng bào biết đấy thôi. Phải chi lúc đó ta biết nhân dịp sang nước người học tập lấy vài khéo của người ta, thì bây giờ so sánh tuy không kịp nước Nhật nhưng so với Phi Luật Tân, với Xiêm La cũng không đến nỗi xa lắc như thế này.
Ngày xưa nhắm mắt lại, một là văn minh Tàu, hai là văn minh Tàu, bị độc khoa cử làm mờ ám trí không đã đành, đến ngày nay đã hé mắt ra thấy người Tàu vận động nhiều việc rất to tát như gửi du học sinh khắp hoàn cầu, như bỏ quân chủ, lập dân chủ, mà cũng an nhiên bất động, nhất thiết chẳng biết gì là gì. Chẳng những thế mà thôi, lại còn mấy anh sang Tàu về nói láo, nói linh, chê người nọ, hạch người kia mà tự mình xem ra cũng không có bản lĩnh gì cho người ta đủ kính đủ phục. Có anh bạo gan chê cả Tôn Văn là người đại biểu văn minh cho nước Tàu đời nay, mà không biết rằng anh ta đem cái sự nghiệp của anh ta, cái tài năng của anh ta mà so sánh có bằng mảy may của Tôn Văn không? Những tính chất của người Tàu các anh không hề học đến, mà các anh khéo đem về một cái láu lĩnh và một cái bao tử trống mà thôi. Thế mà biết hồn luân lý đạp đức của người mình bị độc khoa cử giết chết, chỉ còn để nguyên lại một cái tính nô lệ thôi. Đạo đức mất trước, nước mất sau thật cũng không phải là lời nói ngoa vậy.
Có một vài người anh hùng không chịu đi xem xét, mê tín lịch sử đời xưa, trọng chủ nghĩ trung quân, chủ nghĩa phục thù, tìm mưu kiếm kế phỉnh phờ cho dân dậy lên, nhưng than ôi! Một con dao, một đoạn tre thì có làm gì. Cái nỗi thảm hại, đưa đầu ra cho người bắn, đem thịt ra cho người bằm nghĩ cũng đáng thuơng, nhưng công việc làm nào có ích gì! Chẳng qua làm cho dân đức của ta trụy lạc, khiến những bọn nô lệ kia, bọn vô sỉ kia lấy đó mà dọa nạt, mà hà hiếp dân lành thôi.
***
Luân lý của ta mất thì ta đem luân lý Âu châu về dùng hẳn có được không?
Có người hỏi luân lý của ta mất thì ta đem luân lý Âu châu về dùng hẳn có được không? Tôi xin trả lời rằng: không. Một nước luân lý cũ đã mất là nước không có cơ sở, nay bảo đem luân lý mới về thì biết đặt vào đâu?
Vẫn biết phép chắp cây của người Tây tài tình thật, nhưng nay đem một cây tươi tốt như cây luân lý ở các nước bên Âu Tây kia a mà chắp với một cây đã cằn cộc như cây luân lý ở nước Việt Nam ta thì tưởng không tài nào sinh tươi, quả tốt được. Muốn cho sự kết quả về sau được tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi bổ cho hai bên có sức lực bằng nhau đã. Tôi diễn thuyết hôm nay là cố mong anh em nên cứu chữa lấy cây luân lý cũ của ta, rồi đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu vậy.
Luân lý của Âu châu có tốt trọn không? Ta muốn theo thì phải làm thế nào?
Nói rằng luân lý Âu châu tốt hơn thì tốt nhiều. Nói rằng luân lý Âu châu trọn tốt thì không dám nói rằng trọn được. Là vì: Dân tộc nào cũng thế, cắt nghĩa theo luân lý đạo đức thì dễ, nhưng làm theo luân lý đạo đức thì khó, không sao trọn vẹn được. Bên Âu châu họ cũng có nhiều cái dở, như nam nữ tự do thái quá, ly ly, hợp hợp, rất thường, thành ra đường sinh sản kém lần mà dân số không thêm; như giàu nghèo cách biệt thái quá, người ngồi không, kẻ cắm đầu làm, thành ra kẻ lao động, người tư bản xung đột nhau mà trong nước không yên. Mê tín quốc gia chủ nghĩa về đời trung cổ thái quá yêu nước mình, ghét nước người, cho nên phải mang họa chiến tranh mãi mãi. Trọng trí dục hơn đức dục, chuộng ngoại giao hơn thành thật, cho nên thường sinh ra xâu xé nhau mà mất sự thái bình. Ấy là kể sơ lược, chớ kể hết tưởng cũng còn nhiều lắm. Bệnh họ tuy nhiều nhưng họ đã có thầy có thuốc chữa ngay, nghĩa là có những nhà triết học, những nhà giáo dục lo ra trừ tệ, canh cải sửa sang cho nền đạo đức luân lý mỗi ngày mỗi cao lớn, tốt đẹp thêm, chớ không phải như mước ta tốt khoe, xấu che làm cho một ngày thêm một xấu (chữ in đậm do HVCD nhấn mạnh). Vậy nay ta qua thâu cái luân lý Âu Tây để đem về truyền bá cho dân Việt Nam, thì ta phải nên chủ ý lắm, lừa lọc lắm mới được, những điều gì đáng đem về thì ta hãy đem.
***
Thưa các anh chị em đồng bào!
Tôi nói từ nãy đến giờ thật cũng nhiều rồi. Vậy xin anh em cho tôi nói tắt lại rằng: Ta đã biết nước ta mất cũng vì luân lý, dân ta hèn cũng vì mất đạo đức luân lý, bị người khinh bỉ dày xéo cũng vì mất đạo đức luân lý, thì ta phải cố sức sửa đổi luân lý, bồi đắp đạo đức của ta.
Anh em ta hãy gắng sức mà làm đi.
(Cử tọa đều vỗ tay. Cụ Phan uống hết tách nước, đứng lên nói thêm mấy câu):
Thưa anh em,
Tôi cũng biết rằng muốn khôi phục lại nền đạo đức của một nước mà trăm việc đều đổ nát như thế này, không phải là việc dễ. Nhưng nay ta bảo rằng khó, không khôi phục lại nền đạo đức cũ thì biết bao giờ mới mở mặt được với người. Tôi nói đạo đức cũ không phải nói con phải làm tôi mọi cho cha, vợ phải làm tôi mọi cho chồng, tôi phải làm tôi mọi cho vua đâu, mà chính là cái đạo đức trung dung của Khổng Mạnh, đem dùng vào đời nào, nước nào cũng được, không cổ, không kim, không đông, không tây, như tôi đã nói vậy. Đạo ấy ở trong câu: Sĩ khả sát, bất khả nhục (giết người học trò được, mà làm nhục thì không được), phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu (giàu sang không mê được lòng mình, nghèo hèn không đổi được chí mình, sức mạnh không buộc mình cúi đầu, được thế mới gọi là đại trượng phu) …
Nếu ta giữ được một ít đạo đức của ta, thâu thái một ít đạo đức của Âu châu đem điều hòa lại, rồi khuếch trương luân lý ta ra cho có quốc gia luân lý, nghĩa là khiến dân Việt Nam ai ai cũng đều biết nghĩa vụ đối với nước Việt Nam. Được như thế thì chẳng những được nước Việt Nam sau này được giàu mạnh, mà còn trong thế giới này bất kỳ dân nào muốn đến ăn chung ở đậu trên miếng đất này cũng không dám đem lòng khinh dễ ta như ngày nay nữa.

Sửa bởi pth77: 04/04/2014 - 14:29


Thanked by 2 Members:

#44 Ocean

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 4 Bài viết:
  • 182 thanks

Gửi vào 04/04/2014 - 16:56

Có nói thì nói lời êm ái

Không biết bạn thì sao, tôi có nhiều tật, thói quen mà tôi cho là xấu, nếu không nói là bất thường hoặc mát dây, chưa bị đưa vào nhà thương điên là còn may. Một trong những thói quen không tốt ấy là tật ngồi nói một mình.

Đã không biết bao nhiêu lần tôi bắt gặp mình đang độc thoại, miệng và tay chân hòa nhịp với nhau như đang thật sự nói chuyện với một người vô hình nào đó; khi thì đưa tay lên phân bua, có khi múa máy ra điều như đang giải thích hoặc tâm đắc với một chuyện gì lý thú lắm, cũng có lúc chân đá nhẹ cọng cỏ lúc đứng ngoài sân, cười tủm tỉm như đang tâm sự với một người tình trong mơ.

Thật sự tôi không thấy ai hết trơn, không biết hình dạng người mình đang đối thoại to ốm, xấu đẹp như thế nào, chỉ biết có những ý tưởng đối qua chiếu lại, khiến tôi trở thành một diễn viên đứng ở bên này phòng nói một câu, xong nhảy ra phía bên kia để đáp lại một câu, cũng chỉ một mình tôi thôi nhưng đóng hai vai để đáp qua đáp lại về một đề tài nào đó có khi kéo dài cả tiếng đồng hồ.

Thường thì thói quen độc thoại chỉ phát hiện khi tôi đang ở đâu đó một mình, không có ai bên cạnh, như ở trong nhà, ngoài sân, ở bãi biển hoặc trong công viên vắng vẻ. Tôi nói lẩm bẩm, không phát ra tiếng lớn, hình như vậy. Thế nhưng cũng có những lần tôi ngẫng nhìn lên hoặc quay đầu lại, chợt thấy một ai đó đang ngó mình chằm chằm, mặt đăm chiêu với một câu hỏi lớn được vẽ bằng đôi chân nhíu lại, mắt trợn to. “Anh đang nói chuyện với ai thế?” có người từng hỏi mà tôi không biết trả lời sao, chỉ mỉm miệng cười với bộ mặt chắc là đỏ lắm vì ngượng.

Một lần kia, có lẽ cũng đã gần một chục năm trước, gặp một anh bạn văn vong niên, chưa kịp hỏi han gì thì liền nghe anh hỏi ngay lập tức với nét mặt nửa như quan tâm về bệnh tâm thần của tôi, nửa như muốn cười vì mới khám phá ra tật lạ của tôi, “Hôm nọ thấy ngồi ở trong xe đang đợi đèn ở ngã tư Bolsa đây, miệng cười nói huyên thuyên, đầu quay qua bên này, xong quẹo qua bên kia, mặt hân hoan lắm nhìn kỹ trong xe, thấy chỉ có một mình, không ai ngồi bên cạnh. Vậy cười nói với ai thế? Nói chuyện với ma hả?”

Anh kèm theo câu hỏi với những tiếng cười hềnh hệch trước khi uống cạn chai bia, khiến tôi bối rối như bị bắt quả tang vừa làm một chuyện vụng trộm. Thật tình tôi không nhớ mình đã ngồi nói trong xe như vậy. Chắc bữa ấy đang nghe một bản nhạc hợp ý nên vui trong lòng rồi nói năng lung tung chăng? Thường thì tôi không biết mình đang bị người khác theo dõi, và những mẩu đối thoại cũng luôn là những câu chuyện vui tưởng tượng.

Tôi từng bênh vực tật nói lẩm bẩm của mình, cho rằng đó là một thói quen giúp cho tôi tăng thêm sự sáng tạo. Quả vậy, một số bài viết trước đây của tôi xuất phát từ những mẩu độc thoại, y như một câu chuyện ở trong đầu bỗng nhảy ra ngoài biến thành những dòng chữ nhảy múa trên trang giấy. Nhưng nói gì thì nói, dần dà tôi tôi nhận ra sự độc thoại lớn tiếng là một tật xấu không nên giữ. Về mặt thể chất, tôi thường bị bệnh nhức đầu có lẽ vì suy nghĩ quá nhiều với những mẩu chuyện miên man không đầu không đuôi ấy, và cũng có lúc bị mất ngủ vì các câu chuyện vẫn diễn ra trong óc trong khi thân thể đang cần nghỉ ngơi.

Mỗi lần đi ngang phố Bolsa, thấy mấy ông (và mấy bà) vô gia cư đứng nói chuyện một mình, tôi nhận ra tôi cũng như họ chứ không khác gì mấy. Có điều tôi chưa bao giờ la hét, mắng chửi ai trong những cơn độc thoại như họ. Tôi cũng chưa bao giờ dám đứng ở ngay ngã tư đông người mà nói năng lớn tiếng, vung tay đá chân như mấy cư dân Bolsa của tôi đang cãi nhau với người vô hình. Tật nói một mình xuất phát từ bên ngoại tôi.

Hồi còn bé, tôi thường bắt gặp mẹ ngồi cười nói một mình, tay gõ nhịp trên bàn như đang vui lắm với một câu chuyện gì đó. Ngày trước tôi thương mẹ, cho rằng cuộc đời bà quá cô đơn từ ngày cha tôi mất sớm, nên bà cần có một lối thoát cho thói quen thích nói của mình. Sau này thì tôi lo cho bà, vì biết đó là một triệu chứng của bệnh tâm thần mà tôi cũng đã vướng vào. Mấy năm sau này, nhờ có kỹ thuật tân tiến của nhân loại nên tôi cũng đỡ lo chuyện bị phát giác đang độc thoại ở nơi công cộng.

Ngày nay hầu như ở đâu cũng có người đứng nói một mình ở nơi công cộng. Họ trao đổi với ai đó qua điện thoại riêng, có khi nói lớn như giữa nơi không người. Mới trưa hôm trước, tôi vào chợ Costco mua mấy món ăn. Chợ nằm ở Garden Grove, gần phố Little Saigon nhất so với các chợ Costco khác nên có khá nhiều khách hàng gốc Việt. Ở quầy bán trái cây, đứng lựa mấy nải chuối, tôi cầm mấy nải “xấu” bỏ qua một bên, lục lọi lung tung sâu xuống đáy thùng để tìm nải “tốt” cho mình, chợt nghe có tiếng quát to, nói "không được làm như vậy!”

Tôi hết hồn, tay làm rơi nải chuối, tưởng lâu lâu mình mới ăn gian một tí thì liền bị bắt quả tang. Quay đầu nhìn, thấy một ông Việt Nam đang tiếp tục nói lớn, mặt đỏ rần như đang say rượu. Ông trừng mắt nhìn tôi, nhưng rồi sau vài giây quan sát, tôi biết ông không thấy tôi mà đang nói chuyện rất giận dữ với một ai đó qua điện thoại bằng blue tooth.

Ông đồng hương này tiếp tục đi tới hàng thịt, miệng vẫn cãi nhau với một ai đó mà tôi đoán là người thân của ông. Nhìn ông vừa đi vừa nói một mình, tôi nghiệm ra cõi giới mình đang sống vẫn luôn diễn ra nhiều cuộc độc thoại của những người tưởng bình thường về tâm lý. Nếu từng sống trên núi mấy chục năm, mới bước xuống đất Mỹ này và không hề biết những phương tiện tối tân của nhân loại, làm sao tôi biết người đàn ông kia đang nói điện thoại với một người khác qua một làn sóng vô hình?

Biết đâu chừng tôi cũng đã nhiều lần nói chuyện với “ai đó” ở một cõi khác mà các giác quan kém cỏi của bản thân không thể nhận ra? Nói cái này cho bạn vui, bớt lo cho tôi nha. Đó là dạo này tôi bớt dần tật độc thoại, nhờ tập quán sát hành động, tư tưởng của mình. Mỗi lần biết mình đang bắt đầu “du xuân” vào một cuộc nói chuyện mới nào đó, tôi liền tỉnh thức và tự nhắc mình, “đang du xuân, đang du xuân,” hoặc “đang nói một mình, đang nói, đang nói,” hay “đang tưởng tượng, đang tưởng tượng,” và “đang cười một mình rất vô duyên, rất vô duyên,” vân vân.

Nhờ vậy tôi có thể chấm dứt cuộc vui của sự suy nghĩ lan man để trở về với thực tại. Tôi có cảm tưởng bài viết này là một buổi nằm trong phòng khai bệnh với bạn, một bác sĩ tâm thần bất đắc dĩ. Đầu đuôi bài viết lẩm cẩm hôm nay đã bắt nguồn từ câu chuyện “Tinh Tế Vô Cùng” in trong cuốn “Bát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải” của ngài Thiền Sư Thích Thanh Từ mà tôi mới thỉnh ở chùa Hương Tích, Santa Ana hôm đầu năm Giáp Ngọ vừa qua.

Sách gồm tiếng Việt và tiếng Anh, được dịch sang Anh ngữ bởi một nhà tu hành nào đó tên Tuệ Ấn, được biên soạn bởi Sư Cô Thuần Bạch và Fran May ở Diệu Nhân Thiền Viện, một “convent” dành cho các ni nằm trên miền cao nguyên Rescue City, Bắc California.

Chuyện “Tinh Tế Vô Cùng” được biết như sau:

Đây là chuyện của Thiền Sư Yamamoto Gempo.

Có một thiền tăng Lâm Tế, Thượng Tọa Matsubara, và danh từ tiếng Anh đúng nhất để diễn tả Sư là “người diễn thuyết.” Sư giảng rất hay và thường đi với Thiền Sư Gempo để giảng trong những buổi thuyết pháp không phải là tuần tiếp tâm. Có một lần, Thiền Sư Gempo không thể dự buổi giảng. Thời tiết quá xấu, và dù cho buổi giảng đã được thông báo rất lâu trước đó, vẫn không có nhiều người đến như dự trù.

Thực sự, chỉ có ba người. Tuy nhiên, Thượng Tọa Matsubara đã giảng y như cử tọa là hai, ba trăm người.
Sau đó, Thiền Sư Gempo gặp Thượng Tọa và hỏi, “Thị giả của tôi cho biết vì trời bão tố nên chỉ có ba người đến dự buổi giảng. Tuy vậy, Sư đã giảng cũng y như có đông người. Hãy cho tôi hỏi, ví như chỉ có một người đến thì Sư có giảng y như vậy không? “Vâng, con sẽ giảng như vậy.” “Ví thử không có ai đến thì sao?” Thượng Tọa Matsubara trả lời, “Thì con không giảng.”

Lập tức Thiền Sư Gempo bảo, “Vậy là không tốt rồi! Sư có ngồi thiền chỉ vì có bạn bè không? Sư không ngồi thiền một mình được sao?” “Vâng, con ngồi một mình được.” “Có phải Sư niệm A Di Đà Phật chỉ vì có người khác cùng niệm? Một mình Sư không thể niệm Phật được sao?” “Dĩ nhiên con làm được.” Thiền Sư Gempo bảo, “Như vậy thì dù không có ai đến, cột nhà, sàn nhà cũng lắng nghe Sư thuyết.” Điều này cũng đúng với cây đàn Koto của Nhật. Đàn làm bằng gỗ Kiri.

Đây là một loại gỗ rất mềm, và chỉ có gỗ này mới làm được đàn Koto. Dĩ nhiên, người làm đàn Koto phải kiếm loại gỗ Kiri tốt nhất. Gỗ này được tìm thấy trong những ngọn núi xa thẳm, gần một ngôi chùa mà cây Kiri có thể nghe được tiếng chuông chiều.


Câu chuyện chấm dứt ở đó, để lại “tiếng chuông chiều” ngân nga và thanh thoát trong tâm tư tôi. Thế rồi ý tưởng cột nhà, sàn nhà biết lắng nghe của thiền sư đã gợi nhắc tật độc thoại, đưa đến bài viết này. Từ nay, nếu thói quen xấu kia trở lại, tôi vẫn cố gắng nhận ra nó và ngưng ở đó, bằng không thì nương theo nó để nói những lời êm ái, đem đến sự bình an cho vạn vật, cho dù vạn vật ấy chỉ là mấy bức tường, bàn ghế, cỏ cây chung quanh nhà.

Phúc Quỳnh

Sửa bởi ThongReo: 04/04/2014 - 17:17


Thanked by 4 Members:

#45 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 08/04/2014 - 17:20

MẠC VỊ XUÂN TÀN HOA LẠC TẬN ĐÌNH TIỀN TẠC DẠ NHẤT CHI MAI

Nguyễn Cẩm Xuyên


Trong lịch sử nước ta, triều Lý (1010-1225) là triều đại cường thịnh về quân sự, vững vàng về chính trị và rực rỡ về văn học. Mở đầu cho nền văn học viết, thơ văn đời Lý truyền lại được đến nay phần lớn chỉ ghi lại trong Thiền Uyển tập anh (1), tập sách do Thiền sư Kim Sơn thuộc Thiền phái Trúc lâm (2) viết vào năm 1337, đời Trần nhưng lại chủ yếu ghi hành trạng của các tăng sĩ đời Lý thuộc 03 dòng Thiền: Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu chiHuệ phái Thiền sư Thảo Đường.
Các cao tăng đời Lý học rộng, tinh thông Phật pháp lại giỏi Hán học nên được triều đình kính nể. Đạo Phật được tôn vinh nên nhiều người muốn tìm học triết lý Phật giáo. Ngoài việc thuyết giảng, các nhà sư còn dùng “kệ”, một thể thơ nhà Phật nhằm truyền đạt những ý cao siêu uyên áo của Phật pháp bằng những hình ảnh, những câu thơ ngắn gọn sinh động mà dễ hiểu.

Thiền Uyển tập anh chép lại nhiều bài kệ (3) nhưng nổi bật nhất có bài sau đây của Đại sư Mãn Giác :


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai


“NHẤT CHI MAI” LÀ “MỘT CÀNH MAI” HAY “MỘT CÀNH MƠ” ?

Bài kệ chỉ có 6 câu, không có đầu đề; Hoàng Xuân Hãn đã dịch ra quốc ngữ như sau:

“Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân lại nở trăm hoa.
Trước mắt sự đời thoảng,
Trên đầu hiện tuổi già.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết;
Ngoài sân đêm trước một cành mơ. ”

Đọc bản dịch thơ của Hoàng Xuân Hãn, có người lấy làm lạ bởi sao câu cuối lại dịch : “một cành mơ”. Đáng ra chữ “nhất chi mai” phải dịch là “một cành mai ” ?.
Quả vậy, từ trước đến nay nhiều người vốn đã rất quen với bản dịch của Ngô Tất Tố :

Xuân ruổi trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết;
Đêm qua, sân trước một nhành mai.

Cũng như nhiều bản dịch khác, Ngô Tất tố giữ nguyên chữ mai trong nguyên tác. Thật ra thì trong chữ Hán 梅 (mai) là cây mơ. Cây mơ ở Trung Quốc có nhiều, là loại cây ăn quả có hoa đẹp màu trắng, có khi hơi ửng hồng hoặc đỏ. Riêng nước ta, mơ có nhiều ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là ở vùng rừng núi động Hương Tích.
Ở Hương Tích, Nguyễn Bính đã từng tả “Thấp thoáng rừng mơ – cô hái mơ” và Chu Mạnh Trinh cũng đã viết :

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái;

Lửng lờ khe Yến cá nghe kinh…”.

Mơ mọc thành rừng. Rừng mai đây chính là rừng mơ chớ không phải là rừng mai vàng như nhiều người lầm tưởng.
Thật vậy, vì điều kiện thổ nhưỡng, hoàng mai tức là cây mai vàng nở hoa vào dịp tết âm lịch chỉ có từ Quảng Trị trở vào. Lãnh thổ nước ta vào thế kỉ XI lại chỉ mới đến chân đèo Ngang cho nên vào thời điểm ấy, xem như nước ta chưa thể có hoàng mai mà chỉ có hoa mơ… và hoa mơ trong thơ xưa vẫn gọi là hoa mai.
Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông có bài thơ Hoa mai :

“…Hoa bạc phau phau xâm khí tuyết,
Chồi xanh êu ếu lạt hơi may”

Sắc hoa bạc phau phau ở câu thơ chính là sắc trắng của hoa mơ. Vậy mai trong lời thơ của Mãn Giác chính là cây mơ. “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” dịch là “Ngoài sân đêm trước một cành mơ” là đúng.

Một lí do nữa để lí giải:
Kệ của Thiền Tông khác với thơ nghệ thuật. Thơ nghệ thuật có thể tưởng tượng nên hình ảnh mà đưa vào thơ miễn là hợp lí và giàu chất thẩm mĩ; thậm chí ở thơ cổ điển, tả sự việc theo cách ước lệ thì có khi không có lá ngô đồng rụng, chẳng thấy có tuyết rơi …mà nhà thơ vẫn có thể tưởng nên cảnh thu với “giếng vàng đã rụng một vài lá ngô”, tả mùa đông với tuyết phủ mơ màng… Kệ của Thiền Tông thì không phải như thế. Mọi việc, mọi vật trong kệ phải là thực tế nhãn tiền – vì vậy khi hoàng mai là loài hoa vốn không có ở nước ta vào thế kỉ XI thì chẳng thể nào Mãn Giác lại có thể đưa cành mai vàng rực rỡ ấy vào thơ được; chỉ có thể ở đây : một cành mơ, một thực tế cụ thể làm phương tiện cho trực giác.
Cành hoa mơ được Mãn Giác đưa vào bài kệ cũng do một dụng ý khác nữa là gợi cho người nghe nhớ lại truyền thuyết“Niêm hoa vi tiếu” của Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu;
Sách “Tông môn tạp lục” đời Tống (960-1127) có kể lại câu chuyện:
Phạn Vương đến Linh Sơn hiến Phật cành hoa “Ba la” và thỉnh Phật thuyết pháp. Thế Tôn đăng tòa đưa cành hoa lên cho mọi người xem; tất thảy đều không hiểu ngài muốn nói gì, đều lặng thinh, chỉ có Kim Sắc Đầu Đà Ca Diếp tươi nét mặt và mỉm cười. Thế Tôn liền nói: Ta đã có Chánh pháp nhãn tàng, Niết bàn diệu tâm, Thực tướng vô tướng, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp…
Theo Thiền Tông, Phật im lặng đưa lên một cành hoa là cách “Dĩ tâm truyền tâm” và Ca Diếp đã đốn ngộ được chân lí.

MỘT LỜI THƠ NÓI ĐƯỢC CẢ TƯ TƯỞNG THIỀN TÔNG

Đạo Phật từ Trung Hoa truyền sang ta từ đời nhà Đinh, đến đời Tiền Lê đã phát triển mạnh. Đời Lê Đại Hành, sư Vạn Hạnh có tiếng là một nhà tiên tri và rất được triều đình kính trọng. Sách Thiền Uyển tập anh chép: “năm Thiên Phúc thứ I (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta đóng quân tại Cương giáp, Lạng sơn. Vua mời sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, sư đáp “Trong vòng 3, 7 ngày, giặc phải lui”. Sau quả nhiên như thế.
Đến khi vua muốn đánh Chiêm Thành, việc bàn định chưa dứt khoát, sư tâu “Xin mau cất binh, nếu không ắt mất cơ hội”. Sau đánh quả nhiên thắng trận.”
Sang đến đời Lý, vua rất tôn sùng đạo Phật. Vua Lý Nhân Tông và Thái hậu Ỷ Lan rất mộ đạo Phật, thường mời các nhà sư nổi tiếng như Thông Biện, Mãn Giác, Chân Không, Giác Hải, Không Lộ vào nội cung để giảng kinh và đàm đạo. Các cao tăng này đều thuộc Thiền Tông là tông phái của Phật giáo Đại thừa. Thiền Tông không dùng nghi thức tôn giáo và các lí luận rườm rà về giáo pháp; chủ trương không phân tích chi li triết lí Phật giáo như các tông phái khác mà đề cao việc tìm đến chân lí bằng trực giác và dùng phương pháp toạ thiền để kiến tính. Trực giác là con đường ngắn nhất để đạt đạo đồng thời cũng là con đường khó nhất.
Các vương hầu đời Lý cũng quý trọng các Thiền sư: Lương Nhậm Văn, Lý Thường Kiệt, Vương Tại, Đoàn Văn Liệm, Phụng Càn Vương, Thiên Cực Công chúa… đều thường giao thiệp mật thiết với các cao tăng. Nhiều vị thiền sư lại là con cháu vua, hoàng hậu hay các đại thần nên có vị trí chính trị cao. Riêng Thiền sư Mãn Giác được vua Lý Nhân Tông và Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu thỉnh về trụ trì tại chùa Giác Nguyên bên cạnh cung Cảnh Hưng. Ðến khi Sư viên tịch, vua kính lễ rất hậu, các công khanh đều tiễn đưa, làm lễ hỏa táng, thu xá lợi, xây tháp thờ tại chùa Sùng Nghiêm (làng An Cách). Mãn Giác là tên hiệu do Vua Lý Nhân Tông ban cho sau lễ hoả táng.
Sư Mãn Giác (4) là đệ tử chân truyền của Thiền sư Quảng Trí và là lãnh tụ pháp môn của dòng Thiền Vô Ngôn Thông, thuộc đời thứ 8.
Vô ngôn thông. “Không cần nói mà đạt đạo” là tôn chỉ của đạo Thiền. Không thuyết lí dài dòng; không nói nhiều, không kiến chấp, không ngộ nhận… chỉ lặng lẽ xem cuộc tuần hoàn: Xuân qua trăm hoa rụng/ xuân đến trăm hoa nở/ việc đời qua trước mắt/ tuổi già đến trên đầu…bài kệ chỉ nêu sự việc làm phương tiện truyền đạt ý : Sự việc trước mắt là cái tất định của tự nhiên cứ tuần hoàn mà thay đổi.
Người theo Thiền chấp nhận định luật của tự nhiên, vô ngônphá chấp.
Nắm quy luật; biết tương lai: chớ nói xuân tàn hoa rụng hết/ đêm qua sân trước – một cành mơ.
Tương lai tận cùng của Phật pháp cũng như ở đạo Thiền là cõi niết bàn. Trong kiếp luân hồi có khi hoa tàn rụng cả nhưng cái suy tàn lại khởi đầu cho một tương lai mới. Cành mơ mới nở là hình tượng vô ngôn của niềm lạc quan vô biên mà tĩnh tại.

KHÔNG NÊN ĐẶT ĐẦU ĐỀ CHO BÀI KỆ CỦA MÃN GIÁC THIỀN SƯ

Chúng tăng ghi bài kệ của Thiền sư Mãn Giác đọc lúc sắp mất và mãi đến 7 thế kỉ sau, Lê Quý Ðôn mới chép lại và đặt tên: “Cáo tật thị chúng” nghĩa là có bệnh bảo mọi người (5). Sách vở nay cũng theo đó mà chép. Thật ra đầu đề này đã phá hết nghĩa sâu xa của bài kệ.
Lê Quý Đôn là nhà Nho đời Lê-Trịnh. Tư tưởng Nho giáo là tư tưởng nhập thế, cách nhìn cách nghĩ thường tập trung vào những lẽ được thua ở đời: khi gặp minh chúa thì nhập thế, giúp đời, khi bất phùng thời thì quay về ẩn dật. Lúc ẩn dật, nhà Nho thường nhìn việc đời bi quan. Khuất Nguyên tự trầm trên sông Mịch La cũng vì lẽ bi quan ấy.
Tư tưởng của Nho giáo và Thiền Tông không gặp nhau và có lẽ vì thế Lê Quý Đôn đã chọn cho bài thơ đầu đề “Có bệnh bảo mọi người”.
Hiểu bài kệ của sư Mãn Giác thì không nên nói đến chuyện “có bệnh” ở đây. Bài thơ nói “việc đời qua trước mắt; tuổi già đến trên đầu”…là hoàn toàn không có gì bi quan. Đã là Thiền sư thì không bi quan trước lẽ tử sinh. Tất cả sự việc xảy ra trong cuộc sống là hiện tượng. Thiền học dùng hiện tượng làm phương tiện đốn ngộ. Hãy đọc câu chuyện thiền Nhật Bản “Không nước; không trăng”:
Ni cô Chiyono đã tu nhiều năm, nhưng chẳng thấu đạt được chân lí. Một đêm, cô gánh nước về tu viện; vừa đi vừa ngắm ánh trăng rọi xuống mặt nước trong thùng. Bỗng nhiên, đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống. Nước đổ ào ra, bóng trăng tan biến – không còn nước, không còn trăng. Chiyono hốt nhiên giác ngộ. Cô đọc bài kệ:

“Bằng cách này hay cách khác, tôi đã cố giữ đôi thùng nước,
Mong rằng chiếc đòn gánh dòn yếu kia sẽ không gãy
Bất chợt, giây đứt thùng văng,
Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước;
Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì,
Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì”.


Chiyono đốn ngộ được là nhờ trực giác cảm nhận từ cái rỗng không này. Những kiến chấp qua bao nhiêu năm tháng tu hành của cô không sánh được với trực giác nảy sinh từ cảm nhận nhất thời.
So sánh bài kệ của Mãn Giác với “Không nước, không trăng” ta thấy có điểm giống: cả hai cùng trải qua thực tế nhãn tiền. Mãn Giác đại sư nhìn việc đời qua trước mắt/ tuổi già đến trên đầu là giống với ni cô Chiyono nhìn ánh trăng soi qua mặt nước trong thùng… rồi cái hiển hiện ấy bỗng tan biến mất – cái còn lại chỉ là “không”.
Bài kệ của Mãn Giác và câu chuyện Thiền Nhật Bản đều muốn truyền đạt chân lí thông qua trực giác. Mãn Giác muốn mọi người cảm nhận bằng trực giác từ cành hoa mơ; Chiyono thì dùng cái “không”Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước”. Đây là những phương tiện của Thiền giúp người đời vượt qua kiến chấp để đến với chân lí, đến với cái “không” tĩnh tại.
Vậy thì ở bài kệ của Mãn Giác: việc hoa tàn, hoa nở… việc chuyện đời trôi, tuổi già đến…, tất cả đều là vô thường, không có gì đáng bận tâm mà ngược lại là phương tiện của đốn ngộ.
Kệ cũng là kinh; kệ có khi dùng nhật tụng. Thiền Tông đọc kệ để ngộ đạo. Bài kệ của Mãn Giác nhằm giúp ngộ đạo bằng con đường trực giác vậy sao lại có thể truyền đạt cảm nhận bi quan “có bệnh” được? Cảm nhận này là không phù hợp với tinh thần lạc quan, yên nhiên của Thiền Tông.
Các bài kệ của Thiền Tông đều không đề vậy tốt nhất là đừng cố tìm lấy một đầu đề cho bài kệ của Mãn Giác.

—————————————————

CHÚ THÍCH:

(1) Thiền Uyển tập anh có nghĩa là gom góp những anh hoa của vườn Thiền.

(2) Thiền tông ( 禪 宗 ) là một tông phái của Phật giáo, xuất phát từ Trung Quốc khoảng thế kỉ thứ 6, 7 khi đạo Phật kết hợp với tư tưởng Lão giáo. Thiền tông chủ trương dùng kinh nghiệm chứng ngộ, không bàn luận nhiều về lí thuyết. Thiền Tông sang nước ta từ lâu nhưng Thiền phái Trúc Lâm đến đời nhà Trần mới lập bởi vua Trần Nhân Tông.
(3) Kệ: còn gọi là thi kệ là những bài thơ mang nội dung truyền đạt tư tưởng nhà Phật. Kệ có khi chỉ là những câu rất ngắn như tục ngữ nhưng thông thường là những bài thơ, nhằm truyền bá tư tưởng nhà Phật. Thi kệ gần như là những bài thuyết pháp ngắn mà sâu sắc để dạy đệ tử.
(4) Thiền sư Mãn Giác (1052-1096), tên thật là Lý Trường (Thiền Uyển tập anh ghi là Nguyễn Trường là vì vào đời Trần, tất cả những người họ Lý đều chuyển ghi thành họ Nguyễn) người đất Lũng Chiền, làng An Cách, là con quan Trung thư Viên ngoại lang Lý Hoài Tố. Đời Lý Nhân Tông, vua thường cho con em các danh gia vào hầu hai bên, Lý Trường cũng được dự. Lớn lên tinh thông cả Nho và Phật học, lại thường chú tâm vào Thiền học, được Nhân Tông và Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan quý trọng, ban cho hiệu Hoài Tín…
Ngày 30 tháng 11 năm Hội Phong thứ 5 (1096), sư cáo bệnh. Sau khi đọc bài kệ dạy chúng, sư ngồi kiết già mà mất, thọ 45 tuổi đời, 19 tuổi hạ. Vua tặng hậu lễ, công khanh mỗi mỗi đến dâng hương, trà tỳ xong, thu xá lợi xây tháp ở chùa Sùng nghiêm, làng An cách. Vua sắc thụy là Mãn Giác.
(5) * Theo Thơ văn Lý Trần; tập I; NXB Khoa Học Xã Hội, 1977 thì tên bài thơ “Cáo tật thị chúng” là do Lê Quý Đôn đặt.

Sửa bởi pth77: 08/04/2014 - 17:23


Thanked by 3 Members:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |