Jump to content

Advertisements




NHỮNG CÂU CHUYỆN THƯỜNG NGÀY


256 replies to this topic

#256 Đức Bích Phạm

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2707 Bài viết:
  • 4424 thanks

Gửi vào 02/02/2016 - 07:12

PHƯỚC THIỆN NGHE PHÁP..(Dhammassavana)



Những người nghe chánh pháp do đó gọi là dham-massavana, đó là tác ý tâm sở đồng sinh với đại thiện tâm có yonisomanasikāra: sự hiểu biết trong tâm đúng theo thực tánh pháp.
Có 2 hạng người nghe chánh pháp:
1- Hạng người nào nghe chánh pháp với ý nghĩ rằng: “Nếu ta thường nghe pháp, hiểu được pháp, nói pháp thì mọi người đều tán dương ca tụng ta là người có đức tin trong sạch trong chánh pháp. Như vậy, hạng người nghe pháp ấy được phước thiện nghe pháp không nhiều, có quả báu không nhiều.”

2- Hạng người nào nghe chánh pháp với ý nghĩ rằng: “ Ta thường nghe pháp, để học hỏi hiểu biết rõ chánh pháp, biết phân biệt phước thiện với tội lỗi, thiện pháp với ác pháp, thiện nghiệp với ác nghiệp, tà kiến với chánh kiến, pháp nên thực hành với pháp không nên thực hành, v.v… nên từ bỏ tà pháp, rồi thực hành theo chánh pháp, để được sự tiến hóa trong mọi thiện pháp từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp, để đem lại sự an lạc lâu dài trong kiếp hiện tại và vô số kiếp vị lai.
Như vậy, hạng người nghe pháp ấy được nhiều phước thiện nghe pháp (dhammassavanakusala) thật sự, có nhiều quả báu của phước thiện nghe chánh pháp vô cùng phong phú như vậy.”

Nghe chánh pháp là 1 trong 5 điều khó mà Đức Phật hằng ngày thường nhắc nhở các hàng Thanh Văn đệ tử rằng: “Saddhammassavanaṃ dullabhaṃ.”
“Được nghe chánh pháp là điều khó.”
Thật vậy, khi nào Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian, Đức Phật thuyết dạy chánh pháp, khi ấy, chúng sinh mới có cơ hội được nghe chánh pháp.
Chánh pháp đó là Bodhipakkhiyadhamma gồm có 37 Pháp chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, Đức Phật thuyết trong bài kinh Mahāparinibbāna-sutta ([1]) (kinh Đại Niết Bàn) có một đoạn rằng:
- Này chư tỳ khưu! Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn đó là:

*4 Pháp niệm xứ (Satipatthāna): 1) Niệm thân, 2) Niệm thọ, 3) Niệm tâm, 4) Niệm pháp.
* 4 Pháp tinh tấn (Samappadhāna): 1)Tinh tấn ngăn các ác pháp chưa phát sinh, không cho phát sinh, 2) Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh, 3) Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sinh, 4) Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
* 4 Pháp thành tựu (Idhipāda)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)Thành tựu do hài lòng, 2) Thành tựu do tinh tấn, 3) Thành tựu do quyết tâm, 4) Thành tựu do trí tuệ
* 5 Pháp chủ (Indriya): 1) Tín pháp chủ, 2) Tấn pháp chủ, 3) Niệm pháp chủ, 4) Định pháp chủ, 5) Tuệ pháp chủ.
* 5 Pháp lực (Bala)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

) Tín pháp lực, 2) Tấn pháp lực, 3) Niệm pháp lực, 4) Định pháp lực, 5) Tuệ pháp lực.
* 7 Pháp giác chi (Bojjhanga): 1) Niệm giác chi,2) Phân tích giác chi, 3) Tinh tấn giác chi, 4) Hỷ giác chi, 5) Tịnh giác chi, 6) Định giác chi, 7) Xả giác chi.
* 8 Pháp chánh đạo (Magga): 1) Chánh kiến, 2) Chánh tư duy, 3) Chánh ngữ, 4) Chánh nghiệp, 5) Chánh mạng,6) Chánh tinh tấn, 7) Chánh niệm, 8) Chánh định.
- Này chư tỳ khưu! Các chánh pháp ấy Như Lai đã thuyết giảng đến các con, để chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
- Này chư tỳ khưu! Bây giờ Như Lai nhắc nhở các con rằng:
“Tất cả các pháp hữu vi (danh pháp - sắc pháp) có sự hoại là thường, các con nên cố gắng tinh tấn hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh Đế bằng pháp không dể duôi, thực hành pháp hành Tứ niệm xứ.”
Thời gian còn không lâu, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn. Kể từ hôm nay chỉ còn lại 3 tháng nữa mà thôi, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn.
Nếu chúng sinh không có cơ hội nghe chánh pháp thì chắc chắn không thể chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, không chứng đắc Thánh Đạo-Thánh Quả và Niết Bàn được.
Thật vậy, tiền kiếp của Ngài Đại Đức Sāriputta đã từng phát nguyện muốn trở thành Đệ Nhất Tối Thượng Thanh văn giác bên phải có trí tuệ xuất sắc bậc nhất, và đã được Đức Phật Anomadassī ([2]) thọ ký Ngài sẽ trở thành vị Đệ Nhất Tối Thượng Thanh văn giác bên phải có trí tuệ xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh văn đệ tử của Đức Phật Gotama.
Tiền kiếp của Ngài Đại Đức Sāriputta đã tạo 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ từ thời kỳ Đức Phật Anomadassī cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama trải qua 19 Đức Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian, đó là Đức Phật Anomadassī, Đức Phật Paduma, Đức Phật Nārada, Đức Phật Padumuttara, Đức Phật Sumedha, Đức Phật Sujāta, Đức Phật Piyadassī, Đức Phật Atthadassī, Đức Phật Dhammadassī, Đức Phật Siddhattha, Đức Phật Tissa, Đức Phật Phussa, Đức Phật Vipassī, Đức Phật Sikhī, Đức Phật Vessabhū, Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana, Đức Phật Kassapa và Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, có khoảng thời gian suốt 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, đã được trọn vẹn 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ, để trở thành Đệ Nhất Tối Thượng Thanh văn giác bên phải có trí tuệ xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh văn đệ tử của Đức Phật Gotama.
Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, khi ấy, kiếp chót của Ngài Đại Đức Sāriputta là vị Bồ Tát Đệ Nhất Tối Thượng Thanh Văn bên phải có trí tuệ xuất sắc bậc nhất sinh làm con của bà Sārī (con gái của ông trưởng giả) trong xóm nhà Upatissa gần kinh thành Rājagaha. Bà Sārī đặt tên con là Upatissa,
Công tử Upatissa có người bạn hữu là công tử Kolita cùng nhau đi chơi hội mà không cảm thấy vui, phát sinh động tâm về cuộc đời là khổ, nên hai người bạn bàn bạc với nhau cùng nhau xuất gia tìm con đường giải thoát khổ tử sinh luân hồi.
Thời ấy, trong kinh thành Rājagaha, vị đạo sư nổi tiếng Sañcaya là đạo trưởng phái ngoại đạo lớn có nhiều đệ tử, công tử Upatissa và công tử Kolita cùng nhóm thuộc hạ đến xin xuất gia trở thành đệ tử của vị đạo sư Sañcaya.
Sau khi xuất gia được 2 - 3 ngày, hai vị tu sĩ Upatissa và Kolita đã học thông hiểu phần lý thuyết của vị đạo sư Sañcaya, không còn gì để học nữa.
Hai vị tu sĩ Upatissa và Kolita bàn luận với nhau về phần lý thuyết của vị đạo sư Sañcaya chỉ là rỗng tuếch mà thôi, chắc chắn không phải là con đường giải thoát khổ tử sinh luân hồi.
Hai vị tu sĩ nhận thức đúng đắn rằng: “Lời dạy của vị đạo sư Sañcaya không phải là pháp dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi.” Còn pháp thực hành dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi thì 2 vị tu sĩ hoàn toàn không biết, nên 2 vị tu sĩ giao ước với nhau rằng: “Hai chúng ta nếu người nào tìm được vị thầy chỉ dạy Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trước tiên, thì người ấy cho người kia biết”. Sau khi giao ước xong, mỗi người chọn một con đường đi tìm Thầy.
Khi ấy, Đức Phật ngự đến kinh thành Rājagaha cùng nhóm chư Thánh Thanh Văn đệ tử vào ngày mồng một tháng giêng. Tu sĩ Upatissa đi vào kinh thành Rājagaha, nhìn thấy Ngài Đại đức Assaji là bậc Thánh A-ra-hán còn trẻ đang đi khất thực với cử chỉ thu thúc lục căn thanh tịnh, tu sĩ Upatissa phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài Đại đức Assaji, nên đi theo hộ độ Ngài.
Sau khi Ngài độ vật thực xong, tu sĩ Upatissa cung kính đảnh lễ, chắp tay bạch rằng:
- Kính bạch Ngài, lục căn của Ngài thanh tịnh, gương mặt của Ngài trong sáng thật đáng tôn kính.
- Kính bạch Ngài, Ngài xuất gia với Đức Tôn Sư nào?
Đức Tôn Sư của Ngài là Bậc nào?
Ngài hài lòng hoan hỷ chánh pháp Đức Tôn Sư nào?
Ngài Đại đức Assaji đáp rằng:
- Này hiền giả, tôi xuất gia với Đức Phật Gotama, xuất thân từ dòng dõi Sakya. Vị Tôn Sư của tôi là Đức Phật Gotma. Tôi hài lòng hoan hỷ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.
Tu sĩ Upatissa bạch hỏi tiếp rằng:
- Kính bạch Ngài, giáo pháp của Đức Phật Gotama, Đức Tôn Sư của Ngài thuyết dạy như thế nào? Kính xin Ngài thuyết dạy cho con nghe chánh pháp ấy.
Ngài Đại Đức Assaji thuyết dạy rằng:
- Này hiền giả! Giáo pháp của Đức Phật Gotama rộng lớn mênh mông, vô cùng sâu sắc và tế nhị, tôi là vị tỳ khưu trẻ mới xuất gia chưa hiểu biết nhiều, tôi chỉ có thể chỉ dạy tóm tắt ngắn gọn mà thôi.
- Kính bạch Ngài, con là tu sĩ Upatissa, kính xin Ngài thuyết pháp chỉ dạy dù nhiều dù ít cũng tốt đối với con.
Ngài Đại đức Assaji thuyết bài kệ rằng:
“Ye dhammā hetuppabhavā, tesaṃ hetuṃ Tathāgato āha.
Tesañca yo nirodho, evaṃ vādī mahāsamaṇo” ([3])
Ý nghĩa:
- Này hiền giả! Những pháp ngũ uẩn nào là pháp khổ đế đều sinh từ tham ái, nhân sinh khổ đế ấy.
Đức Phật thuyết dạy tham ái, nhân sinh khổ đế ấy và thuyết dạy Niết Bàn diệt tham ái.
Đức Phật Gotama bậc Đại Sa-môn thường thuyết dạy chân lý tứ Thánh đế như vậy.
Trong khi lắng nghe Ngài Đại đức Assaji thuyết bài kệ tóm tắt về chân lý tứ Thánh Đế gồm có 4 câu. Vốn là vị Bồ Tát Đệ Nhất Tối Thượng Thanh Văn bên phải có trí tuệ xuất sắc bậc nhất, nên vừa nghe hai câu đầu của bài kệ, tu sĩ Upatissa đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama ngay tại nơi ấy.
Sau khi trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, tu sĩ Upatissa cung kính đảnh lễ Ngài Đại Đức Assaji, rồi xin phép trở về tìm bạn hữu là tu sĩ Kolita.
Tu sĩ Upatissa thuyết lại bài kệ này cho tu sĩ Kolita nghe, sau khi nghe xong, tu sĩ Kolita cũng liền chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.
Sau đó, tu sĩ Upatissa và tu sĩ Kolita dẫn nhóm học trò 250 vị tu sĩ của vị đạo sư Sañcaya đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Đức Phật cho phép xuất gia bằng cách gọi “Etha bhikkhavo!”
Tu sĩ Upatissa và tu sĩ Kolita cùng nhóm học trò đều trở thành tỳ khưu. Từ đó, tỳ khưu Upatissa được gọi là vị Trưởng Lão Sāriputta và tỳ khưu Kolita được gọi là vị Trưởng Lão Mahāmoggallāna.
Đức Phật thuyết pháp tế độ nhóm tỳ khưu ấy, tất cả 250 vị tỳ khưu đều chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, chỉ trừ 2 vị Trưởng Lão Sāriputta và Trưởng Lão Mahāmoggallāna chưa chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán.
Sau khi trở thành tỳ khưu được 7 ngày, vị Trưởng Lão Mahāmoggallāna chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cùng các phép thần thông xuất sắc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama.
Và sau khi trở thành tỳ khưu được 15 ngày, vị Trưởng Lão Sāriputta chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán có trí tuệ sâu sắc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama..."

(Trích NỀN TẢNG PHẬT GIÁO - Q V. PHƯỚC THIỆN - TK .Hộ Pháp)


Thanked by 1 Member:

#257 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 11/02/2016 - 03:44

Đáp ứng với thay đổi

Nguyễn Ngọc Bích
Thứ Ba, 9/2/2016, 17:15 (GMT+7)









Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(TBKTSG Xuân) - Trước những sự thay đổi dồn dập khắp mọi nơi, chúng ta đáp ứng thế nào để vẫn giữ được mình và không bị cuốn đi.



Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta biết hoặc thấy nhiều sự thay đổi. Ngoài những thứ lớn lao như khí hậu, khủng bố, chiến tranh; còn có các thứ nhỏ khác như sản phẩm mới, phương tiện mới, cách thức mới, các loại hình nghệ thuật mới và thậm chí các tội phạm kinh hồn... cũng mới! Trước các sự thay đổi ấy, chúng ta dễ bị lo âu và có khi hoang mang. Vậy làm sao để lòng mình đứng vững trước các sự thay đổi?

Điểm qua các sự thay đổi

Xét cho cùng, các sự thay đổi ta thấy là kết quả của những hành động sáng tạo của con người, và nó xuất phát từ hai nguồn chính: cái thiện hay cái ác. Lấy một thí dụ. Mark Zuckerberg sáng tạo ra Facebook; nhiều người bị nó tác động, tức là thấy thích thú hay bực mình, thậm chí có người thấy... phải chết! Vậy ta có một chuỗi tác động tâm lý nối tiếp nhau nổi lên: “Sáng tạo - thay đổi - tác động”. Đề tài của bài này nhắm vào cái giữa; nhưng nó có một cái khởi đầu và một cái kết thúc. Vậy ta bàn về cái khởi đầu - sự sáng tạo - trước đã. Và nó xuất phát từ cái thiện của con người.

Về mặt này, triết học phân chia hành động sáng tạo của con người ra ba lĩnh vực: (i) công nghiệp và gồm có công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp; (ii) kỹ thuật và (iii) nghệ thuật. Ba thứ này lẫn lộn với nhau khiến chúng ta khó phân biệt được từng cái. Chúng tác động vào, rồi chúng ta thấy thích thú, ngạc nhiên hay chán phèo. Bình tâm lại ta sẽ thấy công nghiệp và kỹ thuật cho ta những tiện nghi vật chất. Nghệ thuật cho ta thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên và tài ba của con người.

Về tính chất, sự sáng tạo trong lĩnh vực công nghiệp và kỹ thuật thường là một ý tưởng mới, một công cụ hay một quy trình hữu hiệu hơn trước. Chúng là sự áp dụng những giải pháp tốt hơn để đáp ứng những yêu cầu mới, các nhu cầu bất định hoặc các nhu cầu hiện hữu của cuộc sống. Thành quả của chúng là các sản phẩm, các quy trình, dịch vụ, công nghệ, hay các ý tưởng có sẵn để cho các thị trường, chính quyền và xã hội sử dụng. Trong những năm gần đây, ta đã thấy những thành tựu sáng tạo như: máy bay không người lái dùng trong nông nghiệp để tăng năng suất và giảm thiệt hại; điện thoại thông minh cực an toàn; cách vẽ bộ óc (brain drawing); robot biết đi. Ấy là chưa kể các ứng dụng trong kinh doanh như ISO, ERP, BPM...

Trong lĩnh vực nghệ thuật thì sự thay đổi có một tính chất khác. Thuộc về tinh thần và tình cảm sâu kín trong con người, chúng được thể hiện ra bằng hình vẽ, âm thanh, ánh sáng và vóc dáng của con người. Nó là lĩnh vực có nhiều thay đổi nhất. Một Khánh Ly trình diễn bài Tình sầu của Trịnh Công Sơn hôm nay thì khác với Hồng Nhung hát bài đó hôm qua. Rồi trang phục “không đụng hàng” của những diễn viên trong các buổi showbiz. Luôn thích “mới lạ, cảm xúc, sâu sắc”, giới trẻ bị quay cuồng, bị cuốn hút đi trong những sự thay đổi của thời trang và nghệ thuật.

Sang đến sự sáng tạo xuất phát từ cái ác của con người, ta chỉ có thể tóm tắt rằng nó được thể hiện ra bằng nhiều hành động mà mục đích tận cùng của chúng là “hại người để làm lợi cho mình và tránh rắc rối”. Đó là các loại tội phạm. Gần đây, quy mô, tính chất, mức độ của chúng ngày càng nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn cho xã hội. Chưa bao giờ có nhiều vụ án mạng kinh hoàng như thời gian vừa qua, xảy ra từ Bắc đến Nam, mỗi vụ có vài người chết. Tại Quốc hội đã có vị nhận xét có vẻ như chúng ta không kiểm soát được tình hình. Các vụ vừa qua được khám phá nhưng không có gì bảo đảm sắp tới không xảy ra.

Sáng tạo làm nên sự thay đổi. Và tâm lý chúng ta thường bị tác động bởi các sự thay đổi. Vì niềm vui qua mau, cái sợ kéo dài và chúng ta lẫn lộn chúng với nhau nên dễ cảm thấy xao xuyến trước những sự thay đổi. Vậy làm sao để đứng vững về mặt tâm lý trước những sự thay đổi?

Đáp ứng với các sự thay đổi

Đứng trước một sự thay đổi chúng ta phải đối phó hoặc đáp ứng. Đối phó thì phải làm ngay và cần có sự giúp đỡ của người khác. Đáp ứng thì có thể làm từ từ và làm một mình. Hai cái này khác nhau. Lấy một thí dụ. Khi một làn sóng nước ùa tới, người đối phó sẽ nhìn vào nó và tìm cách nhảy qua; người đáp ứng quay lưng vào nó và tìm cách bơi xuôi theo. Vậy là phải chọn cách làm khi đứng trước một sự thay đổi.

Đối với các sự thay đổi xuất phát từ cái ác của con người thì chúng ta phải đối phó. Việc này đòi hỏi sự khởi động của chính quyền; sự hữu hiệu của tòa án và sự can đảm của mỗi chúng ta dám “chống cái ác và gây cái thiện”. Tuy nhiên cách này đòi hỏi nhiều điều kiện nằm ngoài mỗi người và không đủ chỗ để bàn bạc ở đây.

Các sự thay đổi xuất phát từ cái thiện của con người thường làm cho ta cảm thấy hào hứng và thích thú. Xin lấy một thí dụ trong kinh doanh để mô tả cảm nhận này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Các sự thay đổi xuất phát từ cái thiện của con người thường làm cho ta cảm thấy hào hứng và thích thú. Đối với các sự thay đổi xuất phát từ cái ác của con người thì chúng ta phải đối phó. Việc này đòi hỏi sự khởi động của chính quyền; sự hữu hiệu của tòa án và sự can đảm của mỗi chúng ta dám “chống cái ác và gây cái thiện”.

Vào những năm đầu 1980, để quản lý mọi tài sản của một doanh nghiệp người ta lâp nên một ứng dụng phần mềm tên là Enterprise Resource Planning (hoạch định nguồn lực doanh nghiệp - ERP) mà hiện nay nhiều doanh nghiệp của ta đang tìm cách áp dụng. Khi ở ta đang còn như vậy thì ở Mỹ người ta đã có thêm một ứng dụng khác gọi là Business Process Management (quá trình quản lý kinh doanh - BPM) để quản lý công việc của con người. Ứng dụng này xuất hiện trong những năm 2010-2012. Một tác dụng của nó được mô tả như thế này. Ở một hệ thống siêu thị lớn, có nhiều cửa hàng nhỏ, ứng dụng BPM được đặt tại trụ sở chính. Nơi đây xử lý ứng dụng kia để cải tiến việc quản trị nguồn nhân lực. Tuy nhiên, việc sa thải, tuyển dụng, tăng lương nhân viên lại diễn ra ở các siêu thị nhỏ. Những nơi này không trực tiếp sử dụng BPM mà họ gửi thông tin về các việc kia cho hệ thống. Qua trang web và các công nghệ tích hợp, BPM sẽ xử lý từng vụ việc và chỉ cách làm cùng gửi mẫu văn bản sử dụng cho siêu thị liên quan để các nơi này làm đúng các quy định của công ty về nhân sự. Tài tình không?

Trở lại câu hỏi. Trước những sự thay đổi gặp phải, chúng ta đáp ứng thế nào để vẫn giữ được mình và không bị người khác kéo đi? Ở đây xin được đưa một đề nghị. Dạ làm ba việc: (i) trang bị cho mình những giá trị nhân bản; (ii) hiểu rõ sự thay đổi và (iii) chọn lựa.

Về điểm (i) xin lấy một bằng chứng để nói về tầm quan trọng của nó. Sự thay đổi lớn nhất, về mọi mặt, đối với một người là chiến tranh, là loạn ly. Trong hai cuộc chiến, chúng ta đã thấy các bà mẹ mong con, các bà vợ chờ chồng, suốt bao nhiêu năm; họ đã bị tác động bởi các sự thay đổi, rất khốc liệt, nhưng vẫn chính chuyên một lòng với chồng, với con! Sao họ làm được? Thưa vì ở trong lòng mình, họ đã nghĩ mình phải giữ những đức tính của người đàn bà gương mẫu mà cha mẹ đã dạy. Ấy là tam tòng, tứ đức. Vâng, chính nhờ mang các đức tính ấy trong lòng, nhiều người đã đứng vững trước các sự thay đổi; giống như chiếc neo giữ con tàu. Tùy cách gọi, những đức tính này có tên là những giá trị hay đạo đức nhân bản, luân lý. Ta không bàn về sự phù hợp của chúng ngày nay; nhưng nhận ra rằng những giá trị nhân bản mà mỗi người mang trong lòng mình, và giữ gìn chúng một cách vô thức, như bà mẹ nấu nướng cho chồng con mỗi ngày, thì chúng sẽ giúp cho mỗi người đứng vững trước các sự thay đổi trong cuộc sống. Họ có thể thay đổi trong hành động, nhưng nhất định không chao đảo trong tâm lý.

Tình cảnh đó có thể thấy qua hình ảnh của một cái bạc đạn (vòng bi). Cái bạc đạn tiêu biểu cho một người. Vòng nhỏ nằm trong là các giá trị nhân bản của họ; vòng lớn nằm ngoài là khả năng đáp ứng với các sự thay đổi. Bạc đạn nằm ở cốt của các bánh xe. Ta thấy bánh xe xoay chuyển theo địa hình của đường đi; nhưng cái trục xe không đổi. Cũng vậy, một người mang trong mình đạo đức nhân bản thì khi có sự thay đổi ở bên ngoài họ vẫn giữ được mình vững vàng về mặt tâm lý. Nói cách khác, các sự thay đổi sẽ không tác động họ nhiều.

Sang đến việc thứ hai là hiểu rõ. Hiểu rõ là biết ngọn nguồn và có khả năng nhận định sự thay đổi mình bắt gặp. Cái này là kiến thức và không khó làm. Chỉ là học hỏi, trao đổi.

Việc thứ ba là biết chọn lựa. Thực sự, các sự thay đổi thì có nhiều, giống như ta xem tin tức từ báo chí, trang web, trong Facebook, hay nghe kể. Hằng hà sa số! Cách xử lý không phải là nhớ hết, biết hết; mà phải chọn lựa cái nào mình thấy phù hợp với sở thích và cần thiết cho công việc của mình. Đối với các sự thay đổi khác nhau thì cũng phải chọn lựa như thế. Để làm được thì phải dựa vào các giá trị nhân bản mà mình theo đuổi và vào sự hiểu biết của mình. Từ trên hai nền tảng này, khi thấy sự thay đổi nào hợp với mình thì lấy, không thì bỏ. Ấy là chọn lựa. Làm như thế là ta sẽ đáp ứng với các sự thay đổi một cách chủ động; không theo ai, nhưng có khi lại có người khác bắt chước mình! Ở đây ta phân biệt rạch ròi ba việc trên; nhưng trong thực tế chúng lẫn lộn. Nguyên tắc đáp ứng các sự thay đổi là: “Với xu hướng, hãy bơi theo dòng; với nguyên tắc sống, hãy vững như bàn thạch” (Thomas Jefferson).

Nguyên tắc sống chính là các giá trị nhân bản trong lòng. Chúng là gì? Thưa tùy mỗi nền văn hóa và tôn giáo; ở Mỹ người ta nói đến: sự tự chế; lòng thương người, trách nhiệm, tình bằng hữu, lao động, can đảm, kiên nhẫn, thành thật, trung thành, và có niềm tin tôn giáo. Trong Khổng giáo là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Phật giáo là ngũ giới. Thiên Chúa giáo là sự khôn ngoan, công bình, can đảm và tiết độ. Chúng cũng là những bậc thang giá trị.

Các thang giá trị này được truyền từ đời nọ đến đời kia. Bắt đầu từ trong gia đình, sau đến cộng đồng (xóm đạo, trường học) và rồi đến xã hội. Chúng chuyển động theo bước đi của một đứa bé lớn dần, và dẫn dắt nó suốt đời. Có chúng thì cũng giống như khi ăn ta có đôi đũa để gắp, không phải bốc. Có đũa gắp thì ta không còn hoa mắt trước các món ăn khác nhau trong các mâm cỗ. Sự thay đổi chính là các mâm cỗ: cỗ cưới, cỗ chay hay cỗ Tết!
theo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |