Jump to content

Advertisements




NHỮNG CÂU CHUYỆN THƯỜNG NGÀY


256 replies to this topic

#226 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 07/07/2015 - 10:42

THOMAS ANDERS - QUÁ TAM BA BẬN

Xin mời các bạn gặp lại những người quen cũ:


Chắc mọi người đã nhận ra hai giọng ca mà có thể nói đã hiện diện trong từng hộ gia đình chúng ta vào những năm 80-90, Sandra& Thomas Anders (“The Night Is Still Young”). Họ vẫn đẹp lắm, nhưng quả thật chúng ta đã ít nghe họ, thậm chí chẳng còn nghe nữa, lẽ nào...?

Mới đó mà đã ba chục năm khi chúng ta mới bắt đầu làm quen với dòng nhạc “thị trường” này (có thể gọi nó là europop, eurodance gì đấy). Chúng ta đã nghe không biết bao nhiêu băng, đĩa (đa phần là in lậu hehe) của hai thiên thần này, và tôi vẫn nghĩ rằng chúng ta sẽ gặp lại họ, nhanh thôi...

Người Đức vốn nổi tiếng về tài năng âm nhạc và lòng yêu nhạc, chưa kể sau chiến tranh thế giới chẳng ai ngờ là kinh tế Đức (lúc này là Tây Đức) đã hồi phục nhanh kỷ lục như vậy. Những năm 60-70 Đức đã là thị trường âm nhạc lớn nhất châu Âu, hãy nhớ lại cả ban nhạc huyền thoại The Beatles cũng bước đầu bằng cách sang “kiếm cơm” ở Hamburg. Hay những ca sĩ hàng đầu Dalida, Nana Mouskouri, Demi Roussos vẫn hát tiếng Đức đều đều, và hồi đó những bài “hit” tiếng nước khác đều phải có bản chuyển sang tiếng Đức để “đánh” vào thị hiếu dân Đức, Thụy Sĩ, Áo...đó. Có một điều dễ thấy là tiếng Đức khá “thiệt thòi” trong ca hát so với tiếng Anh, tiếng Pháp, Tây Ban Nha...chưa kể thị trường âm nhạc lớn nhất dù sao cũng là Mỹ, nên Đức quá khó duy trì vị trí hàng đầu như vậy ở châu Âu. Người Đức vẫn nghe Volksmusik (một dạng Country tiếng Đức), Schlaeger (một dạng các bài hát pop tiếng Đức, đa phần vui vẻ) nhưng giới trẻ thì nghe tiếng Anh là chính. Phải nói là Đức có rất nhiều tác giả nhạc, producer giỏi, đầu tư âm nhạc rất siêu nên rất nhiều bài hát, ban nhạc thành danh trên thế giới thực ra có “dấu ấn” của người Đức trong đó. Và bắt đầu những năm 80 của thế kỷ 20...

Cậu bé Bernd Weidung (1963) sống ở một ngôi làng nhỏ gần Koblenz, từ 13 tuổi đã tự học piano và công việc yêu thích nhất là ca hát (chứ ngại nhất là đá bóng). Cậu có thể tự soi gương, tập hát hàng giờ và có giọng hát rất đẹp. Giống như lũ trẻ con Đức khác, từ bé cậu đã tự tìm cách kiếm tiền, nhưng cậu kiếm bằng ca hát là chính: hát trong các dịp Phục sinh hay ngày lễ khác nhau, và đã kiếm được những đồng tiền ít ỏi đầu tiên của mình. Khác với tính “ky bo” của dân Đức, tuy còn ít tuổi nhưng bằng những đồng tiền đó cậu thích đi taxi, thích ngồi trầm ngâm một mình trong quán đẹp để nghĩ sự đời-điều làm bố mẹ cậu khá lo lắng vì với tính cách này cậu sau này sẽ phải kiếm được rất nhiều tiền (chứ cứ đủ 18 tuổi là thanh niên phải tự lập rồi-đó sẽ là việc của Bernd thôi!). Cậu tham gia mấy cuộc thi hát, toàn bị xử ép, tuy vậy cũng được studio Daniel David ký hợp đồng, tất nhiên là hát tiếng Đức rồi:
Thomas Anders 1981 (chưa vỡ hết giọng hát “Du Weinst Um Ihn”-Em khóc vì anh ta):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Để in đĩa hãng này đề nghị cậu thay tên là Tommy, nhưng cậu kiên quyết đòi lấy cái tên người lớn nghiêm túc hơn, Thomas. Còn tay chủ hãng mang cái họ Anders, muốn “trói” cậu dài lâu, thế là bảo cậu lấy họ đó luôn-Thomas Anders ra đời! (Từ đó về sau cậu dùng tên này, thậm chí cả trên visit cards, đến mức có lần bị báo cảnh sát vì dùng thẻ tín dụng có tên thật Weidung-chả ai tin đây là họ của cậu).
Cậu bắt đầu hát ở TV, hát live và in đĩa đầu tiên “Judy”-lập tức quen được Nora Isabel Balling-photomodel nghiệp dư cao hơn cậu cả một cái đầu. Nora nhà rất giàu, nhưung rồi bố mẹ mất cả, nên tự do hoàn toàn, họ lấy nhau khi Thomas mới 21 còn Nora 20. Và ngay lúc đó họ gặp Dieter Bohlen (1954)!

Dieter cũng con nhà nghèo thích nhạc giống Thomas, tự học guitar vì đi học một buổi, thuận tay trái nên thày không muốn dạy. Thế là dần dân cậu chàng tự học chơi trên mấy loại nhạc cụ, và quan trọng nhất là biết nhạc lý và sáng tác rất không tồi! Tóm lại cậu biết làm mọi việc từ A-Z, cả trên sân khấu và nhất là trong phòng thu. Các bài hát của cậu dần dần cũng có ca sỹ sử dụng, cậu bỏ diplom kỹ sư kinh tế đi theo nghề nhạc và làm tại công ty Hansa, nhưng vẫn luôn hy vọng nhiều hơn thế-thị trường quốc tế! Đây là sản phẩm của 2 chàng trai, hình như cũng bán được 30000 đĩa: bài “Wovon Träumst Du Denn” (Em mơ về điều gì)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Dieter rất thích giọng của Thomas, và sau này nói :”Trong giọng hát của Thomas có nhiều mật ngọt đến mức có cảm giác có thể phết bánh mỳ mà ăn. Tôi nổi hết da gà-đây là lần duy nhất trong đời tôi gặp được người biểu diễn có giọng hát thực sự hay...”. Và Dieter đưa ra một đề nghị tưởng chừng đơn giản, nhưng thực ra là “cách mạng” đối với cả hai người: PHẢI HÁT TIẾNG ANH! Siêu phẩm ra đời như thế đấy (1984):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Chẳng bao lâu khắp châu Âu vang lên bài hát của một chàng trai “yểu điệu thục nữ” tóc dài, giọng ngọt như mật, bên cạnh có chàng guitar tóc vàng nhún nhảy, má lúm đồng tiền:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Dieter Bohlen sáng tác ra nó khá nhanh với tựa đề đự tính ban đầu là “My Love Is Gone”. Và Dieter còn có một “sáng kiến” phải nói là cũng xứng đồng tiền bát gạo: khi đoạn điệp khúc vang lên thì sẽ có hát bè hai bằng giọng “castrato” (giọng như người bị thiến hát), rồi lại dùng tiếng vọng nữa! Như vậy Dieter có cớ để xuất hiện trên sân khấu, và lối hát này sẽ kết hợp với giọng đầy mật ngọt của Thomas thành một dấu ấn không lẫn vào đâu được của Modern Talking! Riêng đĩa đơn của bài này đợt ấy đã bán được 8 triệu bản toàn cầu!
(Và bài hát đã có trước ban nhạc, lúc đầu hãng đĩa định đặt tên ban nhạc là “Turbodiesel”-may sao cuối cùng lại có được cái tên lịch sử kia). 30 năm nay bài hát này vẫn “làm mưa làm gió” bất cứ khi nào nó vang lên, bất cứ ở đâu!Nó là bài hay nhất cho đến nay của ban nhạc chỉ gồm 2 thành viên với tên gọi “Modern Talking” (1984). Sau này dù chia tay thì cả hai vẫn dùng đến “You`r My Heart, You`r My Soul”-dù Thomas thì hát còn Dieter thì dùng đến nhạc thôi:
2013:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Quay lại thời điểm 1985-cả châu Âu tràn ngập âm điệu disco của “Modern Talking”. Mỗi tuần riêng nước Đức tiêu thụ 40000 băng đĩa, toàn những giai điệu đơn giản dễ nhớ, còn giọng của Thomas không thể lẫn với bất cứ ca sỹ nào khác được (rất hiếm có trong disco đấy!). Cùng với những hits tiếp theo, nhất là “Cheri Cheri Lady” và “Brother Louie” thì chỉ trong mấy năm 1985-1987 Modern Talking bán được 60 triệu băng đĩa toàn cầu! Đến nước Liên Xô mới vừa hé mở cửa, thì MT cũng là ban nhạc Tây Âu đầu tiên được xuất bản đĩa!
Cheri Cheri Lady:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tưởng như với nhịp độ “cày” 300 buổi diễn trong năm, chưa kể thu 2 album/năm như thế thì đã quá sức lắm rồi, nhưng hóa ra Dieter Bohlen còn làm được nhiều chuyện hơn nữa-không hiểu vô tình hay cố ý. Anh viết nhạc cho rất nhiều ca sỹ trong và ngoài nước, toàn bày hay và khá hay, hay nhất có lẽ là “Midnight Lady” dành cho Chris Normal:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Chưa hết, Bohlen còn viết bài và làm producer cho ca sỹ trẻ, thành công nhất là C.C.Catch, cũng vào 1985: ”I Can Lose My Heart Tonight”, cũng dòng nhạc disco

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trong bài này với Catch chàng Bohlen hát rất say sưa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Và nữa, Dieter Bohlen lập ban nhạc “Blue System” 1987-dường như để cạnh tranh với chính ban “Modern Talking” của bản thân! Tên ban nhạc này anh ta lấy tên hãng áo khoác bò đang mặc của mình, đơn giản vậy thôi (thế mà cũng ra đều khoảng mỗi năm một đĩa thành công đấy!).

Tưởng cứ trên đà thắng lợi thế này thì chả mấy chốc thành ban nhạc giàu nhất thế giới, thì đùng một cái tới 1987 đường ai nấy đi! Nguyên nhân ai cũng nhìn thấy nhưng nói do lỗi của ai nhiều hơn thật khó. Cô vợ Nora còn quá trẻ, quá “quyền lực” đối với người chồng hiền lành Thomas nên cứ tham gia vào mọi hoạt động của ban nhạc, thế là “chiến đấu” với anh già Bohlen có vợ nhưng sống kiểu vừa độc thân lăng nhăng, vừa tham công tiếc việc, vừa coi thường Thomas sợ vợ, suốt ngày đeo cái dây chuyền tên vợ to tướng trên cổ, rồi họ cũng lấy họ Balling theo vợ! Và quan trọng nhất là Bohlen đã từng trải, đã biết thành công nay có đấy mai có thể mất, quen rồi, mọi cái phải tự giành giật...Đỉnh điểm là đến một buổi diễn live, Nora và cô bạn gái quen thói đòi đứng sau nhún nhảy làm cảnh và hát bè, Dieter mang đến hai cô ca sỹ hát bè của mình, cấm Nora thò chân lên sân khấu. Thế là Thomas theo vợ bỏ chương trình...Tuy không tuyên bố giải thể nhưng từ đấy Modern Talking không diễn nữa!
(Sau này Dieter đổ hết là tại Nora, còn Thomas thì phân tích cụ thể hơn, nói là lý do vì Nora chỉ chiếm 15% thôi, chứ nguyên nhân chính là lịch diễn quá nặng nề, anh muốn nghỉ vài tháng nhưng “thợ nhạc” Dieter kiên quyết không nghe-đó mới là rạn nứt).

Dieter Bohlen thì đã có sự chuẩn bị rồi, vừa dựng Blue System dậy vừa viết nhạc (ví dụ cho Bonnie Taylor), làm chương trình, sản xuất...có vẻ thành công chả kém gì trước. Cô nàng đỏng đảnh C.C.Catch ra đi thì Dieter có ngay hết cô này đến cô khác, hát là phụ mà đẹp mới là chính, còn Dieter thì mãi độc thân. Cách làm ăn của Dieter vẫn như cũ: cố tình xuất xưởng hàng loạt những bài na ná giống nhau-thể nào khán giả cũng bị “nhập tâm”! Thomas với vợ sang Mỹ, thay đổi image, hát những bài ballad nên tuy ở Mỹ không có tiếng tăm gì nhưng khá nổi ở châu Mỹ la tinh! Ngày nay nhìn lại ta thấy có vẻ Thomas “thiệt thòi” hơn khi Dieter ở lại Đức, tăng cường các mối quan hệ sẵn có, vẫn là một ngôi sao trong khi anh ở Mỹ như một ca sỹ đơn ca không thể tạo được bước đột phá nào đáng kể...

1998 Thomas hay về Đức tìm cơ hội, còn Nora không về, có thể cô ân hận vì cảm giác đã cản trở con đường sự nghiệp của chồng chăng? Ở quê hương chàng trai nổi tiếng thế giới này lại trở thành một con người bình thường, anh làm quen với cô đồng hương Klaudia, cuối cùng cũng ly dị được Nora và chính thức lấy vợ lần thứ hai. Thần tượng của hàng triệu cô gái trẻ, nhưng thực sự trong cuộc đời Thomas chỉ có đúng hai tình yêu, đó là hai người vợ! Và có vẻ như vợ mới mang lại “vận tốt” cho anh-có đề nghị tái hợp mà Dieter Bohlen đã đồng ý, thế nên Thomas Anders suy nghĩ không lâu rồi quyết định thử thời vận lần nữa- Modern Talking tái xuất năm 1998!

Comeback thành công vượt mọi mong đợi! Hình thức tất nhiên thay đổi hẳn, đầy nam tính! Có ca khúc mới của Bohlen, nhưng chủ yếu vẫn các bài hit cũ nhưng phối kiểu mới, có cả rap thêm vào:
Brother Louie 1998:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trong các bài mới có vẻ “Victory” là lạ hơn cả:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



5 năm, lại hơn 60 triệu bản được bán toàn cầu, Thomas giải thích thành công lần này như sau: “ngày nay lắm ban nhạc quá nên người ta thích nghe cái gì quen quen, đó là chúng tôi, vì cách đây 15 năm có ít ban nhạc lắm”! Trong một buổi diễn, không biết xảy ra cái gì sau cánh gà, nhưng người tổ chức lên chính thức xin lỗi và thông báo Modern Talking không còn tồn tại nữa!

Bây giờ nguyên nhân chả còn là Nora nữa, còn Klaudia đâu có dính dáng gì đến hoạt động ban nhạc. Dieter kiện Thomas nhập nhèm tài chính, Thomas kiện ra toàn và thắng kiện, Dieter bị cấm nhắc lại điều đó nữa, nhưng anh chàng đã kịp viết trong hồi ký...Đúng là chia tay theo kiểu Đức! Quan trọng nhất: họ CHƯA BAO GIỜ LÀ BẠN thực sự của nhau!

Dieter Bohlen tiếp tục con đường thành công của mình, Blue System: hát cover lại các bài cũ của MT với dàn dựng mới, múa phụ họa, ánh sáng, âm thanh...:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thomas Anders đã thành một ca sỹ trung niên rất nam tính, lãng tử và có lẽ giọng hát của anh bây giờ mới thực sự chín muồi, anh được mời lưu diễn khắp nơi, đến đâu cũng trở thành thần tượng của phái nữ:
“The Sweet Hello The Sad Goodbye”:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tât nhiên đi đến đâu anh cũng vẫn “bị” coi là ca sỹ của “You're my heart You're my soul” dù đó có là liên hoan nhạc jazz 2006:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Giọng hát của anh càng ngày càng đầy nội lực, hiếm có ca sỹ nào có thể hát live hay, “sung” và nhiều như anh. Vi dụ
“Lady Lai” + “I Will Follow You”:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



“Tenderness”-bài hát Nga về cái chết của phi công vũ trụ Gagarin:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



tại Kiev 2008:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



tại Moscow 2013:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Anh hát song ca cũng rất tuyệt với chất giọng mật ngọt trời cho của mình:
Kamalya & Thomas: “No Ordinary Love”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Hát với Sandra tại sân khấu ngoài trời, live:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thực sự những bài ballad của anh đều được trình diễn đầy tình cảm, xúc động:
“I miss You”:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


“Just Dream” (live):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nhưng dù Thomas có hát hay đến đâu chăng nữa, thì chắc anh chẳng còn cơ hội vượt ra khỏi cái bóng của chính mình trong Modern Talking! Dòng nhạc disco dễ nhớ ấy bây giờ với Modern Talking 2015 remix trở thành nhạc dance, rất hấp dẫn nhưng bằng các thủ pháp khác (trong đó có tăng nhịp điệu của nhạc lên...):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Những tưởng con đường của hai thành viên Modern Talking vĩnh viễn không giao nhau nữa, thì giữa năm 2014 họ lại nhận được lời đề nghị “khiếm nhã”: tái hợp lại với giá 20 triệu Euro! Lần tái hợp thứ ba liệu sẽ đem lại cái gì mới? Người đề nghị chỉ yêu cầu 10 buổi diễn tại Nga, cùng với một tour trong nước! Tạm thời 2 anh chàng này “chống cự” được một năm, chả gì thì họ cũng đã rất giàu rồi. Nhưng tôi tin rằng chẳng lâu nữa đâu họ sẽ có lần thứ ba nữa, vì cả hai đều đầy tham vọng, họ tuy không là những người bạn nhưng đã hiểu rất rõ rằng đơn lẻ họ không phải là những siêu sao, nhưng nếu là Modern Talking thì khó ban nhạc nào với dạng bài hát Italo-disco có thể sánh ngang với họ. Họ sẽ hát không phải chỉ vì tiền, mà còn vì tôi, vì các bạn, những người đã không quên họ sau 30 năm!

Lần thứ ba sẽ đem lại cho ban nhạc những điều gì mới? Khó đoán trước được, hãy nghe lại bài hay nhất 1986: “Give Me Peace On Earth”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



được hát lại cực kỳ xuất sắc năm 2014:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tôi sẽ rất mừng nếu lúc nào đó không phải đội Man "xanh" sang Việt Nam đá dạo, mà là nhóm nhạc lịch sử Modern Talking! Các nhà phê bình âm nhạc từ trước tới nay luôn chê bai nhạc Modern Talking hãy chuẩn bị luận cứ để chê tiếp nhé, nếu hai chàng trai Đức này lại ngọt ngào hát vào tai họ “You`re My Heart, You`re My Soul”...

Nam Nguyen
(theo facebook tác giả)




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:

#227 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 10/07/2015 - 17:05

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



by

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

on 10 July 2015

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



BÍ QUYẾT BÁN HÀNG CỦA BÀ BÁN ỚT

Khách hàng hỏi “ớt có cay không”, thì trả lời sao bây giờ?
Những người bán ớt sẽ luôn gặp phải câu hỏi như thế này, “ớt của anh (chị) có cay không?”, gặp câu hỏi như thế thì phải trả lời sao đây nhỉ?
Nếu nói cay, những người sợ cay, họ sẽ bỏ đi ngay; còn nếu bảo không cay, cũng có thể khách hàng lại là người thích ăn cay, như vậy việc làm ăn lại gặp rủi ro.
Một ngày kia, không có việc gì làm, tôi đến đứng bên cạnh chiếc xe ba gác của một chị bán ớt, thử xem chị ấy giải quyết hai vấn đề hoàn toàn tương phản này như thế nào. Nhân lúc không có người đến mua, tôi cố làm ra vẻ thông minh mà nói với chị ấy rằng:
“Chị hãy chia số ớt này thành hai đống đi, nếu có người muốn mua cay thì cho họ đống này, còn nếu không, thì cho họ đống kia”.
Chị bán ớt cười với tôi, dịu dàng nói: “Không cần đâu!”
Đang nói thì một người đến mua, và điều thần kỳ đã xảy ra, rốt cuộc bà chủ đã nói thế nào nhỉ? Hãy mau xem tiếp…..
Quả nhiên chính là hỏi câu đó: “Ớt của chị có cay không?”
Chị bán ớt rất chắc chắn mà bảo khách hàng rằng: “Màu đậm thì cay, còn nhạt thì không cay!”
Người mua ngỡ là thật, chọn xong liền trả tiền, vui lòng mà đi.
Chẳng mấy chốc, những quả ớt có màu nhạt chẳng còn lại bao nhiêu.
Lại có khách hàng đến, vẫn là câu hỏi đó: “Ớt của chị có cay không?”
Chị bán ớt nhìn vào số ớt của mình một cái, liền mở miệng nói …..
Lần này bà chủ trả lời: “Ớt dài thì cay, ớt ngắn không cay!”
Quả nhiên, nguời mua liền dựa theo tiêu chuẩn phân loại của chị mà bắt đầu chọn lựa.
Kết quả lần này chính là, ớt dài rất nhanh đã hết sạch.
Nhìn những quả ớt vừa ngắn vừa đậm màu còn sót lại, trong lòng tôi nghĩ :
“Lần này xem chị còn nói thế nào đây?”
Tuy thế, khi một khách hàng khác hỏi: “Ớt có cay không?”
Chị bán ớt hoàn toàn tự tin mà trả lời rằng: “Vỏ cứng thì cay, vỏ mềm không cay!”.
Tôi thầm bội phục, không phải vậy sao, bị mặt trời phơi cả nửa ngày trời, quả thực có rất nhiều quả ớt vì mất nước mà trở nêm mềm nhũn đi. Chị bán ớt bán xong số ớt của mình, trước khi đi, chị nói với tôi rằng: “Cách mà cậu nói đó, thật ra những người bán ớt chúng tôi đều biết cả, còn cách của tôi thì chỉ có mình tôi biết thôi”.
Thật là thần kỳ vậy!

Thật ra bạn có bao giờ nghĩ rằng, những gì bạn bán đi không phải là hàng hóa, mà lại chính là …….

1. Đối với những khách hàng lạ, điều cần bán đi chính là sự lễ phép.
2. Đối với những khách hàng quen thuộc, điều cần bán đi chính là sự nhiệt tình.
3. Đối với những khách hàng nóng tính, điều bán đi chính là hiệu suất.
4. Đối với những khách hàng ngạo mạn, điều thật sự bán đi chính là lòng nhẫn nại.
5. Đối với những người có tiền, điều mà bạn bán đi chính là sự tôn quý.
6. Đối với những người nghèo khổ, điều bán đi chính là lợi ích thiết thực.
7. Đối với những người thời thượng, điều bán đi chính là sự sang trọng.
8. Đối với những người chuyên nghiệp, điều mà bạn bán đi chính là sự chuyên nghiệp.
9. Đối với những người hào sảng, điều mà bạn bán đi chính là sự phóng khoáng.
10. Đối với những người keo kiệt, điều thật sự bán đi chính là lợi ích.
11. Đối với những người sống hưởng thụ, điều cần bán đi chính là sự phục vụ.
12. Đối với những người hư vinh, điều bán đi chính là vinh dự.
13. Đối với những người hay bắt bẻ, điều bán đi chính là sự tinh tế.
14. Đối với những người hiền lành, điều cần bán đi chính là sự chân thành.
15. Đối với những người hay do dự, điều thật sự cần bán đi chính là sự đảm bảo.

Nếu như bạn muốn bán đi những sản phẩm của mình, có phải bạn thường hay nói với người tiêu dùng rằng sản phẩm của mình tốt như thế nào, sản phẩm của bạn có gì khác với những thứ khác, và sản phẩm của bạn rẻ như thế nào. Nếu như bạn bán hàng đều là dựa theo những cách này, thì bạn sẽ phát hiện rằng nhất định mình sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn.

“Công ty bán hàng hóa như thế nào, thường thường so với việc công ty bán những sản phẩm gì cũng quan trọng như nhau”

Đừng có vừa mới bắt đầu đã vội vàng bán sản phẩm, mà trước hết cần phải hỏi rõ vấn đề, nghe xem tiềm ẩn bên trong khách hàng cần những gì. Một khi biết được những yêu cầu tiềm ẩn bên trong của khách hàng, vậy thì việc bán hàng sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Chúc bạn có thể khởi đầu cho mình một công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió, và ngày càng phát triển.

#Tiểu Thiện, dịch từ cmoney.tw

Thanked by 2 Members:

#228 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 16/07/2015 - 11:55

Victor Volsky – “Cá thối”: Vì sao Putin lại được 86% dân chúng ủng hộ?


Phạm Nguyên Trường dịch


Nhà độc tài Nga, Vladimir Putin, đang ngụp lặn trong ánh hào quang với sự ủng hộ cao chưa từng thấy - 86%. Nhưng sự ủng hộ lại không xuất phát từ sự hài lòng của dân chúng hay thắng lợi vĩ đại của nhà lãnh đạo của họ. Đấy là do làn sóng của lòng hận thù điên rồ đối với Mỹ và Ukraine đang tràn qua nước Nga. Chủ nghĩa Sô Vanh do các đài truyền hình tung ra – sức mạnh đáng sợ của bộ máy tuyên truyền - đã làm cho người Nga mụ mị đi.



Nhà báo đối lập nổi tiếng, Vladimir Yakovlev, trong một bài vừa được công bố trên trang Mulbabar của ông, giải thích cơ chế của chiến dịch tuyên truyền hiện nay là nhằm làm cho người dân Nga chú mục vào kẻ thù bên ngoài và quên đi tình trạng khốn khó của đất nước mình.

Từ “cá thối”, “40/60” đến “nói dối trắng trợn”

Dưới thời Xô Viết, trường đại học nào của Nga cũng có khoa quân sự, tương tự như khoa huấn luyện sỹ quan dự bị của Mỹ, nhưng là môn học bắt buộc. Đó là nguồn động viên quan trọng đối với thanh niên Liên Xô, bởi vì đã học quân sự ở trường thì sẽ không phải đi nghĩa vụ quân sự nữa. Huấn luyện quân sự được tiến hành phù hợp với ngành nghề của từng trường. Ở trường Đại học Báo chí Moska, nơi Yakovlev theo học, sinh viên được đào tạo - trong bầu không khí bí mật tuyệt đối - nghệ thuật “tuyên truyền mang tính chiến đấu đặc biệt”, tức là huấn luyện những phương pháp gieo bất hòa vào hàng ngũ kẻ thù, bằng cách xuyên tạc thông tin và làm rối loạn tâm trí.

Tuyên truyền mang tính chiến đấu hay tuyên truyền “đen” là một vũ khí rất hiệu quả, nhằm xuyên tạc sự kiện thực tế, để đạt được mục tiêu của tuyên truyền. Dưới đây là một số phương pháp mà các nhà báo tương lai của Liên Xô được dạy và các tuyên truyền viên của Nga hiện nay sử dụng và đã đem lại cho họ thành công đáng kinh ngạc.

Kỹ thuật “cá thối” như sau. Bịa ra một lời kết án. Càng thô bỉ và càng tai tiếng thì càng tốt. Ví dụ như trộm cắp vặt, lạm dụng tình dục trẻ em hoặc giết người, tốt nhất là do lòng tham mà ra. Mục đích của “cá thối” không phải là chứng minh tội lỗi của nạn nhân, mà là gây ra những cuộc tranh luận công khai về nạn nhân. Tâm lý của con người là sau khi một lời buộc tội được tung ra thì bao giờ cũng có những người ủng hộ và những người phản đối, có các “chuyên gia” và những “người nắm được chuyện”, những người kịch liệt tố cáo và những người bảo vệ nhiệt thành cho bị cáo.

Nhưng dù thái độ và quan điểm của họ có như thế nào thì tất cả những người tham gia thảo luận cũng sẽ nhắc tên nạn nhân nhiều lần, cùng với những lời buộc tội thô bỉ và tai tiếng, do đó mà xát “cá thối” vào quần áo anh ta (hoặc cô ta) cho đến khi mùi hôi thối bám vào nạn nhân và sẽ theo nạn trên mọi nẻo đường. Và mỗi lần nhắc đến tên tuổi nạn nhân là người ta lại nghĩ ngay đến tội lỗi bịa đặt kia (ăn cắp, giết người, lạm dụng tình dục trẻ con).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Joseph Goebbels (1942)

Một phương pháp khác, gọi là “40/60”, do Joseph Goebbels, Bộ trưởng tuyên truyền khét tiếng của Đức Quốc xã, nghĩ ra. Theo kỹ thuật này, cần thiết lập một kênh truyền thông, ban đầu cần phổ biến 60% thông tin nói tốt về kẻ thù. Sau khi đã được đối phương tin tưởng thì 40% còn lại được sử dụng nhằm truyền bá thông tin xuyên tạc, phương pháp này cực kỳ hiệu quả vì được nhiều người tín nhiệm. Trong Thế chiến II, có một đài phát thanh được lực lượng chống phát xít rất tín nhệm. Người ta tin rằng đó là đài phát thanh của Anh và tin tất cả những thứ nó nói. Nhưng phải sau chiến tranh người ta mới biết rằng đấy là đài của Đức Quốc xã, hoạt động theo nguyên tắc “40/60” của tiến sĩ Goebbels.

Một kỹ thuật tuyên truyền hiệu quả cao khác, gọi là phương pháp “nói dối trắng trợn (Big Lie), cũng được Đức quốc xã thường xuyên sử dụng. Hơi giống với “cá thối”, nhưng cơ chế có khác. Bản chất của Nói Dối Trắng Trợn là tung ra, với thái độ cực kỳ tự tin, một lời nói dối trắng trợn và khủng khiếp đến mức dân chúng không thể tin là một người nào đó có thể nói dối một cách trơ trẽn đến như vậy.

Chìa khóa dẫn đến thành công của phương pháp này là lời Nói Dối Trắng Trợn được thiết kế và xây dựng khéo léo sẽ gây ra cho người nghe hoặc người xem tổn thương tinh thần to lớn, tổn thương này sẽ định hình nhận thức của người đó trong một thời gian dài, bất chấp sự kiện là điều dối trá này trái ngược với logic và lí lẽ. Lới Nói Dối Trắng Trợn mang lại hiệu quả cao nhất là kể lại cảnh hành hạ dã man trẻ em hay phụ nữ. Trường hợp điển hình là vụ dối trá trên truyền hình Nga với loạt “phóng sự” nói rằng người Ukraine đã đưa một đứa trẻ ba tuổi lên thập tự giá ở ngay trước cửa ngôi nhà của nó. Vết thương lòng sâu sắc do thông điệp đó tạo ra làm cho người nghe, người xem không còn khả năng tiếp thu những bằng chứng chứng minh ngược lại, dù đấy có là những bằng chứng hợp lý tới đâu.

Còn một kỹ thuật khác nữa, gọi là “hiển nhiên một trăm phần trăm”, chậm nhưng chắc. Theo phương pháp này, thay vì cố gắng chứng minh điều bạn muốn, bạn đưa ra cái gì đó hoàn toàn rõ ràng, hiển nhiên và do đó được đại đa số người tin tưởng tuyệt đối. Mặc dù có vẻ đơn giản, nhưng phương pháp này – tương tự như “hiệu ứng bầy đàn” - cực kỳ hiệu quả bởi vì nó có nguồn gốc từ tâm lý con người là tự động ngả theo ý kiến của đa số, tìm cách a dua với đa số. Quan trọng là đa số phải áp đảo và thái độ ủng hộ cho câu chuyện vừa được tung ra phải là tuyệt đối và vô điều kiện - nếu không thì ước muốn a dua sẽ không xuất hiện.

Nhưng nếu những điều kiện này được đáp ứng thì số người ủng hộ “quan điểm của đa số” sẽ bắt đầu gia tăng, không gì ngăn cản được, ban đầu chậm, nhưng sẽ nhanh dần cho đến khi dòng suối nhỏ biến thành thác lũ - chủ yếu là do sự ủng hộ của các giai cấp hạ lưu, những người nhạy cảm với “ước muốn a dua”. Một trong những ví dụ điển hình của kỹ thuật “hiển nhiên một trăm phần trăm” là công bố kết quả các cuộc thăm dò ý kiến thể hiện sự nhất trí gần như hoàn toàn của công chúng đối với một vấn đề nào đó. Không cần phải nói rằng, những cuộc thăm dò dư luận như vậy chẳng có liên quan gì với thực tế.

Còn rất nhiều kỹ thuật khác, nhưng đặc điểm chung của tuyên truyền “đen” là gây ảnh hưởng đến tầng sâu tâm lý của khán, thính giả đến mức sau này không thể nào xóa được bỏ bằng những lập luận logic thông thường. Nói Dối Trắng Trợn đạt được hiệu quả vì tạo ra chấn thương về mặt tình cảm. Kỹ thuật “hiển nhiên một trăm phần trăm” thì thông qua hiệu ứng bầy đàn. Còn “cá thối” thì đưa vào tâm trí của khán, thính giả một liên tưởng trực tiếp nạn nhân với những lời buộc tội thô bỉ, đầy tai tiếng.

Tóm lại, “tuyên truyền mang tính chiến đấu đặc biệt” biến người ta thành những zombie, tức là những người không chỉ tích cực ủng hộ những quan điểm đã được cấy vào đầu óc của mình, mà còn hung hăng chống lại những người có những quan điểm khác hoặc những người dùng lý lẽ để chỉ cho nạn nhân của bộ máy tuyên truyền sai lầm mà họ mắc phài. Không thể khác được, vì tất cả các kỹ thuật của “tuyên truyền mang tính chiến đấu” đều có một mục tiêu chung: làm suy yếu tinh thần của kẻ thù bằng cách gieo rắc bất hòa, làm cho họ không còn tin nhau và kích động lòng hận thù trong hàng ngũ đối phương.

Nhưng hiện nay, Vladimir Yakovlev viết, đối tượng của cuộc chiến tranh tâm lý mà chế độ của Putin đang tiến hành lại là nhân dân Nga và kết quả đúng như mong đợi. Chỉ có điều lòng thù hận và bất hòa không xuất hiện trong hàng ngũ kẻ thù mà lại xuất hiện ngay trong gia đình của chúng ta. Kết quả rất rõ ràng, mọi người đều thấy. Trong ba năm qua, đất nước đã thay đổi đến mức không còn nhận ra được nữa. Rõ ràng, “tuyên truyền mang tính chiến đấu đặc biệt” nhằm chống lại người dân nước mình thậm chí còn hiệu quả hơn là chống lại quân thù. Có thể như thế, bởi vì lính địch có thể tự bảo vệ, trong khi người dân bình thường, yêu chuộng hòa bình của nước Nga lại hoàn toàn không có khả năng tự vệ.

Nguồn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


theo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#229 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 18/07/2015 - 00:56

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Lạc chỉ vân yên - Khói mây vương giấy
TIẾU CHI Nguyễn Hữu Sử viết

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Lý) Lý Thái Tổ - Thiên đô chiếu.
Long bàn hổ cứ.
Rồng cuộn hổ ngồi.
AN THÁI Nguyễn Văn Dũng viết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Phong trần - Gió bụi.
CHÍ THIỆN Trần Phi Anh viết

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Lạc chỉ vân yên - Khói mây vương giấy.
TIẾU CHI Nguyễn Hữu Sử viết

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Lý) Quảng Nghiêm thiền sư - Hưu hướng Như Lai.
Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ. Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh. Nam nhi tự hữu xung thiên chí. Hưu hương Như Lai hành xứ hành!
Lìa tịch diệt mới bàn tịch diệt. Đạt vô sinh mới nói vô sinh. Nam nhi lấy chí xông trời thẳm. Theo gót Như Lai chỉ nhọc mình.
HỰU XUÂN Nguyễn Hoài Thu viết

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Trần) Nguyễn Sưởng - Giang hành.
Ngạn chuyển, thụ tà xuất. Khê thâm, hoa đảo khai. Vãn hà, cô điểu một. Hiểu vũ, phíên phàm lai.
Cây uốn nghiêng bờ ngoặt. Hoa đơm ngược suối sâu. Ráng chiều chim lẻ khuất. Buồm lướt sớm mưa mau.
LĂNG TIÊU Nguyễn Ngân Giang viết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Trần) Trần Nhân Tông - Đăng Bảo Đài sơn.
Muôn sự nước trôi nước, trăm năm lòng nhủ lòng.
CHÍ THIỆN Trần Phi Anh viết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Hồ) Nguyễn Phi Khanh - Xương Phù nguyên niên đông, dư tự Nhị Khê ngụ vu thành nam khách xá, cảm kim niệm tích, nhân thành nhập cú, phụng giản tư hình đại phu Đỗ Công, kiêm giản chư đồng chí.

Tân sầu cổn cổn bằng thùy tống. Vãng sự du du phó mộng tầm.
Mối sầu cuồn cuộn nhờ ai tiễn, dĩ vãng mênh mang để mộng tìm.
VÂN TRAI Trần Quang Đức viết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Lê) Nguyễn Trãi - Giang hành.
Tây tân sơ nghĩ trạo, phong cảnh tiện giang hồ. Vũ quá sơn dung sấu, thiên trường nhạn ảnh cô. Thương Lang hà xứ thị? Ngư điếu hảo vi đồ. Hồi thủ Đông Hoa địa, trần ai giác dĩ vô.
Bến tây vừa gác mái, cảnh đẹp giục ngao chơi! Mưa tạnh non trơ trọi, trời dài nhạn lẻ loi. Thương Lang đâu chốn nhỉ? Kết bạn gã chài thôi! Nhìn lại Đông Hoa khuất, bụi nhơ rũ sạch rồi.
BÁCH XUYÊN Bùi Đàm Hải viết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Lê) Chúa Trịnh Sâm - Tây Hồ tức cảnh.
Lọ là đồn hỏi chốn Bồng Doanh. Này thú này âu cũng có tình. Đôi đóa nhụy hồng in dáng tía. Một doành nước biếc ánh trời xanh. Làu làu gác nọ phong rèm nguyệt. Văng vẳng chiền kia dõi tiếng kình. Lần trải nắng sương đà mấy tá. Kim Ngưu dấu trước hãy rành rành.
AN THÁI Nguyễn Văn Dũng viết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Nguyễn) Phạm Đình Hổ - Ngẫu thành.
Thủy khứ hoa lưu tổng nhậm cừ.
Nước chảy hoa trôi mặc sự đời.
MINH THÀNH Lê Tiến Đạt viết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



(Nguyễn) Nguyễn Du - Đối tửu.
Phu toạ nhàn song tuý nhãn khai. Lạc hoa vô số há thương đài. Sinh tiền bất tận tôn trung tửu. Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi? Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ. Niên quang ám trục bạch đầu lai. Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý. Thế sự phù vân chân khả ai.
Ngồi bên cửa sổ mắt đờ say. Xanh biếc thềm rêu, hoa rụng đầy. Sống đã chẳng vơi bầu rượu được. Chết rồi ai rưới mộ mình đây? Sắc xuân dần đổi, chim vàng lánh. Năm tháng ngầm xui tóc bạc dày. Ước được trăm năm say khướt mãi. Việc đời mây nổi, nghĩ buồn thay!
HỰU XUÂN Nguyễn Hoài Thu viết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



(Nguyễn) Nguyễn Du - Lưu Linh mộ.
Túy lý tề vật - Trong cơn say thấy mọi vật đều bằng nhau.
CỔ MAI NHÂN Nguyễn Đình Hưng viết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Nguyễn) Cao Bá Quát - Đề Trấn Vũ quán thạch bi.
Vãn phong tà chiếu bất quy khứ. Tán phát nguy kiều tiếu tự tri.
Gió chiều, bóng ngả, về không nỡ. Cười rộ trên cầu, xõa tóc bay.
VÂN TRAI Trần Quang Đức viết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Phong vân tích - Vết gió mây.
TIẾU CHI Nguyễn Hữu Sử viết.

Trần Quang Đức
(theo facebook tác giả)

#230 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 19/07/2015 - 15:47

Lâu nay chúng ta vẫn thường thấy thông tin nhà cầm quyền Việt Nam vừa đấu tranh vừa hợp tác để Hoa Kỳ công nhận một nền kinh tế thị trường cho Việt Nam, nhưng hầu hết người dân Việt Nam - kể cả các nhà hàn lâm - cũng không hiểu tại sao mà Hoa Kỳ chưa công nhân Việt Nam có một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa?

Và ngay cả chuyến đi của ông tổng bí thư đảng cộng sản ở Việt Nam thăm ông tổng thống Obama vừa qua, cũng mong mỏi Hoa Kỳ công nhận nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường. Hôm nay có phát biểu ông đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam - Ted Osius -

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

để Hoa Kỳ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Đến nay Hoa Kỳ vẫn xem nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế chỉ huy. Như vậy nó như thế nào?

KHÁI NIỆM KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ KINH TẾ CHỈ HUY


Trước khi đi vào 6 điều kiện mà ngành lập pháp Hoa Kỳ quy định cho bộ thương mai Hoa Kỳ bắt buộc Việt Nam phải tuân theo để được công nhận là nền kinh tế thị trường chúng ta phải hiểu 2 khái niệm kinh tế thị trường và kinh tế chỉ huy như thế nào?

Kinh tế thị trường là nền kinh tế tuân theo bàn tay vô hình của kinh tế: quy luật cung cầu.

Kinh tế có chỉ huy là nền kinh tế có bàn tay của chính khách đưa ra chính sách bóp méo quy luật cung cầu.

Mặc dù, hàng hóa được sản xuất do nhà sản xuất làm ra, chất lượng, giá cả, và dịch vụ, đều giống nhau về mặt hiện tượng bên ngoài. Nhưng nếu chúng ta so sánh các nền kinh tế thị trường của Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản với các nền kinh tế chỉ huy ở khối các nước cộng sản trước đây, thường được gọi là “COMECON” (bao gồm Liên Xô, các nước Đông Âu và một số nước ở châu Á) hơn nửa thế kỷ qua, các phương thức được sử dụng để quyết định sản xuất hàng hóa gì, sản xuất chúng như thế nào, giá cả của những hàng hóa đó ra sao và ai là người tiêu dùng các hàng hóa đó lại khác hẳn.

Trong nền kinh tế chỉ huy, các ủy ban kế hoạch kinh tế của chính phủ, các chuyên gia về sản xuất và các quan chức chính trị thiết lập các mức sản xuất cho các mặt hàng này và chỉ định những nhà máy nào - còn gọi là sân sau của nhà cầm quyền - sẽ sản xuất các mặt hàng đó. Các ủy ban kế hoạch ở trung ương cũng định giá cho các mặt hàng từ cái áo sơ-mi và blu-dông đến con tàu hàng hải, cũng như lương của các công nhân sản xuất ra chúng. Như vậy, toàn bộ số lượng, chủng loại và giá cả của quần áo và các sản phẩm khác đều do quyết định của trung ương mà có.

Hiện tượng này không xảy ra trong nền kinh tế thị trường vì kinh tế thị trường vận hành theo một cách hoàn toàn khác. Khác vì nó theo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà sản xuất về giá cả, mẫu mã, chất lượng etc đến với người tiêu dùng.

6 ĐIỀU KIỆN


1. Người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường: Nền kinh tế thị trường phục vụ cho người tiêu dùng. Ngược lại, nền kinh tế chỉ huy phục vụ cho nhà cầm quyền.

Ví dụ, nền kinh tế thị trường có luật chống độc quyền hàng hóa, nên nhà sản xuất A phải cạnh tranh với nhà sản xuất B trên cùng 1 mặt hàng để cho ra sản phẩm tốt nhất về chất lượng, giá cả và dịch vụ để phục vụ người tiêu dùng.

Ngược lại, nền kinh tế chỉ huy nhà cầm quyền nắm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

như xăng, dầu, điện, nước, etc để điều tiết giá cả, thuế phí và cả lợi nhuận để phục vụ cho nhà cầm quyền và nhóm lợi ích, mà không quan tâm đến chất lượng, giá cả và dịch vụ tốt đến người tiêu dùng.

2. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường: Nền kinh tế thị trường không ưu tiên độc quyền cho bất kỳ nhà sản xuất kinh doanh nào. Ngược lại, nền kinh tế chỉ huy được nhà cầm quyền ưu tiên cho

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

của nhà cầm quyền được kinh doanh và sản xuất tất cả mọi sản phẩm trong xã hội. Ai cũng dễ dàng thấy khi lấy ví dụ đơn giản từ lĩnh vực nhỏ nhất đến lớn nhất hiện nay của Việt Nam và của Hoa Kỳ.

3. Người lao động trong nền kinh tế thị trường: Sự thành công của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào việc thỏa mãn khách hàng bằng cách sản xuất những sản phẩm mà họ muốn, và bán các hàng hóa và dịch vụ với giá cả có thể cạnh trạnh được với các doanh nghiệp khác. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần phải giải đáp một cách cẩn thận một trong những vấn đề quan trọng nhất mà mọi cơ chế kinh tế phải đối mặt: đó là làm thế nào để một xã hội có thể sản xuất hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả nhất?

Trong nền kinh tế thị trường, điều đó có nghĩa là làm sao đạt được giá trị đầu ra tối đa từ các yếu tố đầu vào mà các nhà sản xuất sử dụng. Muốn thế người lao động phải được quan tâm, chăm sóc tối đa từ vật chất đến tinh thần, kể cả các thành viên trong gia đình của người lao động; ngoài ra các tổ chức dân sự như công đoàn lao động và luật pháp cũng để bảo vệ người yếu thế - người lao động.

Ngược lại, nền kinh tế chỉ huy chỉ quan tâm đến quyền lợi của nhà cầm quyền và nhóm lợi ích, nên quyền lợi của người lao động bị bỏ rơi. Các tổ chức dân sự bảo vệ người lao động cũng do nhà cầm quyền dựng ra chỉ nhằm bảo vệ các doanh nghiệp sân sau của nhà cầm quyền.

4. Hệ thống các thị trường: Bằng cách theo đuổi các lợi ích riêng trong một thị trường mở và cạnh tranh, người tiêu dùng, nhà sản xuất và người lao động đã sử dụng các nguồn lực kinh tế của họ theo cách tạo nên giá trị lớn nhất cho nền kinh tế quốc gia – ít nhất là dưới dạng thỏa mãn nhu cầu của nhiều người hơn. Người đầu tiên chỉ ra thực tế này một cách có hệ thống là một triết gia người Scotland, Adam Smith, người đã phát hành cuốn sách nổi tiếng nhất của mình là “Tìm hiểu bản chất và nguyên nhân sự giàu có của các quốc gia” vào năm 1776. Smith là nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại đầu tiên, và là một trong những người đầu tiên mô tả được cách thức một nền kinh tế dựa trên một hệ thống thị trường có thể thúc đẩy tính hiệu quả kinh tế và tự do cá nhân, bất kể người dân của nó siêng năng hay lười biếng.

Bất cứ ai muốn hưởng thụ nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn trong một nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với các động cơ kinh tế mạnh mẽ buộc phải làm việc chăm chỉ, chi tiêu cẩn thận, tiết kiệm và đầu tư. Và hầu hết các doanh nghiệp thành công nhất đều phải sản xuất các hàng hóa chất lượng tốt, bán chúng với giá thị trường, trả lương cho nhân công theo giá thị trường và đối xử nhã nhặn với khách hàng - thậm chí ngay cả khi đó không phải là bản chất hành xử tự nhiên của họ.

Ngược lại nền kinh tế có chỉ huy không có cạnh tranh vì do chính nhà cầm quyền đổ tiền, chỉ định sân sau, quy định giá, lương và không bảo vệ người lao động - hay nói cách khác là một mình một chợ, vừa đánh trống vừa thổi còi - nên dẫn đến một xã hội lười biếng, chất lượng sản phẩm kém, dịch vụ tồi tệ, và tham nhũng tha hóa lan tràn.

5. Tài chính trong nền kinh tế: Trong các thị trường hàng hóa, dịch vụ và lao động, giá cả được thể hiện dưới hình thái tiền tệ nào đó, hay gọi là đồng tiền. Nhưng chính tiền tệ cũng được mua bán trong các nền kinh tế thị trường, bởi vì một số người muốn dành tiền để sử dụng trong tương lai, trong khi một số người khác – bao gồm cả các nhà doanh nghiệp – muốn vay tiền để sử dụng ngay. Cái giá để được quyền sử dụng số tiền đó – gọi là lãi suất – được xác định trong các thị trường trao đổi tài chính.

Nền kinh tế thị trường tạo điều kiện cho mọi người trong xã hội sử dụng, mua bán, trao đổi mọi hàng hóa theo quy luật cung cầu, kể cả hàng hóa đặc biệt như tiền tệ, kim loại quý, và kể cả hệ thống tài chính ngân hàng. Ngược lại, nền kinh tế chỉ huy hệ thống tài chính, tiền tệ, kim loại quý chỉ dành riêng cho nhà cầm quyền và nhóm lợi ích thao túng.

6. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế: yếu tố cuối cùng quyết định tất cả các yếu tố trên là chính phủ với nền kinh tế.

Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mà chính phủ sống nhờ vào sức mạnh của người dân. Nên mọi chính sách, hiến và luật pháp đưa ra là để phục vụ vì dân, do dân và của dân, nhằm phát huy hết khả năng của người dân, khoan sức dân để tạo ra một đất nước tự lực, tự cường và hùng cường.

Ngược lại, ở nền kinh tế chỉ huy, mọi hiến, luật pháp và chính sách đưa ra là để bó buộc sức dân, nhưng lại khoan sức dân để dân không phát huy hết năng lực của mình, mà chỉ có nhóm quyền lợi của chính quyền được phép đứng trên luật phép để làm ra lợi ích của cho nhóm quyền lợi. Hay nói cách khác nghèo dân để trị.

KẾT


Biết bao giờ Việt Nam đạt được 6 quy định của lập pháp Mỹ, do Bộ Thương mại phụ trách, và biết khi nào Việt Nam hội đủ thì sẽ được công nhận là một nền kinh tế thị trường, nếu không thay đổi chế độ chính trị?

Hồ Hải
theo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 2 Members:

#231 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 23/07/2015 - 18:39

TOÀN CỤC TÌNH HÌNH KHU VỰC THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



MỞ ĐẦU


Hôm qua, chính phủ Nhật tổng kết trên sách Trắng tình hình biển Nhật Bản - còn gọi là biển Hoa Đông - hiện nay có đến 12 giàn khoan dầu của Trung cộng đang hoạt động thăm dò dầu khí. Theo sách trắng, năm 2014 có 6 giàn khoan, thì năm 2015 số lượng tăng lên 100% với 12 giàn khoan.

Phillipines đang ra mặt bằng hành động chống lại sự xâm lược trên biển Đông ở các hòn đảo của Phillipines thuộc quần đảo Trường Sa.

Vài tháng nay, tình hình tranh chấp biên giới giữa Việt và Cambod được khuấy động lên do đảng đối lập với ông thủ tướng Hun Sen.

Tình hình ngoại giao Việt - Mỹ trở nên nồng ấm hơn sau chuyến đi của ông tổng bí thư đảng cộng sản ở Việt Nam vào ngày 05/7/2015 vừa qua. Trong khi đó, nội bộ đảng cầm quyền ở Việt Nam đang có những thay đổi nhân sự đáng kể để chuẩn bị cho đại hội đảng cộng sản lần thứ 12 vào đầu năm 2016.

Thủ tướng Việt đi những chuyến con thoi từ Tây sang Đông để kiếm tìm những khoản vay, và đối tác kinh tế trong suốt 6 tháng đầu năm nhằm vực nền kinh tế chỉ huy đang lao xuống vực, thay đổi cơ cấu kinh tế, thể chế và chuẩn bị cho xoay trục quan hệ ngoại giao, gia nhập TPP để cứu đảng cầm quyền.

Ông Tập Cận Bình xin được ông Obama đón tiếp tại Nhà Trắng vào tháng 9/2015. Đây là cuộc gặp mà ông Tập xin phép được gặp Obama lần thứ hai, sau cuộc gặp cách đây 2 năm để viết lại lịch sử quan hệ Nixon Mao năm 1972.

Kinh tế Trung cộng và Việt đang cho thấy nền kinh tế chỉ huy đang đến hồi sụp đổ như Liên Xô những năm cuối thập niên 1980. Nội tình dân oan và chính đảng cầm quyền của 2 quốc gia cộng sản này cũng đang có những bất đồng do nền chính trị đơn nguyên tập quyền gây ra cho kinh tế chỉ huy sai quy luật.

Tất cả những bức tranh đa màu sắc của một trật tự thế giới mới đang diễn ra trong khu vực, trong nước Việt cần phải nhìn rõ, để tìm ra một hướng đi mới cho bất kỳ ai còn sống và làm việc ở Việt Nam.

TẤT YẾU


Theo như thông tin từ VOA,

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, tháng 6/2015, Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã gặp 3 tổ chức xã hội dân sự lâu nay còn hoạt động bí mật ở Việt Nam để chuẩn bị cho một Việt Nam hậu cộng sản. Đây là một thông tin khá quan trọng cho tình hình chính trị Việt Nam.

Nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế phi khoa học, nên nó sụp đổ và kéo theo nền chính trị sẽ sụp đổ theo là tính tất yếu khách quan của triết học thực hành - còn gọi là quy luật của kinh tế chính trị học, vì kinh tế là chính trị.

Việc nhà cầm quyền Việt Nam buộc phải chuyển trục quan hệ ngoại giao và sẽ phải thay đổi thể chế chính trị trong tương lai gần, nếu còn muốn giữ vị trí thống trị ở xã hội Việt Nam, là một tính tất yếu của quy luật kinh tế chính trị học khách quan.

Từ sau chiến tranh thế giới II, thế giới chia làm 3 khu vực luôn bất ổn về kinh tế chính trị: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương-Địa Trung Hải và Hồng Hải.

Ở 3 khu vực đó, trật tự thế giới cũng có thay ngôi đổi chủ. Vị trí các siêu cường cựu lục địa châu Âu chuyển từ Tây Âu sang Đông Âu đứng đầu là Nga.

Khu vực Thái Bình Dương là nơi tranh chấp giữ Hoa Kỳ và Trung cộng.

Hoa Kỳ và Tây Âu cùng nhau tranh chấp với Liên Xô cũ nay là Nga ở Đại Tây Dương-Địa Trung Hải.

Hoa Kỳ đại diện đồng minh cai quản toàn cầu và nắm yết hầu các đại dương cũng như những túi năng lượng thiên nhiên nhiên ở quanh Hồng Hải - là Trung Đông. Nhưng sau khi vắt đá thành dầu Hoa Kỳ muốn xoay trục Trung Đông sang Thái Bình Dương sau 40 năm rời bỏ để kiềm con hổ giấy Trunhg cộng.

Thế giới trở thành tam quốc phân tranh: Hoa Kỳ - Nga và Trung cộng, nhưng tất cả là một ván bài của những cuộc họp đằng sau lưng các quốc gia còn lại của 3 cường quốc này và khối cựu siêu cường châu Âu là EU, đồng minh của Hoa Kỳ trong khối NATO.

Từ đó, mọi động tịnh khu vực Thái Bình Dương là do sự xếp đặt của Hoa Kỳ và Trung cộng là điều tất yếu và hiển nhiên đã được minh chứng qua những cuộc chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam, Cambodia sau 1975, cũng là tất yếu, nhưng cũng có phần can dự của Nga liên quan đến Thái Bình Dương về địa chính trị.

Nên chuyến đi gặp Obama vào tháng 9/2015 tới đây là một cuộc bàn thảo ăn chia khu vực Thái Bình Dương là một sự tất yếu không ngoài cái gì khác, như Nixon và Mao đã gặp nhau vào năm 1972 ở Thượng Hải.

Khi người Pháp đến Đông Dương, họ đã xem 3 quốc gia Việt Miên Lào là một quốc gia Đông Dương, để họ cai quản, với thủ phủ đặt tại 2 đầu đất nước Việt Nam: Hà Nội và Sài Gòn.

Lịch sử xâm lược Champa và Miên của Việt Nam diễn ra từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh của thế kỷ XVI - khi mà Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên Nguyễn Hoàng: "Hoành sơn nhất đái/Vạn đại dung thân" - kéo dài đến thời nhà Nguyễn cuối thế kỷ XIX, khi mà Đế chế Khmer điêu tàn, đã để lại một sự căm thù dân tộc giữa Miên và Việt không thể xóa sạch.

Lịch sử ngàn năm bị đô hộ Tàu của dân Việt còn khốc liệt hơn đã ăn vào máu người Việt về lòng căm thù các triều đại Trung Hoa.

Từ đó, một tính tất yếu khác diễn ra là, xuất khẩu nội loạn là chiêu bài chính trị của Trung cộng, Việt Nam ở biên giới Cambodia cũng không ngoài dự tính của 2 nhà cầm quyền này, khi mà nội tình của họ đã quá rối ren trên bờ vực thẳm. Hội nghị Thành Đô vẫn còn in dấu 16 vàng và 4 tốt, 2 đảng cầm quyền đang là đồng minh chiến lược, một mô hình kinh tế chính trị học, thì không thể xâu xé nhau khi cả 2 đều bất ổn.

Nhưng bất ổn biên giới Cambod và Việt Nam còn có 1 lý do khác nữa là đảng đối lập của ông Hun Sen kiếm phiếu ở một nền chính trị đa nguyên tản quyền theo thể chế Quân chủ Lập hiến như họ đang theo.

Cũng không loại trừ Trung cộng dùng Cambod để xuất khẩu nội loạn cho mình và nắn gân Việt Nam, nhưng trong hiện tại, không ai nắm yết hầu Cambod hơn Việt Nam sau khi tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot, và 10 năm đóng quân ở Cambod. Tình hình Đông Dương vẫn còn nằm trong tầm kiểm soát của Việt Nam dễ dàng, ngoại trừ Trung cộng tấn công Việt Nam khi Obama cho phép Tập như Carter đã từng gật đầu với Đặng năm 1979!

TƯƠNG LAI


Tương lai của 2 quốc gia cộng sản Việt Trung sẽ là chuyển đổi mô hình kinh tế lẫn chính trị để tồn tại là điều chắc chắn.

Song, sau chuyển đổi thì những người cộng sản vẫn là người nắm quyền cai trị đất nước cũng là chắc chắn, vì họ đang nắm giữ cả súng đạn, luật pháp, nhà tù, trường học, tiền bạc, etc, một câu nói đã được khẳng định ở Việt Nam và thế giới là, Việt cộng giàu hơn Việt kiều mà ai cũng thấy rõ.

Nhưng tương lai đáng ngại nhất là, làm sao Việt Nam chuyển đổi hình thái kinh tế chính trị mà không có cuộc tắm máu như quá khứ và như các quốc gia Trung Đông Bắc Phi năm 2011. Làm sao có sự chuyển đổi giống với Miến Điện êm ái, đó là cần một giải pháp thật khoa học.

GIẢI PHÁP


Một giải pháp cho yên thắm của nước Việt chuyển đổi hình thái kinh tế chính trị từ đơn nguyên tập quyền tập thể như hiện nay sang đa nguyên tập quyền là phải thông qua đơn nguyên tập quyền cá nhân. Tình hình nội bộ đảng cầm quyền hiện nay đang chuyển thành đơn nguyên tập quyền cá nhân sau đại hội đảng cộng sản lần thứ XII vào đầu năm 2016 là thấy rõ.

Nhưng để từ đơn nguyên tập quyền cá nhân chuyển sang đa nguyên thì cần những lộ trình mà các tổ chức dân sự trong nước Việt và đảng cầm quyền cần phải ngồi lại với nhau, để nói chuyện phải quấy trên tâm thế và tư thế vì một tổ quốc và dân tộc tự lực, tự cường cùng chống kẻ thù tham nhũng, tha hóa, bảo thủ, duy ý chí trong đảng cầm quyền, và giặc ngoài ngàn năm Trung cộng.

Các tổ chức dân sự ngoài đảng mà đã ngồi nhau với Hoa Kỳ như ông Đoàn Viết Hoạt đã nói nên ngồi lại với nhau thành một khối đoàn kết, có cương lĩnh, ban bệ hàn lâm, biết ngoại giao cả với đảng cầm quyền và cả Hoa Kỳ, Trung cộng cùng tất cả các quốc gia trên toàn cầu, để xứng tầm là một lực lượng đối lập, mà không đối kháng với đảng cầm quyền, cùng nhau thúc đẩy phát triển vì quốc gia dân tộc.

Đảng cầm quyền cần phải cầu thị, phải hiểu vai trò lịch sử của mình nay đã không còn nữa, mà giờ này là lúc phải ngồi lại với nhau để lo cho đất nước và dân tộc, chứ không tham quyền cố vị để ăn chia, vì tài nguyên đã cạn, uy tín không còn, thiên địa nhân đã

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.

Cả 2 khối đối lập đảng cầm quyền và tổ chức dân sự phải hiểu rằng, cần phải có đường lối đối ngoại và đối nội khéo léo với trong nước, Truing cộng và Hoa Kỳ, Nga, và đồng thời hiểu rằng chỉ có một thể chế dân chủ đa nguyên tản quyền mới đủ sức chống lại họa xâm lăng của Trung cộng, như Phần Lan đã thoát nanh vuốt của Nga.

KẾT


Nếu giải pháp trên được thực thi thì thời gian rút ngắn cho tổ quốc và dân tộc Việt bước ra khỏi tăm tối chỉ còn 30 năm, nhược bằng không, máu chảy đầu rơi, lịch sử sẽ lập lại và tổ quốc và dân tộc này sẽ ngụp lăn tiếp tục không biết bao thế kỷ nữa bỡi một lời nguyền nô vong văn hóa Khổng Khâu!

Hồ Hải
theo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:

#232 minhminh

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 3806 Bài viết:
  • 24169 thanks

Gửi vào 23/07/2015 - 20:27

Mới nghe thì thật là hay
Suy đi tính lại chẳng hay tí nào
Hay xâu từng sự kiện vào
Bàn tay lông lá bóp nào có tha
Mấy tay chính trị ngồi nhà
Trên mây mơ mộng tháp ngà mà thôi

Thanked by 2 Members:

#233 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 25/07/2015 - 18:34

STRESS


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


I. ĐAI CƯƠNG VỀ STRESS



Ngay từ thời xa xưa, tổ tiên của chúng ta đã phải đối phó với stress khi chống lại các mối đe dọa từ những kẻ săn mồi và kẻ xâm lược khác. Các mối đe dọa như vậy thì không phổ biến hiện nay, nhưng không có nghĩa là cuộc sống này không có stress. Đời thường với bao bộn bề, lo âu, căng thẳng: chuyện gia đình, học tập, công việc, sự quá tải và áp lực trong môi trường cạnh tranh cao – khiến người ta dễ rơi vào tâm trạng stress. Stress không chừa bất kỳ một ai. Tuy stress không phải là một loại bệnh nhưng nếu không biết cách khắc phục nó, sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe và tinh thần. Vậy làm thế nào để đẩy lùi stress ra khỏi cuộc đời bạn?

1. Lịch sử ra đời của từ “stress”




Thuật ngữ "stress" mà chúng ta sử dụng hiện nay được đề xuất bởi Hans Selye vào năm 1936, một vị bác sĩ người Áo, người đầu tiên nghiên cứu stress, đã định nghĩa stress là "những đáp ứng không đặc hiệu của cơ thể để thực hiện bất kỳ nhu cầu nào”. Selye đã ghi nhận trong rất nhiều thí nghiệm trên động vật: với những kích thích khác nhau (ánh sáng, tiếng ồn, nhiệt độ…) thì thấy tất cả chúng đều có những thay đổi bệnh lý như loét dạ dày, teo tuyến ức và phì đại tuyến thượng thận. Sau đó, ông đã chứng minh rằng stress kéo dài trên động vật cũng có thể gây ra những bệnh khác nhau tương tự như những gì gặp ở người, chẳng hạn như đau tim, đột quỵ, bệnh thận và viêm khớp dạng thấp.

Vào thời điểm đó, người ta đã biết được hầu hết các bệnh gây ra bởi các tác nhân gây bệnh cụ thể, và các bệnh khác nhau thì do những tác nhân khác nhau gây ra. Ví dụ, bệnh lao là do trực khuẩn lao, bệnh than do trực khuẩn bệnh than, bệnh giang mai bởi xoắn khuẩn, … Những gì Selye đề xuất thì đều đi ngược lại, rằng nhiều tác nhân khác nhau có thể gây ra cùng một chứng bệnh như nhau, không chỉ ở động vật, mà cả ở người. Nên lý thuyết của Selye đã thu hút được sự chú ý đáng kể và “stress” nhanh chóng trở thành một từ thông dụng phổ biến, thậm chí, hoàn toàn bỏ qua định nghĩa ban đầu của Selye. Một số người dùng từ stress để chỉ một ông sếp độc đoán hay xấu xa, hoặc một số tình huống khó chịu mà họ phải chịu. Đối với nhiều người khác, stress lại là phản ứng của họ với tình trạng đau ngực, ợ nóng, đau đầu hoặc đánh trống ngực. Nhiều nhà khoa học đã phàn nàn về sự nhầm lẫn này và một bác sĩ kết luận trong tạp chí Y học Anh rằng, "stress- bản thân nó, vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả."

Selye không biết rằng từ “stress” thực tế đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ trước trong lĩnh vực vật lý để giải thích tính đàn hồi, đặc tính của một loại vật liệu cho phép nó trở về kích thước và hình dạng ban đầu sau khi được nén hoặc kéo dãn bởi ngoại lực. Định luật đàn hồi Hooke trong cơ học vật lý do nhà vật lý người Anh thế kỷ 17- Robert Hooke cho rằng đa số lò xo tuân theo liên hệ tuyến tính giữa lực đàn hồi và biến dạng, tức là lực lò xo luôn có xu hướng làm vật trở về trạng thái không biến dạng: Độ lớn của một ngoại lực, hoặc stress, tạo ra một lượng tỉ lệ với độ biến dạng, hoặc sức căng ở một kim loại dễ uốn. Do dó, lực lò xo còn gọi là lực đàn hồi, giúp vật trở lại vị trí cân bằng, luôn hướng về vị trí cân bằng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Dr. Hans Selye (1907-1982)


Điều này tạo ra sự nhầm lẫn nhiều hơn khi nghiên cứu của Selye được dịch sang tiếng nước ngoài. Không có từ ngữ hoặc cụm từ nào phù hợp để có thể truyền đạt những gì ông muốn nói, vì ông mô tả “stress” - một hiện tượng rất chủ quan, không xác định được, nên không thể đo lường nó trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Năm 1946, các viện sĩ tại Collège de France chịu trách nhiệm cho việc duy trì sự trong sáng của tiếng Pháp phải vật lộn với vấn đề này trong vài ngày, và sau đó quyết định rằng một từ mới sẽ phải được tạo ra - từ “stress” ra đời từ đó. Stress là một trong số rất ít những từ Y khoa mà bạn thấy trình bày bằng tiếng Anh và các ngôn ngữ khác chứ không phải là chữ Latinh (Latin).

2. Stress là gì?

Stress là một phản ứng tâm lý và thể chất bình thường với những đòi hỏi ngày càng cao của cuộc sống. Selye đã đấu tranh cả đời mình để tìm một định nghĩa thỏa đáng cho "stress", nhưng không thành công. Trong nỗ lực suy luận của mình, ông định nghĩa lại: "stress là tốc độ hao mòn cơ thể". Đây thực sự là một mô tả khá tốt của sự lão hóa sinh học. Do đó, không đáng ngạc nhiên khi stress gia tăng có thể tăng tốc quá trình lão hóa trên nhiều phương diện. Trong những năm cuối đời, khi được hỏi định nghĩa stress, ông nói với các phóng viên: "Mọi người đều biết stress là gì, nhưng không ai thực sự biết cả."

Khi đối mặt với một thách thức hay mối đe dọa, cơ thể sẽ kích hoạt các nguồn lực để bảo vệ - hoặc là tháo chạy, hay chiến đấu. Điều này được coi như là đáp ứng "chiến đấu hay tháo chạy: fight-or-flight”. Vì tháo chạy khỏi nguy hiểm hoặc chiến đấu thất bại có nghĩa là chết, nên cơ thể sẽ làm mọi thứ có thể để tồn tại. Bộ não chính là hệ thống báo động để bảo vệ khỏi stress. Khi cảm nhận mối đe dọa, nó báo hiệu cơ thể phóng thích hormone đáp ứng với tình trạng ấy. Vùng hạ đồi (Hypothalamus), một khu vực nhỏ ở đáy não, phóng thích hormone kích thích tuyến thượng thận tiết adrenaline và cortisol. Adrenaline làm tăng nhịp tim, tăng huyết áp để tăng cung cấp năng lượng. Cortisol làm tăng đường huyết để cung cấp glucose cho não bộ, và tăng khả năng sửa chữa các mô hư hại. Nhưng cortisol cũng làm thay đổi đáp ứng miễn dịch, ức chế hệ tiêu hóa, hệ sinh sản và quá trình tăng trưởng. Hệ thống báo động tự nhiên này cũng liên lạc với các khu vực của bộ não kiểm soát tâm trạng, động lực và sự sợ hãi.

3. Stress tích cực (Eustress) & Stress tiêu cực (Distress)

Hầu hết mọi người xem stress như là mối đe dọa khó chịu, đồng nghĩa với DISTRESS (đau đớn, buồn khổ), và được định nghĩa như là "thể chất, tinh thần, hoặc cảm xúc căng thẳng” hay “ "một tình trạng hoặc cảm nhận rằng sự đòi hỏi vượt quá khả năng của bản thân". Như vậy, stress mang tính tiêu cực và tác động tích cực của nó đã bị bỏ qua.

Tuy nhiên, stress còn bao gồm cả stress tốt, mang ý nghĩa tích cực (Selye gọi là EUSTRESS, ví dụ: chiến thắng một cuộc đua hay cuộc bầu cử,….) vì nó thúc đẩy người ta đạt được nhiều hơn, vươn tới sự hoàn hảo. Nếu không có stress hoặc rất ít stress, người ta không có động lực để phấn đấu, được gọi là tình trạng êm ả (CALM), mức hiệu suất làm việc thấp. Ở mức EUSTRESS, có một sự cân bằng tốt giữa các nguồn lực của chúng ta và sự đòi hỏi của cuộc sống, chúng ta đang ở trong "vùng an sinh", chúng ta đang được thúc đẩy, tràn đầy sinh lực, cố ý, tập trung hơn, đang năng động và mức độ hiệu quả là tối đa.
Nhưng khi có quá nhiều tác nhân gây stress, quá stress và stress quá lâu, thì kho năng lượng của chúng ta cạn kiệt, hiệu suất của chúng ta giảm đi. Trong trường hợp này, chúng ta đang trong giai đoạn DISTRESS.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

4. Stressor
<p>
Stressor là các tác nhân gây nên stress, ví dụ như: tiếng động, người khó chịu, chiếc xe quá tốc độ,...

Các loại Stressor thường gặp:
  • Stress gia đình: Kết hôn, sinh con, nuôi dạy con, kế hoạch cho tương lai, những sự kiện ngoài xã hội đem về nhà... là những vấn đề có thể nảy sinh stress. Stress dễ lan truyền từ thành viên này sang thành viên khác của gia đình. Người chịu stress nhiều nhất chính là những đứa trẻ. Nếu không được kiểm soát stress có thể phá vỡ gia đình.
  • Stress xã hội: Môi trường sống, mật độ dân cư, tài chính, sự bùng nổ thông tin, sự thay đổi nghề nghiệp, giáo dục, biến đổi hệ thống giá trị và các tập tục truyền thống... Những yếu tố đó sẽ làm chứng lo âu tăng mạnh, hiện tượng trầm cảm cũng gia tăng.
  • Stress công việc (học tập, lao động): Điều kiện lao động, công việc phức tạp, quá tải về khối lượng công việc hay quá tải về năng lực, liên quan đến việc ra quyết định và trách nhiệm,...

5. Mỗi người phản ứng với Stress trong cuộc sống theo những cách khác nhau

Stress không phải là vấn đề, mà là cách chúng ta phản ứng với những yếu tố gây stress. Stress có thể có những hậu quả tích cực hay tiêu cực - phụ thuộc vào cách chúng ta xử lý nó. Trong xã hội, ta thường thấy một số người sống rất vui vẻ, thoải mái- dù cho chuyện gì xảy ra. Nhưng cũng có những người phản ứng khá mạnh dù với căng thẳng nhỏ, lo lắng về những chuyện cỏn con không quan trọng. Đó là do:

• Di truyền: Có sự khác biệt nhỏ trong các gen kiểm soát phản ứng căng thẳng ở mỗi cá thể.
• Kinh nghiệm sống.

Những người thành công trong việc giải tỏa stress sẽ xem stress như sợi dây đàn hồi, là trải nghiệm cuộc sống, coi thất bại là mẹ thành công. Nhưng những người chưa trưởng thành, ít trải nghiệm, dễ rơi vào cơn khủng hoảng nghiêm trọng, họ dễ mất khả năng phản ứng lại và đó là lúc rắc rối xảy ra. Những người bị bỏ bê hay bị lạm dụng thời thơ ấu cũng có xu hướng dễ bị tổn thương khi gặp stress. Điều tương tự cũng đúng với các nạn nhân của tội phạm bạo lực, sống sót sau tai nạn, quân nhân, sĩ quan cảnh sát và nhân viên cứu hỏa.

Theo một nghiên cứu trên tạp chí Psychological Science, tiến hành quan sát ảnh hưởng dài hạn của những cơn căng thẳng hằng ngày bằng cách đánh giá xem họ phản ứng mạnh mẽ như thế nào đối với những vấn đề thường gặp trong cuộc sống (như cãi nhau với người bạn đời hoặc trục trặc trong công việc), người ta nhận thấy: những người càng phản ứng lại những cơn khủng hoảng hằng ngày càng có nhiều nguy cơ bị rối loạn tâm tính.

Trong một nghiên cứu tiến hành tại Đại học bang Pennsylvania cũng nhận xét: cách mà bạn phản ứng dường như có liên quan đến sức khỏe của bạn một thập kỷ sau đó, bất kể sức khỏe và yếu tố gây căng thẳng cho bạn hiện tại. Trưởng nhóm nghiên cứu, giáo sư David Almeida cho biết: "Ví dụ, nếu bạn có rất nhiều việc phải làm ngày hôm nay và bạn đang thực sự gắt gỏng vì nó, thì nhiều khả năng bạn phải chịu hậu quả sức khỏe tiêu cực 10 năm kể từ bây giờ so với những người cũng có rất nhiều việc phải làm như bạn, nhưng họ không làm ầm lên như bạn".

6. Nguyên nhân dẫn đến stress:
  • Suy nghĩ của bản thân: Đôi khi, cách chúng ta suy nghĩ hay lý giải những điều đã hoặc sẽ xảy ra đem đến cho chính mình rất nhiều stress. Suy nghĩ tiêu cực và cẩn trọng quá trong mọi vấn đề, dẫn đến việc luôn trong trạng thái mất niềm tin, chán nản, mệt mỏi dẫn đến căng thẳng đầu óc.
  • Tác động từ bên trong cơ thể: Khi cơ thể phải đối mặt với nhiều bệnh tật, ốm đau, không đủ chất dinh dưỡng: cơ thể mệt mỏi bên trong dễ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến stress.
  • Tác động từ môi trường, ngoại cảnh bên ngoài: Thời tiết, tiếng ồn, giao thông, bụi, và sự ô nhiễm…Thời hạn của công việc phải hoàn thành, các vấn đề tài chính, công việc, các bài trình bày, mâu thuẫu, yêu cầu về thời gian và sự tập trung sức lực vào công việc hay gia đình, mất mát người thân, mâu thuẫn trong gia đình, bạn bè…đó chính là nguyên nhân dẫn đến stress.
II. TRIỆU CHỨNG CỦA STRESS

Như hình minh họa, tăng stress làm tăng năng suất - lên đến đỉnh điểm, sau đó mọi thứ đi nhanh xuống dốc. Stress -tự bản thân nó không gây hại mà nó như là một cơ chế bảo vệ chúng ta, nhắc chúng ta phải nghỉ ngơi. Khi rơi vào trạng thái stress, cơ thể của bạn đang báo động sự quá tải của hệ thần kinh cũng như của cơ thể để phản ứng lấy lại cân bằng. Một cách tự nhiên, stress có tính chu kỳ đối với mỗi người và thông thường là cơ thể tự vượt qua nếu chúng ta không dồn thêm áp lực. Tuy nhiên, nếu chúng ta không chịu lắng nghe cơ thể mình thì stress sẽ ảnh hưởng và tác động đến cơ thể và tinh thần.

<p>
Thật không may, sự căng thẳng không ngừng của cuộc sống hiện đại - có nghĩa là hệ thống báo động của bạn hiếm khi ngừng. Một sự không khớp giữa yêu cầu bên ngoài và các nguồn lực của bản thân, làm kích hoạt lâu dài hệ thống phản ứng với stress đặt bạn vào nguy cơ tăng các vấn đề về sức khỏe, như: suy giảm trí nhớ và độ tập trung, mất ngủ, lo âu, trầm cảm, tăng cân, vấn đề tiêu hóa, bệnh tim mạch, tiểu đường.

Tuy nhiên, đỉnh điểm đó khác nhau đối với từng người, vì vậy bạn cần phải nhạy cảm với các triệu chứng cảnh báo sớm và các dấu hiệu cho thấy tình trạng quá tải stress đang bắt đầu đẩy bạn xuống sườn dốc bên kia.

1. Các triệu chứng stress có thể ảnh hưởng đến sức khỏe dù bạn không nhận ra nó. Bạn có thể than phiền vì chứng nhức đầu, mất ngủ hoặc giảm hiệu suất làm việc…mà thủ phạm là stress. Stress mãn tính có thể tàn phá tâm trí và cơ thể của bạn, ảnh hưởng đến cảm xúc và hành vi của bạn. Các tín hiệu ấy cũng khác nhau ở mỗi người và có thể rất tinh tế, thường bị bỏ qua cho đến khi quá muộn. Không thường xuyên, nhưng một số người, có thể cảnh báo cho bạn biết rằng bạn đang phải đương đầu trước khi bạn nhận ra điều đó. Vì thế, nhận biết các triệu chứng stress có thể giúp ta quản lý nó.

a/ Stress tác động lên cơ thể:
  • Hệ Thần kinh-Cơ-Nội tiết- Tim mạch- Hô hấp: Đáp ứng "chiến đấu-hoặc-tháo chạy" là phản ứng của hệ thần kinh giao cảm của cơ thể với sự kiện stress. Hệ thần kinh giao cảm kích thích tuyến thượng thận tiết ra adrenaline và cortisol làm nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, tăng đường huyết, tỉnh táo, thở nhanh, tăng thông khí, hệ thống cơ bắp chuẩn bị sẵn sàng, vã mồ hôi... - tất cả những điều này giúp bảo vệ ta trong tình huống nguy hiểm hoặc khó khăn.
  • Các hệ thống không cần thiết cho sự tồn tại trước mắt tạm thời sẽ bị ức chế. Chẳng hạn như tiêu hóa, hệ sinh sản, hay hệ thống miễn dịch.
b/ Stress tác động lên tinh thần: Khi stress tác động xấu lên cơ thể thì song song nó cũng tác động đến tinh thần: lo âu, bồn chồn, thiếu động lực, thiếu tập trung, hay quên, mất trí nhớ, khó chịu, tức giận, buồn, trầm cảm, suy sụp.

c/ Stress tác động lên hành vi: Ăn quá nhiều hoặc quá ít, gây béo phì hay suy kiệt. Lạm dụng thuốc, thuốc lá, rượu. Bùng nổ, giận dữ, rút lui khỏi xã hội.

2. Hệ thống phản ứng với stress của cơ thể thường tự giới hạn: Khi một mối đe dọa đã qua, mức độ hormone trở lại bình thường, cơ thể lại trở về trạng thái thoải mái bình thường.

3. Tình trạng stress kéo dài dẫn đến: bệnh tim mạch, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa lipid, bệnh tiêu hóa (đau dạ dày, hội chứng đại tràng kích thích), khó ngủ, sự co cơ làm đau đầu, migraines, đau căng cơ và những vấn đề cơ khớp khác.

III. QUẢN LÝ STRESS

Bạn chắc chắn phải đối mặt với nhiều nhu cầu hàng ngày. Bạn không thể để stress kiểm soát cuộc sống của bạn, mà phải biết cách kiểm soát nó. Đừng chờ đợi cho đến khi stress tác động tiêu cực đến sức khỏe, các mối quan hệ hoặc chất lượng cuộc sống của bạn. Nếu không quản lý stress, quá thường xuyên cơ thể của bạn luôn phải đề cao cảnh giác, theo thời gian, mức độ căng thẳng dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Đó là lý do tại sao tìm hiểu cách lành mạnh để đối phó với những stress trong cuộc sống là cực kỳ quan trọng. Quản lý stress cho bạn một loạt các công cụ để thiết lập lại hệ thống báo động của mình.

Học để phản ứng với căng thẳng cuộc sống một cách lành mạnh
Bạn có biết những ai không không hề bị stress ở thời đại này? Nhiều người phải đảm nhận nhiều trách nhiệm, công việc, cuộc sống gia đình, chăm sóc và các mối quan hệ. Stress là một thực tế của cuộc sống. Có thể không thay đổi được tình hình hiện tại, nhưng bạn có thể quản lý được các tác động này. Tốc độ của cuộc sống hiện đại làm cho việc quản lý stress là một kỹ năng cần thiết cho tất cả mọi người.

Xác định những gì làm bạn stress
Một khi bạn quyết định thực hiện quản lý stress là một mục tiêu, và theo dõi mức độ stress của mình, thì bạn phải xác định được yếu tố gây stress cho mình. Xác định tình huống là một khởi đầu tốt để kiểm soát stress. Khi, hay dưới những tình huống nào bạn thấy bị stress nhất?

Một số stressor thì dễ dàng xác định, chẳng hạn như áp lực công việc, các mối quan hệ hoặc những khó khăn tài chính. Nhưng những rắc rối về nhu cầu hàng ngày, chẳng hạn như đi lại, chăm sóc trẻ hay tận tụy quá mức nơi làm việc - cũng có thể đóng góp vào mức độ căng thẳng.

Trong khi các sự kiện tiêu cực nói chung là stress hơn, thì các sự kiện tích cực cũng có thể gây stress. Những stress tốt và xấu là thành phần của cuộc sống hàng ngày.

IV. PHƯƠNG PHÁP 4A ĐỂ GIẢM THIỂU STRESS

Đã xác định được yếu tố nguy cơ gây stress, thì phải bắt đầu thực hiện các hành động để quản lý stress. Khi mức độ stress vượt quá khả năng đối phó, bạn cần khôi phục lại sự cân bằng bằng cách giảm các yếu tố gây stress hoặc tăng khả năng đối phó, hoặc cả hai.

Có rất nhiều cách khắc phục stress, tùy thuộc vào tâm sinh lý và điều kiện của mỗi người để áp dụng. Hãy thử sử dụng phương pháp bốn A: Avoid (tránh), Alter (thay đổi), Accept (chấp nhận), Adapt (thích nghi).

1. AVOID (Tránh): dù không phải tình huống nào cũng tránh được, nhưng phải biết từ chối/nói không với các tình huống dễ gây sress.

Tránh xa những người dễ gây phiền phức cho mình.

Tránh các tình huống dễ gây căng thẳng bằng cách:
• Làm việc có kế hoạch trước.

• Sắp xếp/ kiểm soát môi trường xung quanh:
Vấn đề giao thông? Hãy đi làm sớm hoặc chọn con đường ít người đi.
Ghét chờ đợi xếp hàng tại căn tin của công ty? Hãy tự đem cơm trưa ăn tại văn phòng.

• Giảm tải công việc: Học cách nói không với những việc không thật sự là trách nhiệm của mình. Gắn nhãn danh sách công việc phải làm theo tầm quan trọng. Vào những ngày bận rộn, các việc kém quan trọng có thể cần loại bỏ.

2. ALTER (Thay đổi)
Một trong những điều hữu ích nhất bạn có thể làm trong thời gian bị stress là xác định các vấn đề, sau đó cố gắng thay đổi hoàn cảnh cho tốt hơn.

Thay đổi bất kì điều gì, từ style ăn mặc hằng ngày, món ăn yêu thích đến cả cách nhìn, mục tiêu của bạn, miễn là bạn nghĩ nó sẽ đem lại điều tích cực cho cuộc sống hiện tại của mình cũng là một trong những cách xả stress hiệu quả. Một điều gì đó mới mẻ hơn sẽ như một làn gió mới cho cuộc sống đang dần trở nên quá ngột ngạt của bạn. Cảm nhận sự thay đổi ấy cũng sẽ giúp bạn giảm bớt cảm giác căng thẳng hiện tại.

a/ Thay đổi suy nghĩ của bản thân:
  • Suy nghĩ tích cực hơn, có một cảm giác hài hước: Hãy nghĩ về những niềm vui của mình: kỳ nghỉ, con cái, vật nuôi,… tưởng tượng tất cả những điều đó mang lại cho bạn niềm vui trong cuộc sống. Khi bạn nghĩ về những điều tích cực, nó sẽ giúp bạn có những suy nghĩ tích cực, bạn sẽ thấy yêu cuộc sống này hơn. Ví dụ, bạn có thể tưởng tượng đến tương lai tươi đẹp của bạn, bạn sẽ có một công việc mà mình thích, sẽ đi đến những nơi mình muốn đến.....Hay bạn có thể đặt cho mình những câu hỏi: Tại sao mình phải buồn chán, căng thẳng nhỉ? Buồn chán, căng thẳng có giải quyết được vấn đề hay không? Chúng ta trở nên như thế nào tùy thuộc vào suy nghĩ của chính mình. Vì vậy hãy suy nghĩ tích cực lên. Điều tích cực thường đến với những người suy nghĩ và hành động tích cực.Ý nghĩ tiêu cực có thể dẫn đến tâm thần. Cố gắng sử dụng khiếu hài hước trong những tình huống khó khăn. Cười chính bản thân mình cũng rất có lợi. Áp dụng một câu thần chú "tôi có thể xử lý việc này", lặp lại nó trong những tình huống khó khăn.
  • Soi vào bản chất vấn đề: Bạn phải trả các hóa đơn tiền điện, nước… cao ngất ngưởng? Đối mặt với cách sống dẫn đến tình trạng này có thể giúp bạn tìm lại sự kiểm soát và không lặp lại sai lầm. Điều đó cho thấy bạn có trách nhiệm, ít nhất là một phần, với cả những điều tích cực và tiêu cực xảy ra trong cuộc đời mình.
  • Nhìn xa trông rộng: Thử hình dung cuộc đời bạn như một chuyến xe lăn bánh trên đường dài, bạn sẽ thấy những rắc rối hôm nay mình gặp phải chẳng là gì trong bức tranh toàn cảnh. Khi nhìn rộng hơn, bạn có cơ hội nhận ra mình có cả những lúc thành công chứ không chỉ toàn thất bại. Cách này giúp bạn thôi dằn vặt bản thân hoặc đắm chìm trong nỗi lo lắng.
b/ Thay đổi lối sống: Làm thế nào để chăm sóc bản thân về tình cảm và thể chất khi đối mặt với tình huống căng thẳng? Chỉ có thể là lối sống lành mạnh giúp bạn hồi phục sức khỏe và do đó tỉnh táo và mạnh mẽ hơn trong việc giải quyết vấn đề của mình.

- Chăm sóc bản thân: Khi stress làm ảnh hưởng đến cuộc sống và sức khỏe, đến lúc bạn phải ngăn chặn nó rồi. Nên quan tâm tới mình nhiều hơn nữa bằng cách thực hiện chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lí để duy trì sức khỏe tốt.
  • Ngủ nhiều, ngủ đủ giấc chính là chiến lược giảm stress hiệu quả nhất. Ngủ đúng giờ, và đủ giấc 7-9 tiếng/ ngày vì ngủ không đủ giấc, ngủ không sâu có khi làm tăng nguy cơ stress cho bạn hơn. Ngủ là một trạng thái thư giãn cơ bắp và hạn chế đáp ứng với kích thích ngoại cảnh. Não bộ cần giấc ngủ để thực hiện nhiệm vụ "dọn dẹp" sau một ngày làm việc và duy trì cân bằng. Trong khi ngủ, não vẫn bận rộn, giám sát một loạt các hoạt động sinh học của cơ thể để chuẩn bị cho ngày hôm sau: hồi phục những tế bào tổn thương, loại bỏ chất độc, củng cố nguồn cung năng lượng và sắp xếp lại các ký ức. Nếu không có đủ thời gian phục hồi, ta sẽ không thể làm việc, học hỏi, sáng tạo, và giao tiếp ở một mức độ thậm chí gần với tiềm năng thực sự của mình. Không có hoạt động nào mang lại nhiều lợi ích mà chỉ cần ít nỗ lực như thế! Thường xuyên thiếu ngủ sẽ ảnh hưởng lớn đến tinh thần và thể chất.
  • Nghe, hát những bài hát vui vẻ và xem những video hài hước: Âm nhạc sẽ giúp bạn giải tỏa muộn phiền, những căng thẳng trong cuộc sống. Những bản nhạc du dương, những bài hát vui nhộn sẽ giúp xoa dịu căng thẳng, áp lực đang dồn nén trong đầu. Hãy để bản thân được ru ngủ và thư giãn một chút trong những bản nhạc yêu thích, bạn sẽ thấy xoa dịu những căng thẳng và giúp bản thân được cân bằng.
  • Làm những gì mình thích: Một thực tế chứng minh rằng, thú vui khi được làm theo điều mình thích có thể giúp làm tiêu tan căng thẳng. Theo đuổi một sở thích sẽ cung cấp cho bạn năng lượng tích cực và bạn sẽ quên đi những suy nghĩ gây căng thẳng đầu óc. Thay vì bạn ngồi một chỗ, ủ rũ, buồn bã, bạn có thể xem phim, đi dạo, đọc sách, vẽ, rủ bạn bè đi ăn uống,... Thực hiện những công việc có ý nghĩa, tiến hành những hoạt động sáng tạo bên ngoài nơi làm việc.
  • Trò chuyện, chia sẻ với một ai đó: Trò chuyện là một giải pháp vô cùng quan trọng giúp giải tỏa stress. Bạn không thể thay đổi được tình huống gây bực bội cho mình, nhưng không có nghĩa cảm xúc của bạn là không chính đáng. Tại sao không chia sẻ chuyện của mình với bạn bè, người thân? Đừng phải trải nghiệm một mình, hãy tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ từ gia đình và bạn bè. Bạn có thể tìm một người bạn tin cậy để chia sẻ. Tâm sự với người bạn hiểu minh thì bạn sẽ cảm thấy tốt hơn sau khi ta nói ra được chuyện đó. Thứ nhất, nó giúp bạn san sẻ nỗi buồn, thất vọng, những căng thẳng, áp lực. Thứ hai, người đó có thể sẽ đưa ra những lời khuyên hữu ích cho bạn. Bồi dưỡng tình bạn lành mạnh, duy trì các mối quan hệ bạn bè thân thiết. Nếu bạn không tìm được một ai đáng tin cậy thì bạn có thể chia sẻ bớt gánh nặng của mình cùng những trang nhật ký vì nhật ký chỉ biết lắng nghe mà không thể làm phiền bạn bằng những câu hỏi hay lời trách cứ. Tìm kiếm tư vấn chuyên nghiệp khi cần thiết.
  • Vận động, massage, tập thể dục thường xuyên: Nếu công việc của bạn chỉ cần ngồi một chỗ, tốt nhất tham gia các hoạt động thể dục thể thao để tăng cường sức khỏe. Tập thể dục thường xuyên có thể cải thiện lưu thông khí huyết, hạ mỡ máu, tăng cường sức đề kháng và là biện pháp đơn giản nhất giúp giải tỏa stress. Tập thể dục giúp cho cơ thể giải phóng năng lượng, điều hòa hoạt động nội tiết giúp cải thiện cân bằng hóa học trong não bằng cách làm gián đoạn việc tiết những hormon stress như cortisol, adrenalin và làm gia tăng chất serotonin và dopamin tạo cảm giác lạc quan, phấn chấn.Theo nghiên cứu mới về mối quan hệ giữa ngồi, tần suất hoạt động và trầm cảm vừa được công bố, giảm thời gian ngồi giúp các triệu chứng trầm cảm giảm. Nguy cơ mắc các bệnh tim mạch cũng có thể giảm bằng cách ngồi ít hơn. Do vậy, bạn nên đi loanh quanh sau mỗi 20 phút ngồi một chỗ.
  • Thực hành thư giãn: Thư giãn là một phần thiết yếu để quản lý stress. Thư giãn là vô giá cho việc duy trì sức khỏe và hạnh phúc, và sửa chữa những thiệt hại mà stress ảnh hưởng đến tâm trí và cơ thể của bạn. Kỹ thuật thư giãn có thể giúp bạn hít thở sâu, thở bụng, thở chậm hơn và làm bạn tập trung tại thời điểm hiện tại. Hít thở sâu "đập tan" stress. Tìm hiểu phương pháp hít thở sâu để giúp cân bằng trạng thái và là cách giảm stress nên áp dụng mỗi khi nó đột ngột ghé thăm. Các bài tập về thở hoặc thậm chí chỉ hít thở sâu vài cái cũng giúp làm giảm căng thẳng và giải tỏa stress, giúp chúng ta bình tĩnh. Không chỉ vậy, theo nghiên cứu của Đại học Harvard, các bài tập thở đã được chứng minh có tác dụng hỗ trợ cho một vài cơ quan trong cơ thể bị tổn thương do stress: làm giảm huyết áp, và thậm chí còn có thể thay đổi trạng thái của một số gien. Tiến sĩ Benjamin Gavish, tác giả của nghiên cứu chia sẻ: “Thở chậm và sâu có thể cân bằng lại hệ thống thần kinh đã bị suy giảm ở một số bệnh tim mạch và các vấn đề liên quan đến stress”. Vì vậy, ông khuyên, khi hít vào bạn đếm tới 10 và lặp lại điều đó khi thở ra. Bạn nên thực hiện điều này từ 10 đến 15 phút mỗi ngày. Thở sâu giúp giảm bớt cao huyết áp bằng cách thư giãn các cơ xung quanh mạch máu của bạn. Thở sâu giúp giảm mất ngủ bằng cách giảm trạng thái hưng phấn, khiến giấc ngủ kéo dài lâu hơn và giảm bớt số lần tỉnh giấc vào buổi đêm. Thở sâu giúp cải thiện lượng oxy ở phổi, tạo thêm nhiều oxy vào máu và tăng cường oxy cho não giúp giảm căng thẳng thần kinh và tăng sự thư giãn cho cơ bắp trong cơ thể. Ngoài biện pháp thở bằng ngực thì thở bằng bụng cũng là cách giảm stress hiệu quả, giúp dừng cơn “lôi đình” sắp bốc hỏa. Thở sâu và thở bụng có thể thực hiện ở bất cứ đâu, kể cả trong lúc làm việc. Kỹ thuật thư giãn thường bao gồm thiền, yoga, taichi. Nhưng vẫn còn nhiều cách tích cực để đạt được thư giãn. Ví dụ, đi bộ ngoài trời hoặc tham gia vào một hoạt động thể thao. Kỹ thuật thư giãn không quan trọng. Điều quan trọng là nó phù hợp với bạn và rằng bạn đã đạt được sự thư giãn thường xuyên với cách ấy. Nếu là một người quá thành đạt, thư giãn có thể bị đặt dưới danh sách các công việc của bạn. Nhưng đừng tự lừa phỉnh chính mình, mọi người đều cần thư giãn để phục hồi sức khỏe.
  • Chế độ ăn uống lành mạnh, tránh sử dụng thuốc lá và quá nhiều caffeine hay rượu: Thông thường, bạn nghĩ rằng uống rượu, hút thuốc hay uống thuốc an thần sẽ giảm stress hơn, nhưng thực chất, sử dụng một thời gian dài, bạn sẽ bị nghiện và lệ thuộc vào những thứ này nhiều hơn. Nếu không có chúng thì bạn khó chịu còn hơn bị stress đấy. Chất cồn có thể ảnh hưởng đến tình trạng giấc ngủ của bạn.
-Dừng tất cả công việc và nghỉ ngơi thư giãn vài ngày:

Những người bị stress thường gặp phải căng thẳng, áp lực từ công việc. Bạn hãy tìm ra nguyên nhân để giải quyết triệt để những áp lực đó. Nếu vẫn không giải quyết được bạn nên dừng tất cả công việc và nghỉ ngơi thư giãn vài ngày, tạm rời xa công việc một thời gian để thư giãn, tránh mệt mỏi quá sẽ rơi vào bế tắc, trầm cảm.

Biết bấm nút dừng: Lúc bạn đang kích động, đừng gửi mail, trả lời thư hoặc nhấc điện thoại lên và bấm máy. Phản ứng lại trong lúc chưa hạ hỏa sẽ khiến bạn càng stress thêm. Nên lắng nghe tiếng nói từ sâu trong bản thân mình trước khi cư xử bất cứ điều gì.

c/ Thay đổi môi trường/ngoại cảnh:

- Sắp xếp lại công việc:
Một trong những nguy cơ dẫn đến stress trong công việc chính là mức độ công việc dày đặc bạn phải làm. Bạn luôn căng thẳng, lo lắng nghĩ đến hạn chót phải thực hiện xong nhiệm vụ được giao. Lúc này, bạn cần phải lập kế hoạch, sắp xếp lại công việc hợp lí hơn bằng cách phân biệt rõ cái nào nên làm trước, cái nào nên làm sau, theo thứ bậc quan trọng. Đừng chất đống mọi việc! Sự thiếu tổ chức có thể gây ra căng thẳng và gây mất thời gian.

Càng căng thẳng, lo lắng, bạn càng có xu hướng “thả ga” và bỏ hết mọi việc sang một bên. Vấn đề không được giải quyết, càng dồn ứ càng khiến bạn rơi vào bế tắc.

Bạn bị stress cũng do ôm đồm quá nhiều thứ, đừng tự một mình làm mà nên san sẻ trách nhiệm cho người khác.

Dù công việc có bận rộn thế nào thì cũng nên dành thời gian ra nghỉ ngơi để thanh lọc đầu óc.

- Công khai cảm xúc của mình:
Hãy nhớ sử dụng từ “ tôi” để khẳng định bản thân . Ví dụ: "Tôi cảm thấy thất vọng bởi khối lượng công việc nặng hơn và thời gian hạn chế. Có một cái gì đó chúng ta có thể làm gì để cân bằng những điều trên?"

- Quản lý thời gian tốt hơn- Giới hạn thời gian cho tình huống.
Ví dụ: Đối phó với sự nói không ngừng nghỉ của một đồng nghiệp, bắt đầu cuộc trò chuyện với câu nói lịch sự, "Tôi chỉ có năm phút cho cuộc trò chuyện này."

- Trân trọng yêu cầu người khác thay đổi hành vi của họ, và sẵn sàng làm như vậy. Các vấn đề nhỏ thường trở nên lớn hơn nếu không được giải quyết.

3. ACCEPT (Chấp nhận)
  • Đôi khi ta không lựa chọn được tình huống, mà phải chấp nhận nó như vốn có của cuộc sống, chấp nhận bản thân với tất cả những gì mình có. Nhận ra và chấp nhận giới hạn: “Trèo cao, ngã đau”. Hãy thiết lập những mục tiêu thực tế và tính đến cả những phương án rủi ro.
  • Hãy tha thứ. Tức giận sẽ tốn sức lực. Tha thứ sẽ giải phóng mình khỏi tiêu hao năng lượng.
  • Học từ những sai lầm của bản thân.
4. ADAPT (Thích ứng)

Nghĩ rằng bạn không thể đối phó là một trong những yếu tố gây stress nhất. Đó là lý do tại sao “Thích ứng” – thường liên quan đến việc thay đổi những tiêu chuẩn hoặc mong đợi của bạn - có thể hữu ích trong việc đối phó với sự căng thẳng.
  • Điều chỉnh tiêu chuẩn của bạn: Thông thường stress bắt nguồn từ những suy nghĩ ban đầu rằng “mình bắt buộc phải làm tốt công việc này”. Các nhà nghiên cứu cho rằng từ “phải” chính là nguồn gốc để stress "mọc lên" và phát triển. Thực tế thì để hoàn thành tốt mọi công việc không phải lúc nào cũng dễ dàng, do vậy hãy tạo cho mình cảm giác thoải mái hơn với suy nghĩ “mình hãy cố gắng”. Xác định lại sự thành công và ngừng phấn đấu cho sự hoàn hảo, và bạn vẫn có thể vận hành dù có chút ít cảm giác tội lỗi và thất vọng.
  • Điều chỉnh lại vấn đề: Ví dụ: thay vì cảm giác thất vọng vì phải ở nhà với một đứa trẻ bị ốm, hãy nhìn nó như một cơ hội để thư giãn, làm việc nhà.
Stress sẽ không tự biến mất khỏi cuộc sống, và quản lý stress không phải là một sớm một chiều. Nhưng với sự trải nghiệm liên tục và kết hợp thay đổi lối sống, bạn có thể quản lý mức độ stress của mình và tăng cường khả năng đối phó với những thách thức của cuộc sống.

V. ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC

Thuốc chỉ nên sử dụng khi khả năng đáp ứng của cơ thể không còn thích nghi, nghĩa là khi có các biểu hiện stress bệnh lý - để góp phần phục hồi khả năng thích ứng và làm giảm nhẹ các rối loạn stress - và thường được chỉ định phối hợp với các liệu pháp tâm lý, do thầy thuốc thăm khám và chỉ định.
  • Các thuốc thường được sử dụng như: thuốc bổ sung magnesium, calcium, các vitamin, thuốc dưỡng não.
  • Các thuốc chủ yếu có tác dụng ngoại biên như thuốc ức chế beta-adrenergic, chất chủ vận alpha-adrenergic, thuốc kháng histamine.
  • Các thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương như thuốc an thần (benzodiazepines), thuốc chống trầm cảm (thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc :SSRIs).


Tài liệu tham khảo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Hồ Hải
theo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#234 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 02/08/2015 - 03:07

SOMEWHERE MY LOVE-NÀNG LARA BỊ CẤM

(Có ai nghe một bài hát trong vòng 3 tiếng đồng hồ chưa nhỉ...?)
Chắc chắn có những bài hát vì lý do gì đó bị cấm, còn các giai điệu bị cấm thì ít hơn nhiều. Chúng đều có số phận hết sức éo le, và khó biết nhất là khi nào, tại sao, vì ai mà cấm; lại càng khó biết bao giờ thì hết cấm? Một giai điệu mượt mà, vào loại đẹp nhất mà tôi từng biết, chắc tất cả mọi người đã từng nghe, nhưng hỏi là bài gì thì khá khó để trả lời, có thể vì số phận của nó chăng:


Hồi bé tý, tôi được bố “dẫn độ” đến nhà ông bạn cùng lớp là bác Nguyễn Văn Thương (mà bọn học trò láo nháo sau này cứ gọi là “cụ Thương” ) để hỏi xem cho học đàn gì. Bác ấy hỏi mấy câu, rồi phán tôi đi học violin cho thuận tiện, mà muốn học violin thì hãy phải học thêm hoặc kèn harmonica hoặc đàn măng-đô-lin để học xướng âm luôn. Thế là bố tôi bắt đầu dậy tôi đánh măng-đô-lin bằng cái đàn đã theo ông nhiều chục năm rồi. Đánh đàn đó không khó, nên cũng chả bao lâu sau bố tôi chơi cho tôi nghe để mà bắt chước chơi lại một giai điệu mà theo bố tôi là rất hay và hợp với đàn dây (tất nhiên làm sao mà so được với các nghệ sỹ trong clip sau):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sau này tôi mới được nghe giai điệu này, nếu chỉ chơi với một guitar thôi thì cũng tuyệt hay, ví dụ Chet Atkin chơi rất độc đáo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Rất tò mò về bản nhạc mà không có lời này, vì nó đâu phải nhạc cổ điển, nhưng bố tôi giải thích đó là nhạc phim “Bác sỹ Zhivago”-một phim Mỹ mà Liên Xô cấm, mà Liên Xô còn cấm thì tất nhiên ở Việt Nam coi như không được phổ biến rồi. Lời cũng có nhưng bố tôi không biết, còn nhạc thì rất nổi tiếng ở nước ngoài, và bố tôi đã được nghe khi đi công tác rồi nhớ được thôi, vì giai điệu này rất hay tuy đơn giản. Nhưng tôi tò mò hơn về việc bị cấm vì sao, thì bố tôi chỉ bảo đó là câu chuyện về số phận anh bác sỹ ở Liên Xô, tôi còn bé quá nên lớn lên thì may ra mới biết được, nhưng “câu chuyện này ở Việt Nam có hàng nghìn chuyện”-đấy là câu nói cứ ám ảnh trí óc của đứa bé là tôi suốt đến tận bây giờ. Còn sao cấm mà vẫn chơi được thì đơn giản thôi, bố tôi bảo có ai biết bài ấy là bài gì đâu mà ngại!

Sau thống nhất thì miền Bắc tràn ngập văn hóa phẩm từ miền Nam mang ra, nhà mình cũng có rất nhiều đĩa, băng cối, cassette...thì hình như chỉ có một ca sỹ hát bài này-Thanh Lan với lời Việt của nhạc sỹ Phạm Duy với tên gọi “Người tình Lara”:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tôi còn bé nhưng đã rất thần tượng Thanh Lan thời đó, nhất là với những bài “nhạc trẻ” tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, tuy vậy ngoài chuyện giai điệu mình đã biết, thì không thấy có gì nổi bật ở version này. Nhưng khi nghe đĩa nhạc không lời của Paul Mauriat thì thấy giai điệu này tuyệt vời thật (và mới biết nó có tên gọi là “Lara`s Theme”):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sang tới Liên Xô, dù có để ý tìm, tôi chả thể kiếm được sách, được thơ nào của Boris Pasternak, và tất nhiên chẳng thể đọc được “Bác sỹ Zhivago”. Thế nên cũng dễ hiểu tôi chẳng bao giờ được nghe giai điệu đã từng chơi từ bé đó, ngoại trừ nghe nhạc không lời Richard Claydeman:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Mãi đến 1988, khi tình hình đã sắp đi đến hồi kết thúc của khối XHCN thì khán giả Xô viết mới được chính thức nghe bài hát tuyệt vời này qua sự trình diễn bởi “con họa mi Tiệp Khắc” Karel Gott hát đầu tiên (bằng tiếng Đức):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sau đó tôi được đọc “Bác sỹ Zhivago”-bắt đầu được xuất bản lần đầu tại Liên Xô, được xem phim “Bác sỹ Zhivago” qua đầu video...Phải thú nhận rằng có thể trình độ cảm nhận qua tiếng Nga của tôi không đủ để thấm thía hết cái hay của tác phẩm văn học, nhất là các bài thơ, nên tôi thích bộ phim hơn nhiều, tuy rằng sau này đa số các nhà phê bình chê ỏng eo tác phẩm Hollywood đó “thua xa cuốn truyện gốc”.
Xin tóm lược lại những thông tin chính, vì chắc rất nhiều người đã đọc, đã xem rồi (còn ai chưa xem phim thì tôi rất khuyên nên xem bộ phim kinh điển đó!):
Boris Pasternak (1890-1960) là người Do Thái, sinh ra trong gia đình văn nghệ sỹ và đã nổi tiếng thần đồng thơ khá sớm. Ông học văn-sử-triết ở Tổng hợp Moscow, và sau cách mạng gia đình ông được sang Đức định cư, nhưng ông ở lại Nga và lấy vợ. Những năm 20-30 ông viết nhiều thơ, văn xuôi, dịch rất nhiều thơ từ tiếng Gruzia sang tiếng Nga, thế nên ông đã là thành viên hội nhà văn Nga từ khóa đầu và có thể coi là nhà thơ rất được ưu ái của Xtalin (người gốc Gruzia). Nhưng chính quyền bắt đầu ghẻ lạnh ông từ 1936, khi ông tích cực lên tiếng bênh vực, giúp đỡ những nhà thơ, nhà văn chủ yếu là người Gruzia bị cính quyền Xô Viết cho đi tập trung cải tạo, thậm chí đàn áp tàn khốc. Ông giảm bớt làm thơ và bắt tay viết tiểu thuyết “Bác sỹ Zhivago” mười năm liền (1940-1950).

Nội dung bộ phim sau này (hơi khác với cuốn truyện) nói về cuộc đời của tầng lớp trí thức trải qua bao thăng trầm, từ trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất và đến mãi sau cách mạng Tháng Mười ở đất nước Xô viết, với biết bao khổ nhục, đè nén, ly tán, đày đọa, tha phương...Qua đó có thể thấy chính hình bóng cuộc đời của tác giả, của những người quen của Pasternak, nhất là những người Do Thái. Hình ảnh và chủ đề xuyên suốt cuốn truyện (bộ phim) là cậu bé Jury Zhivago thừa hưởng được từ mẹ một cây đàn balalaika, lớn lên cuộc tình của anh với Lara trải qua trăm đắng ngàn cay, nhiều lần tan vỡ rồi định mệnh lại đưa họ đến với nhau rồi lại thủ thách họ khắc nghiệt hơn, mặc dù anh là bác sỹ và là nhà thơ nổi tiếng nhưng thơ của anh lại bị chính quyền coi là có vấn đề về tư tưởng. Khi họ đều đã chết đau thương được mười mấy năm thì người em họ của Zhivago nay đã là tướng Hồng quân và biết rằng hiện nay đánh giá của chính quyền về những tác phẩm của Jury Zhivago cũng đã khác xưa, mới thấy một cô bé rất giống Jury, bèn tra hỏi xem có phải là con của bác sỹ Zhivago không, nhưng cô bé ít tuổi nhưng đã rất từng trải này chối thẳng thừng, khi cô bé ra về thì thấy trên lưng vẫn đeo theo cây đàn balalaika của người bà để lại từ những năm xưa...

Truyện rất hay (nhưng đúng như bố tôi đã nói, với lịch sử đau thương bộn bề của đất nước ta thì “câu chuyện này ở Việt Nam thì có hàng nghìn” là vậy!) và tất nhiên nó đừng hòng được xuất bản ở CCCP, mặc dù lúc đó đã giữa những năm 50 “xét lại” của Khrusev. Nó được xuất bản đầu tiên ở Ý, rồi Anh, Hà Lan, Mỹ..CIA thấy ngay được giá trị tuyên truyền của tác phẩm vĩ đại này, nên đã in phát không cho các công dân CCCP ra nước ngoài, cũng như cấp tập vận động để Pasternak được trao giải Nobel văn học-phải nói về tài năng thì ông rất xứng đáng vì là một trong những thi sỹ hàng đầu của thế kỷ 20 và trước đó, từ 1946-1950 đã liên tục được đề xuất nhận giải. Tất cả những điều này đều được đồn đoán từ lâu nhưng mới chính thức được “bạch hóa” 99 tài liệu của CIA liên quan đến Pasternak và tác phẩm, vào đầu năm 2015 này. Và rất nhanh chóng năm 1958 ông được chọn để trao giải Nobel văn học “vì các tác phẩm thơ và cuốn truyện Bac sỹ Zhivago”. Tất nhiên đó là một đòn đánh mạnh vào hệ tư tưởng Xô viết, thế nên Pasternak bị một trận rủa xả không tiền khoáng hậu, hầu như tất cả các nhà văn, nhà phê bình lớn nhỏ của Liên Xô cũ đều tham gia theo phương châm “tôi chưa đọc (làm gì có xuất bản đâu mà đọc)-nhưng tôi lên án!”. Không thể chịu được sức ép tinh thần ấy, Pasternak đã từ chối nhận giải, rồi mất ngay sau đấy năm 1960. Bà vợ hai của nhà văn còn bị dựng chứng cớ ngụy tạo, cho đi đày 4 năm rồi mới được tha, và chỉ sau 30 năm giải Nobel văn chương ấy mới được trao lại cho con trai của ông...

Cuốn tiểu thuyết này rất ăn khách ở thế giới tư bản lúc ấy, vào thời đối đầu Nga-Mỹ, Gagarin bay lên vũ trụ, giải Nobel...Và cũng dễ hiểu là năm 1963 MGM-hãng phim lớn của Hollywood sắp phá sản đến nơi liều đánh canh bạc chót, mua bản quyền câu chuyện, và chuẩn bị làm phim “Bác sỹ Zhivago” trong tổng cộng chỉ 10 tháng quay phim. Bộ phim được coi là “cuốn theo chiều gió ở trong băng tuyết” này với đạo diễn nổi tiếng David Lean tất nhiên không được quay ở CCCP mà đoàn làm phim phải đến quay ở Phần Lan và Canada cho giống cảnh Nga, với dàn diễn viên gạo cội nhưng nhân vật chính-bác sỹ Zhivago- lại do một anh chàng mới toe-Omar Sharif (diễn viên hạng hai, gốc Ai Cập, da ngăm ngăm, không có tí khí chất Nga nào!)-đóng và làm nên tên tuổi lẫy lừng. Vì quay quá gấp nên rất nhiều cảnh mùa đông hóa ra lại phải quay đúng lúc mùa hè, có những khi phải mặc áo lông thú để quay lúc nhiệt độ lên đến 47 độ C! Năm ấy mùa đông cũng không có tuyết, cảnh tuyết tuyệt đẹp hóa ra toàn bột đá hoa cương. Cảnh phim đối với tôi ấn tượng nhất là khi cả tòa lâu đài băng giá, các cửa sổ băng đóng dày...hóa ra lại quay đúng mùa hè, phải dùng nến đính lên cửa sổ như bông tuyết...

Bộ phim ra mắt và đạt được kết quả đáng kinh ngạc, bất chấp mọi sự chê bai của các nhà phê bình là “bộ phim thua xa cuốn tiểu thuyết” hay “các nhân vật đều rất bi quan”, 5 Oscar, 5 Quả cầu vàng, trở thành một trong 10 phim ăn khách nhất trong lịch sử Hollywood, cứu được hãng MGM khỏi sập tiệm (doanh số chỉ thua “Cuốn theo chiều gió” đối với hãng này), và chàng diễn viên ăn may Omar Sharif vì ký kết ăn theo doanh số nên kiếm được 10 triệu USD-cát xê kỷ lục của mọi thời đại, nếu quy đổi theo thời giá! Nhưng còn hơn cả cuốn phim, âm nhạc của nó đã lan tỏa khắp thế giới...

Đạo diễn nổi danh David Lean chiếu mấy cảnh quay cho nhạc sỹ Maurice Jarre (Pháp, thiên tài chỉ huy và viết nhạc phim của thế kỷ 20) chỉ trước khi đóng máy 6 tuần, nên thời gian viết và trình diễn nhạc không nhiều. Vì nội dung phim chỉ xảy ra trên đất Nga (phim màu đầu tiên của “tư bản” làm về Nga hoàn toàn) nên ngoài khá nhiều nhạc cổ điển của các nhạc sỹ Nga ra thì Jarre đã viết chủ đề xuyên suốt và được đạo diễn đồng ý ngay, đó là “Lara`s Theme” theo tên gọi của nữ nhân vật chính, được chơi bởi dàn nhạc lớn nhất có tới 110 nhạc công và hợp xướng 40 người - kỷ lục cho mọi bản nhạc phim. Chưa hết Jarre muốn có một đoạn nhạc phải chơi đúng bằng balalaika-nhạc cụ dân tộc của Nga- nên ông phải đi đến nhà thờ theo giáo phái Nga tại Mỹ để mời bằng được mấy Nga kiều chơi loại đàn này về đánh cùng dàn nhạc. Bởi họ đâu có biết đọc nốt nên ông đã phải dạy “vo” để họ chơi đúng giai điệu đó-cũng là cách như bố tôi dạy tôi hồi bé...

Giai điệu mượt mà này có thể chơi chỉ bằng một nhạc cụ- pianist Danny Wright chơi vô cùng truyền cảm:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Giải Oscar cho nhạc phim vẫn chỉ là khúc dạo đầu cho “Lara`s Theme”. Sang năm 1966 tác giả lời Paul Webster viết lời ca cho giai điệu tuyệt đẹp này, là bài hát “Somewhere My Love” và được Ray Conniff cùng ban nhạc của ông trình diễn-bài hát được giải “Grammy” này sẽ gắn với Ray đến suốt cuộc đời:
Ray Conniff & The Singer (Lyrics):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Đây là bài hát yêu thích nhất mà ông hay trình diễn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ray Conniff biểu diễn tại Brazil trên sân vận động:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sau này hàng chục năm bài hát Lara này vẫn gắn với tên tuổi của ông...

Ca khúc trên nền nhạc valse nhẹ nhàng, lời đơn giản mà rất hay này được rất nhiều ca sỹ nổi tiếng cover lại, nhưng theo tôi hát hay nhất vẫn do Andy Williams hát (ca sỹ hát Love Story sau này)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



và Andy hát live:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sang năm 1967, khắp châu Âu, châu Mỹ vang lên bài hát này, trong khi đó tất nhiên ở CCCP và Việt Nam thì không hề có giai điệu, lời ca của Lara:
Tại Đức do Al Martino hát trên TV:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bản tiếng Pháp đầu tiên:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Kenny Rogers :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tất nhiên không thể thiếu ca sỹ jazz Frank Sinatra mặc dù cảm nhận của tôi có thể không hợp với cách hát của ông trong bài này:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Hát tình cảm nhất chắc là Daniel O'Donnell :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Jerry Vale và clip rất đẹp từ những cảnh quay trong phim, ấn tượng nhất đối với tôi vẫn là cảnh xe ngựa và tòa lâu đài băng giá:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



“Somewher My Love –There will the songs to sing...” –bài hát vô cùng nhẹ nhàng, đầy cảm xúc đau thương nhưng cũng tràn trề hy vọng vào những mùa xuân mới, những hội ngộ của duyên số... Sau này có Ngọc Lan hát:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Có thể tiếng Việt làm cho khó thể hiện tình cảm sâu sắc qua nét nhạc valse mượt mà này chăng? Hay là tuy Ngọc Lan đã hát hay hơn Thanh Lan trước kia, nhưng đều chưa cảm thấy được hết nỗi thống khổ của những cuộc tha hương trong mùa đông băng giá Siberi? nhưng quả là hai thần tượng của tôi hát bài này chưa đủ ấn tượng...Phụ nữ hát bài này khá ít, hay nhất chắc là Connie Francis (ca sỹ Mỹ gốc Ý, hát cả bằng tiếng Ý bài này):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Rất nhiều ca sỹ opera lớn đã hát lại, ví dụ Kate Shmith, Placido Domingo, Kristy Lane:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Khoa học kỹ thuật nay cho phép cả một giai điệu “Lara`s Theme” bây giờ có thể chơi chỉ bằng một người, trên một “cỗ máy” đúng hơn là một cây đàn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nhưng cỗ máy dù tối tân đến đâu cũng không thể bì được với dàn nhạc của André Rieu:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Hoặc xin thưởng thức clip tuyệt đẹp và nhạc không lời rất lắng đọng của David Davidson:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Phải nói là cũng như ở bộ phim “Love Story” sau này, ở phim “Bác sỹ Zhivago” âm nhạc đã có một sức sống còn vượt qua cả cuốn phim nay đã bắt đầu bị lãng quên dần. Ngày nay “bài hát dành cho Lara” ở ta đã từ lâu không còn bị cấm nữa (nếu đúng là có một danh sách nhạc phẩm bị cấm như vậy), nhưng quả thật giai điệu này đã bị thiệt thòi quá nhiều. Ngay cả tôi có lẽ cũng chẳng nhớ đến nó, nếu một hôm không lôi đĩa Karaoke tiếng Anh ra nghịch, trong đó có bài “Somewhere My Love” này. Khi tôi bảo với bố tôi, đây chính là “bài hát Bác sỹ Zhivago” mà ngày xưa bố đã dạy con chơi măng-đô-lin, thì lạ chưa, bố tôi lục trong kho ra đúng cái đàn mà cách đây gần nửa thế kỷ ông đã dạy tôi chơi. Tôi thử nhưng chẳng còn đánh được chút nào, trong khi đó ông vẫn chơi được đúng theo giai điệu của “Zhivago”, và lần đầu tiên có lời để bố tôi vừa đàn vừa hát “Somewhere My Love...God Speed My Love Till You Are Mine Again”. Cả cuộc đời tôi như hiện lại trong tiếng hát già nua của bố, với tôi đó chính là bản cover hay nhất của “Somewhere My Love”.

P.S. Tôi xin tặng phần bài viết này cho người bạn FB đã hỏi tôi “sao cứ ăn mày dĩ vãng để làm gì”. Một người mẹ Ý trong một buổi đông lạnh, khi sắp sinh đứa bé mà biết trước là con gái đã không thể nghĩ ra cái tên nào cho con mình, nên đã chọn tên của nhân vật chính trong “Bác sỹ Zhivago” để đặt cho con gái, và thế là ra đời Lara Fabian. 42 năm sau cô ca sỹ nay đã nổi tiếng, đã tổ chức buổi ca nhạc “Mademoiselle Zhivago” tại Moscow, cùng với tác giả Igor Krutoi-những giai điệu và lời ca đẹp đúng theo truyền thống của “Somewhere My Love”:

«Dĩ vãng-đó là nơi sinh ra tâm hồn”...

Nam Nguyen
(theo facebook tác giả)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#235 Hoa Cái

    Hội Viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPip
  • 5381 Bài viết:
  • 18595 thanks

Gửi vào 02/08/2015 - 04:29

Thật cảm động khi đọc hồi ký tự sự về mối duyên văn nghệ kéo dài gần 1 đời người. Tài tử nam đóng vai chánh phim Dr Zhivago vừa mất năm 2015.

Thanked by 2 Members:

#236 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 09/08/2015 - 03:39

"Lực học Thích Ca" đối chiếu với Cơ học Newton và Thuyết Tương đối của Einstein


(PGVN)
Lực học Newton và Einstein có thể đem lại cuộc sống tiện nghi cho con người bằng những phát minh sáng chế rất tài tình, chẳng hạn nhà cửa, xe cộ, máy bay, tàu thủy, máy vi tính, điện thoại di động…Nhưng tôi nghĩ chỉ có lực học Thích Ca mới đem lại cuộc sống giác ngộ, mưu cầu sự an lạc và hòa bình đích thực cho nhân loại và muôn loài chúng sinh một cách vững chắc


Lực học là môn nghiên cứu tác động của lực đối với vật chất, thuật ngữ thông dụng gọi là Cơ học (Mechanics) hoặc có khi gọi là Động lực học (Dynamics). Cơ học cổ điển của Newton, ta tạm gọi là cấp độ I của lực học, hay lực học Newton, chủ yếu nghiên cứu tác dụng của lực đối với cố thể vật chất. Cố thể vật chất là vật chất ở thể rắn có một khối lượng đủ lớn để con người có thể cảm nhận được, còn đối với vật chất cực vi như nguyên tử (atom) hay các hạt hạ nguyên tử (subatomic particles) thì Newton chưa có điều kiện nghiên cứu tới. Đối với các hạt vật chất cực vi này thì có môn Cơ học lượng tử (Quantum mechanics) nghiên cứu chúng. Cơ học lượng tử có 3 vấn đề khác hẳn cơ học cổ điển:

1. Lượng tử là một khái niệm mới về vật chất chỉ mới được quan niệm từ đầu thế kỷ 20. Trước kia người ta cho rằng ánh sáng hay năng lượng là một thực thể liên lục nhưng Max Planck khám phá rằng ánh sáng hay năng lượng cũng chỉ là tập hợp các lượng tử rời rạc chứ không phải liên tục. Cơ học lượng tử được thành lập chủ yếu bởi các nhà khoa học sau : Max Planck, Albert Einstein, Niels Bohr, Werner Heisenberg, Erwin Schrödinger, Max Born, John Von Neumann, Paul Dirac, Wolfgang Pauli, De Broglie… Trong các vị này, Einstein là người nổi tiếng nhất nên xin lấy tên ông làm đại diện cho cấp độ II của lực học, tức là lực học Einstein.

2. Lưỡng tính sóng hạt của ánh sáng và năng lượng. Người ta thường quan niệm rằng hạt là vật chất, còn sóng là sự dao động của vật chất chứ bản thân sóng không phải là vật chất. Nhưng với lưỡng tính sóng hạt, sóng cũng là vật chất nhưng ở dạng năng lượng. Năng lượng đó không liên tục mà rời rạc cho nên từng hạt năng lượng gọi là lượng tử (quantum). Lưỡng tính sóng hạt do nhà khoa học Pháp Louis de Broglie khám phá và trình bày trong tác phẩm Recherches sur la théorie des quanta (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử). Nghiên cứu này đem đến cho ông giải Nobel Vật lý năm 1929.

3. Hiện tượng rối lượng tử (Quantum Entanglement) là một hiện tượng vô cùng khó hiểu đối với các nhà khoa học. Thiên nhiên có thể tạo ra nhiều sự vật đồng thời ở nhiều vị trí khác nhau nhưng các sự vật đó quan hệ chặt chẽ với nhau, khiến người ta không thể hiểu được rằng đó là một sự vật duy nhất xuất hiện đồng thời tại nhiều vị trí khác nhau trong không gian, hay nhiều sự vật giống hệt nhau xuất hiện đồng thời tại nhiều vị trí, nhưng liên kết với nhau chặt chẽ, khi một sự vật bị tác động thì tất cả các sự vật kia bị tác động tức thời và y hệt. Nếu cho rằng khi tác động lên một vật, thông tin sẽ được truyền đến các vật kia, thì tốc độ truyền sẽ là con số không tưởng, gấp hàng triệu lần tốc độ ánh sáng. Sinh thời Einstein bối rối trước hiện tượng này, ông gọi đó là tác động ma quái từ xa (Spooky action at a distance). Hiện tượng rối lượng tử phải dẫn đến kết luận chắc chắn rằng số lượng, không gian, thời gian đều không có thực, đó chỉ là sự biến hiện của tâm thức. Tác động tức thời không mất chút thời gian nào là vì không gian không có thực. Một sự vật xuất hiện đồng thời ở nhiều vị trí khác nhau là vì số lượng không có thực, số lượng một hay nhiều là do tâm thức cảm nhận. Không gian không có thực thì thời gian cũng không có thực, bởi vì thời gian là một chiều kích của không gian. Đây không phải chỉ là lý thuyết suông mà ngày nay đã có ứng dụng. Mạng internet cho phép chúng ta có thể đồng thời nói chuyện, gặp gỡ cùng lúc với bạn bè, người thân ở nhiều nơi xa xôi trên thế giới vì khoảng cách không gian trên địa cầu đã bị triệt tiêu với thông tin truyền đi bằng vận tốc ánh sáng. Giả sử chúng ta có thể đạt tới tốc độ của ý niệm, thì khoảng cách không gian vũ trụ hàng tỉ quang niên không còn nữa, chỉ một niệm là đến. Lực học trong nền tảng vận tốc vô hạn, ta tạm gọi là cấp độ III của lực học hay là lực học Thích Ca vì những khái niệm này do Đức Phật Thích Ca khai thị.

Trước khi đi sâu vào từng cấp độ lực học, ta hãy tự hỏi tại sao lực học có tầm quan trọng rất lớn đối với vũ trụ và thế giới. Xin liệt kê mấy ý kiến như sau:

a) Lực học quan trọng vì thế giới cấu tạo bằng những phần tử rời rạc như hạt quark, electron. Phải có lực kết nối chúng lại với nhau. Ba hạt quark (2up+1down) kết hợp thành hạt proton. Ba hạt khác (1up+2down) kết hợp thành hạt neutron. Proton và neutron tạo thành hạt nhân nguyên tử. Hạt nhân nguyên tử kết hợp với electron tạo thành nguyên tử vật chất. Nguyên tử kết nối với nhau thành phân tử hoặc thành cố thể vật chất. Phân tử hữu cơ kết nối với nhau thành chất sống, tế bào sinh vật. Tế bào kết nối với nhau thành sinh vật, con người. Ở tầm vĩ mô lực hấp dẫn liên kết mặt trời và các hành tinh thành thái dương hệ. Các thái dương hệ lại xoay quanh dải ngân hà, các thiên hà tương tác với nhau trong vũ trụ bao la.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Trong vũ trụ, chỉ có 4 loại lực tương tác cơ bản, đó là : Lực hấp dẫn (force de gravité, gravitation) là lực hút giữa vật chất với nhau, có tác dụng ở mặt vĩ mô. Lực điện từ (force électromagnétique, electromagnetism) tạo ra từ trường trong đó điện tích cùng dấu thì đẩy nhau, khác dấu thì hút nhau. Lực tương tác mạnh (force interactive forte, the strong interaction) là lực liên kết các hạt quark tạo ra hạt proton và hạt neutron, tạo ra sự vững bền của hạt nhân nguyên tử và giữ cho electron chuyển động theo quỹ đạo nhất định. Lực tương tác yếu (force interactive faible, the weak interaction) tạo ra hiện tượng phóng xạ của các nguyên tố nặng (như uranium) tức là giải phóng một số proton và neutron khiến nguyên tử dần dần bị phân rã. Lực điện từ và lực tương tác yếu, từ năm 1983 khi khám phá hạt tương tác boson W và boson Z thì có thể gom thành một lực chung gọi là lực tương tác điện yếu (interaction of weak electromagnetic fields)

c) Thành phần cơ bản nhất của vật chất là lượng tử thật ra chỉ là hạt ảo, không có thật, lượng tử chỉ là khái niệm trừu tượng. Nhưng lượng tử được lực kết nối thành các hạt cụ thể như quark, electron. Ta có thể thấy, cảm nhận được chúng, cũng như cảm nhận nguyên tử. Thật ra nguyên tử không có thật, nguyên tử chỉ là giả danh, nguyên tử chỉ là mối quan hệ tổng quan giữa quark, proton, neutron và electron mà thôi, nghĩa là nguyên tử thật ra chỉ là lực kết nối các hạt quark, proton, neutron và electron lại với nhau. Chúng ta thấy và cảm nhận cái hình tướng là nguyện tử, thật ra chỉ là lực tương tác giữa các hình tướng ảo khác là quark, proton, neutron, electron. Ngay cả lực cũng không có thật, lực chỉ có trong tâm thức. Chính vì lẽ này mà Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism” (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).

d) Lực có thể chuyển hóa thành năng lượng và ngược lại. Năng lượng của các nhà máy điện nguyên tử chính là lực tương tác hạt nhân mạnh được giải phóng do sự phân rã của nguyên tử uranium U235 hoặc plutonium Pn239.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nguyên tử Uranium 235


Cụ thể như sau: Để tạo ra sự phân hạch của U -235, cần phải làm cho nơtron đi vào hạt nhân của nó. Vì hạt nhân nguyên tử rất nhỏ nên nơtron có tốc độ cao mặc dù có thể đến gần hạt nhân nhưng nhiều khi lại bay qua bên cạnh mà không trúng hạt nhân và cơ hội xâm nhập vào bên trong hạt nhân rất ít. Nếu làm giảm tốc độ của nơtron và kéo dài thời gian tồn tại của nó ở bên cạnh hạt nhân thì xác suất va chạm với hạt nhân sẽ trở nên cao hơn. Người ta gọi nơtron đã bị giảm tốc độ là nơtron nhiệt (Thermal Neutron). Nơtron nhiệt sẽ gây ra phản ứng phân hạch (Nuclear Fission) khi va chạm với một hạt nhân nguyên tử U -235, các mảnh vỡ đó bay phân tán với tốc độ cao. Phản ứng sinh ra một năng lượng khổng lồ được gọi là năng lượng nguyên tử, phát ra dưới dạng nhiệt, ánh sáng với các tia gama, beta, alpha mà nguồn gốc phát sinh là các proton, neutron, electron tự do tức là không bị kết hợp trong các nguyên tử của các nguyên tố mới. Các tia này là phóng xạ độc hại gây ra bệnh tật lâu dài cho sinh vật. Phản ứng ngoài việc giải phóng ra một năng lượng cực lớn, đồng thời sinh ra 2~3 nơtron mới. Các neutron này tiếp tục bắn phá hạt nhân U235 khác tạo ra phản ứng dây chuyền ngày càng tăng, đó là nguyên lý của bom nguyên tử, còn trong nhà máy điện nguyên tử, người ta kiểm soát quá trình này để chỉ duy trì phản ứng ở một mức nhất định. Người ta gọi mảnh vỡ phát sinh do phân hạch là sản phẩm phân hạch (Fission Product). Phần lớn sản phẩm phân hạch có tính phóng xạ. Sau đây là một số sản phẩm phân hạch tiêu biểu:

-Strontium-90 (Sr-90) Chu kỳ bán rã khoảng 30 năm, khi hấp thụ vào cơ thể sẽ đọng ở xương và việc loại bỏ ra ngoài là khá khó khăn.

-Iodine-131 (I-131) Chu kỳ bán rã khoảng 8 ngày, khi hấp thụ vào cơ thể sẽ tập trung ở tuyến giáp trạng.

-Cesium-137(Cs-137) Chu kỳ bán rã khoảng 30 năm, dù có hấp thụ vào cơ thể cũng sẽ bài tiết tương đối sớm ra ngoài qua đường tiêu hoá.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Biểu đồ phản ứng phân hạch Uranium 235


Trong biểu đồ, hạt nhân U235 bị phân rã thành 3 nguyên tố mới là : U236, Kripton và Barium


Năng lượng chuyển hóa thành lực thì chúng ta thấy rất nhiều trong đời sống hàng ngày. Chẳng hạn động cơ nổ chuyển hóa từ nhiệt năng do đốt nhiên liệu thành cơ năng tức là lực đẩy chiếc xe chạy tới, hoặc đẩy chiếc phi cơ bay tới. Hoặc năng lượng điện biến thành cơ năng chạy các máy móc, động cơ điện, đồ điện gia dụng và đồ điện tử. Thế năng của nước biến thành điện năng với

các đập thủy điện. Quang năng của ánh sáng, Phong năng của gió đều có thể biến thành điện năng với các tấm pa-nô mặt trời (panneaux solaires) hoặc tua-bin gió.


Sau khi đã khảo sát các khái niệm về lực, ta bắt đầu đi vào xác định 3 cấp độ của lực học :

I. Cấp độ I, lực học Newton (1643-1727) : Lực chủ đạo là lực hấp dẫn và lực quán tính, đối tượng nghiên cứu là các thiên thể vĩ mô trong vũ trụ và các vật thể trung mô trong cuộc sống quanh ta. Khảo sát mang tính định lượng, công cụ chủ yếu là toán học và tư duy. Newton phát biểu 3 định luật cơ học :

Định luật 1 Newton (còn gọi là định luật quán tính): Một vật đang đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều sẽ đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều mãi mãi nếu không bị buộc phải thay đổi trạng thái đó bởi ngoại lực tác dụng lên vật.

Định luật 2 Newton: Biến thiên động lượng của một vật theo thời gian tỉ lệ với tổng lực tác dụng lên vật, và có hướng là hướng của tổng lực.

Định luật 3 Newton: Đối với mỗi lực tác động bao giờ cũng có một phản lực cùng độ lớn, nói cách khác, các lực tương tác giữa hai vật bao giờ cũng là những cặp lực cùng độ lớn và ngược chiều.

Ngoài ra ông còn tìm ra định luật vạn vật hấp dẫn: Hai vật có khối lượng M và m sẽ hút lẫn nhau bằng một lực F, tỉ lệ thuận với khối lượng của chúng và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách r , vật có khối lượng nhỏ m sẽ bị kéo về phía vật có khối lượng lớn M với gia tốc G. Công thức toán học là :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Theo công thức này thì khoảng cách càng gần thì lực hút càng lớn, khoảng cách càng xa thì lực hút sẽ giảm rất nhanh. Một vệ tinh ở cách xa Trái đất khoảng 400 km thì lực hút cùa Trái đất sẽ rất yếu, nó sẽ không rớt xuống đất nữa mà bay quanh Trái đất theo quỹ đạo nhất định tùy thuộc vào lực phóng vệ tinh và hướng tác dụng của lực. Khi đó vệ tinh ở trong tình trạng vô trọng lực tức không bị lực hút của Trái đất chi phối nữa.

Xem xét hiện tượng gió thổi trên bề mặt nước, gió sẽ tác động lên bề mặt nước một lực nhất định và làm bề mặt nước chuyển động với vận tốc cố định u. dưới tác dụng của độ nhớt, lớp liền kề phía dưới sẽ bị kéo theo chuyển động của lớp trên, Newton còn đưa ra định luật về các lưu chất (chất lỏng và chất khí). Nhưng định luật này phức tạp, liên quan tới độ nhớt của lưu chất, công thức tính toán bằng vi phân phức tạp và ít có ý nghĩa triết học nên ta không đi sâu.

Lực học Newton chưa hoàn thiện, nó chỉ đúng với vật thể có khối lượng lớn và vận tốc nhỏ. Tuy nhiên nó được ứng dụng rất nhiều trong đời thường, trong các phép tính thông thường về chuyển động.

Cấp độ II, Lực học Einstein (1879-1955) : Lực chủ đạo là 4 lực cơ bản đã nói ở phần trên. Đối tượng nghiên cứu là thế giới vi mô dưới nguyên tử và thế giới vĩ mô của các thiên thể. Công cụ là toán học, các thiết bị như máy gia tốc, các loại máy đo tối tân và khả năng tư duy của trí não, đặc biệt là các thí nghiệm tưởng tượng. Lực học Einstein có nhiều điểm khác cơ bản so với lực học Newton như đã nói trên. Ở đây xin nhấn mạnh một số điểm chính yếu :

1. Quan niệm về không gian, thời gian, khối lượng vật chất đã có thay đổi. Đối với Newton, những đại lượng đó là bất biến, còn với Einstein, không gian, thời gian, khối lượng là khả biến, có thể thay đổi theo vận tốc, theo hệ qui chiếu. Với Einstein, không có hệ qui chiếu chuẩn, một vật đứng yên hay chuyển động là tương đối với hệ qui chiếu hoặc đối với vật khác. Thí dụ ta đang ngồi trên đoàn tàu hỏa đang chạy. Đối với tàu hỏa, ta ngồi yên bất động, nhưng đối với nhà ga, cảnh vật dưới đất thì ta đang chuyển động. Dù cho ta đang nằm ngủ trong nhà mình, ta cũng đang chuyển động với vận tốc rất lớn theo Trái đất. Rồi cả thái dương hệ cũng đang chuyển động trong dải Ngân hà. Rồi cả dải Ngân hà cũng đang chuyển động trong vũ trụ. Tất cả đều là tương đối.

Độ dài của cây thước mẫu sẽ thay đổi, rút ngắn lại khi nó di chuyển với vận tốc gần bằng ánh sáng. Thời gian vật lý cũng thay đổi rút ngắn lại khi di chuyển với vận tốc lớn gần bằng ánh sáng, cụ thể hóa bằng câu chuyện về hai anh em song sinh, người anh ngồi phi thuyền bay với vận tốc cực cao trong một buổi, thì trên địa cầu đã trải qua mấy chục năm, người em trở nên già hơn người anh rất nhiều. Như vậy thời gian không giống nhau đối với hai anh em vì họ ở trong hai hệ qui chiếu khác nhau. Khối lượng vật chất cũng không cố định, nó sẽ tăng lên nhiều khi vận tốc cực cao, cụ thể hạt proton khi di chuyển gần bằng ánh sáng trong máy gia tốc thì khối lượng của nó tăng lên gấp 4 lần. Nếu nó di chuyển bằng tốc độ ánh sáng thì khối lượng sẽ tăng lên vô hạn, nhưng trong thực tế, vật có khối lượng không thể di chuyển bằng tốc độ ánh sáng vì nó đòi hỏi một lực vô cùng lớn mà người ta không thể đáp ứng được.

2. Trong lực học Einstein thì lực hấp dẫn được thay bằng khái niệm sự biến dạng của thời không. Nên nhớ rằng trong lực học Newton, thời gian và không gian là hai đại lượng riêng biệt độc lập với nhau. Còn trong lực học Einstein, hai đại lượng này không độc lập, không thể tách rời và được gọi chung là thời không (space-time). Vật chất làm cho thời không biến dạng, mật độ vật chất càng lớn, thời không càng bị cong nhiều. Ánh sáng không có khối lượng và chuyển động theo đường thẳng. Lực học Newton không thể giải thích được tia sáng khi đi qua gần mặt trời thì bị cong đi, bởi vì không có khối lượng thì ánh sáng không bị chi phối bởi lực hấp dẫn. Nhân dịp nhật thực năm 1919, người ta đã chụp hình được mặt trời, chứng minh được tia sáng bị cong, Einstein giải thích rằng chính vì mật độ vật chất cao của mặt trời đã làm thời không chung quanh nó bị biến dạng cong đi nên ánh sáng đi qua đó phải cong theo.

3. Khái niệm tương đối trở thành ý tưởng chủ đạo trong lực học Einstein. Không gian, thời gian, khối lượng vật chất đều là tương đối. Tương đối nghĩa là không độc lập, mọi sự vật đều tùy thuộc lẫn nhau và có thể thay đổi. Khái niệm tương đối được Einstein nêu ra hai lần. Lần đầu vào năm 1905, ông gọi đó là Thuyết tương đối đặc biệt hoặc tương đối hẹp (Special or Simply Relativity). Lý thuyết này xác định tính tương đối của không gian, thời gian và khối lượng vật chất, xác định tốc độ ánh sáng là một hằng số gần bằng 300.000km/giây, xác định sự tương đương giữa vật chất và năng lượng với công thức nổi tiếng E=mc2. Lần hai vào năm 1915, ông gọi đó là Thuyết tương đối tổng quát (General Relativity), đặc biệt luận về trường hấp dẫn trên bình diện vĩ mô của vũ trụ. Thuyết này tiên đoán sự dãn nở của vũ trụ, tương ứng với sự dịch chuyển về phía hồng ngoại của quang phổ; tiên đoán sự hiện hữu của các lỗ đen vũ trụ nơi mật độ vật chất tập trung quá lớn đến mức ánh sáng không thể thoát ra, không phải vì lực hấp dẫn mà vì trường hấp dẫn có độ cong quá lớn. Tia sáng bị cong trong trường hấp dẫn dẫn đến hiệu ứng thấu kính hấp dẫn, nhiều hình ảnh của cùng một thiên thể được nhìn thấy đồng thời trên bầu trời.

Tuy rất thành công nhưng thuyết Tương đối của Einstein vẫn còn những vấn đề chưa giải quyết được. Chẳng hạn thuyết Tương đối chưa bao gồm Cơ học lượng tử. Einstein đã nỗ lực trong 30 năm cuối đời, tìm cách thống nhất thuyết Tương đối và Cơ học lượng tử thành một TOE (Theory Of Everything_Lý thuyết có thể giải thích được tất cả) mà ông gọi là Lý thuyết trường thống nhất (Unified Field Theory) nhưng cuối cùng thất bại, ông qua đời năm 1955 mà không giải quyết được vấn đề, và cho đến nay (2011) cũng chưa ai giải quyết được.

Chính vì vậy, chúng ta phải trở lại với đạo lý xa xưa hơn rất nhiều, có thể giải quyết được vấn đề này bằng một cách khác hẳn.

Cấp độ III, Lực học Thích Ca (623-543 Trước Công nguyên) : Có lẽ chưa ai nghe nói đến lực học Thích Ca bao giờ, chỉ có Thiền sư Thích Duy Lực có đề cập sơ qua nhưng chưa kịp triển khai. Nay tôi mạo muội và cả gan bàn đến lực học Thích Ca dựa vào Kinh điển Phật giáo, nếu có sai sót, xin các bậc cao minh chỉ giáo.

Lực học Thích Ca chỉ triển khai một lực duy nhất là Tâm lực, đây là tổng hợp của 4 lực cơ bản trong vũ trụ, công cụ là Thiền định. Tất cả các nhà khoa học trên thế giới đều muốn tổng hợp 4 lực cơ bản, nhưng chỉ tổng hợp được hai lực là tương tác yếu và điện từ thành tương tác điện yếu (interaction of weak electromagnetic fields). Họ không ngờ rằng Thích Ca đã tổng hợp được từ xa xưa. Thích Ca không nghiên cứu về định lượng bởi vì số lượng là không có thực nên không có ý nghĩa, cũng vì vậy Thích Ca cũng không sử dụng các phương trình toán học. Mặt khác nếu có cố dùng đến phương trình toán học thì thời đó cũng chẳng có ai hiểu. Thích Ca dùng Thiền định để có được cái thấy siêu việt không bị tâm thức làm cho méo mó, do đó không còn bị vô minh chi phối. Để đạt tới mức Thiền định như vậy, phải trì giới tinh nghiêm nhiều đời nhiều kiếp bất thối chuyển, mới giải thoát khỏi mọi tập khí (thói quen sai lầm) hình thành từ lâu đời, đạt tới cái thấy vô thượng chánh đẳng chánh giác tức trí bát nhã. Bát nhã có đủ khả năng thấy và diệu dụng thực tướng của vạn vật.

Thích Ca thấy không phải bằng mắt thường, mà bằng huệ nhãn, rằng thực tướng của vạn vật là Không (thực tướng vô tướng), tất cả chỉ là ảo hóa, là nhân duyên kết hợp. Lượng tử, quark, electron, neutrino…tất cả mưới mấy loại hạt hạ nguyên tử (subatomic particles) mà con người đã tìm thấy và hy vọng tìm thấy nhưng thực tế chưa tìm được (graviton, higgs boson) đều chỉ là hạt ảo, chúng không tồn tại độc lập, mà chỉ hiện hữu trong tâm thức của người quan sát. Điều này các khoa học gia hàng đầu thế giới ngày nay cũng nhìn nhận. Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963) viết : “The very study of the external world led to the conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of reality” (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực tại).

Cơ học Newton thì cho là không gian, thời gian, khối lượng vật chất là thực tại khách quan, bất biến và có thật. Einstein nhận thức cao hơn một bậc, biết rằng không gian, thời gian, khối lượng vật chất không phải bất biến mà khả biến, tuy nhiên Einstein vẫn cho rằng các đại lượng đó là sự thật khách quan, nằm ngoài tâm thức (quan điểm duy vật). Thích Ca cũng không phủ nhận thế giới, nhưng thấy rằng không gian, thời gian, vật chất tuy hiện hữu nhưng đó là sự hiện hữu trong tâm thức chứ không phải thật, Thích Ca không dùng thuật ngữ khối lượng mà dùng một từ có ý nghĩa phổ quát hơn là số lượng để chỉ mức độ của vật chất. Có những vật chất không có khối lượng nhưng vẫn có số lượng, ví dụ bit thông tin, người ta không thể cân thông tin xem chúng nặng bao nhiêu nhưng vẫn đếm được số lượng nhiều ít của chúng, đơn vị tính là bit và byte. Bội số của byte là Kilobyte (KB), Megabyte (MB), Gigabyte (GB), Terabyte (TB). Các bội số sau đều lớn hơn số trước liền kề 1024 lần, trừ Terabyte chỉ lớn hơn Gigabyte 1000 lần.

Einstein tuy nhận thức cao hơn Newton nhưng vẫn còn chấp thật, nghĩa là cho rằng thế giới là có thật. Do đó ông thật sự bối rối đối với hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement ) không hiểu tại sao tín hiệu có thể truyền từ photon này sang photon kia với tốc độ gấp hàng triệu lần tốc độ ánh sáng trong khi ông đã chứng minh cho cả thế giới thấy rằng tốc độ ánh sáng là cao nhất trong thế giới vật chất. Vì thế ông gọi đó là tác động ma quái từ xa (Spooky action at a distance). Ông không hiểu rằng không gian, thời gian và số lượng vật chất đều chỉ là ảo, không phải thật, chúng chỉ hiện hữu trong tâm tưởng. Cũng cần hiểu rằng tâm không phải chỉ là ý thức. Ý thức chỉ là một phần rất nhỏ, cạn cợt của tâm thức. Phật giáo mô tả tâm thức gồm có bát thức (8 thức) mà thuyết Thập nhị nhân duyên và Duy thức học đề cập chi tiết. Bát thức gồm nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Nhãn thức là cảm giác phân biệt do mắt (thị giác) đưa vào não. Các thức kia lần lượt là cảm giác phân biệt của tai (thính giác), của mũi (khứu giác), của lưỡi (vị giác), của thân thể (xúc giác). Các cảm giác khác nhau được đưa vào não để so sánh, nhận biết và phát sinh ý thức. Ý thức là nhận thức tổng hợp của 5 thức trước, nó ghi nhớ trong ký ức và có khả năng tái hiện mà không cần tiếp xúc với ngoại cảnh. Ngoài ra còn hai thức rất quan trọng mà khoa học chưa biết mấy, là mạt-na thức và a-lại-da thức. Mạt-na chấp 6 thức trước và a-lại-da là của riêng nó. Còn a-lại-da là kho chứa dữ liệu thông tin cực kỳ lớn, để hình dung nó ta hãy tạm so sánh nó với internet. Tất cả dữ liệu của internet đều có thể hiển thị trên máy tính cá nhân khi có đủ điều kiện. Cả vũ trụ vạn vật mà ta tưởng là khách quan, ở bên ngoài ý thức, đều có thể hiện ra khi có đủ nhân duyên theo cơ chế tương tự như thế giới ảo của máy vi tính.

Vì vũ trụ là chủ quan, nên với lực học Thích Ca, lấy tâm lực là chủ đạo, để đi đến những nơi cực kỳ xa xôi trong tam giới, chỉ cần tịch (chết) ở nơi này và xuất hiện (sinh) ở nơi kia, bất luận khoảng cách không gian là bao nhiêu tỉ quang niên, số lượng là vô nghĩa vì không gian chỉ là ảo. Điều quan trọng là phải có khả năng sinh tử tự do thì mới chủ động được quá trình đầu thai. Chỉ có Phật, Bồ Tát, Tổ Sư, các bậc kiến tánh, mới thoát khỏi luân hồi, liễu giải sinh tử, đạt tới sinh tử tự do, hay nói cách khác, họ ngộ tính chất ảo hóa không thực của vũ trụ vạn vật nên không chấp bất cứ thứ gì là thật cả. Điều này trong kinh Bát nhã ba la mật đã nói rõ.

“Chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức , vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý , vô sắc thanh hương vị xúc pháp…”

Dịch nghĩa: Các pháp (vạn sự vạn vật) có bản chất là không, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, như vậy trong cái không, không có vật chất, không có các cảm giác như thọ (tiếp xúc), tưởng (tưởng tượng), hành (chuyển động, hoạt động), thức (phân biệt), không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý thức, không có các đối tượng của các giác quan là sắc (vật chất), thanh (âm thanh), hương (mùi hương), vị (vị giác của lưỡi), xúc (cảm giác của thân thể), pháp (đối tượng của ý thức)…

Còn chúng sinh vô minh thì sinh tử, đầu thai theo sự dẫn dắt của nghiệp lực, tưởng tam giới là có thật. Nguyên nhân cơ bản khiến có sự tưởng tượng như vậy là do vô minh, mắt xích đầu tiên của thập nhị nhân duyên. Chính vô minh khiến lầm lẫn nguyên tử là có thật, vật chất là có thật. Lý thuyết thập nhị nhân duyên chính là cơ bản của lực học Thích Ca. Từ vô minh, qua trùng trùng duyên khởi, hình thành vũ trụ vạn vật. Các nhà khoa học không hiểu tại sao có hiện tượng giam hãm (confinement) tức sự kiện các hạt quark bị nhốt vĩnh viễn trong hạt proton và trong hạt neutron. Họ cũng không hiểu nguồn gốc của lực tương tác hạt nhân mạnh là do đâu. Chính tâm cố chấp kiên cố là nguồn gốc của hiện tượng giam hãm cũng như của lực hạt nhân mạnh. Khi giải thoát khỏi tâm cố chấp này thì Bồ Tát có thể dễ dàng đi xuyên qua tường đá, vì bức tường cũng như thân thể là không có thật, không còn lực nào giữ cho các hạt quark dính chặt vào nhau nữa, không còn lực nào để dính chặt các hạt proton và neutron tạo thành hạt nhân nguyên tử nữa. Trương Bảo Thắng đã từng biểu diễn đi xuyên qua tường của Đại Lễ Đường Nhân dân Bắc Kinh năm 1982 trước sự chứng kiến của các nhà khoa học. Anh ta và một vài kỳ nhân khác có thể dùng tâm lực lấy các viên thuốc ra khỏi lọ mà không cần mở nắp, hoặc bỏ một đồng xu vào cái phích nước sôi, rồi lấy ra trong khi nắp phích nước đóng chặt, vừa bằng nút bấc ở trong và nắp nhôm ở ngoài.

Lực học Thích Ca nêu ra nguyên lý sinh diệt là qui luật của vũ trụ vạn vật, sinh diệt là đặc trưng của thế giới. Quá trình sinh diệt có 4 giai đoạn : Thành là giai đoạn hình thành của vật; Trụ là giai đoạn trưởng thành, thời hưng thịnh nhất của vật; Hoại là giai đoạn suy tàn của vật; Diệt là giai đoạn tiêu vong của vật. Theo cấp độ II, bốn lực cơ bản của vũ trụ là sức mạnh chủ yếu tác động đến quá trình này. Nhưng Thích Ca thấy thành trụ hoại diệt cũng chỉ là ảo, là giả, hoạt động trên cơ sở vô minh, nếu không có tưởng tượng của vô minh thì không có gì cả. Tâm như như bất động, vô hình, vô tướng mới đích thực là động cơ của sinh diệt. Nếu cứ theo thói quen vô minh thì Sinh diệt phát sinh do cấu trúc ảo, vô thủy vô minh của vật chất. Ảo tức là không thật nhưng tại sao lại hiện hữu? Hiện hữu đó chỉ có trong nhất niệm vô minh. Khi nào thì có nhất niệm vô minh ? Khi cấu trúc ảo vô thủy vô minh đó hình thành được sinh vật có bộ não và có lục thức, đó là điều kiện cho nhất niệm vô minh hay ý thức khởi lên, và ý thức đó nhận ra sự hiện hữu của vũ trụ vạn vật. Quá trình này ngày nay đã được chứng minh một cách rõ ràng qua phát minh máy vi tính. Electron là một hạt ảo, nghĩa là nó không thể độc lập tồn tại, nhưng nó tạo ra được dòng điện, dòng điện có hai trạng thái : đóng mạch, ký hiệu 1; ngắt mạch, ký hiệu 0. Chỉ với hai ký hiệu này, người ta tạo ra hệ đếm nhị phân, có thể diễn tả bất cứ số lượng nào chỉ với 2 ký hiệu đó thôi. Rồi người ta dùng các con số để diễn tả độ sáng, màu sắc, chữ viết, âm thanh, hình ảnh, video…Kết quả là người ta tạo ra cả một thế giới ảo và một ngành công nghệ thông tin rất phát triển hiện nay.

Lực học Thích Ca là một sức mạnh tâm linh nhằm giải thoát khỏi sinh tử luân hồi chứ không nhằm biểu diễn thần thông, nên các bậc giác ngộ rất ít khi hiển bày thần thông. Tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết, họ cũng hiển bày chút ít để duy trì lòng tin cho đời sau. Chẳng hạn Lục Tổ Huệ Năng đã chủ động để lại nhục thân bất hoại của mình.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Lục Tổ Huệ Năng


Còn các ngoại đạo như Trương Bảo Thắng cũng có thể có thần thông, nhưng nếu biểu diễn nhiều lần, họ sẽ mất hết công lực và không còn làm được nữa.

Sức mạnh tâm linh cũng có thể giúp hành giả tiếp xúc được với chúng sinh của thế giới khác, chẳng hạn thế giới của người quá cố. Các thế giới đó chẳng phải ở đâu xa, chúng đều nằm trong A lại da thức.

Sức mạnh tâm linh có thể phá bỏ sự ngăn cách giữa quá khứ, hiện tại, vị lai, phát hiện thực tướng thời gian không có thật, khiến có thể tiên đoán chính xác sự kiện chưa xảy ra. Đây không phải là dự đoán, không dựa trên suy luận lô-gích, mà thấy đích xác sự kiện, nói chưa diễn ra là nói theo chủ quan về thời gian của người đời, chứ dữ liệu đã có trong a-lại-da thức. Chú bạch tuộc Paul chọn Tây Ban Nha chiến thắng Hà Lan trong Giải World Cup Bóng Đá 2010 tại Nam Phi trước khi diễn ra trận đấu và thực tế diễn ra đúng như vậy.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Quốc kỳ Tây Ban Nha

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Quốc kỳ Hà Lan


Bạch tuộc Paul tiên tri kết quả trận chung kết Worid Cup 2010, Tây Ban Nha và Hà Lan ( )

Tiên tri của bạch tuộc Paul không phải ngẫu nhiên, vì 8 lần tiên đoán đều đúng 100% trong khi xác suất ngẫu nhiên để ra kết quả đúng trong 8 lần liên tiếp là rất thấp, không có đầu óc hoặc máy tính lô-gích nào làm được.

Sau đó không lâu, gần 4 tháng sau World Cup, bạch tuộc Paul tịch theo đúng truyền thống Phật giáo vì đã để lộ cho người đời thấy thần thông của mình, thọ hai tuổi rưỡi.

Về mặt luân hồi nghiệp chướng, lực học Thích Ca tác động tới kho dữ liệu của A-lại-da thức tạo ra nhân quả, tạo ra luân hồi tái sinh, trong trường hợp này lực ấy là nghiệp lực mà chúng sinh mê muội bị dẫn dắt để đi đầu thai, còn bậc giác ngộ, Bồ Tát thì tự chủ gọi là sinh tử tự do như trường hợp của gia đình cư sĩ Bàng Uẩn

Kể chuyện gia đình cư sĩ Bàng Uẩn

Còn luân hồi tái sinh thì như trường hợp của nhà văn Huỳnh Đình Kiên đời Tống hoặc trường hợp sau ngay thời hiện đại

Trường hợp tái sinh của bé Quyết Tiến (link trực tiếp)

Tóm lại, lực học Thích Ca nói rằng tất cả lực đều là tâm, tất cả vật cũng đều là tâm, ngoài tâm không có vật, như lời của Lục Tổ Huệ Năng của Thiền tông Trung Quốc:

本來無一物 Bản lai vô nhất vật, Xưa nay vốn không có một vật nào
何處惹塵埃 Hà xứ nhạ trần ai? Bụi trần bám vào đâu?

Đừng tưởng rằng chỉ có các nhà đạo học nói năng mông lung mà không chứng minh được, các nhà khoa học hàng đầu thế giới ngày nay cũng đã đã nhận ra ý này. Heisenberg, (1901-1976 nhà vật lý lý thuyết người Đức, người khám phá ra nguyên lý bất định, nói: “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật). Heisenberg nói tới một thế giới tiềm thể, có tiềm năng hiện hữu nhưng chưa hiện hữu, đó chính là cấu trúc ảo của vật chất mà nhà triết học Immanuel Kant (1724-1804) gọi là vật tự thể (Das ding an sich) bất khả tri, còn Phật giáo gọi là vô thủy vô minh. Cấu trúc ảo đó cần phải có nhất niệm vô minh khởi lên, hai cái vô minh tương tác thì vật mới hiện hữu thành sơn hà đại địa, cỏ cây sinh vật, nhà cửa xe cộ…Chính vì vật chất là ảo hóa nên Phật giáo mới nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Cảnh giới mà chúng ta thấy là thế lưu bố tưởng (tưởng tượng lưu truyền phổ biến ở thế gian), bậc thánh cũng có thế lưu bố tưởng, thấy y như người đời, nhưng vì không chấp đó là sự thật nên các ngài không có chấp trước tưởng, tức là vướng mắc trong ái dục, tham cầu, chấp ngã, chấp pháp dẫn đến khổ. Giác ngộ chỉ là thấy rõ tam giới chỉ là ảo, vận dụng được tâm lực một cách như ý, không còn vướng mắc trong luân hồi sanh tử.

Trong ba thứ lực học kể trên, lực học Newton và Einstein có thể đem lại cuộc sống tiện nghi cho con người bằng những phát minh sáng chế rất tài tình, chẳng hạn nhà cửa, xe cộ, máy bay, tàu thủy, máy vi tính, điện thoại di động…Nhưng tôi nghĩ chỉ có lực học Thích Ca mới đem lại cuộc sống giác ngộ, mưu cầu sự an lạc và hòa bình đích thực cho nhân loại và muôn loài chúng sinh một cách vững chắc.

Truyền Bình

theo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 2 Members:

#237 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 15/08/2015 - 04:21

Con đường tơ lụa

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trần Yên Thảo & Lâm Hoàng Lân

Biên soạn đề tài này, ngoài những sách tham khảo đã liệt kê, chúng tôi có sử dụng số lớn tư liệu, nhờ bạn bè ghi chép qua nhiều năm, tại các thư viện Cam Túc, Thanh Hải và Tân Cương (Trung Quốc). Đó là những tư liệu chủ yếu hình thành đề tài.
Rất tiếc, những tư liệu gom góp được, chỉ đủ giới thiệu “con đường tơ lụa” đoạn từ kinh đô Trường An qua Hàm Dương theo hành lang Hà Tây đến ngả rẽ Đôn Hoàng ra Dương Quan và Ngọc Môn Quan, xuyên Tây vực (nay là tỉnh Tân Cương) để đến địa cầu vùng Trung Á Tế Á. Lịch sử gọi đó là “đoạn phía đông của con đường tơ lụa” .
Chúng tôi đã cố gắng hệ thống mọi tư liệu ăn khớp với niên đại và triều đại trong lịch sử Trung quốc. Những chú thích trong sách, do người biên soạn tự chú, và cũng chú ngay trong ngoặc đơn chứ không đánh số chú thích.Về thơ “biên tái” trích dẫn, bài nào sử dụng của tác giả khác, chúng tôi đều ghi tên người dịch ngay bên dưới bản dịch. Những bài không ghi tên, do người biên soạn tự dịch.
Nhân đây, chúng tôi có lời xin lỗi và cảm ơn dịch giả Lê Nguyễn Lưu, vì đã trích dẫn một số bài thơ biên tái trong “đường thi tuyển dịch” mà không biết địa chỉ để xin phép trước.
Người biên soạn

NGUYÊN NHÂN LỊCH SỬ CỦA CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

Trung Quốc là nước có lai lịch dâu tằm tơ sớm nhất Thế Giới. Truyền thuyết từ hơn 4.000 năm trước, thời Hoàng Đế (lão tổ của người Trung Quốc), các nguyên phi đã tự trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa và dạy dân mở mang nghề này. Năm 1958, tại vùng Tiền Sơn thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, người ta đã đào được những di vật thời Tân Thạch Khí, trong đó phát hiện một khung tre rất đặC biệt. Những phương pháp khảo sát khoa học đã xác định được đây là bộ phận còn sót của một khung cửi dệt tơ lụa thời cổ đại, một di vật cách đây hơn 4.000 năm. Qua đó có thể xác định, trễ nhất là từ thời Hoàng Đế, người Trung Quốc đã có khả năng dệt tơ lụa.

Lịch sử qua thời kỳ bán khai, trang phục đã trở thành nhu cầu cấp thiết hàng đầu của toàn xã hội. Do đó mà ngành nghề dâu tằm ngày càng được trọng thị. “Kinh Thi” (tác phẩm thi ca lâu đời của văn học Trung Quốc) cũng có không ít bài mô tả sinh hoạt trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa của phụ nữ Trung Quốc thời cổ đại.

Khoảng 2.500 năm trước, vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (770 – 221 TCN), Trung Quốc đã có lượng tơ lụa bán ra nước ngoài. Tới Tây Hán (206 TCN – CN 8) sản lượng tơ lụa càng cao dư dùng trong nước. Một số lớn được các thương nhân mở đường xuyên Tây Vực, đem bán tận Ba Tư, Thổ Nhĩ Kì, La Mã, …. Qua việc mở đường buôn bán tơ lụa từ Trung Nguyên đến các nước Trung Tây Á và phương Tây, không biết từ lúc nào, còn đường được mệnh danh là “Con đường tơ lụa”.

Tây Vực là địa danh được hình thành từ thời Tây Hán. Bao gồm hàng trăm tiểu vương quốc trải dài từ Tân Cương đến vùng Trung Á Tế Á. Tức khu vực có địa giới từ con đường Nam Bắc Thiên Sơn của Tân Cương, vượt núi Thông Lãnh đổ về phía Đông và từ Đôn Hoàng (Cam Túc) đổ về phía Tây. Tây Vực là vùng đất con đường tơ lụa buộc phải đi qua và cũng là biên cảnh giữa Trung Quốc với các dân tộc phía Bắc và Tây Bắc. Vì an toàn lãnh thổ trước sự xâm nhập bên ngoài và cũng vì muốn độc chiếm huyết mạch giao lưu Đông Tây nên từ đời Hán – Đường, Tây Vực thường xảy ra chiến tranh với những lực lượng quân sự hùng hậu. Thậm chí có những cuộc chiến kéo dài hàng thập kỷ. Trong khi dân tình, cảnh vật và khí hậu nơi đây so với Trung Nguyên, có những bất đồng rất lớn.

“Con đường tơ lụa” phát xuất từ Trường An (nay là thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây) hướng về phía Tây, sau khi qua nhiều sông núi và thành trấn, được chia thành ba lộ tuyến: Lộ tuyến Nam từ phía Tây Nam Đôn Hoàng ra Dương Quan đi qua Thạch Thành Trấn, Bá Tiên Trấn, Vu Điền Trấn và tiểu vương quốc Sơ Lặc, sau đó vượt phía Tây núi Thông Lãnh về đến Ba Tư, Thổ Nhĩ Kì và đế quốc La Mã. Lộ tuyến Bắc từ phía Tây Bắc Đôn Hoàng ra Ngọc Môn Quan, men theo phía Nam chân núi Thiên Sơn đi về phía Tây, qua Tây châu, Hán Luân Đài, đến các tiểu vương quốc Khưu Từ và Sơ Lặc, sau đó cũng vượt núi Thông Lãnh. Về sau, vì sự tính toán lợi hại của đường đất, các thương nhân còn mở thêm một lộ tuyến mới phía Bắc, tức cũng ra Ngọc Môn quan, nhưng theo phía Bắc chân núi Thiên Sơn để đi về hướng Tây. Sau khi qua Đình Châu và Y Ninh, tiếp tục về hướng Tây đến Hy Lạp, Đông La Mã và Địa Trung Hải.

“Con đường tơ lụa” được khai mở từ Tây Hán, hoàn chỉnh vào đời Đường và được sử dụng suốt 17 thế kỷ. Về sau do sự phát triển đường hàng hải, ít gian nan và nguy hiểm hơn, nên con đường bộ xuyên suốt Đông Tây này ngày càng ít được lưu tâm.

Do sự thông thương của “Con đường tơ lụa”, những tinh hoa văn hóa, kinh tế giữa Trung Quốc và các nước phương Tây cũng giao lưu rất rộng rãi. Đầu tiên là mặt hàng tơ lụa, đến thế kỷ thứ 4, khi kỹ thuật trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa được truyền bá qua các nước Trung Á và Tây Aù thì từ các mặt hàng mỹ nghệ khác đến những phát minh khoa học như thuật in ấn, làm giấy, thuốc súng, luyện thép, … của Trung Quốc cũng tiếp tục theo “Con đường tơ lụa” truyền bá qua phương Tây. Đồng thời những sản vật vùng Trung Tây Á như Bồ Đào (Nho), Thạch Lựu (quả lựu), Hạch Đào (hạt điều), Chi Ma (gai), Ba Thái, Mục Túc (hai giống rau quả), … cũng theo ngã đường này lục tục đổ vào Trung Quốc. Cả các ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, vũ khúc, … qua đó, cũng ảnh hưởng nhau rất sâu đậm.

Thời Tây Hán (khoảng 141 TCN), Trương Khiên đã theo “Con đường tơ lụa) thông sứ Tây Vực, khám phá hàng trăm tiểu vương quốc trải dài suốt mấy ngàn dặm thảo nguyên và sa mạc, mở ra thời kỳ ngoại giao mới cho Trung Quốc.

Thời Sơ Đường (Cn 624 – 649), Huyền Trang cũng theo “Con đường tơ lụa” đi qua nhiều nước vùng Tây Vực, hành hương đến xứ Phật Aán Độ. Trong khi nhiều giáo sĩ phương Tây cũng theo đó, đưa giáo lý của nhiều tôn giáo khác nhau đến Trung Nguyên.

Đời Đường là thời kỳ phát triển cao độ của thi ca Trung Quốc. Vùng đất Tây Vực là đề tài chính sinh động giàu cảm xúc của nhiều nhà thơ đương thời. Hầu hết các thi nhân đã cọ xác trực tiếp với cảnh sinh hoạt và chiến tranh, những nỗi bi hoan ly hợp và cả cái chết trên những địa danh dọc theo “Con đường tơ lụa” họ đã sáng tác số lượng lớn các bài thơ giá trị được mệnh danh “Thơ biên tái”. Một thành phần trọng yếu làm phong phú nền thi ca đời Đường. Trong văn học sử Trung Quốc, những nhà thơ này cũng được đứng riêng thành một trường phái lớn gọi là “phái Biên Tái”, đại biểu là Sầm Tham, Cao Thích, Vương Xương Linh, Lý Ích, Trần Đào, ….

Thời Nguyên Mông (khoảng CN 1218 – 1242), Thành Cát Tư Hãn rồi đến các hậu duệ của ông (con trưởng Thuật Xích và con thứ Oa Khoát Đài) cũng theo con đường tơ lụa chinh phục nhiều nước Châu Aâu và đe dọa cả đế quốc La Mã.
“Con đường tơ lụa” được khai mở từ mối lợi của các thương nhân, nhưng được hoàn chỉnh bằng vai trò lịch sử trọng đại từ kinh tế, văn hóa, tôn giáo, chính trị bang giao và cả chiến lược. Đó là huyết mạch giao lưu văn hóa văn minh Đông Tây suốt hơn 17 thế kỷ, khi nhân loại chưa có đường hàng hải và hàng không.

Chương I. TRƯỜNG AN – KHỞI ĐIỂM CỦA CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

Trường An (nay là thành phố Tây An, thuộc tỉnh Thiểm Tây), kinh đô thời Hán Đường và cũng là khởi điểm của con đường tơ lụa. Vào thời đó, Trường An là một thành phố lớn nhất nhì Thế giới và cũng là trung tâm giao lưu văn hoá kinh tế Đông Tây.
Vào thời kỳ hưng thịnh của Hán Đường, sự qua lại giữa các tiểu vương quốc Tây Vực và Trường An phải nói là dập dìu. Đồng thời, Trường An là một thành phố có mức sinh hoạt rất cao. Đây cũng là lý do mà các sắc tộc Tây Vực, theo “Con đường tơ lụa”, đổ xô đến ngụ cư. Qua những thời gian dài, hầu hết người Tây Vực ngụ cư Trường An đều lấy họ Hán. Thậm chí rất khó lòng phân biệt phong cách giữa người Trường An và Tây Vực. Người nước Vu Điền nhập cư Trường An đã cải họ Uất Trì.
Danh tướng khai quốc công thần nhà Đường Uất Trì Kính Đức (Uất Trì Cung) tổ phụ là người nước Vu Điền Tây Vực nhập cự Trường An, người nước Sơ Lặc cải họ Bùi, người nước Khưu Từ cải họ Bạch. Chỉ có người nước Khương đa số vẫn giữ họ Khương.

Người Tây Vực nhập cư Trường An đương nhiên cũng đem theo cả phong tục và nếp sinh hoạt của dân tộc mình và đã gây ảnh hưởng lớn đến người Trường An, đối với các dân tộc ở ngoại biên phía Đông Bắc, phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc thời cổ đại đều được gọi chung là người Hồ cho nên ngay từ thời Tây Hán, tại Trường An đã có y phục Hồ (Hồ phục), phong màn Hồ (Hồ trướng), thức ăn Hồ (Hồ thực), điệu sáo Hồ (Hồ địch), điệu múa Hồ (Hồ vũ), …

Đời Đường Huyền Tông, thiên hạ thái bình lâu dài, tại Trường An có phong trào Hồ hóa rất thịnh, đương thời không phân biệt giàu nghèo sang hèn, người ta thi nhau mặc áo quần người Hồ, một loại trang phục ôm sát thân, eo nhỏ, tay hẹp, trái ngược hẳn với trang phục truyền thống Hán Tộc. Sau loạn An Sử, người Hồi Hột (sau cải danh là Hồi Cốt) nhập cư Trường An càng đông. Nhân đó, lối trang phục bó sát người của người Hồi Cốt cũng lưu hành tại Trường An khá phổ biến.

Nhà Đường mất không lâu, bà Hoa Nhị Phu nhân (họ Từ), ái cơ của Tiền Thục chủ Vương Kiến, có viết đề tài “Cung từ” với hơn 100 bài thất tuyệt. Trong đó có một bài mô tả sinh động và sâu sắc những cung nữ đời Đường với trang phục Hồi Cốt.

宮 詞 花蕊夫人
明朝腊日官家出
随駕先須點内人
回鶻衣装回鶻馬
就中偏称小腰身

Âm:
CUNG TỪ
Minh triêu lạp nhật quan gia xuất
Tùy giá tiên tu điểm nội nhân
Hồi Cốt y trang Hồi Cốt mã
Tựu trúng thiên xưng tiểu yêu thân
Hoa Nhị Phu nhân

Dịch:
LỜI TRONG CUNG
Buổi sớm nhà vua đi chủ tế
Dập dìu cung nữ hộ xe loan
Aùo quần Hồi Cốt ngựa Hồi Cốt
Diễm kiều đưa đẩy chiếc eo thon.

Bài thơ mô tả buổi sớm của một ngày lễ (theo Nông lịch là mồng 8 tháng 12), nhà vua xuất cung đi chủ tế. Các cung nữ hộ giá xe vua đều cưỡi ngựa và mặc trang phục tộc Hồi, phô bày những chiếc eo thon trông rất đẹp. Thế nhưng trong sâu xa của bài thơ, tác giả nhằm cảnh giác phong trào Hồ hóa của người Trung Nguyên, có thể làm mất phong cách của truyền thống Hán Tộc.

Thực phẩm của người Hồ theo “Con đường tơ lụa”, đưa vào Trường An cũng được đón nhận rộng rãi. Theo lịch sử ghi chép thì, từ Đường Huyền Tông trở đi, nhà bếp của các đời vua và của cả quan viên đều có sẳn chất liệu và gia vị để nấu những món ăn người Hồ. Tại phường Phụ Hưng, phía Tây Bắc thành Trường An cũng đã xuất hiện những quán ăn của người Hồ với những món đặc thù nổi tiếng khắp kinh thành thời bấy giờ.

Rượu nho (bồ đào) của các sắc tộc Hồ đưa vào Trung Nguyên cũng gây ảnh hưởng không nhỏ. Từ Tây Hán, đã có rượu nho của các nước Đại Uyển và Khưu Từ đưa vào Trường An. Đến đời Đường có thêm rượu nho của Ba Tư và Cao Xương càng gây chấn động khắp kinh thành. Đường Thái Tông, sau khi diệt nước Cao Xương, có đem giống nho của Cao Xương về trồng ngay trong vườn thượng uyển. Khi thu hoạch nho, cũng theo phương pháp của Tây Vực để làm rượu. Đó là rượu nho Tây Vực đầu tiên được chưng cất tại Trường An. Tại Khúc Giang, một thắng cảnh du lãm phía đông thành Trường An, từ thời Sơ Đường đã xuất hiện những quán rượu của người Hồ, có những cô gái Hồ trẻ đẹp trông coi quán và có cả những vũ nữ ca múa các giai điệu của sắc tộc Hồ. Tương truyền đây là những nơi hết sức quyến rũ đối với các thi nhân đương thời.

Tháng 10 năm 1970, tại Hà Gia Thôn (phía Nam Thành Trường An cũ), trong khi lấy đất làm gạch ngói, người ta đã phát hiện hai kho văn vật chôn cất từ đời Đường. Số văn vật tổng cộng hơn 1.000 món, trong đó đồ vàng bạc chiếm 270 món. Qua nghiên cứu địa điểm khai quật nằm ở phường Hưng Hóa của thành Trường An đời Đường. Vị trí khai quật là nềân xưa của Bân Vương phủ. Do đó có thể khẳng định những bảo vật này là sở hữu của Bân Vương Lý Thủ Lễ, anh ruột của Đường Huyền Tông. Cũng qua nghiên cứu, trong số văn vật này, có không ít món là cổ vật của Thổ Nhĩ Kì, Hy Lạp, La Mã, … Đặc biệt nhất là chiếc chén đầu trâu bằng mã não là cổ vật của Ba Tư. Tất cả đều theo “Con đường tơ lụa” đưa đến Trường An vào đời Đường (khoảng CN 590 – 627).

Trở lên tất cả là những tư liệu và sự kiện cho phép chúng ta khẳng định ngay từ thời Tây Hán, Trường An đã là khởi điểm của “Con đường tơ lụa”.


Phụ nữ Trung Nguyên đời Đường trong trang phục thuần túy Hán Tộc, tay cầm hoa Mẫu Đơn.

Thiếu nữ Trung Nguyên đời Đường trong trang phục người Hồ, tay cầm chim Anh Vũ.
Chương II- HÀM DƯƠNG ĐIỂM DỪNG CHÂN ĐẦU TIÊN TRÊN CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

Từ thời Hán Đường, những ai khởi hành từ kinh đô Trường An, dẫm lên con đường tơ lụa đi về hướng Tây khoảng 20km là đến Hàm Dương. Một thành phố lớn hàng đầu của Trung Quốc vào thời đó. “Hàm Dương”, cứ theo chiết tự mà giải thì “Hàm” là bao gồm, “Dương” là phía mặt trời, ý nói hướng dương. Từ đó mới nói, trong khu vực này, Cửu Tông Sơn ở phía Nam, sông Vị Hà ở phía Bắc, đều quay về hướng mặt trời, do đó có tên là Hàm Dương.

Hàm Dương là kinh đô nước Tần thời Xuân Thu Chiến Quốc, dân số khoảng một triệu, Tần Thủy Hoàng trong cuộc chiến tranh gồm thâu lục quốc (Hàn, Triệu, Ngụy, Yên, Tề, Sở). Mỗi lần tiêu diệt một nước, ông ta ra lệnh lấy mô hình cung điện nước đó xây dựng tại Hàm Dương gọi là “Lục quốc cung điện”. Lục quốc cung điện được xây dựng trên một vùng hoàng thổ phía Bắc thành Hàm Dương, cung thất tổng cộng có tới 145 chỗ. Trong đó tàng trữ những chiến lợi phẩm, những nghệ nhân và cả những cung phi mỹ nữ của mỗi nước. Tương truyền chỉ riêng cung nữ của sáu nước cũng đã tới hàng vạn. Cho thấy “lục quốc cung diện” là một công trình kiến trúc khá vĩ đại.

Cho tới đời Đường, nhà thơ Lý Thương Ẩn, khi đi qua Hàm Dương, hồi tưởng một thời xa xưa của lịch sử, có viết bài “Hàm Dương”, một bài thất tuyệt mô tả lại những cung điện nguy nga của một thời.

咸陽 李商隱
咸陽宮殿郁嵯峨
六國樓臺艶綺羅
自是當時天帝醉
不關秦地有山河

Âm:
HÀM DƯƠNG
Hàm Dương cung điện uất tha nga
Lục quốc lâu dài diễm ỷ la
Tự thị đương thời thiên đế túy
Bất quan Tần địa hữu sơn hà.
Lý Thương Aån

Dịch:
HÀM DƯƠNG
Hàm Dương cung điện nguy nga
Lâu đài lục quốc dời qua phương này
Ngọc Hoàng chếnh choáng men say
Phải đâu Tần địa cao dài núi sông.

Bài thơ dù mô tả sự nguy nga tráng lệ của cung Hàm Dương và lục quốc cung điện nhưng ý tưởng sâu xa cho rằng, do Ngọc Hoàng say rượu nên mới để cho nhà Tần bạo ngược diệt vong sáu nước chứ đâu phải nhờ sông núi hiểm trở của đất Tần. Ý tưởng hơi buồn cười nhưng cũng rất đáng để suy nghĩ.

Tần Thủy Hoàng tuy có rất nhiều cung điện, nhưng dục vọng xây cất của ông ta vẫn chưa giới hạn. Sau khi thống nhất thiên hạ, ông ra lệnh xây dựng cung “A Phòng”, một công trình vĩ đại nhất trong các vương triều kể từ nhà Tần trở về trước. Nghe nói diện tích lên đến 300 km2, 5 bộ một lầu, 10 bộ một gác (mỗi bộ tương đương năm thước ngày nay) trên 2.000 năm trước, phải nói đây là một công trình ngoài sức tưởng tượng, không biết đã tiêu phí biết bao nhiêu nhân tài vật lực. Khi Tần Thủy Hoàng chết, cung A Phòng vẫn chưa hoàn tất. Tần Nhị Thế (Hồ Hợi) tiếp tục xây dựng.

Sau này, khi Sở Bá vương Hạng Vũ đem quân vào Hàm Dương, đã phóng hỏa thiêu rụi mọi cung điện. Theo lịch sử ghi chép lại thì ngọn lửa cháy ba tháng mới tắt hẳn. Tất cả những cung thất tráng lệ nhất từ cung Hàm Dương, lục quốc cung điện và cả cung A Phòng đều thành tro bụi cả.

Sau ngày giải phóng, những di tích của kinh đô Hàm Dương cũ (cách phía Đông thành phố Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây ngày nay 10km) đã được khai quật. Căn cứ những di vật đào được cộng với tư liệu lịch sử ghi chép, người ta đã vẽ lại được đồ hình kiến trúc (phục nguyên đồ) của cung Hàm Dương đời Tần.

Kinh đô Hàm Dương, từ thời Tây Hán được cải danh Vị thành. Giữa Trường An và thành Hàm Dương có con sông Vị Thủy chắn ngang, trên sông có một cây cầu cũng gọi Vị kiều. Những ai qua lại giữa Trường An và Hàm Dương đều phải ngang qua cây cầu này. Do đó đương thời cây cầu Vị Kiều này rất nổi tiếng, thường xuất hiện trong tác phẩm của các nhà thơ, nhất là đời Đường. Nhà thơ Đổ Phủ trong bài “Binh xa hành” đã có câu “Gia nhương thê tử tẩu tương tổng. Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều” (Vợ con cha mẹ theo đưa tiễn. Bụi mù che khuất cầu Hàm Dương).

Cầu Hàm Dương tức Vị Kiều. Nhà thơ Lý Bạch trong đề tài “Tái hạ khúc” cũng đã nói tới cây cầu này trong một bài ngũ luật mô tả quân đội nhà Hán tây chinh:

塞下曲六首(其三) 李白
駿馬似風飆
鳴鞭出渭橋
彎弓辞漢月
揷羽破天驕
陣解星芒盡
營空海雾消
功成画麟閣
獨有霍嫖姚
Âm:
TÁI HẠ KHÚC (bài 3) Lý Bạch
Tuấn mã tự phong tiêu
Minh tiên xuất Vị Kiều
Loan cung từ Hán nguyệt
Sáp vũ phá thiên kiêu
Trận giải tinh mang tận
Doanh không hải vụ tiêu
Công thành họa Lân các
Độc hữu Hoắc phiêu diêu!

Dịch:
BÀI HÁT DƯỚI ẢI
Ngựa hay như gió quét
Cầu Vị thét roi rời
Cung gỗ từ trăng Hán
Tên lông phá giặc trời.
Trận tàn, sao sáng tắt
Dinh vắng biển mù vơi
Công lớn ghi Lân các
Phiêu diêu chỉ một người
Lê Nguyễn Lưu dịch

Ý của bài thơ: tướng sĩ ra roi, ngựa phi như gió qua cầu sông Vị hướng về biên tái, đem theo cung tên, nhìn vầng trăng Hán từ giả Trường An. Đao kiếm bay múa đánh bại quân xâm lăng Thiên Kiêu (Thiên Kiêu chỉ Thiền Vu, thủ lãnh Hung Nô). Chiến tranh kết thúc, quân sĩ rã rời như khách tinh của chinh binh sợ màu trắng. Quân doanh vắng vẻ như sương biển tiêu tan.

Đoàn quân đem chiến thắng trở về, Hoàng đế hạ lệnh vẽ chân dung công thần trên gác Kỳ Lân, nhưng chỉ vẽ một mình tướng Hoắc Khứ Bệnh. Ý hai câu cuối của bài thơ, thắng lợi trên chiến trường là công lao và xương máu của toàn bộ sĩ binh, nhưng công trạng cuối cùng chỉ qui về một mình chủ tướng, ám chỉ sự bất công của các vương triều phong kiến thời bấy giờ.

Nhà thơ đời Đường Lệnh Hồ Sở viết đề tài “Thiếu niên hành”, cũng có một bài thất tuyệt mô tả những đoàn quân rời Hàm Dương Tây chinh:

少年行 令狐楚
弓背霞明劍照霜
秋風走馬出咸陽
未收天子河湟地
不拟回頭望故鄉

Âm:
THIẾU NIÊN HÀNH (Lệnh Hồ Sở)
Cung bối hà minh kiếm chiếu sương
Thu phong tẩu mã xuất Hàm Dương
Vị thu thiên tử Hà Hoàng địa
Bất nghĩ hồi đầu vọng cố hương.

Dịch:
BÀI HÀNH TUỔI THIẾU NIÊN
Cung sáng đeo lưng kiếm ánh sương
Gió thu quất ngựa rời Hàm Dương
Nếu chưa thu lại Hà Hoàng địa
Thề chẳng quay đầu ngóng cố hương.

Bài thơ mô tả những đoàn quân thúc ngựa rời Hàm Dương về biên tái phía Tây. Chuyến hành quân này nếu chưa thu phục lại những vùng đất trong khu vực Hà Hoàng, do quân Thổ Phồn chiếm đóng (Đông Nam bộ Cam Túc và Hà Tây Tẩu Lang), thề quyết không quay đầu nhìn lại quê hương.

Tất cả lữ hành từ Trường An, theo con đường tơ lụa về phía Tây, đều phải dừng chân tại Hàm Dương một thời gian ngắn. Những đoàn thương nhân cũng dừng chân tại đây để chuẩn bị hành lý và súc vật cho cuộc hành trình xa thăm thẳm.
Những quan viên đi công cán Tây Vực cũng được bằng hữu đưa chân tới đây để làm tiệc tiễn hành. Những đoàn quân Tây chinh cũng phải dừng chân ổn định quân lữ trước khi xuất chinh chiến đấu.

Ra khỏi Hàm Dương, đi về phía Tây, con đường tơ lụa phân thành hai lộ tuyến, men theo hai bên sườn hành lang Hà Tây.
Lộ tuyến Bắc đi qua Lễ Tuyền, Nguyên Châu, Hội Châu rồi đến Cam Châu. Lộ tuyến Nam đi qua Vũ Công, Lũng Châu, Thiền Châu rồi cũng hội tụ với lộ tuyến Bắc tại Cam Châu. Từ đó, hai lộ tuyến sẽ đi cùng đường cho đến Sa Châu (Đôn Hoàng) mới rẽ đôi trở lại.

Chương III – HÀNH LANG HÀ TÂY TRÊN CON ĐƯỜNG TƠ LỤA



Con đường tơ lụa từ Trường An đến Địa đầu vùng Trung Á có tổng số chiều dài đến 7.000 km thì hành lang Hà Tây chiếm gần hết 3.000 km. Đó là một dãy dài hẹp có màu xanh, trải từ bờ Tây sông Vị đến vùng sa mạc phía Nam cao nguyên Mông Cổ. Nhiều thành thị nằm dọc hành lang này như Thiên Thủy, Cam Châu, Túc Châu, Đôn Hoàng (Sa Châu)… nhờ sự thông thương của con đường tơ lụa mà trở thành những trung tâm giao lưu kinh tế văn hóa rất phồn thịnh.

Dọc hành lang cũng có nhiều vùng khí hậu tương đối tốt, cỏ nước phong phú giúp cho nông nghiệp và chăn nuôi phát triển khá sớm. Những khu vực Âm Sơn, Lũng Sơn, Hà Hoàng… có nhiều địa thế hiểm yếu, là tiền đồn bảo vệ Trung Nguyên từ thời Hán Đường và đã trở thành vị trí chiến lược quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.

1. KHU VỰC ÂM SƠN TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY

Ra khỏi Hàm Dương, theo con đường tơ lụa đi về hướng Tây Bắc khoảng 50km (một km tương đương với hai dặm ngày xưa), sẽ đến Thể Tuyền (ngày nay đổi tên thành Lễ Tuyền). Ở đây có lăng mộ của Đường Thái Tông (Chiêu Lăng). Tiếp tục đi về phía Tây thêm 30km nữa đến Phụng Thiên (nay là huyện Càn tỉnh Thiểm Tây), ở đây có lăng mộ của Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên (Càn Lăng). Cả hai nơi đều là những điểm du lịch nổi tiếng ngày nay.

Rời Phụng Thiên, đi về hướng Tây Bắc khoảng 120km sẽ đến Châu Trị An Định Đô Kinh Châu. Sau đó có thể vượt ải Tiêu Quan để đi qua Nguyên Châu, Hội Châu rồi đến Lương Châu, một trọng trấn trên con đường tơ lụa. Đó là con đường lớn độc nhất thông giữa Trường An với Tây Vực mà từ thời Tần Hán còn được mệnh danh là “Hồi Trung Đạo”. Kinh Châu là thành phố chủ yếu của “Hồi Trung Đạo”.

Khoảng giữa Kinh Châu và Nguyên Châu (nay là Cố Nguyên Ninh Hạ), là tòa quan ải trọng yếu trên con đường giao thông Đông – Tây: Tiêu Quan (tại phía Bắc Nguyên Châu và phía Nam huyện Hồi Nhạc cũng có huyện Tiêu Quan. Hai nơi này chỉ trùng địa danh chứ không cùng địa phương). Tất cả những bài thơ Biên Tái nổi danh có đề cập đến Tiêu Quan là đều nói về tòa quan ải này. Hành nhân khi đến Tiêu Quan, đưa mắt về hướng Tây, một bầu trời cảnh sắc biên tái đập vào mắt. Không chỉ có khí hậu địa vật thay đổi mà cả đến phong tục tập quán cũng trái ngược hẳn Trung Nguyên. Những trận cuồng phong nối tiếp, cát bay mù mịt, cát đập vào mình ngựa. Khí hậu khô kiệt và lạnh giá, thảo mộc không thể sinh sôi, thậm chí những ngôi chùa cũng không có bóng tre trúc. Nhà nhà đều treo cung đao trên vách, sĩ binh không rời áo giáp để kịp thời chiến đấu khi có địch xâm nhập. Ở đây hoàn toàn không thấy hình bóng khách nhàn du. Cảnh tượng như vậy trải dài tận ngoài tầm mắt từ Tiêu Quan vọng hướng Lâm Thao.

Tại phía Bắc, lộ tuyến Bắc của con đường tơ lụa là một vị trí chiến lược tối quan trọng mà binh gia của các phe đều muốn làm chủ được tình hình. Đó là khu vực Âm Sơn và Hạ Lan Sơn. Phía Đông Hạ Lang Sơn là thành Diêm Châu, đời Đường còn có tên Ngũ Nguyên, (hiện nay khu tự trị nội Mông Cổ gần Aâm Sơn cũng có tên Ngũ Nguyên nhưng không phải thành Ngũ Nguyên đời Đường). Thành Ngũ Nguyên (Diêm Châu) từ xưa đến nay vốn thuộc huyện Định Biên, nằm về Bắc bộ tỉnh Thiểm Tây. Thành Diêm Châu do Hoàng Đế hạ lệnh xây dựng vào năm Trinh Nguyên thứ nhất Đường Đức Tông, nhằm củng cố biên phòng và đã đem lại hiệu quả rất lớn. Từ ngày hoàn tất thành Diêm Châu cho đến nhiều thập kỷ sau, quân Thổ Phồn không dám dòm ngó Trung Nguyên, ngay cả các sắc dân du mục khi săn bắt hoặc chăn thả súc vật cũng phải cách xa chân thành 100 km.

Ngũ Nguyên (tức Diêm Châu) có vị trí địa lý thiên Bắc. Khí hậu khô khan lạnh lẽo, mùa xuân đến rất chậm và tồn tại rất ngắn. Nhà thơ Trương Kính Trung đời Đường có viết bài thất tuyệt “Biên Từ” mô tả hiện tượng này.

遍詞張敬忠
五原春色舊來遅
二月垂楊未挂絲
卽今河畔冰開日
正是長安花落時

Âm:
BIÊN TỪ (Trương Kính Trung)
Ngũ Nguyên xuân sắc cựu lai trì
Nhị nguyệt thùy dương vị quải ti
Tức kim hà bạn băng khai nhật
Chính thị Trường An hoa lại thì.

Dịch:
LỜI BIÊN TÁI
Ngũ Nguyên xuân muộn từ xưa
Tháng hai tơ liễu còn chưa buông mành
Ở đây tuyết bắt đầu tan
Trong khi hoa đất Trường An rụng đầy.

Ý thơ: mùa xuân ở Ngũ Nguyên đến rất trễ, đã tháng hai rồi (chỉ âm lịch) mà dương liễu chưa rũ tơ, những dòng sông băng mới bắt đầu tan chậm, nếu là đất Trường An thì hoa xuân đã tàn tạ. Bài thơ ngoài nghệ thuật cao, còn có cả giá trị khoa học tự nhiên, ghi nhận được hiện tượng của “Vật Hậu học”. Những ghi chép này rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu những biến thiên của khí hậu.

Nhà thơ Lý Ích (một trong Đại Lịch thập tài tử) là người Lương Châu, sinh năm Thiên Bảo thứ 7 Đường Huyền Tông (CN 748). Năm Quảng Đức thứ 2 Đường Đại Tông (CN 764) ông 17 tuổi. Lúc đó Thổ Phồn công hãm Lương Châu, ông cùng gia đình lánh nạn đến Lạc Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Năm Đại Lịch thứ tư Đường Đại Tông (CN 769), họ Lý đậu tiến sĩ. Bấy giờ quân Thổ Phồn tràn xuống Trung Nguyên đánh phá khắp nơi, thậm chí kinh đô Trường An cũng bị chiếm lĩnh. Năm Đại Lịch thứ 9 (CN 774), đại tướng Đường triều Quách Tử Nghi kiến nghị tiến hành đại qui mô quân sự đối phó quân Thổ Phồn. Lý Ích tòng quân gia nhập Mạc phủ Vị Bắc Tiết Độ Sứ Tàng Hy Nhượng. Ông đã đến Trường An theo đoàn quân Bắc tiến đi qua Ngũ Nguyên, Hạ Châu, vượt sa mạc Phá Nột Sa đến ba tòa Đông, Trung, Tây của Thụ Hàng thành. Trên đường hành quân, họ Lý đã viết nhiều bài thơ Biên Tái độc đáo được truyền tụng rất rộng. Như bài “Tống Liêu Dương Sứ Hoàn Quân” được vẽ thành đồ họa, bài “Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch” được soạn thành ca khúc. Những bài này sẽ đề cập sau, khi nói về những địa danh có liên quan đến con đường tơ lụa.

Khi Lý Ích đi qua Du Lâm thuộc khu vực Âm Sơn của hành lang Hà Tây, có viết bài thất tuyệt “Thính Hiểu Giác”, mô tả tiếng còi sừng buồn thảm của buổi sớm nơi đây:

聴曉角 李益
遍霜昨夜墜關楡
吹角當城漢月孤
無限塞鴻飛不度
秋風卷入小單于

Âm:
THÍNH HIỂU GIÁC (Lý Ích)
Biên sương tạc dạ trụy Quan Du
Xuy Giác đương thành Hán Nguyệt cô
Vô hạn tái Hồng phi bất bộ
Thu phong quyển nhập tiểu Thiền Vu.

Dịch:
NGHE TIẾNG CÒI SỪNG BUỔI SỚM
Đêm qua sương phủ khắp Du lâm
Còi sừng thành lặng bóng trăng tàn.
Quan tái nhạn hồng bay khó vượt
Vẳng nghe hồ khúc buồn xé gan.

Bài thơ diễn đạt những màn sương thu biên tái đã rơi xuống vùng Du Lâm. Mảnh trăng tàn vẫn còn treo lơ lững, tiếng còi sừng trên thành bỗng trỗi lên khúc nhạc Hồ (Hung Nô) buồn thảm, làm cho đàn nhạn từ Nam lên Bắc cũng không dám vượt quan san.

Hai chữ “Quan Du” trong câu đầu đã làm cho nhiều người tưởng là cây du bên quan tái, vì nhầm lẫn với bài “Tòng quân hành” cũng của Lý Ích “Quan thành du diệp tảo sơ hoàng. Nhật mộ sa vân cổ chiến trường” (Lá du trở vàng trên quan ải. Chiều hôm mây cát chiến trường xưa”. Còn một cách giải dịch khác, “Quan Du” là “Du quan”, tức Du Lâm Quan (nay là khu Mông Cổ tự trị Chuẩn Cách Nhĩ Kỳ). Cho nên câu đầu của bài “Thính Hiểu Giác” phải dịch là “Sương đêm của miền biên tái đã rơi xuống Du Lâm Quan”.

Phía Đông Ngũ Nguyên (phụ cận vùng Du Lâm tỉnh Thiểm Tây) có một con sông tên Vô Định Hà. Sông này phát nguyên từ khu Mông Cổ tự trị Ngạc Nhĩ Đa Tư, chảy về hướng Đông Nam qua Du Lâm, huyện Mễ Chi, huyện Thanh Giản (thuộc tỉnh Thiểm Tây) rồi nhập vào Hoàng Hà. Đây là con sông nước chảy rất siết đem theo nhiều bùn cát, sâu cạn khó dò và thường khi thay đổi dòng chảy nên mới có tên Vô Định Hà. Vô Định Hà là con sông nhỏ không có trong bản đồ, nhưng là khu biên tái quan trọng thời Hán Đường. Thời Hán quân Hung Nô thường theo ngã này xâm nhập và đánh phá Trung Nguyên, cho nên hai bờ sông thường xảy ra những trận chiến khốc liệt. Cho tới đời Đường, nhà thơ Trần Đào khi qua đây, vẫn còn chứng kiến những bãi xương khô phơi trắng hai bờ. Ông cảm xúc hình dung những trận đánh ác liệt trên chiến trường xưa và viết bài thất tuyệt “Lũng Tây Hành”. Nhờ đó mà con sông Vô Định trở nên nổi danh.

隴西行陳陶
誓掃匈奴不顧身
五千貂錦喪胡塵
可憐無定河遍骨
猶是春閨夢里人

Âm:
LŨNG TÂY HÀNH (Trần Đào)
Thệ tảo Hung Nô bất cố thân
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ Trần.
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.

Dịch:
BÀI HÀNH QUA ĐẤT LŨNG TÂY
Liều thân phá giặc biên thùy
Năm ngàn tướng sĩ vùi thây đất Hồ.
Bờ Vô Định bãi xương khô
Mà phòng khuê vẫn mộng chờ chinh nhân.

Bài thơ diễn tả lòng quyết tâm tiêu diệt Hung Nô không kể gì mạng sống. Trong trận chiến này, hàng mặc áo Điêu Cừu của Vũ Lâm quân cũng bỏ xác thê thảm đến năm ngàn người. Tội nghiệp cho những bãi xương khô hai bên bờ sông Vô Định, trong khi những thiếu phụ nơi phòng khuê quê nhà vẫn mộng nhớ người thân.

Phía Đông Diêm Châu và phía Bắc Hạ Châu là sa mạc Phá Nột Sa, còn gọi là sa mạc Phổ Nột Sa (nay là Khố Bố Tề sa mạc). Phía bắc Phá Nột Sa là Phong Châu, một địa điểm trọng yếu của khu vực Âm Sơn, ngay từ thời cổ đại, đây là nơi tụ cư của một dân tộc du mục phương Bắc. Một vùng thảo nguyên bao la, cỏ nước phong phú, bò dê béo tốt. Cuộc sống con người, dù là du mục, rất sung túc yên vui. Vào thời Bắc Tề (CN 550-577) có một nhà thơ vô danh sáng tác bài “Sắc Lặc ca”, một bài dân ca mô tả xuất sắc phong cảnh và cuộc sống dưới chân núi Âm Sơn.

敕勒歌 (北齊)無名氏
敕勒川,陰山下
天似穹廬,籠盖四野.
天蒼蒼,野茫茫,
風吹草低見牛羊.

Âm:
SẮC LẶC CA (Bắc Tề) Vô Danh thị
Sắc Lặc xuyên, Âm Sơn hạ
Thiên tự khung lư, lung cái tứ dã.
Thiên thương thương, dã mang mang,
Phong xuy thảo để kiến ngưu dương.

Dịch:
BÀI CA CỦA NGƯỜI SẮC LẶC
Dòng sông Sắc Lặc, chảy dưới núi Âm Sơn.
Trời như mái lớn, che khắp thảo nguyên.
Trời xanh xanh, đất bao la
Gió đùa cỏ rạp thấy dê bò.

“Sắc Lặc ca” đã trở thành bài thơ trứ danh trong lịch sử thi ca Trung Quốc. “Sắc Lặc” là một dân tộc du mục thời Bắc Tề tụ cư tại Sóc Châu (nay là Bắc bộ tỉnh Sơn Tây). Ý thơ, người Sắc Lặc chúng ta quê hương tại chân núi Âm Sơn. Trời như chiếc màn lớn (Mông Cổ bào) che khắp vùng thảo nguyên rộng lớn. Trời xanh bao la, đất mênh mông không bờ bến. Một trận gió lướt qua đè rạp đồng cỏ, để lộ những đàn bò dê béo tốt.

Theo lịch sử ghi chép, “Sắc Lặc ca” vốn là tiếng Tiên Ti. Vì người Tiên Ti lúc đó chưa có văn tự, cho nên tác phẩm được sáng tác bằng xuất khẩu và phổ biến qua truyền khẩu. Mãi tới thời Nam Bắc triều mới được người Bắc Tề ghi thành Hán ngữ, từ đó trở đi bài thơ được lưu truyền bằng chữ Hán, do đó mà những câu thơ dài ngắn không đồng đều.

Tộc Tiên Ti vào thời Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều là một dân tộc hùng mạnh phương Bắc, đã từng dựng nên những nước Tiền Yên, Hậu Yên, Bắc Ngụy, Bắc Chu. Ngay cả nước Bắc Tề cũng do người Tiên Ti xây dựng trên cơ sở văn hóa Hán.

Theo ghi chép trong sách “Nhạc phủ quảng đề”: Tướng Cao Hoan của Bắc Tề đem quân công thành Ngọc Bích của Bắc Chu. Cuộc chiến kéo dài nhiều ngày, sĩ binh của Bắc Tề cơ hồ thương vong quá nửa mà vẫn chưa hạ được thành, tướng Cao Hoan lo sợ ngã bệnh. Vua Bắc Chu hạ lệnh: “Cao Hoan chỉ là con chuột già, dám ngang nhiên công thành Ngọc Bích. Ta chỉ cần ra quân đánh một trận nhẹ, bọn chúng sẽ không có đất chôn.” Cao Hoan nghe được, hốt nhiên vùng dậy triệu tập bộ tướng, an ủi sĩ binh và ra lệnh tất cả cùng hát bài “Sắc Lặc ca”, Cao Hoan cũng cất tiếng hát theo. Tiếng hát vang dội cả đồi núi thảo nguyên, sĩ binh phấn chấn tinh thần và công hạ thành Ngọc Bích. Câu chuyện tuy có vẻ giai thoại nhưng tự thân nó nói lên được sức mạnh kinh thiên động địa phát ra từ một bài dân ca giản đơn bình thường.

Bài “Sắc Lặc ca” mô tả cảnh sắc cực kỳ chân thật, cho người đọc (và cả người nghe) hình dung được toàn cảnh phong quang miền biên tái, một thảo nguyên rộng lớn dồi dào sức sống. Từ đó bài thơ trở thành (gần như) kinh nhật tụng, và nhất là câu cuối bài, đã trở nên thành ngữ cho bao nhiêu người, bao nhiêu thế hệ của dân tộc Sắc Lặc tụ cư dưới chân núi Âm Sơn (Phong xuy thảo để kiến ngưu dương).

Chân núi Âm Sơn hằng năm còn là địa điểm trao đổi ngựa và vàng lụa giữa Hồi Cốt (Hồi Hột) với vương triều Đường. Mỗi năm cứ đến hẹn kỳ, người Hồi Cốt từ phía Tây Bắc lùa ngựa, theo Con đường Tơ lụa, đến chân núi Âm Sơn. Vương triều Đường cũng chuyển tải vàng lụa, theo Con đường Tơ lụa đến đó. Giá mỗi con ngựa qui định 10 tấm lụa (sau này tăng lên 40 tấm), và ngựa què ngựa ốm chết Đường triều cũng phải nhận. Những vùng cỏ nước dồi dào dọc chân núi Âm Sơn hằng năm, đoàn ngựa của Hồi Cốt đi qua, ăn hết cỏ uống cạn nước mà số ngựa què quặt, ốm chết vẫn không giảm. Vì muốn thu vào số lượng ngựa quá lớn nên triều đình không những vắt kiệt công của trong dân chúng mà còn phải trút vàng bạc trong kho lẫm để trợ giá cho khoản tơ lụa thiếu chất lượng và số lượng.

Vì quan điểm ngựa là phương tiện tối ưu trong chiến tranh (thời cổ) nên Đường Hiến Tông có ý đồ thu hết nguồn ngựa để bẻ gãy khả năng chiến tranh của Hồi Cốt. Nhưng cuối cùng phải đối diện 3 hậu quả nghiêm trọng không còn thuốc chữa: Thứ nhất, ôm về số ngựa vô dụng quá lớn, đã trở thành gánh nặng không biết trút vào đâu. Thứ hai, tài vật trong dân chúng đã kiệt quệ mà kho lẫm triều đình cũng trống rỗng. Thứ ba, người Hồi Cốt chỉ trao cho Đường triều số ngựa què quặt, ốm chết, trong khi vẫn bảo tồn chiến mã cho chiến tranh. Trong loạn An Sử (đời Đường Huyền Tông), triều đình có mượn quân Hồi Cốt để dẹp loạn. Người Hồi Cốt cậy công nên tỏ ra kiêu ngạo, thái độ bắt ép điều kiện vô lý trong mậu dịch ngựa cũng phát xuất từ lòng kiêu căng đó. Trong khi Đường Hiến Tông cứ tưởng lầm mình có thể tương kế tựu kế trong lòng tham này của đối phương.

Vào khoảng niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 11 đến năm thứ 15, Đường Huyền Tông, nhà thơ Vương Xương Linh đã theo quân đến vùng biên tái. họ Vương đã đến Tiêu Quan, Lâm Thao, Ngọc Môn Quan và đến cả Toái Diệp thành của vùng trung Á Tế Á. Thời gian sống trong quân lữ, ông đã thực sự cảm thụ được từ phong quang đến nếp sinh hoạt vùng biên tái. Từ đó, nhà thơ đã viết nhiều bài về biên tái rất nổi danh, mô tả sống động từ cảnh vật đến nếp sống trên những khu vực biên cương dọc theo Con đường Tơ lụa, trong đó, trứ danh nhất là bài thất tuyệt “Xuất Tái”:

出塞王昌齡
秦時明月漢時關
萬里長征人未還
但使龍城飛将在
不敎胡馬度蔭山

Âm:
XUẤT TÁI (Vương Xương Linh)
Tần thời minh nguyệt Hán thời quan,
Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn.
Đản sử Long Thành Phi tướng tại,
Bất giao Hồ mã độ Âm San.

Dịch:
RA QUAN ẢI
Trăng Tần ải Hán nhiêu khê,
Chinh nhân vạn dặm ngày về chưa hay.
Cầm bằng Lý trướng còn đây,
Thì Âm San đã vùi thây ngựa Hồ.

“Xuất Tái” là một cựu đề trong Nhạc Phủ. Ý thơ, vầng trăng và quan ải hôm nay đều là cổ vật của Tần Hán. Những đoàn quân chiến đấu ngoài quan ải nhiều năm chưa trở về. Nếu còn danh tướng Lý Quảng của Tây Hán trấn thủ Long Thành bảo vệ biên cương thì, tuyệt đối không cho phép kỵ binh của người Hồ vượt núi Âm Sơn vào đánh phá Trung Nguyên.

Nhà thơ Trung Đường Đái Thúc Luân khi đi qua Âm Sơn cũng có viết bài “Tái Thượng khúc”, một bài thất tuyệt (mượn Hán chỉ Đường) mô tả hào tâm tráng chí của binh tướng Đường triều chiến đấu bảo vệ Âm Sơn:

塞上曲 戴叔倫
漢家旗幟满陰山
不遣胡兒匹馬還
愿得此身長报國
何須生入玉門關

Âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC (Đái Thúc Luân)
Hán gia kỳ xí mãn Âm San
Bất khiến Hồ nhi thất mã hoàn,
Nguyện đắc thử thân trường báo quốc
Hà tu sinh nhập Ngọc Môn Quan.

Dịch:
KHÚC HÁT TRÊN QUAN TÁI
Quân Đường vây kín cả Âm San
Không để ngựa Hồ thoát lưới ngăn.
Nguyện đem thân sống đền ơn nước
Mong gì trở lại Ngọc Môn Quan.

Bài thơ diễn đạt khí thế quân Đường (mượn Hán chỉ Đường) cờ xí rợp trời vây kín núi Âm Sơn, quyết không để cho một kỵ binh Hồ nào lọt lưới đào thoát. Chí nguyện thà chết vĩnh viễn bảo vệ quốc gia chứ không cầu sống sót trở lại Ngọc Môn Quan để hồi hương. Câu cuối bài có vận dụng một cố sự đời Hán, nói về nhân vật anh hùng Ban Siêu. Thời trai trẻ họ Ban đã ném bút tòng quân đến trấn thủ nhiều thập kỷ tại Tây Vực và đã lập nhiều chiến công hiển hách. Những năm về già, Ban Siêu vì nhớ quê, đã thỉnh nguyện triều đình xin được trở lại Ngọc Môn Quan để về cố hương. Trong bài thơ của Đái Thúc Luân có phản ý, binh tướng Đường triều hạ quyết tâm thà chết, vĩnh viễn bảo vệ Âm Sơn phòng thủ cho Trung Nguyên, chứ không xin trở lại Ngọc Môn Quan như Ban Siêu đời Hán.

Nhà thơ Lý Ích khi hành quân đến ba tòa Đông, Trung Tây Thụ Hàng thành của khu vực Âm Sơn có viết một bài thất tuyệt “Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch”, mô tả cảnh tượng về đêm nơi vùng biên tái này:

夜上受降城聞笛 李益
回樂烽前沙似雪
受降城外月如霜
不知何處吹蘆管
一夜征人盡望鄉

Âm:
DẠ THƯỚNG THỤ HÀNG THÀNH VĂN ĐỊCH (Lý Ích)
Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết
Thụ Hàng Thành ngoại nguyệt như sương.
Bất tri hà xứ xuy lô quản,
Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.

Dịch:
ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG NGHE SÁO
Cát trước non Hồi trông tựa tuyết
Trăng ngoài thành Thụ ngó như sương.
Ai hay sáo thổi nơi nào nhỉ?
Đêm ấy người xa nhớ cố hương.
Lê Nguyễn Lưu dịch

Khu vực Âm Sơn vào đời Đường có ba tòa Đông, Trung Tây Thụ Hàng thành, do Sóc Phương quân tổng quản Trương Nhân Nguyện xây dựng vào niên hiệu Cảnh Vân Võ Tắc Thiên. Mục đích chế ngự quân Đột Quyết xâm nhập. Đông Thụ Hàng thành tại Nội Mông Thác Khắc Thác Nam. Trung Thụ Hàng thành ở phía Tây thành phố Bao Đầu ngày nay. Tây Thụ Hàng thành ở Hàng Tích Hậu Kỳ (bờ Bắc sông Ngũ Gia Hà). Lý Ích hành quân tới đây vào thời kỳ quân Thổ Phồn thường từ phía Tây xâm nhập, nhằm giành quyền kiểm soát huyết mạch Đông-Tây của Con đường Tơ lụa. Cho nên Tây Thụ Hàng thành vào thời kỳ này là tiền đồn quan trọng nhất của khu vực Âm Sơn. Phong Hỏa Đài trên núi Hồi Nhạc nằm về Tây Thụ Hàng thành. Ở phía Bắc Nguyên Châu cũng có huyện Hồi Nhạc và Phong Hỏa Đài, nhưng chỉ trùng địa danh chứ không liên quan tới Hồi Nhạc phong của Thụ Hàng thành.

“Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch” vẽ ra những bãi cát trước núi Hồi Nhạc sáng lên như màu tuyết, ánh trăng ngoài thành Thụ Hàng mờ ảo như sương. Tiếng sáo, không biết từ đâu, trỗi lên những khúc nhạc bi sầu, làm thức dậy lòng nhớ quê của chinh khách.

Ba tòa Đông, Trung Tây Thụ Hàng thành là tuyến đầu của Âm Sơn. Âm Sơn là khu vực đầu tiên trên Hành Lang Hà Tây, sau khi ra khỏi Hàm Dương, men theo lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”.

2. KHU VỰC LŨNG SƠN TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY

Rời Hàm Dương, men theo lộ tuyến Nam của Con đường Tơ lụa, đi về hướng Tây khoảng 20km là đến huyện Hưng Bình (thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay). Phía Đông Bắc Hưng Bình là Mậu Lăng (lăng mộ của Hán Vũ Đế). Vào thời Tây Hán ở đây đã từng có huyện Mậu Lăng, nhưng qua hơn 2.000 năm biến thiên, Mậu Lăng chỉ còn để lại dấu tích. Phía Tây huyện Hưng Bình là trạm Mã Ngôi, nơi mỹ nhân đời Đường Dương Quí Phi đã bị bức tử trên đường chạy vào Thục, trong loạn An Sử. Hiện tại, nơi đây vẫn còn mộ Dương Quí Phi. Tiếp tục đi về hướng Tây sẽ đến huyện Vũ Công, bên ngoài huyện trấn Vũ Công là phần mộ của một nhân vật nổi danh thời Tây Hán: Tô Vũ.

Từ Vũ Công theo Con đường Tơ lụa tiếp tục về hướng Tây, sau khi vượt Lũng Sơn, hành nhân bước vào vùng Đông Nam Bộ của Lũng Hữu đạo. Địa giới của Lũng Hữu đạo bao quát từ Lũng Sơn Cam Túc đổ về phía Tây, từ Ô Lỗ Mộc Tề Tân Cương đổ về phía Đông, thẳng tới Đông Bắc bộ tỉnh Thanh Hải, thủ phủ đóng tại Thiền Châu (nay là huyện Lạc Đô tỉnh Thanh Hải). Thời cổ đại lấy hướng Tây làm mé phải, cho nên phía Tây Lũng Sơn được gọi “Lũng Hữu”. Từ Tây Hán trở đi, Lũng Hữu là vùng biên tái không bao giờ gián đoạn chiến tranh. Lữ khách rời Trường An theo Con đường Tơ lụa, sau khi đến Lũng Hữu, sẽ đối diện một bầu cảnh sắc cực kỳ biến hóa từ khí hậu đến địa vật. Đó là cảnh tượng mà Vương Nhai, nhà thơ đời Đường, khi qua đây đã mô tả trong một bài ngũ tuyệt: “Lũng Thượng hành”

隴上行 王涯
負羽到遍州
鳴笳度隴頭
黄云知塞近
草白見遍秋

Âm:
LŨNG THƯỢNG HÀNH (Vương Nhai)
Phụ vũ đáo biên châu
Minh già độ Lũng Đầu
Hoàng vân tri tái cận
Thảo bạch kiến biên thu

Dịch:
ĐI TRÊN LŨNG SƠN
Cung nỏ đến biên cương
Nghe kèn qua Lũng Sơn
Mây vàng soi biên tái
Cỏ trắng báo thu sang

Bài thơ vẽ hình ảnh người chiến sĩ vai đeo cung tên tiến ra biên ải. Khi vượt Lũng Sơn hốt nhiên nghe khúc nhạc bi lương vẳng lên từ tiếng kèn lá của người Hồ. Mây vàng soi gần biên tái và những đám cỏ trắng báo hiệu thu về. Cỏ trắng là loại cỏ có tên Cập Cập, chỉ sinh trưởng ở vùng Lũng Sơn đổ về phía Tây. Mỗi độ vào thu, mọi nguồn nước cạn kiệt, cỏ bị chết khô hóa màu trắng.

Sau khi vào đất Lũng Hữu, hành nhân sẽ dẫm lên Tần Châu, một thành trấn lớn của khu vực Lũng Sơn (nay là thành phố Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc). Trong loạn An Sử, nhà thơ Đỗ Phủ đã từng lánh cư xứ này, ông có viết đề tài “Tần Châu tạp thi” với 20 bài ngũ tuyệt. Từ Tần Châu, tiếp tục đi về hướng Tây sẽ đến Lan Châu (đời Đường còn có tên Kim Thành), rồi đến Thiền Châu. Đó là khu vực bao quát những trọng trấn quân sự Lâm Thao, Hà Tây Cửu khúc (nay là Hồ Thanh Hải) và Mân Sơn. Những vùng này, vào thời Sơ Đường, là lãnh địa của tiểu vương quốc Thồ Cốc Hồn. Vào niên hiệu Long Sóc Đường Cao Tông, Thồ Cốc Hồn bị Thổ Phồn (Tây Tạng) tiêu diệt, phải chạy qua nương nhờ Vương triều Đường. Do vậy mà những vùng đất vừa kể, có một thời, là chiến trường kinh thiên động địa giữa Đường triều và Thổ Phồn.

Lũng Sơn tức đoạn phía Nam của Đại bàng Sơn (cũng còn có những tên Lũng Pha, Lũng Để, Lũng Thủ). Lũng Sơn ngày nay là biên cảnh giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc, có chiều dài từ Nam lên Bắc khoảng 100 km, cũng là phân giới giữa bình nguyên Vị Hà và cao nguyên Lũng Tây.

Thời cổ đại giao thông rất khó khăn, đi lại vất vả. Những đoàn quân Tây chinh, những thương đội hoặc những quan viên công cán Tây Vực, sau khi rời những đô thị phồn hoa như Trường An, Hàm Dương, theo Con đường Tơ lụa về hướng Tây. Sau khi vượt Lũng Sơn, suốt tầm mắt là một không gian biên tái dị dạng, đơn điệu. Khí hậu khô kiệt giá buốt gợi cho lữ khách lòng nhớ quê da diết. Dân ca nhạc phủ thời Bắc triều có đề tài “Lũng Đầu ca từ” (3 bài) mô tả xuất sắc lòng nhớ quê của lữ khách khi bước chân tới Lũng Sơn:

隴頭歌辞 (北朝)樂府民歌

隴頭流水
流离山下
念吾一身
飄然曠野

朝發欣城
暮宿隴頭
寒不能語
舌卷入喉

隴頭流水
鳴聲鳴咽
遥望秦川
心肝斷絕
Âm:
LŨNG ĐẦU CA TỪ
(Bắc Triều) Nhạc Phủ Dân Ca
(Bài 1)
Lũng Đầu lưu thủy
Lưu ly sơn hạ
Niệm ngô nhất thân
Phiêu phiêu khoáng dã
(Bài 2)
Triêu phát Hân thành
Mộ túc Lũng Đầu
Hàn bất năng ngữ
Thiệt quyển nhập hầu
(Bài 3)
Lũng Đầu lưu thủy
Minh thanh minh yết
Diêu vọng Tần Xuyên
Tâm can đoạn tuyệt

Dịch:
NHỮNG BÀI HÁT VỀ LŨNG ĐẦU (Lũng Sơn)
(Bài 1)
Nước tự Lũng Đầu
Đổ về chân núi
Một thân phiêu diêu
Gởi theo cỏ nội
(Bài 2)
Hân thành buổi sớm
Chiều tới Lũng Đầu
Lạnh không hớ miệng
Lưỡi cuộn yết hầu.
(Bài 3)
Lũng Đầu nước xung
Âm vang bất tuyệt
Vọng về Quan Trung
Ruột gan đứt hết

Bài 1:
Nước tự Lũng Đầu (Lũng Sơn) đổ tứ tán về chân núi. Còn một thân lênh đênh phiêu bạt của ta, cũng chỉ biết phó mặc cho thảo nguyên không bờ bến.

Bài 2: Một sớm rời Hân thành, chiều tối đến Lũng Sơn. Trời lạnh tới độ không thể mở miệng nói, tưởng chừng như lưỡi đã bị cuộn cứng vào cổ họng.

Bài 3: Những khe nước từ Lũng Sơn tuôn xuống, vang vọng những âm thanh bi lương. Ta đứng trên đầu núi ngóng về cố hương Tần Xuyên (nay là Quan Trung tỉnh Thiểm Tây), tưởng chừng ruột gan đứt đoạn.

Những bài dân ca “Lũng Đầu lưu thủy” này khi lưu truyền, gần như đã hóa ra thành ngữ của bi lương, nhớ quê, sầu khổ. Trải qua nhiều triều đại, “Lũng Đầu lưu thủy” đã trở thành đề tài trong sáng tác của nhiều thi nhân.

Sầm Tham, nhà thơ nổi danh thời Thịnh Đường, xuất thân từ một gia đình quan lại, đậu tiến sĩ năm 30 tuổi, có giữ một chức quan nhỏ tại Trường An. Đường Huyền Tông năm Thiên Bảo thứ 8 (CN 749), An Tây Tiết Độ Sứ Cao Tiên Chi về triều, thỉnh cầu Hoàng Đế cử Sầm Tham đến giữ chức thư ký trong mạc phủ Tiết Độ Sứ của ông ta, lúc đó Sầm Tham 35 tuổi. Một ngày mùa Đông năm đó Sầm Tham lần thứ nhất đến Tây Vực. Từ Trường An, họ Sầm theo Con đường Tơ lụa, đi về phía Tây qua khỏi Đôn Hoàng, đến An Tây Đại Đô Hộ Phủ (lúc đó đặt tại thành Khưu Từ, nay là vùng Khố Xa tỉnh Tân Cương)). Sầm Tham giữ chức thư ký ở đó 2 năm, đến năm Thiên Bảo thứ 10 (CN 751) được triệu hồi về Trường An.

Khoảng giữa mùa Hạ và mùa Thu, từ năm Thiên Bảo thứ 13 Đường Huyền Tông đến năm Chí Đức thứ 2 Đường Túc Tông (CN 754-757), Sầm Tham lần thứ hai được cử đến Tây Vực, nhận chức Phán quan tại mạc phủ An Tây Tiết Độ sứ Phong Thường Thanh. Lần thứ nhất đến Tây Vực vì chưa quen với phong cảnh dị dạng, khí hậu khắc nghiệt và sinh hoạt gian khổ nơi quan ải, nên thơ họ Sầm chỉ có tình điệu nhớ nhung sầu thảm. Lầân này đến Tây Vực nhà thơ đã quen thuộc mọi thứ và có nhiều kinh nghiệm sinh hoạt nơi biên cương, nên thơ ông bật lên được tinh thần hào tráng, vẽ lên được những hình ảnh vừa hào hùng vừa bi tráng trên tuyến đầu đất nước. Ngay cả những bài thơ nhớ nhà của họ Sầm cũng không hề biểu lộ tình điệu sầu thảm, như bài thất tuyệt “Phó Bắc Đình độ Lũng tư gia” dưới đây:

赴北庭度隴思家 岑参
西向輪臺萬里餘
也知鄉信日應疏
隴山鸚鵡能言語
爲報家人數寄書
Âm:
PHÓ BẮC ĐÌNH ĐỘ LŨNG TƯ GIA (Sầm Tham)
Tây hướng Luân Đài vạn lý dư
Dã tri hương tín nhật ưng sơ
Lũng Sơn Anh Vũ năng ngôn ngữ
Vị báo gia nhân số ký thư

Dịch:
NHỚ NHÀ KHI QUA LŨNG SƠN, TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN BẮC ĐÌNH
Tây cách Luân Đài hơn vạn dặm
Tin quê mỗi bước một thưa xa
Lũng Sơn Anh Vũ chừng biết nói
Thay giúp tin thư gởi quê nhà

Bài thơ mô tả hình ảnh lữ khách đi về hướng Tây, còn cách Luân Đài hơn vạn dặm. Tin tức quê nhà càng lúc càng xa theo mỗi bước chân. Tiếng hót chim Anh Vũ trên đầu núi Lũng hình như nói lên được lòng người, hãy thay ta đưa tin về quê.
Vùng Lũng Sơn có loài chim Anh Vũ màu lông rất đẹp, các quan chức triều đình rất thích chơi loài chim này nên lệnh cho địa phương hàng năm phải tiến cống. Việc bắt chim Anh Vũ (chim Két) là một tai họa kinh khủng cho bá tánh Lũng Sơn và cả quan sai địa phương. Anh Vũ ở Lũng Sơn làm tổ trên sườn núi cheo leo, cách mặt đất từ 100m trở lên. Người dân nơi đây phải dùng dây leo, treo người lơ lững trên không vào lúc nửa đêm, rình bắt chim. Công việc hết sức nguy hiểm, 10 người leo núi may ra chỉ còn 1 người sống sót đem chim về. Trong khi các tướng lãnh trấn thủ biên cương cũng học đòi chơi chim Anh Vũ. Họ lệnh cho sĩ tốt phải làm những chiếc lồng đẹp, hằng ngày còn phải hầu rượu cho các tướng lãnh thưởng ngoạn chim, việc phòng thủ biên ải nhiều khi lơi lỏng.

“Con đường Tơ lụa” sau khi vượt Lũng Sơn, đi về phía Tây khoảng 100 km sẽ đến Tần Châu. Thủ phủ Tần Châu là Thiên Thủy (nay là thành phố Thiên Thủy tỉnh Cam Túc). Địa danh Thiên Thủy có từ năm Nguyên Đỉnh thứ 2 đời Hán Vũ Đế (114CN), có trước cả địa danh Tần Châu thời Tam Quốc. Phía Tây ngoại thành Thiên Thủy có một hồ nước. Theo nói lại thì nước hồ này mùa Hạ không tăng Đông không giảm, mưa không đầy nắng không vơi. Truyền thuyết, có một con sông từ trời chảy xuống hồ nên mới có tên “Thiên Tủy” (nước trời). Truyền thuyết vẫn chỉ là truyền thuyết, tất cả những hiện tượng đó ngày nay không tồn tại.

Có một điều, chính sử không phủ nhận, Thiên Thủy từ viễn cổ tới đời Đường là vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, là quê hương của nhiều nhân vật lừng danh trong lịch sử. Thượng cổ có Hoàng Đế Nữ Oa (nhân vật luyện đá vá trời và lập ra chế độ hôn nhân). Hoàng Đế Phục Hy (nhân vật vạch ra 8 quẻ bát quái làm nền tảng cho kinh Dịch). Đời Hán có Lý Quảng (danh tướng uy trấn Hung Nô). Tam quốc có Gia Cát Lượng, Triệu Xung Quốc, Khương Duy. Cả hai vị Hoàng Đế khai quốc nhà Đường Lý Uyên và Lý Thế Dân, đều là những nhân vật sinh trưởng tại Thiên Thủy.

Năm Càn Nguyên thứ nhất Đường Túc Tông (CN 758), nhà thơ Đỗ Phủ bị biếm quan ở Hoa Châu (nay là huyện Hoa tỉnh Thiểm Tây), ông đưa gia đình, theo Con đường Tơ lụa, vượt Lũng Sơn đến Tần Châu. Gặp lúc cuộc sống ở đây chật vật, mọi sinh hoạt khó khăn lại thêm Tần Châu đang bị quân Thổ Phồn uy hiếp, nên ông chỉ lưu lại một thời gian ngắn rồi rời Tần Châu đến Đồng Cốc (nay là huyện Thành tỉnh Cam Túc). Cuộc sống ở Đồng Cốc chẳng khả quan gì hơn Tần Châu, nên cũng chỉ một thời gian ngắn, ông đưa gia đình thẳng vào Thành Đô (đất Thục).

Thời gian lưu lại Tần Châu tuy ngắn ngủi (3 tháng) nhưng lại là thời kỳ sáng tác thịnh nhất của Đỗ Phủ, ở đây ông đã viết hơn 90 bài thơ (trung bình mỗi ngày 1 bài) mô tả xuất sắc từ núi sông, con người đến cả hình thể đất nước trên một vùng đất trọng yếu của Con đường Tơ lụa. Nổi bật nhất là 20 bài “Tần Châu tạp thi” mà trong khuôn khổ chương sách này, chúng tôi chỉ tạm trích 2 bài.

秦州雜诗 杜甫

秦州城北寺
胜迹隗囂宮
苔藓山門古
丹青野殿空
月明垂葉露
雲逐度溪風
清渭無情極
愁時獨向東

莽莽萬重山
孤城山谷間
無風雲出塞
不夜月臨關
属國歸何晚
楼蘭斬未還
烟塵獨長望
衰颯正摧顏

Âm:
TẦN CHÂU TẠP THI (Đỗ Phủ)
(Bài 2)
Tần Châu thành Bắc tự
Thắng tích Ngỗi Hiêu cung.
Đài tiểán sơn môn cổ
Đan thanh dã điện không
Nguyệt minh thùy diệp lộ
Vân trục độ khê phong
Thanh vị vô tình cực
Sầu thị độc hướng Đông.

(Bài 7)
Mãng mãng vạn trùng san
Cô thành sơn cốc nhàn.
Vô phong vân xuất tái
Bất dạ nguyệt lâm quan.
Thuộc quốc qui hà vãn?
Lâu Lan trảm vị hoàn!
Yên trần độc trường vọng
Suy táp chính tồi nhan.
Dịch:
THƠ VẶT LÀM Ở TẦN CHÂU
Bài 2
Tần Châu chùa cõi Bắc
Ấy chốn Ngỗi Hiêu xưa.
Cửa núi làn rêu cũ
Đền hoang nét vẽ thưa.
Trăng soi sương lá giọt,
Mây dục gió khe đưa.
Thanh vị thờ ơ thế,
Về Đông buồn quạnh chưa!
Bài 7:
Lớp lớp núi muôn hòn,
Nếp thành giữa lũng con.
Mây biên đùn gió lặng,
Chiều ải ló trăng non.
Thuộc quốc sao về muộn?
Lâu Lan chắc vẫn còn!
Ngóng hoài trong khói bụi,
Vẽ mặt luống thon von.
Lê Nguyễn Lưu dịch

Trong suốt 20 bài của “Tần Châu tạp thi”, Đỗ Phủ đã mô tả sống động từ lộ trình dọc Con đường Tơ lụa đến Tần Châu và cả bức tranh toàn cảnh Tần Châu. Ông đã đi qua suối Ngư Long, núi Điểu Thử (suối Ngư Long phát nguyên từ Tây Bắc huyện Lũng, chảy về Nam nhập vào Khai Thủy. Suối này sản sinh một giống cá ngũ sắc tương truyền là giống Rồng, mới có tên Ngư Long. Núi Điểu Thử thuộc huyện Vị Nguyên tỉnh Cam Túc ngày nay).

Bài 2 trong “Tần Châu tạp thi” nói về những biến thiên của một thắng tích. Trên đầu núi phía Đông Bắc Tần Châu có ngôi chùa Sùng Ninh, vốn là nền cung điện xưa của Ngỗi Hiêu. Cuối thời Tây Hán Ngỗi Hiêu cát cứ toàn bộ vùng Cam Châu và Túc Châu (nay là tỉnh Cam Túc), tự xưng là Tây Châu đại tướng quân. Sau này bị nhà Đông Hán đánh bại nhiều lần, Ngỗi Hiêu lo buồn sinh bệnh mà chết. Di tích Ngỗi Hiêu cung tại đầu núi phía Bắc thành phố Thiên Thủy ngày nay, tục gọi Hoàng Thành. nay chỉ còn lại cảnh hoang tàn của những mẫu tường sụp đổ. Cửa chùa Sùng Ninh cũng mọc đầy rong rêu cỏ dại. Bên trong không một bóng người, ánh trăng chiếu qua những giọt sương trên lá, mây bên dòng suối bị gió chiều cuộn trôi.

Bài 7: Tả cảnh Tần Châu nằm giữa sơn cốc với núi non trùng điệp. Trời không gió, mây vẫn cứ tự trôi qua ải. Đêm chưa xuống hẳn mà ánh trăng đã rải khắp biên cương. Điển Thuộc Quốc Tô Vũ sao vẫn chưa trở về? Hay là chưa chịu đáp ứng yêu sách của vua Lâu Lan? (Vua Lâu Lan chỉ Thiền Vu Hung Nô. Điển Thuộc Quốc Tô Vũ lãnh mệnh Hán triều đi sứ Hung Nô, bị bắt đày đi chăn dê 19 năm nơi biên tái. Ý thơ mượn điển cố Hán để chỉ sứ giả Đường triều). Hai câu cuối, Đỗ Phủ nhân cảnh chạnh tình, nghĩ về tuổi già long đong và dung nhan tiều tụy của mình.

“Con đường Tơ lụa”, từ Tần Châu, có một đại đạo thông thẳng qua sa mạc, ở đây có hàng ngàn lán trại của người Hồ (đã qui phục triều đình), dân cư có đến 10 ngàn hộ, tuấn mã chạy khắp sa mạc rớt xuống những giọt mồ hôi đỏ như huyết. Đó là Tộc Bạch Đề của người Hồ (người dân tộc này thích dùng phấn trắng bôi lên trán nên tự xưng là “Bạch Đề Tộc”).

Lúc Đỗ Phủ đến Tần Châu thì nơi đây đã là biên quan của Đường Triều. Trong loạn An Sử triều đình đã điều hết quân tinh nhuệ phòng thủ biên tái về nội địa dẹp loạn, kết quả tuyến đầu bỏ trống. Ngoại tộc thừa cơ bắt đầu xâm nhập, nghiêm trọng nhất là Thổ Phồn (Tây Tạng). Thổ Phồn liên tục đánh chiếm Hà Tây, Lũng Hữu, cuối cùng công hãm cả kinh đô Trường An.
Tại một tòa núi phía Nam ngoại thành Tần Châu là chùa Nam Quách. Trong chùa có một dòng suối gọi Bắc Lưu Tuyền chảy về hướng Tần Châu. Những ngày lưu lại Tần Châu, Đỗ Phủ đã từng du lãm qua chùa Nam Quách (vị trí ngày nay nằm giữa eo núi Nam Sơn, cách phía Nam Thiên Thủy khoảng 3 km). Trước chùa có hai cây Hòe lớn xưng là Hán Hòe. Tại một viện nhỏ phía Đông chùa có một giếng đá (nằm trong dòng chảy của Bắc Lưu Tuyền). Giếng này không những nước rất tốt mà đặc biệt mùa hạn nước nhiều hơn mùa mưa. Trước chánh điện chùa có hai cây bách rất xưa mà trong thơ Đỗ Phủ gọi “Lão thụ”, ít nhất cũng có hơn ngàn năm tuổi, mỗi cành đều có một bia đá. Một trong hai cây bách thân nứt làm đôi, chính giữa mọc lên cây hòe, làm thành hiện tượng kỳ lạ “Bách Bao Hòe”. Tương truyền, danh tướng khai quốc công thần Đường triều Uất Trì Kính Đức đã từng cưỡi ngựa trên hai cây bách này. Nói chung, những di tích cổ xưa của chùa Nam Quách vẫn còn bảo tồn đầy đủ.

Đông thiền viện chùa Nam Quách có miếu Đỗ Phủ (Đỗ Công Từ). Theo ghi chép thì ở Đông Kha Cốc Tần Châu (nay là Công xã Liễu Gia Hà Thôn), thuộc huyện Thiên Thủy, Cam Túc) Đỗ Phủ đã từng ngụ tại nhà người cháu Đỗ Tả. Nơi đây có Đỗ Công Bộ thảo đường, một kiến trúc kỷ niệm Đỗ Phủ, niên hiệu Đồng Trị đời Thanh đã bị chiến tranh phá hủy. Sau này Đông thiền viện chùa Nam Quách được đổi tên “Đỗ Công Từ”. Ngày nay trong miếu vẫn còn tượng Đỗ Phủ và hai tiểu đồng đứng hầu sách (nhiều tư liệu cho đó là hai con trai của nhà thơ, Đỗ Tôn Văn và Đỗ Tôn Võ).

Phía Đông Nam Tần Châu khoảng 40 km, là vị trí của một tòa núi có đỉnh giống hình một đống lúa Mạch, nên có tên Mạch Tích Sơn, một thắng cảnh trứ danh nằm trên Hành Lang Hà Tây của Con đường Tơ lụa (khu vực Lũng Sơn). Khoảng sau nhà Tần (CN 384-417), Mạch Tích Sơn bắt đầu được khai quật, kéo dài đến thế kỷ 19, bảo tồn được gần 200 hang động. Bên trong có một số lớn tượng Phật bằng đá và hơn 1000m2 bích họa. Những hang đá trên núi cao hơn 140m, theo những phương pháp nghiên cứu hiện đại, người xưa đã đắp đất từ chân núi lên đến hiên nhai rồi theo những bậc đất, lên đó đục hang động, khắc tượng Phật, khi làm xong dời đất đi. Người sau muốn lên tham quan hang động phải thiết kế cầu treo mới lên được. Trải mấy ngàn năm biến thiên, Mạch Tích Sơn vẫn được bảo tồn hoàn hảo. Ngày nay đã trở thành thắng cảnh du lịch trên Con đường Tơ lụa.

Năm Quảng Đức thứ nhất Đường Đại Tông (CN 763), quân Thổ Phồn tiến chiếm kinh đô Trường An, 13 ngày sau bị danh tướng Quách Tử Nghi đem quân đẩy lui. Tới năm Quảng Đức thứ hai (CN 764), Thổ Phồn liên kết với Hồi Hột đem hơn 10 vạn quân, lần thứ hai công chiếm Trường An, nhưng cũng bị quân Quách Tử Nghi bẻ gãy. Vùng Đông Bộ biên cảnh Thổ Phồn là Đường Kiếm Nam Tiết Độ Sứ do Nghiêm Vũ quản hạt, cũng nhiều lần bị quân Thổ Phồn nhập xâm đánh phá. Năm Quảng Đức thứ hai, Tiết Độ Sứ Nghiêm Vũ xuất quân tấn công đại qui mô, tiêu diệt hơn 7 vạn binh mã Thổ Phồn. Tiết Độ Sứ Nghiêm Vũ xua quân chiếm luôn Câu Thành (nay là khu A Bá tự trị tỉnh Tứ Xuyên), sau đó tiến chiếm Diêm Xuyên Thành (nay thuộc Tây Bắc huyện Chương tỉnh Cam Túc). Cả hai nơi đều nằm phụ cận Lâm Thao. Cuộc chiến kéo dài từ mùa Thu đến mùa Đông mới kết thúc.

Trấn Lâm Thao nằm ở chân núi Mân Sơn (nay là huyện Mân tỉnh Cam Túc, không phải huyện Lâm Thao đời Đường) là một trọng trấn quân sự biên tái mà Con đường Tơ lụa bắt buộc phải đi qua, và cũng được nhiều nhà thơ nhắc tới. Nhà thơ Thịnh Đường Vương Xương Linh khi hành quân qua đây đã viết bài ngũ luật “Tái Hạ Khúc”

塞下曲 王昌齡
飲馬渡秋水
水寒風似刀
平沙日未沒
黯黯見臨滔
昔日長城戰
咸言意氣高
黄塵足今古
白骨亂蓬蒿
Âm:
TÁI HẠ KHÚC (Vương Xương Linh)
Ẩm mã độ thu thủy
Thủy hàn phong tự đao.
Bình sa nhật vị một,
Ảm ảm kiến Lân Thao
Tích nhật trường thành chiến,
Hàm ngôn ý khí cao.
Hoàng trần súc kim cổ,
Bạch cốt loạn Bồng hao.

Dịch:
BÀI HÁT DƯỚI
Qua sông ngựa uống nước,
Nước lạnh, gió như dao.
Nắng tà vùng cát phẳng,
Thấp thoáng thấy Lâm Thao.
Trận Trường Thành thuở trước,
Cùng bảo khí quân cao.
Bụi vàng đầy kim cổ,
Xương trắng lẫn Bồng hao.
Lê Nguyễn Lưu dịch

Qua bài “Tái Hạ Khúc”, Vương Xương Linh diễn đạt tâm tư đối cảnh chạnh tình của một chiến binh già trấn đóng nơi biên tái. Buổi chiều mùa Thu, vì cho ngựa uống nước phải lội qua dòng sông nhỏ, nước sông giá lạnh, gió quét vào mặt như dao cắt. Màu trời hôn ám, bóng chiều tà còn vướng trên sa mạc mênh mông. Nhìn về hướng Lâm Thao xa xa, chạnh nhớ những trận ác chiến dưới chân Trường Thành thuở trước, ngày đó sĩ khí rất cao nhưng tự cổ chí kim, tất cả mọi cuộc chiến tranh đều chỉ để lại những bãi cát vàng, xương người ngổn ngang lẫn lộn vào cỏ dại.

Vị Hà là chi lưu chủ yếu của Hoàng Hà, chảy qua trung tâm đế quốc Đường Triều (vùng Quan Trung Thiểm Tây), tích tụ phù sa cho những cánh đồng vùng Quan Trung, giúp cho nông nghiệp phát triển mạnh, tăng cường hùng hậu cho nhà Đường.
Khoảng giữa Tần Châu và Kim Thành (nay là Lan Châu Cam Túc) có huyện Vị Nguyên (còn có tên Tư Nghĩa), là đầu nguồn của Vị Hà, nơi Con đường Tơ lụa bắt buộc phải đi qua.

Vị Hà phát nguyên từ Điểu Thử Sơn phía Tây Nam huyện Vị Nguyên. Điểu Thử Sơn (núi Chim Chuột) là một hiện tượng tự nhiên kỳ lạ, ở đó chim và chuột sống chung một hang động. Hơn hai ngàn năm trước, thiên Vũ công sách “Thượng Thư” đã ghi “Hiện tượng Chim và Chuột sống cùng hang động”.

Vị Hà còn có một chi lưu là Khai Thủy, phát nguyên từ huyện Lũng tỉnh Thiểm Tây. Đoạn đầu nguồn sông này có tên Long Ngư xuyên (sông cá Rồng). Tương truyền nơi đây sản sinh một giống cá ngũ sắc có nòi Rồng. Dân cư quanh vùng đều cho là thần vật không ai dám bắt.

Thao Thuỷ (tức Thao Hà) phát nguyên từ ranh giới hai tỉnh Thanh Hải và Cam Túc, chảy về hướng Đông, đến huyện Mân tỉnh Cam Túc thì quặt hướng Bắc, chảy qua phía Tây Điểu Thử Sơn trước khi nhập vào Hoàng Hà.

Tại Cam Túc, Thanh Hải và Tân Cương đều có những ghi chép về huyệt động Chim Chuột trên núi, trên thảo nguyên hoặc hoang mạc. Người đời Thanh là Từ Tùng đã từng ghi chép hiện tượng huyệt động Chim Chuột khi đi qua vùng Y Lê tỉnh Tân Cương: “Chuột như chuột thường. Chim có lông đuôi dài màu xanh lục, nhỏ hơn chim Tước. Lúc rạng đông chim bay ra khỏi hang trước, một lúc sau chuột mới ra. Chim đứng trên lưng chuột để chuột mặc tình chạy nhảy chim vẫn không rớt”.

Tại Điểu Thử Sơn đầu nguồn Vị Hà, chuột già đào hang động, chim nhỏ đi tìm lương thực về dự trữ. Những ngày Đông tạnh ráo, chuột già ra khỏi hang tắm nắng, chim nhỏ đứng hót líu lo trên lưng chuột. Mùa Hạ nước sông lên cao, chuột già bơi qua sông, chim nhỏ cũng qua sông bằng cách đứng trên lưng chuột.

Do đâu mà có hiện tượng chim chuột ở cùng huyệt kỳ lạ này? Giới Động vật học giải thích: nhiệt độ tại vùng hoang mạc giữa Đông và Hạ, giữa ngày và đêm có mức sai biệt rất lớn, nhưng trong hang động thì Đông ấm Hạ mát, nếu có sai biệt thì mức độ cũng rất nhỏ. Vì thế các loài động vật sống chung rất hạnh phúc trong hang động, qua nhiều ngàn năm đã trở thành một thứ truyền thống bất dịch. Một số người cho rằng, vùng này khí hậu khắc nghiệt, cây cỏ không mọc được, chim chóc không có cây làm tổ nên phải sống chung với chuột trong hang động. Nhưng theo kết luận của nhiều đoàn khảo sát thì, Điểu Thử Sơn là vùng có nhiều rừng rậm cỏ cây um tùm. Làm sao có chuyện chim không cây làm tổ. Lý do sống chung hòa bình của chim và chuột chỉ còn tồn tại ở khí hậu ôn hòa dễ chịu của hang động.

Đó là những nét đặc trưng của vùng Lâm Thao. Từ Lâm Thao, theo Con đường Tơ lụa đi về hướng Tây Bắc đến Kim Thành (tức Lan Châu), rồi đến Thiền Châu (nay là huyện Lạc Đô, Thanh Hải). Phía Tây Thiền Châu là vùng Hà Tây Cửu Khúc (nay thuộc tỉnh Thanh Hải), từng là chiến trường đẩm máu giữa Đường triều và Thổ Phồn. Sau đó thẳng tới Tây Hải (nay là hồ Thanh Hải).

Vùng Tây Nam Thiền Châu Kim Thành nguyên là địa bàn của nước Thồ Cốc Hồn, do họ Mộ Dung của tộc Tiên Ty kiến lập. Vào đời Tùy, Thồ Cốc Hồn bị nhà Tùy diệt vong, biến thành quận huyện của Tùy. Cuối đời Tùy, Trung Quốc đại loạn, Phục Duẫn Khả Hãn của Thồ Cốc Hồn thừa cơ thu phục những vùng đất đã mất tái lập quốc gia. Vào thời Sơ Đường, Phục Duẫn Khả Hãn thường đem quân cướp bóc quậy phá biên cảnh Đường triều. Năm Trinh Quán thứ 9 (CN 635), Đường Thái Tông mệnh cho hai tướng Lý Tịnh và Hầu Quân Tập đưa 6 lộ quân tiến công Thồ Cốc Hồn, Phục Duẫn Khả Hãn đại bại tự sát.

Đường triều lập con y là Mộ Dung Thuận làm Khả Hãn Thồ Cốc Hồn.
Thời Thịnh Đường, nhà thơ Vương Xương Linh khi hành quân qua Thiền Châu Kim Thành, hình dung lại chiến trường xưa, có viết đề tài “Tòng quân hành” gồm một số bài thất tuyệt, trong đó, bài thứ 5 mô tả lại trận chiến với Thồ Cốc Hồn.

從軍行 王昌齡
大漠風塵日色昏
紅旗半卷出轅門
前軍夜戰滔河北
已報生擒吐谷渾
Âm:
TÒNG QUÂN HÀNH (Vương Xương Linh)
(Bài 5)
Đại mạc phong trần nhật sắc hôn,
Hồng kỳ bán quyển xuất Viên môn.
Tiền quân dạ chiến Thao Hà Bắc,
Dĩ báo sanh cầm Thồ Cốc Hồn.
Dịch:
BÀI HÁT THEO QUÂN
Gió bụi trời chiều qua sa mạc,
Quân uy cờ cuốn dục lên đường.
Thao Hà đêm ấy vừa giao chiến,
Đã bắt sống vua Thồ Cốc Hồn.

Ý thơ, gió cát chiều tà trên sa mạc mênh mông. Đoàn quân hùng hậu cuốn cờ thẳng tiến về biên tái phía Tây. Ngay đêm giao chiến đầu tiên tại Thao Hà Bắc, đã có tin báo về, bắt sống được thủ lĩnh Thồ Cốc Hồn.

Từ khi Thồ Cốc Hồn đại bại trước Đường triều, mối quan hệ giữa hai nước được cải thiện ngày càng tốt. Đến đời cháu của Phục Duẫn, Nặc Hạt Bát kế vị ngôi Khả Hãn, được Đường Thái Tông phong “Hà Nguyên quận vương”. Năm Trinh Quán thứ 13 (CN 639), Nặc Hạt Bát đích thân đến Trường An triều kiến Hoàng Đế và thỉnh hôn. Năm sau, Đường Thái Tông phong con gái của Hoài Dương Vương Lý Đạo Minh là Hoằng Hóa Công Chúa, gã cho Nặc Hạt Bát làm “Khả Đôn” (vợ chính của Khả Hãn). Cuộc hôn nhân này giúp cho mối quan hệ giữa hai nước ngày càng được củng cố vững chắc. Khi Đường Thái Tông qua đời, Đường triều còn tạc một tượng đá của Nặc Hạt Bát, đặt ngay dưới chân Chiêu Lăng (lăng mộ Đường Thái Tông). Vào thời kỳ đó, đây là vinh dự rất lớn đối với lãnh tụ một dân tộc miền quan ngoại.

Năm Trinh Quán thứ 15 (CN 641), vua Thổ Phồn là Tùng Tán Can Bố phái sứ giả đến Trường An cầu hôn. Đường Thái Tông quyết định gã Công Chúa Văn Thành. Lộ trình đưa dâu có đi qua Thổ Cốc Hồn (nay là tỉnh Thanh Hải). Khả Hãn Nặc Hạt Bát và Hoằng Hóa Công Chúa rất nhiệt tình đón tiếp và đích thân tiễn đưa Công Chúa Văn Thành đến tận biên cảnh Thổ Phồn. Do mối quan hệ tốt đẹp giữa Đường triều và Thồ Cốc Hồn mà Con đường Tơ lụa (đoạn từ Kim Thành đến Hà Tây Tẩu Lang) được thông suốt không còn trở ngại.

Năm thứ 2 sau khi Đường Thái Tông băng (CN 650), Tùng Tán Can Bố cũng qua đời. Người kế nhiệm của ông từng bước một, bành trướng thế lực ra ngoài biên cảnh, đã nhiều lần đem quân tấn công Thồ Cốc Hồn. Năm Long Sóc thứ 2 Đường Cao Tông (CN 663), Thổ Phồn lại xua đại quân tấn công Thổ Cốc Hồn. Khả Hãn Nặc Hạt Bát và Hoằng Hóa Công Chúa chỉ đưa được vài ngàn dân và súc vật, theo bờ Đông Bắc Thanh Hải, vượt Kỳ Liên Sơn đến lánh nạn tại Lương Châu (lãnh thổ Đường triều, nay là huyện Vũ Uy Cam Túc). Thồ Cốc Hồn từ đó diệt vong. Sau này Đường Cao Tông phái Đại tướng Tiết Nhân Quí đem hơn 10 vạn quân thu phục lãnh địa của Thồ Cốc Hồn nhưng thất bại. Con đường Tơ lụa cũng bị tắt nghẽn dưới sự khống chế của Thổ Phồn.

Năm Thánh Lịch thứ nhất Đường Võ Tắc Thiên (CN 698), Hoằng Hóa Công Chúa qua đời, an táng tại Dương Hồn Cốc Dã thành (nay là Nam Doanh Công Xã, huyện Võ Uy tỉnh Cam Túc). Đó là thôn Bắc núi Chủy Tử, nghĩa trang của họ Mộ Dung tộc Tiên Ty. Mộ của Công Chúa cao 10 thước còn bảo tồn tới ngày nay. Bài thất tuyệt thứ nhất của Vương Xương Linh trong đề tài “Tòng quân hành” nhằm mô tả nền xưa của lãnh địa Thồ Cốc Hồn, một tiểu vương quốc từng có quá khứ huy hoàng, giờ còn để lại bên này biên cảnh, hình ảnh những sĩ binh Đường Triều trấn giữ biên cương, ôm lòng nhớ quê da diết:

從軍行 王昌齡
烽火城西百尺摟
黄昬獨坐海風秋
更吹羌笛關山月
無那金閨萬里愁
Âm:
TÒNG QUÂN HÀNH (Vương Xương Linh)
(Bài 1)
Phong hỏa thành Tây bách xích lâu,
Hoàng hôn độc tọa Hải phong thu.
Cánh xuy Khương địch “Quan san nguyệt”
Vô ná kim khuê vạn lý sầu.
Dịch:
BÀI HÁT THEO QUÂN
“Phong Hỏa” thành Tây trăm thước lầu,
Quanh đây biển gió một chiều Thu.
Sáo Khương trỗi khúc “Quan san nguyệt”,
Vạn dặm phòng khuê vô hạn sầu.

Bài thơ diễn đạt tâm tư những sĩ binh trấn thủ biên cương, hằng ngày nhìn qua nền xưa của một tiểu vương quốc đã bị Thổ Phồn chiếm lĩnh. Từ sau khi Thồ Cốc Hồn bị Thổ Phồn diệt vong, Đường quân xây một “Phong hỏa đài” trên lầu cao trăm thước để quan sát địch tình. Hằng ngày sĩ binh ngồi trên Phong Hỏa đài, đón những làn gió chiều Thu từ hồ Thanh Hải thổi tới, cộng thêm tiếng sáo rợ Khương trỗi lên khúc nhạc thảm sầu “Quan San Nguyệt”, người lính biên cương không cầm được lòng nhớ quê. Bài thơ cũng không quên đề cập nỗi buồn vô hạn của những chinh phụ nơi khuê phòng, thương nhớ chinh nhân nơi biên tái.

Đời Đường Cao Tông (sau khi Thổ Phồn chiếm lĩnh Thồ Cốc Hồn làm thuộc địa), thế lực Thổ Phồn rất mạnh, uy hiếp nặng nề tuyến đường giao thông giữa Đường triều và Tây Vực, qua vùng Hà Tây Tẩu Lang (tức từ Lương Châu qua Cam Châu, Túc Châu tới Đôn Hoàng). Vì muốn bảo vệ biên cương và sự thông thương của Con đường Tơ lụa, khoảng giữa niên hiệu Khai Nguyên và Thiên Bảo, Đường triều đã cho thành lập Hà Tây Tiết Độ sứ tại Lương Châu với quân số 7 vạn 3 ngàn, và Lũng Hữu Tiết Độ sứ tại Thiền Châu với quân số 7 vạn 5 ngàn. Tất cả đều nhằm vào mục đích phòng bị quân Thổ Phồn nhập xâm.
Năm Thiên Bảo thứ 12 (CN 753), Lũng Hữu Tiết Độ sứ kiêm Hà Tây Tiết Độ sứ Ca Thư Hàn đã xuất đại quân tấn công Thổ Phồn tại Hà Tây Cửu Khúc (phía Đông Hồ Thanh Hải). Những trận tiến công quân sự đại qui mô kéo dài rất nhiều ngày, Ca Thư Hàn cũng công phá được một vài thành nhỏ, nhưng tổn thất của quân Đường lại quá nặng nề. Thời Đường Huyền Tông, Hoàng Đế cũng đã từng lệnh cho Tướng Ca Thư Hàn đem quân tấn công Thạch Bảo Thành của Thổ Phồn (nay ở phía Tây Nam Tây Ninh tỉnh Thanh Hải). Trận đó quân Đường tiêu vong gần hết mới chiếm được thành, trong khi chỉ bắt được vỏn vẹn 400 quân địch. Nói chung từ Đường Võ Tắc Thiên đến Đường Cao Tông rồi Đường Huyền Tông, quân Đường chỉ cầm chân được Thổ Phồn ở vùng Phong Hỏa Đài tuyến đầu Thanh Hải, chứ không thu phục được lãnh địa Thổ Cốc Hồn.
Kim Thành (Lan Châu), Thiền Châu (nay là huyện Lạc Đô tỉnh Thanh Hải) và Tây Hải (nay là Hồ Thanh Hải) đều là tuyến đầu trọng yếu của khu vực Lũng Sơn. Lũng Sơn cũng là khu vực đầu tiên trên Hành Lang Hà Tây, sau khi ra khỏi Hàm Dương, theo Lộ tuyến Nam của “Con đường Tơ lụa” đi về hướng Tây.

Thanked by 1 Member:

#238 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 15/08/2015 - 04:39

Con đường tơ lụa

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Chương IV- LỘ TUYẾN MỚI PHÍA BẮC CỦA CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

Lộ tuyến mới phía Bắc là một trong ba lộ tuyến thông Tây Vực của Con đường Tơ lụa. Tức từ An Tây (Cam Túc) ra Đường Ngọc Môn Quan đi về phía Tây Bắc, vượt bãi Qua Bích đến Y Châu (nay là huyện Cáp Mật Tân Cương), tiếp tục về phía Tây qua Đình Châu, thủ phủ của Bắc Đình Đô Hộ phủ đời Đường (nay là Cát Mộc Tác Nhĩ Tân Cương), vượt Y Ninh (Tân Cương) thẳng tới Toái Diệp Thành. Từ đó vượt vùng Trung Á Tế Á để đến Hy Lạp, La Mã và bờ Địa Trung Hải.
Vùng biên cảnh phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc, từ thời Hán Đường, chiến tranh không bao giờ dứt. Đời Hán chiến tranh với Hung Nô. Những năm khai quốc Đường triều chiến tranh với Đột Quyết. Về sau (cũng đời Đường) chiến tranh với Thổ Phồn, Hồi Hột. Các tiểu quốc này muốn tấn công một nước lớn như Đường triều, trước tiên phải chiếm con đường phía Bắc Thiên Sơn của Tây Vực, tức lộ tuyến mới phía Bắc của Con đường Tơ lụa (vùng Y Châu, Đình Châu và Ô Tôn) làm thuộc địa. Rồi sau mới chinh phục con đường phía Nam Thiên Sơn, tức lộ tuyến Bắc của Con đường Tơ lụa (các tiểu quốc Yên Kỳ, Khưu Từ và Sơ Lạc), những quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp phong phú. Từ đó mới đối địch với Hán Đường. Về phía Hán Đường, muốn củng cố biên phòng, cũng phải đánh bại các tiểu quốc đó và làm chủ vùng Tây Vực.

Từ thời Tây Hán, Hán Vũ Đế đã 2 lần phái Trương Khiên thông sứ Tây Vực (năm 138-119 TCN). Sau nhiều năm lặn lội gian khổ và tù đày, Trương Khiên đã khám phá và mở rộng bang giao với 36 tiểu vương quốc vùng Tây Vực. Quan trọng nhất là các nước Đại Uyển (nay ở vùng Trung Á), Nguyệt Chi, Khang Cư (nay ở giữa hồ Baican và Biển Mặn), Đại Hạ (nay là phía Bắc Apganixtan), Điền Việt (nay là tỉnh Vân Nam), Vu Điền (nay nằm giữa tỉnh Tân Cương) và Ô Tôn.

Trong tấu chương trình lên Hán Vũ Đế, Trương Khiên có viết “Ở Đại Hạ có gậy trúc sản xuất tại Cung Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên) và hàng tơ lụa sản xuất tại đất Thục (nay là Thành Đô, Tứ Xuyên). Người bản xứ cho biết những thứ đó do thương nhân Thiên Trúc (Ấn Độ) mang tới”. Qua đó Hán Vũ Đế được biết, từ lâu đã có con đường buôn bán giữa Trung Nguyên với các vương quốc phía Tây và Tây Bắc. Ông hạ quyết tâm làm chủ tình hình và mở rộng con đường này. Từ đó về sau, hàng năm Hán Vũ Đế đều phái sứ giả thông sứ Tây Vực, xây dựng quan hệ ngoại giao với các vương quốc vùng này. Sứ giả và các đoàn thương nhân Tây Vực cũng lũ lượt đến Trung Quốc. Hàng tơ lụa của Trung Quốc, ngày càng nhiều, đi qua Tây Vực tới các nước Tây Á rồi đi tiếp sang Âu Châu. Người đời sau gọi đó là “Con đường Tơ lụa”.

Năm Thần Tước thứ 2 Hán Tuyên Đế (năm 60 TCN), Hán triều thiết lập “Tây Vực Đô Hộ Phủ” tại Ô Lũy thành (nay là Công Xã Sách Đại Nhã Dã Vân Câu, thuộc huyện Luân Đài tỉnh Tân Cương), cử Trịnh Cát giữ chức quan đô hộ, có nhiệm vụ bảo hộ từ Thiện Thiện đổ về Tây Nam. Thiện Thiện đời Hán là tiểu vương quốc Thiện Thiện, thủ đô tại Y Tuần (nay là Mễ Lan thuộc huyện Nhược Khương Tân Cương. Không phải huyện Thiện Thiện của Tân Cương ngày nay). Tây Vực Đô Hộ phủ đời Hán chủ yếu kết hợp cộng đồng các vương quốc vùng Tây Vực nhằm đối phó Hung Nô, bảo vệ sự thông suốt của “Con đường Tơ lụa”.

Đến đời Đường, khoảng niên hiệu Trinh Quán Đường Thái Tông (CN 627 – CN 649), quân Đường tiêu diệt nước Cao Xương tại Tây Vực (thuộc quốc của Đột Quyết), thành lập Tây Châu tại đó (nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương). Sau đó tiêu diệt luôn 2 nước Yên Kỳ và Khưu Từ. Sơ Lặc và Vu Điền thấy thế đều xin thần phục Đường Triều. Toàn bộ con đường phía Nam Thiên Sơn đều trở thành lãnh thổ hoặc thuộc quốc của nhà Đường. Công Nguyên 640, Đường triều thiết lập An Tây Đô Hộ phủ, thủ phủ đặt tại Giao Hà (nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương). Về sau (CN 658) di dời đến thành Khưu Từ (nay là Khố Xa Tân Cương) xưng là An Tây Đại Đô Hộ phủ, cai quản 4 Đô Đốc Phủ: Toái Diệp (sau là Yên Kỳ), Khưu Từ, Sơ Lặc và Vu Điền, xưng An Tây Tứ Trấn. Chức quan cao nhất của Đô Hộ phủ là An Tây Đô Hộ, đến thời Đường Huyền Tông đổi là An Tây Tiết Độ Sứ. Công Nguyên 702, Vũ Tắc Thiên ra lệnh thành lập Bắc Đình Đại Đô Hộ phủ, thủ phủ tại Kim Mãn Thành Đình Châu (nay là Hộ Bảo Tử, phía Bắc Cát Mộc Tác Nhĩ Tân Cương), cai quản toàn bộ con đường Bắc Thiên Sơn, chức quan cao nhất là Bắc Đình Đô Hộ. Đến thời Đường Huyền Tông cũng đổi là Bắc Đình Tiết Độ Sứ.

Lộ tuyến mới phía Bắc của Con đường Tơ lụa, sau khi ra Đường Ngọc Môn Quan đi về phía Tây Bắc, con đường là một bãi qua bích hoang lương không một làn khói bếp, đời Đường gọi là qua bích “Mạc Hạ Diên”. Địa hình toàn bộ của qua bích này được cấu thành từ cát, đá và đá vụn. Theo kết quả những nghiên cứu gần đây, địa tầng của lớp cát đá này có độ dày khá lớn. Từ 10m đến vài trăm mét, thậm chí có nơi không dò được đáy. Khí hậu trên qua bích cực kỳ khô hạn. Không có cỏ nước, không có sinh vật và thực vật. Toàn bộ Qua Bích là một cảnh tượng chết. Nhưng nếu vượt Qua Bích “Mạc Hạ Diên”, hướng về Tây khoảng hơn 300km, hành nhân sẽ đến Y Châu (nay là huyện Cáp Mật Tân Cương), một lục châu có màu xanh sức sống của Tây Vực.

Năm Trinh Quán thứ nhất Đường Thái Tông (CN 627), cao tăng Huyền Trang một mình cùng con ngựa già lén ra Ngọc Môn Quan, đi vào qua bích “Mạc Hạ Diên”. Do bất cẩn, nhà sư làm đổ hết nước trong túi da. Ông đi suốt 4, 5 ngày không tìm được nước uống, cuối cùng vì kiệt sức ngất xỉu trên Qua Bích. May nhờ đang đêm có một làn gió mát thổi tới, ông tỉnh dậy, cùng lúc con ngựa già đánh hơi được hướng có nước, liền phi nhanh tới một dòng suối trong mới cứu sống được Huyền Trang. Trong tiểu thuyết “Tây Du Ký”, Ngô Thừa Ân hư cấu nhân vật Tôn Ngộ Không bảo vệ thầy trò Huyền Trang vượt Qua Bích để đến Y Châu (vùng lục châu có màu xanh sức sống của Tây Vực), chính là Qua Bích “Mạc Hạ Diên” này.

Vào đời Đường, triều đình thường xuyên phái một lực lượng quân đội rất lớn phòng thủ Y Châu, bảo vệ sự thông suốt của “Con đường Tơ lụa”. Nhà thơ Vương Duy có viết bài thất tuyệt trứ danh “Y Châu ca”, diễn đạt nỗi nhớ thương giữa những chiến sĩ phòng ngự Y Châu và thân nhân nơi quê nhà.

伊州歌 王維
清風明月苦相思
蕩子从戎十載余
征人去日殷勤囑
歸雁來时數附书
Âm:
Y CHÂU CA (Vương Duy)
Thanh phong minh nguyệt khổ tương tư,
Đãng tử tòng nhung thập tải dư.
Chinh nhân khứ nhật ân cần chúc,
Qui Nhạn lai thì sổ phụ thư.
Dịch:
BÀI CA ĐẤT Y CHÂU
Trăng gió biên thùy trĩu tương tư,
Theo quân lâm chiến mười năm dư.
Ngày đi chinh khách ân cần bảo,
Nhạn về gởi gắm những phong thư.

Một đêm trăng thanh gió mát nơi biên tái, sĩ binh chạnh nhớ người thân nơi quê nhà. Theo quân chinh chiến hơn 10 năm. Ngày ra đi có hứa hẹn sẽ báo tin bình an theo cánh nhạn xuôi Nam.

Năm Thiên Bảo thứ 13 Đường Huyền Tông (CN 754), nhà thơ Sầm Tham lần thứ 2 đến Tây Vực, nhận chức phán quan tại mạc phủ An Tây Bắc Đình Tiết Độ Sứ của Phong Thường Thanh. Lộ trình khi vượt Qua Bích “Mạc Hạ Diên”, giữa Ngọc Môn Quan và Y Châu, ông đã viết bài ngũ tuyệt “Nhật một Hạ Diên thích tác”.

日没賀延磧作 岑参
沙上見日出
沙上見日没
悔向万里來
功名是何物
Âm:
NHẬT MỘT HẠ DIÊN THÍCH TÁC (Sầm Tham)
Sa thượng kiến nhật xuất,
Sa thượng kiến nhật một.
Hối hướng vạn lý lai,
Công danh thị hà vật.
Dịch:
VIẾT KHI MẶT TRỜI LẶN TRÊN QUA BÍCH MẠC HẠ DIÊN
Theo cát mặt trời mọc,
Theo cát mặt trời khuất.
Vạn dặm đến chi đây,
Công danh là hư thực?

Bài thơ mô tả cảnh tượng khi tác giả vượt Qua Bích “Hạ Diên” tức “Mạc Hạ Diên”. Mỗi ngày chứng kiến mặt trời mọc từ sa mạc rồi cũng lặn xuống sa mạc, thật là đơn điệu. Ta hối hận tại sao phải từ vạn dặm lặn lội tới đây. Vì với bản thân ta, công danh thật chẳng là gì cả.

Từ Y Châu đi về phía Tây, trước mắt là tòa Thiên Sơn nguy nga hùng vĩ. Sau khi tiến thêm khoảng 30km, đến Nam Sơn Khẩu dưới chân Thiên Sơn. Con đường Tơ lụa vượt Thiên Sơn tiến vào thông lộ chính của lộ tuyến mới phía Bắc. Trên núi có miếu Thiên Sơn, một kiến trúc hình vuông được xây bằng đá. Thời cổ đại, các đoàn thương nhân khi qua Thiên Sơn, đều lên miếu dâng hương lễ bái, cầu cho chuyến đi được bình an. Chân núi Thiên Sơn là thảo nguyên bao la xanh mượt. Lộ tuyến mới phía Bắc của Con đường Tơ lụa sau khi vượt Thiên Sơn, men theo phía Bắc thảo nguyên đi về hướng Tây đều là những vùng cỏ nước phong phú. Ngựa và lạc đà là phương tiện chủ yếu của các thương đội và lữ hành thời cổ đại, cho nên cỏ nước là nguyên nhân hưng thịnh của lộ tuyến mới phía Bắc.

Ngọn Thiên Sơn cao ngất, tuyết phủ quanh năm không tan. Sườn núi là những rừng tùng rậm rạp, chân núi thảo mộc xanh tươi. Một cảnh sắc muôn phần tươi đẹp. Trong 6 bài “Tái Hạ Khúc” của nhà thơ Lý Bạch, bài thứ 1 mô tả phong quang cùng sinh hoạt và nguyện vọng của những sĩ binh Đường triều trấn thủ Thiên Sơn.

塞下曲六首其一李白
五月天山雪
無花只有寒
笛中聞折柳
春色未曾看
曉戰隨金鼓
宵眠抱玉鞍
愿將腰下劍
直為斬楼兰
Âm:
TÁI HẠ KHÚC LỤC THỦ (kỳ nhất) Lý Bạch
Ngũ nguyệt Thiên San tuyết,
Vô hoa, chỉ hữu hàn.
Địch trung văn “Chiết Liễu”,
Xuân sắc vị tằng khan.
Hiểu chiến tùy kim cổ,
Tiêu miên bão ngọc an.
Nguyện tương yêu hạ kiếm,
Trực vị trảm Lâu Lan.
Dịch:
BÀI HÁT DƯỚI ẢI (bài 1)
Giữa Hạ tuyết Thiên San,
Không hoa, chỉ rét tràn.
Sáo vang bài “Bẻ Liễu”,
Chưa thấy vẻ Xuân giàn.
Yên ngọc đêm ôm ngủ,
Trống đồng sớm thúc quân.
Ngang lưng xin rút kiếm,
Quyết chém giặc Lâu Lan.
Lê Nguyễn Lưu dịch

Trời đã tháng 5 mà tuyết Thiên Sơn vẫn còn đông cứng. Ở đây làm gì có hoa tươi, chỉ có trời Đông giá rét. Tiếng sáo không biết từ đâu đưa tới khúc nhạc “Chiết Dương Liễu”. Mùa Xuân không bao giờ đến được biên cương. Buổi sớm tiếng trống đồng thúc quân ra trận, đêm tựa đầu trên yên ngựa. Ta chỉ nguyện vung thanh bảo kiếm, như Phó Giới Tử đời Hán chém đầu vua Lâu Lan. Câu cuối bài dùng một điển cố đời Hán “Lâu Lan”, thực tế chỉ chung những nước địch vùng quan ngoại.

Trong phần 4 chương III, chúng tôi có trích dẫn bài “Tái Hạ Khúc” thứ 5 của Lý Bạch, trong đó có những câu “Chiến sĩ ngọa Long Sa” và “Ngọc Quan thù vị nhập”. Long Sa nay là sa mạc Bạch Long tại Tân Cương. Cả Hán Ngọc Môn Quan và Đường Ngọc Môn Quan đều nằm phía Tây Kỳ Liên Sơn và phía Đông Thiên Sơn của Tây Vực. Câu “Ngọc Quan thù vị nhập” (chưa trở vào Ngọc Môn Quan) có nghĩa quân sĩ còn trú đóng phía Tây Ngọc Môn Quan. Cứ theo vị trí trú quân ở quan ngoại này thì câu “Ngũ nguyệt Thiên Sơn tuyết” trong bài 1 “Tái Hạ Khúc” vừa trích dẫn, phải hiểu là Thiên Sơn của Tây Vực, chứ không phải Thiên Sơn tên gọi thứ 2 của Kỳ Liên Sơn.

Dãy Thiên Sơn từ Đông sang Tây dài 2.500km, Nam lên Bắc rộng từ 100 đến 400km, phân thành Tây Thiên Sơn thuộc Liên Bang Nga, Trung và Đông Thiên Sơn thuộc Trung Quốc. Trung và Đông Thiên Sơn dài khoảng 1.700km, có tổng diện tích khoảng 24,4 vạn km2 do 20 dãy núi chạy song song hướng Đông Tây, trong đó có nhiều bồn địa hình quả ấu giữa núi.

Về khí hậu, Thiên Sơn kéo dài đến Trung bộ Tây Vực (nay là tỉnh Tân Cương) như một mái che khổng lồ, phân ra khu hoang mạc ôn đới là bồn địa Hoài Khát Nhĩ và khu hoang mạc ôn đới ấm là bồn địa Tháp Lý Mộc thành ra 2 vùng Nam Bắc và là nơi phát nguyên của trên 200 con sông. Bắc Thiên Sơn là địa bàn du mục, Nam Thiên Sơn là địa bàn nông nghiệp. Vì các dân tộc du mục Bắc Thiên Sơn không cư trú chỗ nào nhất định, đâu có cỏ thì ở, di chuyển luôn. Cho nên những cộng đồng dân cư cố định của Thiên Sơn chủ yếu là những dân tộc nông nghiệp ốc đảo Nam Thiên Sơn.

Khu nông nghiệp ốc đảo là khu vực cô lập tự phong bế, rất có lợi cho việc phát triển sản xuất trong khu vực. Nhưng theo qui luật phát triển sản xuất cùng với nhịp độ tăng dân số, khu vực này càng trở ngại cho việc mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống. Để khắc phục những trở ngại này, nhân dân nông nghiệp ốc đảo tăng cường việc đi lại giao lưu với nhau, nhất là với Trung Nguyên. Những đội thương nhân Mông Cổ thường xuyên tiếp xúc đã đem lại phồn vinh khiến bộ mặt xã hội ốc đảo thay đổi hẳn. Từ xã hội nông nghiệp đơn thuần biến thành xã hội nông thương nghiệp đặc thù. Hơn nữa, còn giao lưu với các dân tộc Đông Tây, tiếp thu khá nhiều văn hóa bên ngoài làm cho bộ mặt văn hóa ốc đảo ngày càng trở nên phong phú và đa dạng.
Các ốc đảo ven Nam Bắc Thiên Sơn trở thành một loại bến cảng, hình thành 2 dây chuyền Đông Tây nối liền, cộng với đường mậu dịch Đông Tây ven sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can, làm thành 3 con đường buôn bán. Đó là “Con đường Tơ lụa” mà đoạn đường Nam Bắc Thiên Sơn là chủ yếu.

Từ trước thời Tây Hán, Hậu Vương Đình đã xây dựng “Kim Mãn Thành” tại Xa Sư (nay là huyện Cát Mộc Tát Nhĩ, Tân Cương). Thời Sơ Đường thành lập Đình Châu, thủ phủ đặt tại Kim Mãn Thành. Thời Võ Tắc Thiên, Đình Châu trở thành Bắc Đình Đô Hộ Phủ, thủ phủ vẫn là Kim Mãn Thành, cai quản toàn bộ quyền hành chính quân sự của con đường Bắc Thiên Sơn. Những năm khai quốc Đường triều xã hội ổn định, kinh tế phát đạt, Kim Mãn Thành là một trong 3 đô thị tơ lụa của Tây Vực (2 đô thị kia là Tây Châu và Vu Điền), nghề dệt tơ lụa tại 3 nơi này phát triển cực thịnh.

Kim Mãn Thành nay là huyện Cát Mộc Tát Nhĩ của tỉnh Tân Cương. Phiên âm từ tiếng Đột Quyết “Cát Mộc” là “Kim Mãn”, “Tát Nhĩ” là “Thành”. Ngày nay tại phía Bắc huyện thành Cát Mộc Tát Nhĩ khoảng 10km, còn di tích của “Hộ Bảo Tử Phá Thành”. Đó là nền xưa của Bắc Đình Đô Hộ phủ đời Đường. Còn sót những mẫu tường thành cao 10m và gạch ngói đổ nát. Riêng những kiến trúc lớn như Phật tháp vẫn còn nhận ra được.

Phía Bắc Thiên Sơn là A Nhĩ Thái Sơn, cực Bắc nữa là Yên Nhiên Sơn (nay là Hàng Aùi Sơn), đều là những địa danh thường xuất hiện trong thơ Biên Tái đời Đường. “A Nhĩ Thái” là tiếng Đột Quyết có nghĩa là “Kim”, nên A Nhĩ Thái Sơn cũng còn gọi là “Kim Sơn”. Bài thất tuyệt “Thu Khuê Tứ” của nhà thơ Đường Trương Trọng Tố có đề cập địa danh này.

秋閨思 張仲素
碧窗斜月蔼深暉
愁听寒螿泪濕衣
梦里分明見关塞
不知何路向金微
Âm:
THU KHUÊ TỨ Trương Trọng Tố
Bích song tà nguyệt ái thâm huy,
Sầu thính Hàn Tương lệ thấp y.
Mộng lý phân minh kiến quan tái,
Bất tri hà lộ hướng Kim Vi.
Dịch:
NỖI NHỚ ĐÊM THU NƠI KHUÊ PHÒNG
Trăng khuya vằng vặc qua song cửa,
Áo đằm nước mắt oán tiếng ve.
Rõ ràng mộng thấy ra quan ải,
Đường nào đưa thiếp tới Kim Vi.

Bài thơ viết về tình và cảnh một đêm Thu. Thiếu phụ tưởng nhớ chồng đang chinh chiến ngoài biên tái. Một đêm sâu tỉnh mộng, trăng tà chiếu qua song cửa sáng ngập khuê phòng. Nàng không ngủ được nữa, tiếng kêu không ngừng của những con Hàn Tương (Hàn Tương là một loài ve nhỏ chỉ kêu vào cuối Thu) khơi dậy lòng sầu, nước mắt đẩm cả tay áo. Lúc trong mộng nàng thấy rõ mình đang ở quan tái. Nhưng con đường nào có thể đưa tới Kim Vi Sơn (tức A Nhĩ Thái Sơn) nơi trấn thủ của chồng. Bài thơ xử dụng đảo ý rất tuyệt, tả cảnh mộng tỉnh rồi sau mới tả cảnh trong mộng.
Chương V- lộ tuyến bắc của con đường tơ lụa

Rời Đôn Hoàng ra Hán Ngọc Môn Quan đi về phía Tây Bắc, qua Tây Châu, Yên Kỳ, Hán Luân Đài rồi đến Sơ Lặc. Tức từ phía Đông bồn địa Tháp Lý Mộc đi giữa lòng bồn địa về phía Tây. Đó là Lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”.

Tháp Lý Mộc là bồn địa nằm sâu trong đất liền lớn nhất Trung Quốc và nổi tiếng nhất Thế Giới. Bồn địa cách Bắc Băng Dương phía Bắc và Thái Bình Dương phía Đông mỗi bề 3.800km. Cách Ấn Độ Dương phía Nam 2.200km, có tổng diện tích 53 vạn km2. Đó là bồn địa khép kín và hoàn chỉnh nhất.
Phía Bắc có Thiên Sơn che chắn, phía Nam có núi Côn Luân và núi A Nhĩ Kim. Núi bao quanh bồn địa cao từ 4.000 tới 6.000m so với mặt biển.

Khí hậu bồn địa khô, nhiều gió, nhiệt độ thay đổi lớn. Lượng nước mưa mỗi năm dưới 50mm, thậm chí có nơi không tới 25mm. Mặt đất bồn địa chủ yếu là sa mạc (chiếm 64%). Thời kỳ đóng băng thế kỷ thứ 4, nguồn nước trên các dãy núi quanh bồn địa đều đóng băng. Khi băng tan kéo theo một lượng lớn bùn cát xuống bồn địa, lượng cát trầm tích dày tới 500m. Nhưng từ những thế kỷ về sau khí hậu dần dần khô hạn, các nguồn nước giảm nhiều và gió càng mạnh hơn. Lượng cát trầm tích từ những thế kỷ trước dần hồi biến thành sa mạc.

Sông Tháp Lý Mộc (con sông nội địa dài nhất Trung Quốc) chảy xuyên bồn địa từ Đông sang Tây, nhưng lại chảy qua vùng sa mạc khô cằn không có nước (sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can) nên biến thành con đường có màu xanh lục, tạo một rừng Hồ Dương thiên nhiên trong bồn địa. Rừng Hồ Dương có diện tích 28.000.000 mẫu, một nguồn gỗ quan trọng.

Về nhân văn, theo nhiều tư liệu ghi chép, bồn địa Tháp Lý Mộc thời cổ đại, từng là lãnh địa của nhiều vương quốc đã có một thời kỳ phồn vinh. Khi nhà Hán thông sứ Tây Vực thì bồn địa Tháp Lý Mộc có 36 vương quốc. Về sau lại phân chia thành 50 nước. Như vậy trong bồn địa đương thời phải có khoảng 50 thành trấn lớn nhỏ. Điển hình là nước Vu Chấn (nay là Hòa Điền), theo ghi chép của Hòa Thượng Pháp Hiển (đời Tấn) khi qua đây: Nước này đông vui, thịnh vượng. Chúng tăng có đến vạn người. Chỉ một ngôi chùa Cù Phu Đế cũng có đến 3.000 tăng. Trong nước có 14 ngôi chùa lớn như vậy, không kể những chùa nhỏ. Cho nên những thành thị đó xứng đáng gọi là thông đô đại ấp.

Hiện nay những cổ thành trong bồn địa có nhiều nơi đã khai quật, như cổ thành Lâu Lan phía Bắc và cổ thành Ni Nhã phía Nam, đều là những thành thị to lớn. Điều này chứng tỏ bồn địa Tháp Lý Mộc đã có một thời kỳ dài khí hậu ôn hòa.

Về kinh tế, nhiều khu vực trong bồn địa phát triển công nông nghiệp khá sớm. Nhiều tư liệu ghi chép về công nghiệp luyện sắt nơi đây: Ban đêm lửa đỏ rực, ban ngày khói mịt mù. Người ta lấy quặng trong núi về luyện sắt để dùng trong 36 nước. Đó là núi Khưu Từ, tức dãy núi Khố Xa, nằm về miền Bắc bồn địa ngày nay. Toàn vùng ven của bồn địa và các nhánh sông Tháp Lý Mộc giữa bồn địa, có nhiều ốc đảo cây cối xanh tươi. Tiềm năng phát triển nông nghiệp rất lớn.

Bồn địa Tháp Lý Mộc còn có giá trị giao thông quan trọng. Các lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa” đều phải đi qua khu vực này. Lộ tuyến mới phía Bắc chạy dọc rìa Bắc của bồn địa. Lộ tuyến Bắc chạy suốt giữa lòng bồn địa. Lộ tuyến Nam chạy dọc rìa Nam. Như vậy bồn địa Tháp Lý Mộc chính là bản lề trọng yếu của “Con đường Tơ lụa”.

Những thế kỷ về sau, khí hậu khô hạn đã xua đuổi cư dân, gió cát chôn vùi thành thị. Bồn địa Tháp Lý Mộc từ đó trở thành khổ nạn cho không biết bao nhiêu lạc đà, người ngựa trên “Con đường Tơ lụa ”.

Lộ tuyến Bắc còn có một địa danh, gần như thần bí, thường xuất hiện trong thơ Biên Tái đời Đường, nhất là Vương Xương Linh và Lý Bạch: “Vương quốc Lâu Lan”. Các nhà thơ có khi chỉ thẳng sự kiện công phá thành và giết vua Lâu Lan, nhưng thường khi mượn hình bóng Lâu Lan để chỉ chung những địch quốc phía Tây và Tây Bắc Trung Quốc thời cổ đại. Điển hình như trường hợp nhà thơ đời Đường Trương Trọng Tố trong bài thất tuyệt thứ 3, đề tài “Tái Hạ Khúc”.

塞下曲五首其三張仲素
朔雪飄飄開雁門
平沙历乱卷蓬根
功名耻計擒生数
直斬楼兰报國恩
Âm:
TÁI HẠ KHÚC NGŨ THỦ (kỳ tam) Trương Trọng Tố
Sóc tuyết phiêu phiêu khai Nhạn môn,
Bình sa lịch loạn quyển Bồng căn.
Công danh sỉ kế cầm sinh số,
Trực trảm Lâu Lan báo quốc ân.
Dịch:
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (bài 3)
Hoa tuyết đầy trời, ra ải Nhạn,
Cỏ Bồng quyện gió cát bay vàng.
Thẹn với công danh đâu dám tưởng,
Chỉ mong vì nước diệt Lâu Lan.

Tác giả chỉ mượn Lâu Lan để chỉ một địch quốc vùng quan ngoại. Vị trí Nhạn Môn Quan (theo những kết quả khảo sát sau này), cách xa hơn ngàn dặm, không liên quan gì đến lãnh thổ Lâu Lan. Đủ thấy vào thời kỳ hưng thịnh (hơn 1.600 năm trước), Lâu Lan là hình bóng bao phủ khắp các chiến địa vùng Tây Vực.

Cổ vương quốc thần bí này đã bị chôn vùi trong sa mạc mênh mông. Nước Lâu Lan ở đâu? Làm sao tìm được dấu tích của một vương quốc bị chôn vùi hằng ngàn năm trước (đây là nói về địa bàn tổ của vương quốc Lâu Lan, trước khi dời đến Y Tuần để tránh thế lực Hung Nô, đổi tên nước Thiện Thiện năm 77 trước Công Nguyên).

Tháng 3 năm 1900, nhà thám hiểm Thụy Điển Svend Heyting đã dẫn một đội thám hiểm đến khảo sát vùng La Bố Bạc. Đồng hành gồm 8 người, trong đó có 2 người Duy Ngô Nhĩ, tên Ngãi Nhĩ Đắc Khắc và Khoa Đạt Khắc Lạp. Đội thám hiểm theo ngã A Tư Đình Bố Lạp Khắc đi về hướng Tây Nam. Trên đường, họ bị một trận cuồng phong xô đẩy thất lạc nhau. Ngãi Nhĩ Đắc Khắc trên mình ngựa không biết bị xô dạt tới đâu. Khi trấn tỉnh, ông thấy mình đang đứng giữa phế tính của một tòa cổ thành. Giữa thành có một tháp cao. Gần tháp, dưới chân những mẫu tường sụp đổ, là những mộc bản chạm khắc rất tinh mỹ. Trong thành, ông còn nhận định được di tích những khu vực công sở và cư dân. Trước những sự kiện tình cờ phát hiện, Ngãi Nhĩ Đắc Khắc tưởng chừng tòa cổ thành được vực dậy từ ký ức của một giấc ngủ chìm hơn ngàn năm.

Khi Ngãi Nhĩ Đắc Khắc bị cuốn vào trận cuồng phong bão cát, Svend Heyting cho rằng ông đã gặp bất hạnh, đã bị chôn vùi trong sa mạc không còn trở lại. Nhưng khi họ gặp lại nhau với những sự kiện vừa phát hiện, cùng những điêu họa mộc bản đem theo từ di tích cổ thành, đội thám hiểm mới biết mình đã thu được những kết quả lớn hơn kỳ vọng lúc ra đi.

Tháng 3 năm 1903, Svend Heyting, sau khi chuẩn bị chu đáo, đã dẫn đội thám hiểm trở lại tòa cổ thành. Lần này họ đã phát hiện được số lớn văn vật. Trong đó có một mộc giản đời Hán (phiến gỗ dùng ghi chép văn tự thời cổ đại), trên đó có khắc 2 chữ “Lâu Lan”. Svend Heyting kết luận đây là di tích cổ thành Lâu Lan bị chôn vùi trong sa mạc hơn 1.600 năm trước. Những văn vật và tư liệu thu thập từ 2 cuộc khảo sát cổ thành Lâu Lan, trong một bản báo cáo phát biểu sau này của Svend Heyting, đã gây chấn động giới khảo cổ toàn cầu.

Trong những văn vật phát hiện tại cổ thành Lâu Lan, có nhiều mẫu tơ lụa sản xuất từ thời Tây Hán. Dù đã trải gần 2.000 năm chôn vùi, sắc thái vẫn tươi nhuận như mới. Mặt lụa vẫn còn nguyên những lời chúc tụng tốt lành như: “Tử tôn vô cực” (con cháu vô cùng), “Diên niên ích thọ” (dài thêm tuổi thọ), “Xương lạc quang minh” (vui sáng phồn vinh)… Chứng tỏ tơ lụa đương thời đã được sử dụng rộng rãi tại vương quốc Lâu Lan.

Vị trí di tích cổ thành Lâu Lan, theo hai lần khảo sát của Svend Heyting, nằm về Đông bộ sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can và ngay trên bờ Tây hồ La Bố Bạc. La Bố Bạc thời cổ đại còn có những tên gọi khác như “Diêm Trạch”, “Bồ Xương Hải”, “Lao Lan Hải”, “Khổng Tước Hải”, “Hạc Hải”. Đương thời hồ La Bố Bạc còn được gọi “La Bố Náo Nhĩ” (Hồ Bùn), ý nói có nhiều nguồn nước đổ vào tích tụ hồ này. La Bố Bạc là hồ có thủy lượng lớn thứ 2 của Trung Quốc thời cổ đại, hiện nay đã hoàn toàn khô kiệt.

Vị trí chuẩn xác của di tích cổ thành Lâu Lan, căn cứ Nhân Dân Nhật Báo (Trung Quốc) số ra ngày 13 tháng 4 năm 1982: Kinh Đông 89055’22’’. Vĩ Bắc 40029’22’’. Tòa thành nằm thiên Bắc mặt quay Nam. Mặt Đông dài 333,5m, mặt Nam dài 329m, Tây và Bắc mỗi mặt dài 327m, tổng diện tích 108.240m2. Thành tường Lâu Lan đương thời dày 8m, cao 4m. Đông Bắc thành là khu tự viện. Trung tâm đổ về Tây Nam là khu nha môn. Khu cư dân nằm cả về phía Tây và Nam thành.

Vị trí cho thấy, cổ thành Lâu Lan cách phía Tây Đôn Hoàng khoảng 80km. Nghĩa là vẫn nằm về Đông Bộ sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can và nằm trên bờ Tây hồ La Bố Bạc. Hoàn toàn không xê dịch, so với vị trí khảo sát của Svend Heyting (năm 1900 và 1903).

Từ Đôn Hoàng nhìn về phía Tây cho tới ngoài tầm mắt, là một không gian vô tận được cấu thành từ những gò cát chằng chịt và sỏi đá lổm chổm trên qua bích. Không có nước, không có sinh thực vật. Hoàn toàn là vùng đất không có sự sống. Bao quanh cổ thành Lâu Lan là địa hình “Nhã Đan”. “Nhã Đan” là tiếng Duy Ngô Nhĩ, có nghĩa là một địa hình được cấu thành từ những gò đất nối liền thành giồng luống, đan xen những khe hố. Địa hình này ngày càng trải dài theo phương hướng những trận cuồng phong. Giồng luống ngày càng bị xâm thực nâng cao từ 0,5m đến trên 10m, dài có đến vài trăm mét. Khe hố cũng bị khoét sâu khoảng 2m, rộng trên 20m. Người ngựa di chuyển trên địa hình này cực kỳ gian nan nguy hiểm.

Địa hình “Nhã Đan”, theo nhận định của các nhà khoa học, là một địa hình tác động bởi những trận cuồng phong trường kỳ xâm thực. Trong vòng 10 năm (1960-1970), vùng La Bố Bạc mỗi năm, gió cấp 5-6 chiếm hết 150 ngày, gió cấp 7 – 8 chiếm 80 ngày. Thời gian còn lại trong năm (135 ngày) là gió giật cấp 10 trở lên. Nhiều thập kỷ tiếp sau đó, những trận gió cuồng bạo như những răng nhọn của chiếc lược sắt liên tục cào lên địa hình. Những tầng đất nhuyễn và cát đá của giồng luống trường kỳ bị nạo vét theo chiều gió. Cắn cứ kết quả nghiên cứu trong vòng 40 năm (1919-1959), những giồng luống khe hố quanh cổ thành Lâu Lan và La Bố Bạc bị nạo vét tới độ sâu trên 5m.

Năm Thiên Bảo thứ 8 Đường Huyền Tông (CN 749), nhà thơ Sầm Tham đến Khưu Từ (nay là Khố Xa, Tân Cương), nhận chức Phán quan tại An Tây Đô Hộ phủ. Hành trình có đi qua sa mạc Đồ Luân (nay là Tháp Khắc Lạp Mã Can) và bờ hồ La Bố Bạc. Chắc chắn nhà thơ không biết mình đang dẫm lên phế tích bị chôn vùi hằng ngàn năm trước của tiểu vương quốc Lâu Lan (năm 1903 đội thám hiểm Svend Heyting mới tìm ra đầu mối của phế tích này). Con đường sa mạc đầy gian hiểm, hoang vu không một làn khói bếp. Lòng nhớ quê trỗi dậy, Sầm Tham đã viết bài thất tuyệt “Thích Trung Tác”.

磧中作 岑参
走馬西來欲到天
辞家見月兩回圓
今夜不知何处宿
平沙万里絕人烟
Âm:
THÍCH TRUNG TÁC Sầm Tham
Tẩu mã Tây lai dục đáo Thiên,
Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên.
Kim dạ bất tri hà xứ túc,
Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.
Dịch:
VIẾT GIỮA SA MẠC
Một mình một ngựa ruỗi trời Tây,
Xa quê hai độ nguyệt vơi đầy.
Đêm nay chưa biết nơi nào tạm,
Sa mạc tìm đâu khói bếp bay.

Xa quê đã tròn 2 tháng, một mình ruỗi ngựa về phương Tây. Đêm nay chưa biết sẽ dừng chân nơi nào, vì sa mạc mênh mông không một làn khói bếp. Nhà thơ tiếp tục vượt đường dài, thành Khưu Từ còn ở cuối trời Tây. Giữa sa mạc, tình cờ gặp sứ giả Đường triều từ Tây Vực về Trường An. Sầm Tham đã cảm xúc viết thêm bài thất tuyệt “Phùng Nhập Kinh Sứ”.

逢入京使 岑參
故园東望路漫漫
双袖龙钟泪不干
馬上相逢無紙笔
恁君传語报平安
Âm:
PHÙNG NHẬP KINH SỨ Sầm Tham
Cố viên Đông vọng lộ man man,
Song tụ long chung lệ bất can.
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
Nhậm quân truyền ngữ báo bình an.
Dịch:
GẶP SỨ GIẢ VỀ KINH
Dặm trường quê cũ tít phương Đông,
Ướt đôi tay áo lệ đôi dòng.
Trên ngựa gặp nhau không giấy bút,
Thăm nhà cậy bạn báo tin suông.

Cách quê nhà phương Đông một cự ly thăm thẳm, nước mắt đẳm đôi tay áo. Tình cờ gặp sứ giả trên đường về kinh đô. Trên ngựa không sẵn giấy bút, xin tạm nhắn về quê đôi lời bình an.

Lịch sử ghi chép từ hơn 2.000 năm trước, Lâu Lan đã là một vương quốc trong vùng Tây Vực. Tên nước Lâu Lan có thể bắt nguồn từ “Lao Lan Hải” (tức La Bố Bạc). Lâu Lan chính là hài âm của Lao Lan. Điều này khá thuyết phục vì đất Lâu Lan có một phần nằm ngay bên bờ Tây hồ La Bố Bạc. Lãnh thổ Lâu Lan vào thời kỳ hưng thịnh, phía Đông đạt tới Dương Quan, Tây đến bờ Nê Nhã Hà (Nam sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can), phía Nam giáp A Nhĩ Kim Sơn, Bắc đến Cáp Mật. Lãnh thổ hầu hết là sa mạc và đất kiềm muối. Nhưng vương quốc Lâu Lan, có một phần nằm bên bờ Tây La Bố Bạc, hồ này nhờ tích tụ nguồn nước rất lớn của 2 sông Tháp Lý Mộc và Khổng Tước, nên ven hồ có nhiều rừng rậm và thảo nguyên. Dân số của vương quốc này rất ít, chỉ hơn vạn nhân khẩu. Cư dân Lâu Lan chăn thả súc vật trên thảo nguyên, đánh bắt cá trên sông Khổng Tước và hồ La Bố Bạc hoặc săn bắn mưu sinh.

Từ Tây Hán (năm 220 TCN-CN 8), Lâu Lan là vùng đất nằm trên “Con đường Tơ lụa”. Sứ giả và những đoàn thương nhân qua lại Đông Tây không thể không dừng chân nơi đây. Lâu Lan nhờ đó trở thành một tiểu quốc phồn vinh.

Khi thế lực Hung Nô nhập xâm vùng Tây Vực, đối địch với Hán triều, Lâu Lan vì thế lực yếu hơn nên ngã theo Hung Nô. Họ thường cung cấp cho Hung Nô tin tức tình báo, giết sứ giả Hán triều, đánh cướp các thương đội và gây gián đoạn lưu thông “Con đường Tơ lụa”.

Năm Nguyên Phụng thứ 4 Hán Chiêu Đế (năm 77 TCN), đại tướng nhà Hán Hoắc Quang phái Phó Giới Tử đi sứ Lâu Lan. Phó Giới Tử đem nhiều vàng lụa đến biên cảnh Lâu Lan và truyền các tiểu quốc Tây Vực thông báo vua Lâu Lan đến nhận ban phẩm của triều đình. Phó Giới Tử cho vũ sĩ mai phục sẵn, khi vua Lâu Lan đến, giết chết ngay trên chiếu tiệc. Sau đó lập huynh đệ của y là Uý Đồ Kỳ làm vua Lâu Lan. Uý Đồ Kỳ vì muốn tránh thế lực Hung Nô nên cũng ngay trong năm 77 trước Công Nguyên, dời đô đến Y Tuần, đổi tên nước là Thiện Thiện (nay là huyện Nhược Khương, Tân Cương. Không phải huyện Thiện Thiện của Tân Cương ngày nay).

Đất cũ của vương quốc Lâu Lan từ đó (năm 77 TCN) trở thành trọng trấn quân sự của Hán triều và là nơi gặp gỡ của các thương đội, lữ hành cùng tăng lữ trên huyết mạch giao thông Đông Tây (Con đường Tơ lụa). Có một số người Lâu Lan ở lại cố quốc chứ không di dời theo vương quốc đến Y Tuần. Vì là trung tâm giao lưu văn hóa kinh tế, nên đất cũ Lâu Lan cũng thu hút khá nhiều dân cư những tiểu quốc lân cận, ngay cả người Trung Nguyên cũng đổ xô đến kinh doanh.

Đất cũ Lâu Lan từ thời Tây Hán, không chỉ là thành thị phồn vinh trên Con đường Tơ lụa. Quanh hồ La Bố Bạc đương thời còn là vùng khí hậu ôn hòa, nguồn nước của nhiều con sông nội địa tích tụ vào hồ, biến toàn khu thành lục châu có màu xanh. Đó là cơ địa (đất nền) sinh hoạt của toàn khu vực. Người ta săn thú, đánh bắt cá, trồng trọt và chăn thả súc vật thành đàn trên thảo nguyên.

Theo ghi chép trong “Hán Thư”, mặt nước hồ La Bố Bạc đương thời ngang dọc mỗi bề 300 dặm (tương đương 150km). Mặt hồ có tổng diện tích gần 1 vạn km2. Diện tích này khá phù hợp với không ảnh lấy từ vệ tinh nhân tạo ngày nay.

Tới đầu đời Đông Hán, vùng La Bố Bạc vẫn còn là cơ địa sinh hoạt của cư dân sống trên đất cũ Lâu Lan. Những thế kỷ về sau, khí hậu ngày càng khô hạn, những nguồn nước đổ vào hồ giảm dần, diện tích mặt hồ từ từ thu nhỏ. Vùng lục châu bị sa mạc hóa và kiềm muối hóa. Rừng và thảo nguyên chết khô, người và sinh vật không còn điều kiện tồn tại, phải bỏ đất dời cư. Năm Thái Nguyên thứ nhất Đông Tấn Hiếu Vũ Đế (CN 376), cổ thành Lâu Lan chính thức bị chôn vùi trên vùng sa mạc hóa.
Riêng 2 nguồn nước của sông Tháp Lý Mộc và Khổng Tước đổ vào hồ, giảm tới mức tối đa nhưng chưa kiệt hẵn. Năm 1959, đội khảo sát của viện khoa học Tân Cương Trung Quốc đã đến bờ Bắc hồ La Bố Bạc. Hồ vẫn còn mặt nước khá rộng. Thủy cầm sống thành đàn. Đội khảo sát vẫn còn chèo thuyền trên hồ, và còn đánh bắt những con cá dài 1m.

Sau ngày giải phóng, người ta khai khẩn nông điền trên đầu nguồn sông Tháp Lý Mộc và Khổng Tước, chi phối hết nguồn nước của 2 sông. Hồ La Bố Bạc từ đó mới khô kiệt hẵn. Cổ thành Lâu Lan đã có một thời kỳ phồn vinh trên “Con đường Tơ lụa” gần 2.000 năm trước, từ đó cũng trở thành tư liệu nghiên cứu cho giới khảo cổ.

Phía Bắc cổ thành Lâu Lan là Tây Châu (hậu thân của vương quốc Cao Xương, nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương), một thành thị trọng yếu trên Lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”.

Khi nhắc đến Thổ Lỗ Phiên, người ta nghĩ ngay tới một nhiệt độ nóng bức như lửa. Vì khu vực này có bồn địa “Để Oa” diện tích 5 vạn km2. Mặt đất của bồn địa thấp hơn mặt biển 154m và khí hậu rất khô kiệt. Lượng nước mưa bình quân mỗi năm chỉ có 16mm, bốc lên hơi nóng tới 3.000mm, cho nên địa hình bồn địa chỉ toàn qua bích và sa mạc. Nhiệt độ trong bồn địa lên nhanh xuống chậm, hình thành mùa Hạ nóng bức từ tháng 6 đến tháng 8. nhiệt độ trong không gian từ 40 đến 47 độ duy trì hơn 1 tháng, nhiệt độ bên dưới lớp cát cao tới 82 độ, trứng gà vùi xuống đó cũng chín.

Trong bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc “Tây Du Ký” có một đoạn cố sự, Tôn Ngộ Không bảo vệ Đường Tăng đi qua 800km Hỏa Diệm Sơn. Bốn thầy trò Đường Tăng đến chân Hỏa Diệm Sơn chỉ thấy hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, chim không thể bay qua. May nhờ Tôn Ngộ Không mượn được quạt “Ba Tiêu”, quạt tắt lửa tan hơi nóng mới qua được. Hỏa Diệm Sơn đề cập trong “Tây Du Ký” chính là núi bao quanh bồn địa “Để Oa” (dài từ Đông sang Tây 100km), thuộc Trung bộ Thổ Lỗ Phiên ngày nay. Núi này do những sa nham màu đỏ tía cấu thành từ thế kỷ thứ 3. Khí hậu nơi đây cực kỳ khô hạn, không tìm thấy một tấc cỏ. Dưới nắng mùa hạ tòa núi như bốc lên ngọn lửa lớn, từ đó núi có tên “Hỏa Diệm Sơn”.

Ngoại trừ viêm nhiệt, Thổ Lỗ Phiên còn là “Phong khố” (kho gió) lớn nhất Trung Quốc. Bình quân mỗi năm, gió cấp 8 chiếm hết 72 ngày trở lên. Theo những ghi chép gần đây, mỗi cơn gió “Cát bay đá chạy” (phi sa tẩu thạch) làm tróc cả lớp sơn bên ngoài tàu hỏa, làm lật cả ô tô, thậm chí đưa cả những toa tàu hỏa ra khỏi đường tàu.

Những năm khai quốc Đường triều, phía Đông Nam Thổ Lỗ Phiên không xa, có nước Cao Xương. Năm Trinh Quán thứ 4 Đường Thái Tông (CN 630), vua Cao Xương Khúc Văn Thái từng đến Trường An triều kiến. Đương thời, khu vực Trung Nguyên bị tàn phá trong chiến loạn cuối đời Tùy chưa phục hồi, cảnh tượng hoang lương, thành ấp tiêu điều. Khúc Văn Thái ngầm cho rằng thế lực Đường triều không mạnh, nên khi về nước, ngã theo Tây Đột Quyết chống Đường. Thường khi đánh phá những nước nhỏ thuộc Đường trong vùng Tây Vực và gây trở ngại lưu thông trên “Con đường Tơ lụa”. Đường Thái Tông phái Ngu Bộ Lang Trung Lý Đạo Dụ đến hỏi tội trước. Khúc Văn Thái ngạo mạn trả lời? “Chim Ưng bay trên trời, chim Trỉ nằm trong tổ, mèo dạo chơi sân nhà, Chuột nằm trong hang… Ta là vua một nước chẳng lẽ không bằng được loài chim thú hay sao?”. Lý Đạo Dụ về bẩm báo, Đường Thái Tông nghĩ việc này không dùng vũ lực không xong. Năm Trinh Quán thứ 14 (CN 640), Đường Thái Tông phái đại tướng quân Hầu Quân Tập đem quân Tây chinh Cao Xương.

Khúc Văn Thái nghe quân Đường kéo đến, không hề phòng bị, vì cho rằn g Đường triều cách nước Cao Xương rất xa, đường đi toàn sa mạc, khí hậu khắc nghiệt, cỏ nước thiếu thốn. Không bao lâu cũng sẽ tự lui binh thôi. Khi quân Đường đến biên cảnh Cao Xương, Khúc Văn Thái không chống cự được, sợ quá ngã bệnh chết. Quân Đường diệt vong nước Cao Xương và cùng năm đó, thiết lập Cao Xương thành Tây Châu (nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương).

Nước Cao Xương đổi là thành Tây Châu từ thời sơ Đường. Đến giữa thế kỷ thứ 9 Công Nguyên, Hồi Cốt (nay là tộc Duy Ngô Nhĩ) có một chi từ phương Bắc dời đến, dựng đô tại thành Cao Xương. Lịch sử gọi đó là nước Hồi Cốt Cao Xương, là thuộc quốc của Đường Triều, và đổi tên là Hỏa Châu (còn gọi là Hòa Châu). Đến đầu đời Minh, Hỏa Châu tuy hoang vắng nhưng vẫn còn người ở. Khoảng thế kỷ thứ 14-15, cổ thành Cao Xương mới hoàn toàn bị bỏ phế.

Tại công xã Hỏa Diệm Sơn, phía Đông Nam huyện thành Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương khoảng 40km, ngày nay vẫn còn di tích cổ thành Cao Xương. Thành có chu vi 5km. Tường thành cao 11m, xây bằng đất ép, trải gần 2.000 năm vẫn còn đứng vững.
Bố cục trong thành đúng theo quy cách kinh đô Trường An đời Đường.

Phía Tây Bắc di tích cổ thành Cao Xương không xa, có 2 thôn trang nhỏ. Một thôn tên A Tư Tháp Ná, thôn kia là Cáp Lạp Hòa Trác. Giữa 2 thôn trang là một bãi qua bích có nhiều ngôi mộ cổ. Theo kết quả nghiên cứu, những ngôi mộ này được chôn cất từ niên hiệu Thái Thủy thứ 9 đời Tây Tấn (CN 273) đến niên hiệu Đại Lịch thứ 7 đời Đường (CN 772). Tại những ngôi cổ mộ này, người ta khai quật được khá nhiều văn vật trân quí. Nhờ khí hậu khô kiệt trên qua bích, những mẫu tơ lụa sản xuất từ đời Đường vẫn còn bảo tồn nguyên vẹn. Quan trọng nhất là quyển cổ thư đã thất truyền từ đời Tống: “Luận Ngữ Trịnh Huyền chú” (quyển cuối). Sách dài 538mm, ghi niên hiệu Cảnh Long thứ 4 Đường Trung Tông (CN 710). Người sao chép đề ký: “Tây Châu, huyện Cao Xương, làng Ninh Xương, thôn Hậu Phong. Học trò tên Nghĩa sao chép năm Bốc Thiên Thọ thứ 12”. Điều này chứng minh, sách học của trẻ em vùng Tây Vực thời cổ đại không khác với Trung Nguyên.

Tại thôn A Tư Tháp Ná còn phát hiện chiếc hộp bọc giấy Hồ Quan trên một bộ hài cốt. Trong đó có một hóa đơn xuất nhập thức ăn cho ngựa của dịch trạm Tây Châu do lính dịch trạm tên Trần Kim viết năm Thiên Bảo 13-14 Đường Huyền Tông: “Phán quan họ Sầm mua bắp cho ngựa ăn là 3 đấu 5 cân. Thanh toán tiền cho lính dịch trạm tên Trần Kim”. Cứ theo lịch sử ghi chép, người họ Sầm đi nhận chức phán quan tại Bắc Đình Đô Hộ phủ của Phong Thường Thanh (năm Thiên Bảo thứ 13-14), chính là nhà thơ “Biên Tái” trứ danh Sầm Tham. Lộ trình theo “Con đường Tơ lụa” đến thành Khưu Từ (thủ phủ của Bắc Đình Đô Hộ), nhà thơ có dừng chân tại Tây Châu và mua thức ăn cho ngựa tại dịch trạm này.

Thời Tây Hán, thành Giao Hà thuộc vương quốc Xa Sư Tiền (còn có tên Xa Sư Tiền Vương Đình). Đến đời Thập Lục quốc, vương quốc này bị diệt vong, thành Giao Hà sau đó thuộc nước Cao Xương và là đô thị lớn thứ 2 của Cao Xương. Công Nguyên 640 Đường triều diệt nước Cao Xương, thành Giao Hà được dùng làm Tổng Hành Dinh của An Tây Đại Đô Hộ phủ, đến Công Nguyên 658 mới di dời đến thành Khưu Từ.

Phía Tây thành Thổ Lỗ Phiên không xa, có di tích cổ thành Giao Hà. Tường thành chỉ còn vài mẫu sụp đổ. Trong thành có một con đường chủ yếu thông từ Đông Nam sang Tây Bắc. Rải rác đây đó cũng còn những di tích phòng ốc và tự viện nhưng đều đã trốc mái.

Mùa Xuân năm 1979, Thổ Lỗ Phiên mở rộng khu du lịch nối liền 2 tòa cổ thành Cao Xương và Giao Hà, và thiết lập tại đó một trung tâm bảo hộ văn vật quốc gia trọng điểm. Nhờ đó thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan.

Từ Tây Châu tiếp tục đi về phía Tây khoảng 200km sẽ đến Yên Kỳ, là một trong những tiểu vương quốc Tây Vực thời cổ đại. Đời Hán Ban Siêu đã từng trấn thủ nơi đây. Đến đời Đường, Yên Kỳ được nâng thành Đô Đốc Phủ, là một trọng trấn quân sự quan trọng ở Tây Vực.

Phía Tây Yên Kỳ không xa, là thành thị Khố Nhĩ Lạc. Phía Bắc thành Khố Nhĩ Lạc có Thiết Môn Quan, một tòa quan ải trọng yếu có thể khống chế 14km sườn núi cheo leo vùng thượng du sông Khổng Tước và cả cửa khẩu Hiệp Cốc. Từ đó có thể thông vào bồn địa Tháp Lý Mộc.

Khưu Từ (nay là Khố Xa Tân Cương) là thành phố lớn nhất trên Lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”. Thành phố này cách phía Đông Luân Đài (Hán Luân Đài) khoảng 100km. Ngày nay đi ô tô chỉ mất 2 giờ, nhưng thời xưa dùng Lạc Đà phải mất 2 hoặc 3 ngày, gặp lúc thời tiết nhiều gió có khi hơn.

Những năm đầu thời Tây Hán (năm 200 TCN), vùng Tây Vực có 36 tiểu quốc, phối trí trên cả 3 lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa”. Những nước nhỏ chỉ có một thành thị và nhân khẩu toàn nước chỉ độ vài ngàn. Nước lớn hơn thì ngoài kinh đô còn có một hai thành trấn, dân số khoảng từ 1 đến 2 vạn. Trong đó, Khưu Từ là vương quốc lớn nhất. Dân số có đến trên 8 vạn. Lãnh thổ bao quát 6 huyện thành gồm, Luân Đài (Hán Luân Đài), Khố Xa, Sa Nhã, Bái Thành, A Khắc Tô, và Tân Hòa. Tất cả đều thuộc tỉnh Tân Cương ngày nay.

Khoảng niên hiệu Thần Tước Tây Hán Tuyên Đế (năm 61 đến năm 58 TCN), vương quốc Khưu Từ đã thuộc lãnh thổ Tây Hán. Đến năm Vĩnh Nguyên thứ 3 Đông Hán Hòa Đế (CN 91), Ban Siêu nhận chức Tây Vực Đô Hộ, bản doanh của Đô Hộ Phủ đóng tại phụ cận thành Khưu Từ. Khưu Từ đương thời vẫn là một tiểu vương quốc thuộc Hán chứ chưa diệt vong.

Đến đời Đường, An Tây Đại Đô Hộ phủ đóng tại thành Giao Hà (Tây Châu), quản lý toàn bộ con đường phía Nam Thiên Sơn. Năm Trinh Quán thứ 22 Đường Thái Tông (CN 648), Đường triều phái A Sử Na Xã Nhĩ diệt nước Khưu Từ và thành lập Khưu Từ Đô Đốc phủ. Cùng năm đó, di dời An Tây Đại Đô Hộ phủ từ thành Giao Hà đến Khưu Từ. Hai năm sau lại dời trở về thành Giao Hà. Năm Hiển Khánh thứ 3 Đường Cao Tông (CN 658), lại dời An Tây Đại Đô Hộ phủ trở lại thành Khưu Từ. Từ đó, Khưu Từ trở thành trung tâm chính trị quân sự chủ yếu trên Lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”.

Rời Khưu Từ, Lộ tuyến Bắc tiếp tục đi về phía Tây sẽ hội tụ với Lộ tuyến Nam tại Sơ Lặc Trấn. Từ đó 2 Lộ tuyến Bắc Nam của “Con đường Tơ lụa” sẽ cùng vượt Thông Lãnh để đến Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp và đế quốc La Mã.

Chương VI- lộ tuyến nam của con đường tơ lụa -PHẦN KẾT

Nội dung bài này chỉ giới hạn ở đoạn phía Đông của “Con đường Tơ lụa”. Tức từ kinh đô Trường An thời Hán Đường qua Hàm Dương, men theo Hành Lang Hà Tây rồi ra Ngọc Môn Quan và Dương Quan, xuyên Tây Vực để đến địa đầu vùng Trung Á Tế Á.

Thời cổ đại, các thương đội và lữ hành khi vượt hết được đoạn phía Đông của “Con đường Tơ lụa”, họ đều coi như trút được gánh nặng của hành trình. Mặc dù từ đó nhìn về các thị trường phương Tây vẫn còn một đoạn đường phía trước, tức vùng Trung Á Tế Á.

Đoạn đường này tuy tương đối khắc nghiệt về khí hậu sa mạc nhưng lại ít khắc nghiệt về địa lý nhân văn, tuy có đi qua gió cát sa mạc nhưng lại không phải qua sông vượt núi gian hiểm nhiều như đoạn phía Đông. Vùng Trung Á Tế Á là cơ địa của các vương quốc Ba Tư (nay là Iran và Irak), Đột Quyết (nay là Thổ Nhĩ Kỳ).. Những cộng đồng dân cư trên sa mạc của các vương quốc này có cự ly cách nhau không quá xa như vùng Tây Vực của đoạn phía Đông. Hơn nữa, họ cũng có quan hệ mậu dịch với Trung Nguyên, nên những thương đội Trung Quốc cũng không gặp nhiều khó khăn khi qua đây.

Đoạn phía Đông của “Con đường Tơ lụa” ngoài hai thành phố phồn vinh là Trường An và Hàm Dương, Hành Lang Hà Tây còn là yết hầu quan trọng về cả quân sự lẫn chính trị và kinh tế. Đó là một dãy dài, hẹp, có màu xanh trải từ bờ Tây sông Vị đến vùng sa mạc phía Nam cao nguyên Mông Cổ.

Các khu vực Âm Sơn, Lũng Sơn, Hà Tây Tẩu Lang và Hà Hoàng trên Hành Lang Hà Tây đều có những cứ điểm chiến lược quan trọng, làm bình phong che chắn Trung Nguyên và bảo vệ sự lưu thông của “Con đường Tơ lụa”.
Những vùng có khí hậu ôn hòa trải dài các chân núi Âm: Sơn, Lũng Sơn, Kỳ Liên Sơn (còn gọi Thiên Sơn) và Yên Chi Sơn là những vùng cỏ nước dồi dào, thu hút cư dân nhiều bộ tộc ít người, và đã hình thành những cộng đồng kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi rất trù phú.

Những thành thị nằm dọc Hành Lang Hà Tây như Thiên Thủy, Cam Châu (nay là Trương Dịch), Túc Châu (nay là Tửu Tuyền), Lương Châu (nay là Vũ Uy), Sa Châu (nay là Đôn Hoàng)… Nhờ sự lưu thông của “Con đường Tơ lụa” mà trở thành những đô thị phồn vinh và là những trung tâm giao lưu văn hóa kinh tế Đông Tây theo 2 chiều mậu dịch. Thành phố Đôn Hoàng không những là ngã rẽ và là điểm hội tụ của 2 Lộ tuyến Bắc Nam mà còn là trung tâm của 2 chiều mậu dịch Đông Tây. Mặt khác, các thương đội và tăng lữ hành hương khi dừng chân tại Đôn Hoàng để chuẩn bị xuyên Tây Vực, đều cầu Thần bái Phật phù hộ cho hành trình, nên từ rất sớm, Đôn Hoàng đã trở thành trung tâm phát triển cực thịnh của Phật Giáo.

Rời Đôn Hoàng, các Lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa” đều phải ra Dương Quan hoặc Ngọc Môn Quan để xuyên Tây Vực. Đó là 2 tòa quan ải yết hầu của “Con đường Tơ lụa” và của cả nền an ninh Trung Nguyên. Vì muốn bảo vệ Trung Nguyên và làm chủ tình hình vùng Tây Vực nhằm giữ an toàn cho huyết mạch giao lưu Đông Tây mà, ngay từ thời cổ đại, nơi đây đã xảy ra vô số trận chiến khốc liệt. Đời Hán chiến tranh với Hung Nô và Đại Uyển, đời Đường chiến tranh với Đột Quyết và Thổ Phồn… Cho nên 2 tòa quan ải này không những đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Trung Quốc, mà còn để lại nhiều hình ảnh tuyệt vời trong thi ca Biên Tái đời Đường.

Tây Vực là vùng đất vừa hiểm ác vừa quyến rũ, vừa hoang sơ vừa thần bí mà, các Lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa” bắt buộc phải đi qua. Đó là vùng đất đã đưa mặt hàng tơ lụa của Trung Nguyên đến các thị trường bờ Tây Thế Giới và là huyết mạch giao lưu văn hóa văn minh Đông Tây. Nhưng đó cũng là nơi chôn vùi không biết bao nhiêu hành nhân trong gió cát sa mạc.

Thời viễn cổ, Tây Vực là nơi định đô của hơn 100 tiểu vương quốc. Tới khi nhà Tây Hán thông sứ Tây Vực thì nơi đây chỉ còn 36 tiểu vương quốc, gồm khoảng 50 thành trấn lớn nhỏ, phối trí trên các Lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa”. Nhưng qua những thời kỳ biến thiên, phần lớn diện tích Tây Vực bị sa mạc hóa, cư dân lưu tán, gió cát chôn vùi nhiều thành trấn. Tới đời Đường, Tây Vực chỉ còn lại các thành trấn: Y Châu (nay là huyện Cáp Mật Tân Cương), Đình Châu (nay là Cát Mộc Tác Nhĩ Tân Cương), Ô Lỗ Mộc Tề và Y Ninh nằm trên Lộ tuyến mới phía Bắc. Thành Yên Kỳ, Khố Nhĩ Lặc, Khưu Từ (nay là Khố Xa Tân Cương) và A Khắc Tô nằm trên Lộ tuyến Bắc. Thành Thạch Thành (nay là Nhược Khương Tân Cương), Bá TIÊN (nay là huyện Thả Mạc Tân Cương), Vu Điền (nay là Hòa Điền Tân Cương) và Sơ Lặc trấn (nay là thành phố Ca Thập Tân Cương) nằm trên Lộ tuyến Nam của “Con đường Tơ lụa”.

Bồn địa Tháp Lý Mộc chiếm gần hết diện tích của Tây Vực và sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can cũng chiếm gần hết bồn địa này. Từ sau thời kỳ đóng băng thế kỷ thứ 4 khí hậu bồn địa ngày càng khô kiệt và nhiều gió, lượng nước mưa hằng năm rất thấp, thậm chí toàn vùng gần như không có cỏ nước (trừ rừng Hồ Dương thiên nhiên tồn tại từ thời kỳ bồn địa chưa trải qua biến thiên).

Nhưng theo lịch sử ghi chép và nhất là căn cứ kết quả khai quật những cổ thành Lâu Lan, Y Tuần, Ni Nhã, Cao Xương… thì bồn địa Tháp Lý Mộc đã từng tồn tại nhiều vương quốc hùng mạnh. Chứng tỏ bồn địa đã có một thời kỳ khá dài khí hậu ôn hòa, hình thành nhiều cộng đồng quốc gia trù phú. Nhưng về sau khí hậu ngày càng khô kiệt, bồn địa mất nguồn nước băng tan và các con sông cũng tắt hẳn dòng chảy. Lượng cát trầm tích từ nhiều thế kỷ trước dần hồi bị sa mạc hóa xua đuổi cư dân, chôn vùi thành trấn. Bồn địa Tháp Lý Mộc từ đó trở thành khổ nạn cho các thương đội và lữ hành trên “Con đường Tơ lụa”.

Hồ La Bố Bạc nằm mút phía Đông của bồn địa Tháp Lý Mộc. Hồ này tích tụ nguồn nước lớn của 2 sông Tháp Lý Mộc và Khổng Tước nên từ thời cổ đại, mặt nước hồ có diện tích gần 1 vạn km2 (thủy lượng lớn thứ 2 của Trung Quốc). Nhưng cũng do ảnh hưởng các thời kỳ biến thiên, mực nước hồ cạn dần và đến nay thì khô kiệt hẳn. Bờ Tây hồ La Bố Bạc là nền xưa của vương quốc Lâu Lan, nằm giữa 2 Lộ tuyến Bắc Nam của “Con đường Tơ lụa”. Tất cả 3 Lộ tuyến đều phải đi qua bồn địa Tháp Lý Mộc, nên khu vực này đã trở thành bản lề giao thông trọng yếu của “Con đường Tơ lụa”.

Từ thế kỷ thứ 4 trở đi, kỹ thuật Dâu Tằm Tơ dần hồi được truyền bá qua một số nước vùng cực Tây Tây Vực. Những năm khai quốc Đường triều xã hội ổn định, kinh tế phát đạt, các thành thị Kim Mãn Thành (xưa là vương quốc Xa Sư Tiền Vương Đình), Vu Điền (xưa là vương quốc Cù Tát Đán) và Tây Châu (xưa là vương quốc Cao Xương) là 3 thủ phủ tơ lụa nổi danh của vùng Tây Vực. Mặt hàng tơ lụa từ các thủ phủ này chuyển đến thị trường phương Tây đã rút ngắn được Hành Lang Hà Tây và một phần đường Tây Vực. Nhưng “Con đường Tơ lụa” từ đó cũng biến thành huyết mạch giao lưu văn hóa văn minh Đông Tây.

“Con đường Tơ lụa” trên lý thuyết tồn tại 17 thế kỷ, nhưng thực tế có 1 thế kỷ gián đoạn (CN 763-CN 866). Năm Thiên Bảo 14 Đường Huyền Tông (CN 755), vì loạn An Sử, triều đình điều hết quân tinh nhuệ về nội địa dẹp loạn. Thổ Phồn thừa cơ đem quân tấn công Lương Châu. Đến năm Quảng Đức thứ 2 Đường Đại Tông (CN 763), quân Thổ Phồn chiếm lĩnh toàn bộ khu vực Hà Hoàng và “Con đường Tơ lụa” cũng tắt nghẽn từ đó. Năm Đại Trung thứ 2 Đường Tuyên Tông (CN 848), nhân Thổ Phồn có nội loạn, Trương Nghĩa Triều lãnh đạo nghĩa quân đánh đuổi Thổ Phồn. Cuộc khởi nghĩa kéo dài đến năm Hàm Thông thứ 7 Đường Ý Tông (CN 866), Trương Nghĩa Triều tái chiếm toàn bộ khu vực Hà Hoàng và tái khai thông “Con đường Tơ lụa”.

“Con đường Tơ lụa” được khai mở từ mối lợi của các thương nhân nhưng, hoàn chỉnh trong vai trò lịch sử trọng đại. Đây không chỉ là con đường mậu dịch buôn bán Đông Tây thời cổ đại mà, còn là huyết mạch giao lưu chính trị, tôn giáo, văn hóa văn minh giữa Trung Quốc với vùng Trung Tây Á và cả các nước Châu Âu. Trong lịch sử, “Con đường Tơ lụa” ảnh hưởng sâu đậm đến mối quan hệ giữa Trung Quốc và phương Tây, và là tổng hợp tinh hoa, thúc đẩy phát triển văn minh nhân loại. Huyết mạch này tồn tại suốt 17 (thực tế chỉ có 16) thế kỷ, khi nhân loại chưa phát triển đường hàng hải.

SÁCH THAM KHẢO

Trung Hoa thượng hạ ngũ thiên niên (2 tập) của Trần Thắng Lợi (Nội Mông cổ nhân đân xuất bản xả 1998)
Đường thi cố sự tục tập (tập 1) của Lật Tư (Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá xuất bản xã Bắc Kinh 1988)
Quang Minh Nhật Báo Bắc Kinh (số ra ngày 26.2.1985).
Nhân Dân Nhật Báo Bắc Kinh (số ra ngày 13.4.1982).
Trung Quốc Nhất Tuyệt của Lý Duy Côn (bản Việt ngữ của nhiều dịch giả, NXB Văn Hoá Thông Tin Hà Nội 1997).
Đường Thi Tuyển Dịch của Lê Nguyễn Lưu. (NXB Thuận Hoá 1997).

theo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#239 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 22/08/2015 - 10:40

NƯỚC MỘI, RỪNG XANH VÀ SỰ SỐNG

Quê tôi ở vùng Nam Trung bộ, đúng cái đoạn mà một nhà thơ từng thống thiết gọi là “dằng dặc khúc ruột miền Trung”. Ở đấy, miên man mấy trăm cây số ven biển là những cồn cát lớn, nơi trắng phau một màu trắng tinh khiết đến khó tin, nơi vàng rộm ngon lành trong nắng cháy. Làng cũng là làng trên cát; con người sống trên cát, tử sinh cùng với cát.
Tôi có đọc một ít lịch sử và tôi biết, lạ vậy, toàn cát vậy, nhưng đấy vốn không phải là một vùng đất nghèo. Từng có cả một vương quốc thịnh vượng trên dải đất này. Một vương quốc nông nghiệp và hải dương. Có lẽ một trong những bí quyết thịnh vượng của vương quốc ấy là nước, mà thiên nhiên đã rất thông minh giữ và dành cho dải đất thoạt nhìn thật khô cằn này, và con người thì cũng thật thông minh hiểu được món quà quý của đất trời, biết tận dụng lấy cho mình.
Cho đến chỉ cách đây đâu khoảng chưa đến nửa thế kỷ, ở quê tôi vẫn còn một kỹ thuật nông nghiệp rất đặc biệt, tinh tế và thú vị, gọi là kỹ thuật “tưới nước mội”, người Việt học được của người Chăm khi đi vào Nam. Nước mội là nước rỉ ra từ các chân đồi cát, trong veo, mát lạnh, tinh sạch đến mức có thể bụm vào lòng bàn tay, ngửa cổ uống ngay ngon lành.
Ở đây người ta vỡ ruộng ngay trên cát, các đám ruộng được gọi là “thổ”, những đám thổ trồng đủ các loại hoa màu. Ở góc thổ bao giờ cũng có một chiếc ao nhỏ, cạn thôi, nhưng quanh năm lúc nào cũng đầy ắp nước, tát đi lại đầy ngay, cả trong những mùa nắng hạn gay gắt nhất. Nước mội từ trong lòng cát rỉ ra, nhẹ nhàng, chậm chạp, từ tốn, mà bất tận. Những chiếc ao nước mội, những con mắt ngọc xanh rờn, mát rợi của đất đai, làng mạc, đồng ruộng quê tôi. Nhỏ nhoi và thầm lặng, chính chúng nuôi sống nền nông nghiệp từng trù phú của vương quốc xưa, và của cả cha ông chúng tôi nữa khi họ đi về Nam…
Champa cũng là một vương quốc biển, từng dong thuyền đến những đại dương xa, và từng có những cảng quốc tế rộn rịp trên suốt dọc bờ biển của mình. Những người có đôi chút kiến thức về giao thương biển đều biết rằng một trong những điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất của một cảng biển quốc tế là nước ngọt, phải rất dồi dào nước ngọt. Những con tàu lang thang nhiều tháng trời trên các đại dương mặn chát, lắm khi chẳng vì mua bán gì cả, vẫn phải ghé lại các cảng ven bờ để “ăn” nước ngọt.
Và trên dải cồn cát miên man của mình, người Chăm là những người thiện nghệ nhất thế gian về nghề tìm mạch nước, đào và thiết kế giếng nước ngọt. Họ như có con mắt thần, có thể nhìn thấy đường đi của nước ngọt âm thầm trong lòng đất, những dòng nước mội. Chính hệ thống giếng nước ngọt thánh thiện và tuyệt vời - từ nước mội bất tận rỉ ra mà có - đã tạo nên vương quốc đại dương Champa, tôi nghĩ nói thế cũng chẳng hề quá đáng đâu…
Từ nhỏ, là dân vùng cát cháy miền Trung, tôi đã có hạnh phúc được biết nước mội, nếm nước mội, ăn nước mội, sống và lớn lên bằng cây cỏ được nuôi bằng nguồn nước mội ân huệ bất tận.Của Trời.Rồi về sau, cuộc đời lại đã cho tôi một may mắn khác: tôi hiểu hóa ra “Trời” đó không phải là một đấng trừu tượng thần bí nào, mà là một thực thể sống động, khổng lồ, cường tráng, hùng vĩ…, mà lạ thay, cũng lại rất mong manh, hết sức mong manh, ngày càng đang trở nên cực kỳ mong manh! Trường Sơn. Tây Nguyên.
Tôi đã được đi đến nơi đó và gắn bó hơn nửa cuộc đời của mình ở đó.Hóa ra có một “bí mật” to lớn: ngọn nguồn của nước mội tuyệt diệu tưới tắm cả vùng cát dằng dặc ven biển miền Trung chính là nơi đó, Tây Nguyên, rừng đại ngàn, rừng nguyên sinh, rừng nhiệt đới Tây Nguyên. Chính rừng Tây Nguyên, từ trên Trường Sơn rất xa xôi kia, đêm ngày, hàng triệu triệu năm nay, như một người Mẹ vĩ đại, bao dung và tần tảo, hứng lấy tất cả các nguồn nước của đất trời, cất lấy, “để dành”, tằn tiện, tuyệt đối không phí mất một giọt nào, để từng ngày từng ngày chắt chiu mà bất tận cung cấp cho đứa con đồng bằng của mình, cho sự sống có thể sinh sôi, nảy nở, trường tồn trên dải đất cát trông chừng rất khắc nghiệt kia. Cho các vương quốc, các triều đại, các nhà nước, các chế độ ra đời, phát triển, nối tiếp. Và sống còn… Nước mội chính là những dòng nước nhỏ, liên tục, không bao giờ dứt, đi âm thầm và vô hình trong lòng đất, từ những đỉnh Trường Sơn xa xôi kia, đến tận những cồn cát tưởng chẳng thể có chút sự sống này.
Vậy đó, Tây Nguyên, ý nghĩa của Tây Nguyên và rừng Tây Nguyên, dù chỉ mới là qua một khía cạnh rất nhỏ của nó, nước.Có lẽ cũng cần nói thêm một chút nữa về điều này: không chỉ cho dải đất cát cháy miền Trung đâu. Trường Sơn có một đặc điểm quan trọng về địa hình: đường phân thủy ở đây không chạy đúng giữa mà sát ngay về phía đông của rặng núi dằng dặc này, nghĩa là sườn phía tây của Trường Sơn rộng hơn sườn phía đông rất nhiều, có thể đến bốn năm lần. Tức nước từ Tây Nguyên đổ về phía tây cũng nhiều hơn về phía đông có thể đến bốn hay năm lần. Mà đổ về phía tây tức là về Mékông, về Nam Bộ, về toàn miền Nam.
Trong một chừng mực nào đó, Tây Nguyên, rừng Tây Nguyên có ý nghĩa quyết định đối với toàn miền Nam về tất cả các mặt. Nếu chỉ nói một mặt nước thôi, thì có lẽ cũng nên nhớ: nước ở miền Tây Nam bộ, ở Cà Mau kia, cũng có thể là nước mội từ Mẹ Rừng Tây Nguyên chắt chiu đưa về đấy, cho mênh mang vùng đất lúa của cả nước ấy không bị nhiễm mặn…
Hàng nghìn đời nay có những con người đã sống ở đây, gắn bó ruột thịt với rừng và đã tạo nên cả một nền văn hóa đầy minh triết bắt nguồn chính từ sự gắn bó ấy. Để bày tỏ đôi lời thật giản lược về nền văn hóa ấy và những con người ấy, chắc có thể nói vắn tắt như thế này: người Tây Nguyên không bao giờ coi rừng là tài nguyên. Không bao giờ có khái niệm khai phá, chinh phục, chiếm lĩnh tự nhiên, rừng. Đơn giản, Rừng đối với họ là Tất cả, là Mẹ, là cội nguồn của sự sống. Mà họ kính trọng và tôn thờ.
Chúng ta, những người tự coi là rất văn minh, rất khoa học, chúng ta biết nước là nguồn gốc của sự sống, nhưng chúng ta không biết, biết bằng hành vi cụ thể chứ không phải bằng lý lẽ to tát, rằng không có rừng thì cũng chẳng có, chẳng còn nước, nghĩa là cũng chẳng còn có sự sống, chúng ta không biết cái chân lý sơ đẳng và đơn giản ấy. Nhìn thấy rừng là con mắt ta hau háu nhìn thấy gỗ, gỗ, gỗ… Và hết gỗ rồi, bây giờ, thấy tài nguyên khác. Hau háu, hung hăng, hỗn hào chặt phá,và hết chặt phá, chẳng còn gì để chặt phá nữa thì đào bới…
Ở quê tôi, nay đã kiệt nước mội rồi. Chi tiết rất nhỏ ấy thôi, vậy đó, lại đang là tai họa tày trời! Chắc chưa ai quên vụ lũ kinh hoàng ở Phú Yên vừa rồi. Cả thành phố Tuy Hòa, thị xã Sông Cầu chìm trong nước sâu. Gần trăm người chết. Ruộng đồng tan hoang… Một vị có trách nhiệm rất cao và trực tiếp giải thích: Ấy là vì biến đổi khí hậu toàn cầu, và lại nữa, vì nhân dân mất cảnh giác. Tại Trời và tại dân, Trời thì ngày càng tai ác, còn dân thì mãi ng* d*t! Có một chi tiết hẳn ở cương vị của ông ấy, ông ấy ắt phải biết nhưng lại không thấy ông nói: năm 2009, ở Phú Yên áp thấp nhiệt đới gây mưa 330 li; năm 1991, cũng tại chính Phú Yên này, mưa 1300 li, gấp hơn ba lần.
Năm 1991 không có gì đáng kể, năm 2009 lại tai họa khủng khiếp, vì sao? Ở miền Trung - mà ở cả nước đều vậy - ngày xưa chỉ có lụt và lụt là mùa rất vui, thậm chí thân thiết, mỗi năm lại trở lại một lần, người ta chờ nước lụt, nước lên từ tốn, ruộng đồng được tưới tắm phù sa, cũng là lúc làm ăn rộn rã, có lẽ cũng tương tự như mùa nước nổi ở Nam Bộ thuở nào.
Ngày nay không còn lụt, chỉ có lũ. Lũ rất khác lụt, lũ là nước đột ngột đổ ập xuống, như thác, hung bạo, nhanh và dữ cho đến nỗi, như vừa rồi, có người đã leo lên trần nhà rồi còn chết ngạt trong ấy vì không kịp dở mái để leo lên nữa! Lũ không mang phù sa đến, lũ quét sạch tất cả những gì nó gặp trên đường đi, và kéo đất đá từ trên rừng xuống lấp hết ruộng đồng. Tất nhiên ngày xưa cũng có lũ, nhưng chỉ trong những năm mưa đặc biệt lớn, cả đời một con người chỉ chứng kiến vài lần.
Ngày nay hễ đài vừa báo áp thấp nhiệt đới, thậm chí chỉ áp thấp, là cả nước đã rùng rùng lo chống lũ, sập núi, trôi rừng…Con số 1300 li năm 1991 và 330 li năm 2009 là con số hùng hồn, nó nói rằng vụ Phú Yên vừa rồi không phải chủ yếu do biến đổi khí hậu toàn cầu, không phải do Trời, như lời giải thích uyên bác của vị quan chức nọ.
Do người. Do cơ chế nước mội tinh tế, tinh vi, thông minh, nhân hậu tuyệt vời của thiên nhiên đã không còn, đã bị phá vỡ, đã bị con người triệt diệt bằng cách triệt diệt rừng. Rừng Tây Nguyên. Trong một cuộc trao đổi ở Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Trung ương vừa rồi, nhiều chuyên gia đã cảnh báo: không chỉ có nguy cơ lũ quét đâu, sau lũ quét sẽ tiếp đến nguy cơ hạn hán sẽ còn khốc liệt, tai hại hơn. Bởi vì nước mội và lụt hằng năm hiền lành là cùng một cơ chế, cùng một tác giả: Rừng. Rừng Tây Nguyên.
Trong hơn 30 năm qua, từ sau 1975 chúng ta đã làm xong một công việc to lớn: cơ bản phá hết, cạo sạch đến tận cùng rừng tự nhiên trên cái mái nhà sinh tử của toàn Đông Dương này. Đã quét sạch xong hết trên mặt đất, bây giờ đang bắt đầu moi sạch nốt dưới lòng đất. Cao su tuyệt đối không phải là rừng, không sinh ra cơ chế nước mội. Các khu công nghiệp của công nhiệp hóa và hiện đại hóa càng tuyệt đối không phải là rừng. Một quy luật vận hành ổn định, điều hòa, thông minh của tự nhiên đã bị triệt diệt, nhanh và cơ bản hơn tất cả mọi giai đoạn từng có trong lịch sử. Một quy luật khác đã được thiết lập, quy luật của hỗn loạn.
Hãy nhìn lên cái mái nhà chung kia mà bao nhiêu thế hệ nhiều nghìn năm qua đã giao lại cho chúng ta, trên ấy đã mất hết màu xanh của sự sống.Có còn cứu được không?Còn, với một điều kiện: biết giật mình, dừng lại, bắt đầu lại.Cũng cần nói: hầu hết các nước mà ngày nay ta gọi là những nước phát triển đều đã đi qua “con đường đau khổ”, đúng hơn là con đường ngu dại này, cũng từng tàn phá hết rừng trên mặt đất và đào bới tàn bạo lòng đất, ở nước họ, rồi ở các nước khác.
Chỉ có điều, gần một thế kỷ trước họ đã giật mình dừng lại, và từ đó bắt đầu làm lại, khôi phục lại màu xanh cho đất đai, núi non của họ.Đi sau, chúng ta có thể khôn ngoan hơn như lẽ ra phải thế. Sự vội vã, kiêu căng, và lòng tham không đáy, đã che mắt chúng ta. Đang còn tiếp tục che mắt chúng ta. Chúng ta vẫn còn hăng lắm trong việc chặt phá nốt đôi chút còn lại và đang bắt đầu một công cuộc đào bới hung dữ.Cần ngay bây giờ chấm dứt mọi khai phá ở Tây Nguyên.
Cần nghĩ đến một con đường sống khác, một kiểu sống khác, một kiểu phát triển khác. Trên cả nước. Trước hết trên mái nhà sinh tử Tây Nguyên. Bắt đầu lại một công cuộc cứu lấy Tây Nguyên. Bắt đầu một sự nghiệp to lớn trồng lại rừng Tây Nguyên, trong một trăm năm, quyết liệt, kiên định, thông minh, với những kế hoạch cụ thể, cho 50 năm, 20 năm, 10 năm, 5 năm, toàn Tây Nguyên, từng tỉnh, từng huyện, từng xã, từng làng.Khôi phục lại màu xanh cho Tây Nguyên.
Bắt đầu ngay từ hôm nay, mùa xuân, mùa của màu xanh, của sự tỉnh táo, khôn ngoan.Cho đến một ngày, có thể một trăm năm nữa, con cháu chúng ta sẽ có thể bụm vào lòng bàn tay một ngụm nước mội trong veo mát lạnh rỉ ra từ đất cát và ngữa cổ uống ngon lành. Và biết rằng cha ông chúng từng rất dại dột, nhưng rồi cũng đã từng biết khôn ngoan, để cho sự sống từng sắp bị triệt diệt, lại được cứu, lại sinh sôi, phát triển, trường tồn.
Nhà văn NGUYÊN NGỌC

Thanked by 1 Member:

#240 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 07/09/2015 - 14:24

Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc?
Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Tiếng ta còn thì nước ta còn!

Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1- Đồng hóa tự nhiên, tức quá trình dân tộc A trong giao tiếp với dân tộc B, do chịu ảnh hưởng lâu dài của B mà A tự nhiên dần dần mất bản sắc của mình, cuối cùng bị B đồng hóa; đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2- Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc nhỏ yếu hơn chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của một dân tộc lớn mạnh hơn; đây là một tội ác.

Đồng hóa dân tộc chủ yếu diễn ra dưới hình thức đồng hóa văn hóa, trong đó chủ thể đồng hóa thường là một nền văn hóa mạnh và tiên tiến (như đông dân hơn, kinh tế phát triển hơn, đã có chữ viết, có các hệ tư tưởng), đối tượng đồng hóa thường là nền văn hóa yếu và lạc hậu hơn. Đồng hóa ngôn ngữ là công cụ đồng hóa văn hóa thông dụng nhất, quan trọng nhất, hiệu quả nhất. Một dân tộc bị mất tiếng nói mẹ đẻ của mình và phải nói tiếng của một dân tộc khác thì không còn giữ được bản sắc dân tộc nữa.

Trong lịch sử, các nền văn hóa yếu thường bị nền văn hóa mạnh đồng hóa. Thời cổ, Trung Quốc là quốc gia đông người nhất và có nền văn minh tiên tiến nhất châu Á. Nền văn hóa Hán ngữ của họ có sức đồng hóa rất mạnh. Dân tộc Hồi ở phía Tây nước này, ngày xưa dùng chữ A Rập, sau nhiều năm giao lưu với người Hán cũng toàn bộ dùng chữ Hán và nói tiếng Hán. Ngay cả các dân tộc nhỏ nhưng mạnh về quân sự, sau khi thôn tính và thống trị Trung Quốc được ít lâu cũng bị nền văn hóa Hán ngữ đồng hóa.

Thí dụ dân tộc Mãn sau khi chiếm Trung Quốc và lập triều đại nhà Thanh đã lập tức tiến hành đồng hóa dân tộc Hán: cưỡng bức đàn ông Hán phải cạo nửa đầu và để đuôi sam, phải bỏ chữ Hán mà chỉ dùng chữ Mãn làm chữ viết chính thức trên cả nước. Nhưng đến giữa đời Thanh, tức sau khoảng 100 năm thì tiếng Mãn cùng chữ Mãn đều biến mất, từ đó trở đi người Mãn chỉ dùng tiếng Hán và chữ Hán, nghĩa là họ lại bị đồng hóa ngược bởi chính nền văn hóa của dân tộc bị họ cai trị lâu tới 267 năm!

Các nước đế quốc thực dân sau khi chiếm thuộc địa đều cưỡng chế đồng hóa ngôn ngữ dân bản xứ, quá trình này diễn ra khá nhanh, nhìn chung sau 5-6 thế hệ (mỗi thế hệ 25 năm), tiếng nói của người bản xứ đã bị thay bằng ngôn ngữ của nước cai trị. Đầu thế kỷ XV, Brazil bị Bồ Đào Nha chiếm, chẳng bao lâu tiếng Bồ trở thành ngôn ngữ chính thức duy nhất của người Brazil. Nhiều thuộc địa Pháp ở châu Phi như Bénin, Togo, Sénegan… dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính duy nhất. Năm 1918 nước ta bắt đầu dạy tiếng Pháp ở lớp cuối tiểu học, 10-20 năm sau toàn bộ học sinh trung học cơ sở trở lên đến trường đã chỉ nói tiếng Pháp, giáo viên chỉ giảng dạy bằng tiếng Pháp. Nếu cứ thế dăm chục năm nữa thì có lẽ Việt Nam đã trở thành nước nói tiếng Pháp.

Thế nhưng sau hơn 1.000 năm bị bọn phong kiến người Hán thống trị và cưỡng bức đồng hóa, dân tộc Việt Nam vẫn không bị Hán hóa, vẫn giữ nguyên được nòi giống, tiếng nói và phong tục tập quán.

Đây quả là một điều kỳ diệu có lẽ chưa dân tộc nào khác làm được. Đáng tiếc là chưa thấy nhiều người quan tâm nghiên cứu vấn đề này, một thành tựu vĩ đại đáng tự hào nhất của dân tộc ta (nói cho đúng là của tổ tiên ta thôi, còn chúng ta bây giờ thua xa các cụ).

Vì sao tổ tiên ta có thể làm được kỳ tích ấy ? Có người nói đó là do dân ta giàu tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, xã hội có cơ chế làng xã bền chặt, v.v… Nói như vậy có lẽ còn chung chung, nếu đi sâu phân tích tìm ra được nguyên nhân cụ thể thì sẽ giúp ích hơn cho việc phát huy các truyền thống quý báu của dân tộc ta. Thực tế cho thấy tổ tiên ta giành được thắng lợi chống đồng hóa không phải bằng đấu tranh vũ trang mà chủ yếu bằng tài trí.

Xin nói thêm rằng chính người Trung Quốc cũng rất quan tâm vấn đề này. Chúng tôi đã thử nêu lên mạng Bách Độ (Baidu) của họ câu hỏi “Vì sao Trung Quốc thống trị Việt Nam hơn 1.000 năm mà Việt Nam không bị đồng hóa?”

Từ hàng triệu kết quả, có thể thấy đa số dân mạng Trung Quốc đều có chung một thắc mắc lớn: Vì sao bị Trung Quốc thống trị lâu thế mà người Việt Nam vẫn không nói tiếng Trung Quốc? Nói cách khác, họ coi đồng hóa ngôn ngữ là tiêu chuẩn đồng hóa quan trọng nhất và đều thừa nhận Trung Quốc đã không đồng hóa nổi Việt Nam. Họ tỏ ra tiếc nuối về sự kiện Việt Nam sau hơn 10 thế kỷ từng là quận huyện của Trung Quốc, từng dùng chữ Hán hàng nghìn năm mà rốt cuộc lại trở thành một quốc gia độc lập, dùng chữ Latin hóa, ngày nay là nước chống lại mạnh nhất chính sách xâm lấn Biển Đông của Bắc Kinh.

Do hiểu biết Việt Nam rất ít, thậm chí hiểu sai, hầu hết dân mạng Trung Quốc không tìm được lời giải thắc mắc trên, kể cả người tỏ ra am hiểu lịch sử nước ta. Họ nêu các lý do:
– Văn hóa Việt Nam có trình độ Hán hóa cao(?), người Việt rất hiểu và không phục Trung Quốc;
– Việt Nam ở quá xa Trung nguyên, khí hậu nóng, quan lại người Hán ngại sang Việt Nam làm việc, đã sang thì chỉ lo làm giàu, không lo đồng hóa dân bản xứ;
– Các nhân vật tinh hoa Trung Quốc như Lưu Hy, Hứa Tĩnh, Hứa Từ, Viên Huy (劉熙、許靖、許慈、袁徽) chạy loạn sang Việt Nam đã giúp nước này có nền văn hóa không kém Trung Quốc;
– Người Hán di cư đến Việt Nam đều bị người bản xứ đồng hóa v.v…

Nói chung họ đều chưa thấy, hay cố ý lờ đi nguyên nhân chính là ở tài trí của người Việt.

Nhưng họ nói người Việt Nam hiểu Trung Quốc là đúng. Do sớm hiểu rõ ý đồ thâm hiểm của phong kiến người Hán muốn đồng hóa dân tộc ta nên tổ tiên ta đã kịp thời đề ra đối sách. Cụ thể là đã tìm ra cách giữ gìn được tiếng nói của dân tộc mình trong quá trình bị bọn thống trị người Hán cưỡng bức học chữ Hán.

Mấy nghìn năm sau, một học giả lớn của dân tộc ta tóm tắt bài học lịch sử này trong một câu nói rất chí lý: “Tiếng ta còn thì nước ta còn!

Sau khi chiếm nước ta (203 tr. CN), Triệu Đà đã ép buộc dân ta học Hán ngữ, nhằm đồng hóa họ bằng ngôn ngữ. Có lẽ đây là thời điểm muộn nhất chữ Hán vào nước ta.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Sách “Việt giám Thông khảo Tổng luận” do Lê Tung viết năm 1514 có chép việc họ Triệu mở trường dạy người Việt học chữ Hán.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Về sau, tất cả các triều đại người Hán cai trị Việt Nam đều thi hành chính sách đồng hóa. Triều nhà Minh còn tìm cách tiêu diệt nền văn hóa của ta, như tiêu hủy toàn bộ các thư tịch do người Việt viết, bắt nhân tài, thợ giỏi người Việt sang Trung Hoa phục dịch.

Như vậy, dân tộc ta buộc phải chấp nhận học chữ Hán từ rất sớm (trước Triều Tiên, Nhật Bản nhiều thế kỷ). Do hiểu biết người Hán nên tầng lớp tinh hoa người Việt đã nhanh chóng nhận ra nếu cứ học như thế thì cuối cùng tiếng Việt sẽ bị thay bằng tiếng Hán, dân ta sẽ trở thành một bộ phận của Trung Quốc.

Vậy cha ông ta đã dùng cách nào để giữ được tiếng nói của dân tộc trong hơn 1.000 năm bị cưỡng bức học và dùng chữ Hán cũng như phải tiếp thu nhiều yếu tố của nền văn minh Trung Hoa?
Vấn đề này rất cần được làm sáng tỏ để từ đó hiểu được truyền thống quý báu của dân tộc ta. Dưới đây chúng tôi xin mạo muội góp vài ý kiến nông cạn, nếu có sai sót mong quý vị chỉ bảo.

Đọc chữ Hán bằng tiếng Việt: Một sáng tạo xuất sắc của tổ tiên ta

Chữ viết hình vuông là một phát minh lớn của nền văn minh Trung Hoa, được người Hán chính thức sử dụng từ đời nhà Thương (thế kỷ 16 đến 11 tr. CN), ngày nay phổ biến được gọi là chữ Hán.

Thực ra trong hơn 2.000 năm kể từ ngày ra đời, thứ chữ viết ấy chỉ được người Hán gọi là chữ (tự) hoặc văn tự 文字. Đến đời Đường (thế kỷ VII) cái tên 漢字 (Hán tự, tức chữ Hán) mới xuất hiện lần đầu trong sách Bắc Sử 北史 do Lý Diên Thọ biên soạn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Sau đó người Nhật và người Triều Tiên cũng gọi thứ chữ này là Hán tự: tiếng Nhật đọc Kanji, tiếng Triều Tiên đọc Hantzu. Cho tới nay Bộ Giáo dục Đài Loan vẫn chỉ gọi là Quốc tự 國字.

Vì thứ chữ ấy khi vào Việt Nam còn chưa có tên nên tổ tiên ta bèn đặt cho nó cái tên là chữ Nho, với ý nghĩa là chữ của người có học, bởi lẽ Nho là từ dùng để gọi những người có học. Dân ta gọi người dạy chữ là thầy đồ Nho, bút và mực họ dùng để viết chữ là bút Nho và mực Nho.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Đây quả là một điều độc đáo, bởi lẽ Hán ngữ xưa nay chưa hề có khái niệm chữ Nho; tất cả từ điển Hán ngữ cổ hoặc hiện đại và các từ điển Hán-Việt đều không có mục từ Nho tự 儒字 với ý nghĩa là tên gọi của chữ Hán.

Có thể suy ra: Việt Nam thời xưa không có chữ viết (hoặc đã có chữ Việt cổ nhưng chưa hoàn thiện, chưa diễn tả được các khái niệm trừu tượng), vì thế khi tiếp xúc với chữ Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã nhận thấy đây là một phương tiện cực kỳ hữu ích dùng để truyền thông tin được xa và lâu, không bị hạn chế về khoảng cách và thời gian như cách truyền thông tin bằng tiếng nói, do đó họ đã sớm nghĩ tới việc mượn thứ chữ này làm chữ viết của dân tộc ta.

Muốn vậy dân ta phải biết chữ Hán, một thứ ngoại ngữ. Làm cho dân chúng học và dùng được một ngoại ngữ là việc hoàn toàn bất khả thi ở thời ấy. Hơn nữa chữ Hán cổ khó đọc (vì không biểu âm), khó viết (vì có nhiều nét và cấu tạo phức tạp), khó nhớ (vì có quá nhiều chữ), thuộc loại chữ khó học nhất trên thế giới.

Nói chung, mỗi chữ viết đều có một âm đọc; không ai có thể xem một văn bản chữ mà không vừa xem vừa đọc âm của mỗi chữ (đọc thầm hoặc đọc thành tiếng). Mỗi chữ Hán đều có một âm tiếng Hán; muốn học chữ Hán tất phải đọc được âm của nó. Viết chữ Hán khó, tuy thế tập nhiều lần sẽ viết được, nhưng do khác biệt về hệ thống ngữ âm, người Việt nói chung khó có thể đọc được các âm tiếng Hán.

Ngoài ra Trung Quốc là một nước rộng lớn, đông dân; cho tới trước nửa cuối thế kỷ 20 cả nước vẫn chưa thống nhất được âm đọc của chữ. Loại chữ này chỉ thể hiện ý nghĩa, không thể hiện âm đọc, cho nên nhìn chữ mà không biết cách đọc. Người dân các vùng xa nhau thường đọc chữ Hán theo âm khác nhau, thậm chí khác xa nhau, vì thế thường không hiểu nhau nói gì. Các thứ tiếng địa phương ấy ta gọi là phương ngữ, người Hán gọi là phương ngôn (方言); Hán ngữ hiện có 7 phương ngữ lớn, nhiều phương ngữ nhỏ (次方言).

Không thống nhất được âm đọc chữ Hán là một tai họa đối với người Hán. Với người nước ngoài học chữ Hán cũng vậy: khi mỗi ông thầy Tàu đọc chữ Hán theo một âm khác nhau thì học trò khó có thể học được thứ chữ này.

Để có thể học được chữ Hán mà không cần đọc âm tiếng Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã sáng tạo ra một giải pháp xuất phát từ ý tưởng: nếu người Hán khác vùng có thể tự đọc chữ Hán theo âm riêng của vùng, thì ta cũng có thể đọc chữ Hán theo âm riêng của người Việt.

Muốn vậy, mỗi chữ Hán được tổ tiên ta quy ước đọc bằng một (hoặc vài, tùy chữ Hán gốc) âm tiếng Việt xác định có gốc là âm chữ Hán — ngày nay gọi là âm Hán-Việt, nghĩa là mỗi chữ Hán đều được đặt cho một (hoặc vài) cái tên tiếng Việt xác định, gọi là từ Hán-Việt.

Thí dụ chữ được đặt tên là chữ Thủy, âm đọc thủy khác với âm đọc shuẩy của người Hán. Chữ , tiếng Hán đọc sưa, ta đọc sắc. ThủySắc là từ Hán-Việt, cũng là âm Hán-Việt của .

Âm/từ Hán-Việt được chọn theo nguyên tắc cố gắng bám sát âm Hán ngữ mà tổ tiên ta từng biết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Như chữ , âm Hán và âm Hán-Việt đều đọc chung, tức hệt như nhau; chữ , Hán ngữ đọc hái, ta đọc Hài, gần như nhau. Nhưng hầu hết chữ đều có âm Hán-Việt khác âm Hán. Như 集 âm Hán là chí, ta đọc Tập ; giú, ta đọc Nho. Có chữ âm Hán như nhau mà âm Hán-Việt có thể như nhau hoặc khác nhau, như , âm Hán đều là thúng, từ Hán-Việt đều là Đồng ; nhưng , âm Hán đều là xi, lại có hai từ Hán-Việt khác nhau là HệTế. Chữ Hán có hai hoặc nhiều âm thì có thể có một, hai hoặc nhiều âm/từ Hán-Việt, như có hai âm Hán là tâutu, lại chỉ có một âm/từ Hán-Việt là Đô ; có hai âm Hán shảoshao, cũng có hai âm/từ Hán-Việt là Thiểu (trong thiểu số) và Thiếu (trong thiếu niên).

Thứ chữ Hán đọc bằng âm Hán-Việt này được dân ta gọi là chữ Nho. Vì đọc chữ bằng tiếng mẹ đẻ nên chữ Nho trở nên dễ học đối với người Việt: chỉ cần học mặt chữ, nghĩa chữ và cách viết văn chữ Hán mà không cần học phát âm cũng như học nghe/nói tiếng Hán. Vì thế thời xưa ở nông thôn nước ta không hiếm người 6-7 tuổi đã biết chữ Nho.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) 12 tuổi đỗ Cử nhân, 16 tuổi đỗ Hoàng giáp (Tiến sĩ). Người không biết chữ cũng có thể học truyền miệng các tác phẩm ngắn có vần điệu, như Tam Thiên Tự.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Người biết chữ Nho có thể xem hiểu các thư tịch chữ Hán, viết văn chữ Hán; tuy không nói/nghe được tiếng Hán nhưng vẫn có thể dùng bút đàm để giao tiếp bình thường với người Hán. Chỉ bằng bút đàm chữ Nho, Phan Bội Châu giao tiếp được với các nhà cải cách Trung Quốc và Nhật Bản, đưa được mấy trăm thanh niên Việt Nam sang Nhật học quân sự chính trị, chuẩn bị về nước đánh đuổi thực dân Pháp.

Cần nhấn mạnh: vì âm/từ Hán-Việt không thể ghi âm hầu hết từ ngữ tiếng Việt cho nên cách đọc chữ Hán theo âm Việt hoàn toàn không thể biến tiếng Việt thành một phương ngữ của Hán ngữ,

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

và dân ta vẫn hoàn toàn nói và nghe bằng tiếng mẹ đẻ.

Chữ Nho chỉ dùng để viết mà thôi, và chỉ được giới tinh hoa (trí thức và quan lại người Việt) dùng trong giao dịch hành chính, ngoại giao, lễ tiết, chép sử, giáo dục, thi cử, sáng tác văn thơ. Còn ở Trung Quốc, những người nói một trong các phương ngữ tiếng Hán đều có thể dùng chữ Hán để ghi âm được toàn bộ tiếng nói của phương ngữ ấy, nghĩa là họ có thể dùng chữ Hán để ghi âm tiếng mẹ đẻ.

Dĩ nhiên cách đọc tiếng Việt chỉ có thể làm với chữ Hán, là loại chữ biểu ý (ghi ý), chứ không thể làm với chữ biểu âm (ghi âm). Ngày nay âm/từ Hán-Việt của mỗi chữ Hán có thể dễ dàng viết ra bằng chữ Quốc ngữ (một loại chữ ghi âm), nhưng ngày xưa, khi chưa có bất kỳ loại ký hiệu nào ghi âm tiếng nói, tổ tiên ta chỉ có thể truyền khẩu. Thế mà lạ thay, việc dạy chữ Nho đã được mở rộng, ở thời Nguyễn là đến tận làng, có thể suy ra tỷ lệ người biết chữ Hán của dân ta cao hơn Trung Quốc!

Chỉ bằng cách truyền miệng mà người Việt thời xưa đã tạo ra được một bộ từ Hán-Việt tương ứng với bộ chữ Hán khổng lồ — bộ chữ này trong Tự điển Khang Hy (1716) có hơn 47 nghìn chữ; Tiêu chuẩn Nhà nước Trung Quốc GB18030 (2005) có 70.217 chữ; Trung Hoa Tự hải có 85.568 chữ Hán.

Quá trình tiến hành Việt Nam hóa phần ngữ âm của chữ Hán kéo dài trong hàng nghìn năm, là một thành tựu văn hóa vĩ đại. Có thể phỏng đoán đó là một quá trình mở, do nhiều thế hệ người Việt thực hiện, thể hiện sức sáng tạo bất tận của tổ tiên ta.

Nhật và Triều Tiên cũng mượn dùng chữ Hán, nhưng họ tự đến Trung Hoa nghiên cứu đem chữ Hán về dùng chứ không bị ép dùng từ sớm như ta. Họ cũng đọc chữ Hán theo âm bản ngữ của dân tộc mình — giải pháp do người Việt nghĩ ra và thực hiện trước họ nhiều thế kỷ.

Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Nguyễn Tài Cẩn nói: “Cách đọc Hán Việt là một tài sản của riêng dân tộc ta. Có dùng nó khi đọc Đạo đức kinh, Kinh Thi, Sở từ… thì mới phù hợp với thói quen dân tộc, tiện lợi cho dân tộc. Theo ý chúng tôi, dùng cách đọc Hán Việt ở những trường hợp này là một điều hết sức phù hợp với khoa học. Đọc theo lối Hán Việt thì dễ hiểu hơn, bởi lẽ ngay trong tiếng Việt đã có khá nhiều tiếng Hán Việt quen thuộc, chỉ đọc lên, nghe được, là hiểu được; đọc theo lối Hán Việt thì cũng thuận tai hơn… ”.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Đúng thế. Thí dụ từ 社會, người Anh biết Hán ngữ đọc shưa huây, người Anh không biết Hán ngữ khi nghe âm đọc ấy sẽ chẳng hiểu gì; còn người Việt biết Hán ngữ đọc “xã hội”, người Việt không biết Hán ngữ nghe đọc sẽ hiểu ngay nghĩa của từ; âm “xã hội” thuận tai, dễ đọc dễ nhớ hơn âm shưa huây. Rõ ràng cách đọc Hán-Việt thật tiện lợi cho người Việt. Trong bài sau, chúng tôi sẽ nói thêm về vấn đề này.

Ngày nay mỗi chữ Hán trong tất cả các từ điển Hán-Việt đều phải ghi kèm từ Hán-Việt tương ứng. Hán-Việt Tự điển của Thiều Chửu có kèm Bảng tra chữ theo âm Hán-Việt, dùng tra chữ Hán rất tiện và nhanh hơn tra theo bộ thủ. Người có sáng kiến làm Bảng này là bà Nguyễn Thị Quy (1915-1992), em ruột Thiều Chửu, khi bà lần đầu xuất bản Tự điển nói trên tại Sài Gòn năm 1966.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Như vậy, bằng cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt, tổ tiên ta đã thành công trong việc mượn chữ Hán để dùng làm chữ viết chính thức của dân tộc mình và gọi nó là chữ Nho. Sự vay mượn này chẳng những không làm cho tiếng Việt bị biến mất mà còn làm cho nó phong phú hơn rất nhiều, trở thành một ngôn ngữ cực kỳ linh hoạt, có thể tiếp nhận và Việt hóa hầu như toàn bộ từ ngữ mới xuất hiện trong tiến trình phát triển của loài người toàn cầu.

Chữ Nho khác chữ Hán ở phần ngữ âm: nó là chữ Hán được đọc bằng âm tiếng Việt chứ không đọc bằng âm tiếng Hán như chữ người Hán dùng. Nói cách khác, chữ Nho là chữ Hán đã được Việt Nam hóa phần ngữ âm; còn về tự dạng và nghĩa chữ thì cơ bản như chữ Hán của người Hán. Vì thế có người gọi chữ Nho chữ Hán-Việt.

Rõ ràng nó là chữ của người Việt Nam, đã Việt Nam hóa phần ngữ âm, không thể coi là chữ của người Hán. Chữ Nho là chữ viết chính thức của dân tộc ta trong hơn 2.000 năm, kể từ thời điểm muộn nhất là bắt đầu thời Bắc thuộc cho tới khi được thay thế bằng chữ Quốc ngữ cực kỳ ưu việt, được chính các nhà Nho tiên tiến tán thưởng và đi tiên phong ủng hộ sự phổ cập Quốc ngữ.

Cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt đã đáp ứng nhu cầu giao tiếp bằng bút đàm giữa quan lại cấp thấp người Việt với quan lại cấp cao người Hán, khiến cho bọn thống trị người Hán vẫn thực thi được quyền lực cai trị dân bản xứ. Hơn nữa, cách đó làm cho việc phổ cập chữ Hán trong người Việt trở nên dễ dàng, tức đáp ứng yêu cầu dạy chữ Hán của các vương triều người Hán. Vì vậy chúng không còn lý do cưỡng chế dân ta phải học nghe/nói tiếng Trung Quốc.

Cách đọc chữ Hán như trên đã có tác dụng không ngờ là làm cho người Hán dù có cai trị Việt Nam bao lâu thì cũng không thể tiêu diệt nổi tiếng Việt và Hán hóa được dân tộc ta. Có thể là khi bắt đầu sáng tạo cách đọc ấy, tổ tiên ta chưa nghĩ tới điều đó, nhưng rốt cuộc sáng tạo xuất sắc này đã giúp dân tộc ta tránh được nguy cơ bị người Hán đồng hóa. Đây là một thành công vĩ đại!

Đáng tiếc là hiện không thấy có thư tịch nào ghi chép ai nghĩ ra và thời điểm nào xuất hiện cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt. Có thể cho rằng sáng kiến đó ra đời khi chữ Hán bắt đầu vào nước ta, tức muộn nhất là khoảng thế kỷ 2 – 1 tr.CN.

Có ý kiến cho rằng cách đọc Hán-Việt bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Đường, cụ thể là Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng hai thế kỷ 8, 9.

Nếu hiểu ý kiến này theo nghĩa đến đời Đường mới xuất hiện cách đọc Hán-Việt thì e rằng khó có thể giải đáp câu hỏi: vậy thì trong thời gian khoảng ngót 1000 năm trước đó người Việt đọc chữ Hán bằng cách nào? Đến đời Đường, người Hán đã thống trị Việt Nam được hơn 9 thế kỷ, quá thừa thời gian để họ hoàn toàn đồng hóa người Việt bằng văn hóa, ngôn ngữ, khi ấy tiếng Việt đã bị biến mất, sao còn có thể xuất hiện cách đọc Hán-Việt?

Phải chăng nên hiểu ý kiến trên theo nghĩa: đến thời Đường, cách đọc Hán-Việt được hoàn thiện nhờ học tập Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ 8 – 9.

***

Có thể kết luận: dân tộc Việt Nam tồn tại được và không bị đồng hóa sau hơn 1.000 năm chịu sự thống trị của một quốc gia liền kề có nền văn hóa lớn mạnh là nhờ đã phát huy bản lĩnh trí tuệ của mình, thể hiện ở chỗ sáng tạo được biện pháp đọc chữ Hán bằng tiếng Việt, qua đó đã vô hiệu hóa chủ trương đồng hóa ngôn ngữ của các triều đại phong kiến Trung Hoa.

Có những người Hán đã nhận ra bản lĩnh trí tuệ ấy của người Việt.

Năm 987, nhà Tống cử Lý Giác李覺 đi sứ sang Hoa Lư, Việt Nam, được hai vị Quốc sư Khuông Việt và Pháp Thuận đón tiếp, đàm phán các vấn đề quốc gia đại sự và họa thơ. Khi về nước, Lý Giác tặng vua Lê Đại Hành một bài thơ, trong có câu: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu 天外有天應遠照”, nghĩa là: “Ngoài trời này còn có trời khác, nên nhìn thấy”. Nói cách khác, thế giới này đâu phải chỉ có một mặt trời Trung Hoa mà còn có mặt trời Việt Nam!

Câu thơ cho thấy Lý Giác đã bước đầu nhận ra bản lĩnh trí tuệ của người Việt. Đúng thế, tổ tiên ta thật vô cùng tài giỏi, nếu không thì còn đâu giang sơn tươi đẹp này!

Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.
—————————

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nói là “muộn nhất” vì còn có các quan điểm như: chữ Hán vào VN qua con đường giao thương hoặc truyền bá tôn giáo từ lâu trước khi nước ta bị Triệu Đà chiếm; VN đã có chữ viết từ đời Hùng Vương (Hoàng Hải Vân: Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

宋代中越文学交流述论 có câu 黎嵩 “越鑑通考總論” viết : 趙佗 “建立學校,導之經義。由此已降,四百余年,頗有似類” .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Bài 汉字名称的来由 (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

) và một số bài khác có viết: Từ Hán tự 漢字 xuất hiện sớm trong Bắc sử, quyển 9 [biên soạn xong năm 659]. 汉字一词早出自《北史》卷九本纪第九, “章宗一”:“十八年,封金源郡王.始习本朝语言小字, 及汉字经书,以进士完颜匡、司经徐孝美等侍读”. Từ Hán tự xuất hiện nhiều trong sách Kim sử 金史 (năm 1345) đời Nguyên. Ở đời nhà Thanh (1644-1911), thời kỳ đầu do chữ viết chính thức của chính quyền không phải là chữ Hán mà là chữ Mãn (满文) nên phải dùng tên gọi chữ Hán 漢字 để chỉ loại văn tự truyền thống của người Hán, nhằm phân biệt với chữ Mãn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Có ý kiến nói do thời bấy giờ thứ chữ đó được dùng để dạy dân ta học Nho giáo 儒教 nên dân ta gọi nó là chữ Nho. Nhưng Nho với nghĩa “người có học” xuất hiện trước rất lâu, sau đó mới dùng chữ ấy vào từ Nho giáo để gọi học thuyết của Khổng Tử. Cùng lý do ấy, chữ Khổng có trước khi Khổng Tử ra đời.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Khó có thể biết đó là âm tiếng địa phương nào ở TQ. Trong đó có những âm tiếng Quảng Đông, như nhất, nhì, shập, học chập khi đọc các chữ 一,二,十,學習 (âm Hán-Việt đọc nhất, nhị, thập, học tập).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Thí dụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) 8 tuổi học chữ Nho, 13 tuổi văn hay chữ tốt, 24 tuổi đậu Giải Nguyên, 28 tuổi đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ. Phan Bội Châu (1867-1940) 6 tuổi học ba ngày đã thuộc lòng 1440 chữ Nho trong Tam Tự Kinh. Trần Gia Minh tác giả sách Huyền thoại Kim thiếp Vũ Môn 5-6 tuổi đã học chữ Nho truyền khẩu từ người ông mù lòa.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Do nhà Nho Đoàn Trung Còn sáng tác, là một bài vè dài, mỗi câu hai âm, đọc lên có vần điệu dễ nhớ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Năm 1867, G. Aubaret trong cuốn Grammaire annamite từng sai lầm nhận định: “Tiếng bình dân nói trong vương quốc An Nam là một phương ngữ của tiếng Trung Quốc” (trích dẫn theo Phạm Thị Kiều Ly trong “Ghi âm tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ”, sách “Tiếng Việt 6”, Nxb Tri Thức, 2015).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nguyễn Tài Cẩn : Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Dẫn theo Lê Quốc Trinh, con trai bà Quy và là người trực tiếp tham gia làm Bảng tra này.

- See more at:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi pth77: 07/09/2015 - 14:30


Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |