Jump to content

Advertisements




ĐẠI DƯƠNG TRÍ TUỆ TỨC TÊN GỌI CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA


55 replies to this topic

#1 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 07:36

Cuộc sống xô bồ và dồn dập trong các xã hội phương Tây không cho phép một số người có thì giờ đọc toàn bộ những quyển sách liên quan đến các vấn đề khúc mắc của tâm linh. Vì thế nhiều tác giả chọn lọc các lời thuyết giảng, các câu phát biểu ngắn gọn hoặc các đoản văn ý nghĩa nhất để gom lại thành sách giúp người đọc dễ theo dõi và tìm hiểu, vì họ muốn đọc hay muốn dừng lại ở đoạn nào cũng được.

Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có phát hành một quyển sách theo thể loại trên đây. Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.

Hiện nay tại Pháp có khoảng mười quyển sách trích dẫn các lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã được phát hành, thế nhưng có lẽ quyển sách của nhà xuất bản Le Pré aux Clercs do Frédéric Hatier biên soạn là một trong những quyển sách chọn lựa và sắp xếp các câu phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cẩn thận, công phu và mạch lạc nhất.

Nói chung khi đọc lại một số sách khá xưa của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, kể cả các sách đã xuất bản từ vài chục năm trước, đôi khi chúng ta giật mình và bàng hoàng trước tính cách hiện đại, chính xác, thích nghi với tư tưởng con người trong bất cứ thời đại nào, trong bất cứ bối cảnh xã hội nào.

Một điều khiến chúng ta càng kính phục và ngưỡng mộ hơn nữa là trong tất cả các sách, các bài phỏng vấn, thuyết giảng ... vô cùng phong phú của Ngài chưa hề thấy ai có thể tìm thấy những lỗi lầm hay ý tưởng mâu thuẫn.

Đọc lại những lời Ngài phát biểu cách nay hàng chục năm ta cứ ngỡ là Ngài vừa nói lên ngày hôm qua để nhắc nhở chúng ta những gì phải học và phải làm trong ngày hôm nay, không giống như những tuyên ngôn của các chính trị gia hay những nhà lãnh đạo tinh thần khác.

Hoàng Phong



#2 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 07:40

Chương I

Gốc gác của tôi

Tôi sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935 trong một thôn xóm nghèo nàn tên là Taktser, tên có nghĩa là "con hổ gầm thét", heo hút trong miền đông bắc Tây tạng thuộc tỉnh Amdo, không xa biên giới Trung quốc. Cha mẹ tôi là những người nông dân nghèo. Thật thế những gì cha mẹ tôi gieo trồng cũng chỉ đủ nuôi chúng tôi. Cũng giống như các gia đình nông dân khác, gia đình cha mẹ tôi rất đông con, việc đồng áng phải cần đến con cái giúp đỡ. Mẹ tôi sinh tất cả mười sáu lần, thế nhưng chỉ nuôi được bảy anh em chúng tôi. Quả thật, trong gia đình nào có ai để ý tôi là một đứa bé khác hơn với những đứa bé bình thường khác.

Một đôi quạ xuất hiện vào ngày tôi ra đời

Vào ngày tôi sinh có một đôi quạ bay đến đậu trên mái nhà. Sau đó cứ mỗi sáng chúng lại bay đến một lúc rồi mới bay đi. Điềm ấy thật đáng chú ý vì đã từng xảy ra khi các vị Đạt-Lai Lạt-Ma thứ I, thứ VII và thứ VIII sinh ra đời.

Trong trường hợp nào tôi được công nhận là vị tái sinh của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thứ XIII ?

Một hôm, có một đoàn người do chính quyền Lhassa cử đi dò tìm vị Đạt-Lai Lạt-Ma tái sinh, họ kéo đến ngôi chùa Kumbum. Lúc bấy giờ tôi chưa đầy ba tuổi. Đoàn người dò theo các dấu hiệu mà họ tìm thấy và cứ theo đó lần mò đến tận nông trại của cha mẹ tôi. Họ nghỉ đêm với gia đình chúng tôi, họ nô đùa với tôi, quan sát từng cử chỉ nhỏ nhặt của tôi.

Vài hôm sau họ lại quay lại và mang theo nhiều vật dụng tùy thân của vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII và cả các vật dụng khác cùng loại nhưng không phải của Ngài. Mỗi khi họ đưa các vật dụng của vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII cho tôi trông thấy thì tôi liền reo lên : "Cái này của tôi mà ! Cái này của tôi mà !". Do đó tôi được xác nhận là vị tân Đạt-Lai Lạt-Ma.

Những chiếc răng của vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII

Mẹ tôi còn nhớ thật rõ khi người ta vừa đưa tôi đến Lhassa, tôi liền nói với mọi người là răng của tôi được cất giữ trong một cái hộp cất trong một gian phòng của cung Norbulingka (cung mùa hè) và tôi còn cho biết thêm một cách chính xác trong gian phòng nào. Khi người ta tìm thấy và mở hộp ra thì quả đúng là răng của vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII trong ấy. Tôi lấy tay trỏ vào chiếc hộp và bảo rằng chính đấy là răng của tôi.

Vị Bồ-tát của lòng Từ bi mang biểu tượng của Hoa sen Trắng

Mọi người xem tôi là hóa thân của các vị Đạt-Lai Lạt-Ma sinh ra trước tôi - vị thứ nhất sinh vào năm 1351 - và chính vị này được xem là vị Bồ-tát của lòng Từ bi, mang biểu tượng của Hoa sen Trắng (tức là Quán Thế Âm Bồ-tát). Người ta tin rằng tôi là biểu hiện thứ bảy mươi bốn của một dòng tái sinh bắt đầu từ một đứa bé thuộc dòng dõi Bà-la-môn (giai cấp cao nhất trong xã hội Ấn độ) sống vào thời kỳ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni còn tại thế cách nay hơn hai nghìn năm trăm năm.

Vị Bồ-tát tượng trưng cho lòng Từ bi tái sinh

Biết phải nói gì thêm để chứng minh sự kiện người ta cho tôi là người tái sinh của vị Bồ-tát Vô lượng Từ bi tức là Đức Quán Thế Âm Bồ-tát (Avalokiteshvara). Tôi chỉ biết nhờ vào thiền định để nhìn ngược lại đời tôi và theo dõi từng hơi thở một, hết hơi thở này lại chuyển sang hơi thở khác, cứ thế tôi ngược trở về quá khứ, điều này thật vô cùng tế nhị.

Tôi nghĩ rằng có bốn cách tái sinh.

Cách thứ nhất là sự tái sinh thông thường. Đối với thể loại này cá thể không có khả năng nào tạo ra tác động hầu biến cải sự tái sinh của mình, sự sinh đó hoàn toàn lệ thuộc vào hậu quả phát sinh từ các hành động do chính cá thể ấy thực thi trong quá khứ.

Cách thứ hai hoàn toàn ngược lại, đó là trường hợp của một vị Phật hoàn toàn giác ngộ thế nhưng nhất quyết tái sinh và mang hình tướng con người hầu có thể giúp đỡ người khác. Trong trường hợp này, tất nhiên vị ấy đã là một vị Phật.

Cách thứ ba là sự tái sinh của những người nhờ vào kết quả tu tập của chính mình trong quá khứ có đủ khả năng chọn lựa hay ít ra cũng có thể tạo được ảnh hưởng thuận lợi liên hệ đến nơi sinh và hoàn cảnh tái sinh của mình.

Cách thứ tư là một sự "biểu lộ thánh thiện". Trong trường hợp này, người tái sinh tiếp nhận một trọng trách vượt lên trên cả khả năng của chính mình nhằm mục đích thực hiện một sứ mạng mang lại những lợi ích nào đó, chẳng hạn như giảng dạy cho người khác sự tu tập tâm linh. Để thực hiện mục đích trên đây, người tái sinh phải ước nguyện thật mãnh liệt từ trong các kiếp sống trước được tiếp tục tái sinh để giúp đỡ người khác. Đấy là một cách tự tạo cho mình một sứ mạng thiêng liêng.

Dù rằng tất cả các trường hợp tái sinh trên đây đều có thể xảy ra cho tôi, thế nhưng tôi không thể khẳng định một cách quả quyết sự tái sinh của tôi thuộc vào loại nào.

Trong bụng mẹ

Người ta thường hỏi tôi có nhớ được sự sinh (có nghĩa là vào lúc thụ thai) của tôi hay thể dạng trước khi sinh hay không. Cho đến giờ phút này, tôi không nhớ được. Thế nhưng thói thường khi một hài nhi sinh ra đời thì mắt nhắm, trái lại khi mẹ sinh tôi ra thì đôi mắt tôi mở to. Đấy có thể là một dấu hiệu nhỏ cho thấy một tâm thức sáng suốt khi tôi còn trong bụng mẹ.

Người ta gán cho tôi là một con người hàm chứa những phẩm tính thiêng liêng

Quả thật là một trường hợp hiếm hoi khi có một người nào đó được người khác xem là mang phẩm tính thiêng liêng, dù là dưới thể dạng này này hay thể dạng khác. Thế nhưng nhờ đấy mà tôi đã thực hiện được nhiều điều lợi ích. Vì thế tôi rất trân quý sự đánh giá ấy ; nó mang lại cho tôi niềm hân hoan. Vai trò thiêng liêng đó đã giúp tôi mang lại ích lợi cho nhiều người và tôi hiểu rằng đấy là nhờ vào nghiệp trong quá khứ đã giúp tôi giữ vững được trọng trách ấy. Quý vị có thể cho rằng chẳng qua tôi gặp được nhiều may mắn thế thôi.

Thế nhưng phía sau chữ "may mắn" nhất định phải có những nguyên nhân và lý do đích thực nào đó. Đấy chính là nghiệp của tôi đã mang lại sức mạnh giúp tôi đảm trách bổn phận và thực hiện hoài bão của tôi. "Cho đến khi nào không gian còn hiện hữu, cho đến khi nào còn chúng sinh trong cõi luân hồi, tôi xin được còn đây để giúp họ thoát khỏi khổ đau", đấy là câu nguyện ước của một nhà sư tên là Tịch Thiên (Santideva). Tôi xin lập lại lời ước nguyện đó trong kiếp sống này và tôi cũng hiểu rằng tôi đã từng nói lên lời ước nguyện đó trong các kiếp sống trước trong quá khứ của tôi.

Mẹ tôi

Mẹ tôi nhất định là một trong số những người khả ái nhất mà tôi được biết. Bà thật tuyệt vời và vô cùng từ bi. Một hôm, trong lúc nạn đói hoành hành khủng khiếp tại Trung quốc và nhiều người nghèo phải vượt biên giới tìm miếng ăn trong vùng chúng tôi đang sinh sống, có một đôi vợ chồng gõ cửa nhà chúng tôi mang theo trên tay một đứa bé đã chết. Họ xin mẹ tôi cho họ chút gì để lót dạ, mẹ tôi vội vàng mang thức ăn cho họ.

Sau đó thì mẹ tôi trỏ vào đứa bé và ra hiệu bảo với họ có cần mẹ tôi giúp chôn cất đứa bé hay không. Khi họ hiểu được mẹ tôi muốn nói gì thì cả hai đều lắc đầu và ra hiệu giải thích rằng họ có ý định sẽ ăn đứa bé. Mẹ tôi vô cùng kinh hoàng vội kéo họ vào nhà và mang tất cả thức ăn trong bếp ra cho họ.

Trong bất cứ trường hợp nào dù cho cả gia đình có thể phải nhịn đói thế nhưng không bao giờ mẹ tôi từ chối bất cứ một người ăn xin nào đến gõ cửa.

Sự cô đơn của một đứa bé

Vài tháng sau khi đoàn người điều tra xác nhận đứa bé trong thôn Taktser là vị Đạt-Lai Lạt-Ma tái sinh thì vào một buổi sớm cha mẹ tôi dắt tôi đến ngôi chùa Kumbum. Một buổi lễ được tổ chức ngay sau đó vào lúc hừng đông và sau đấy người ta giữ tôi ở lại chùa. Khoảng thời gian này khá buồn.

Cha mẹ tôi quay về, tôi cảm thấy cô đơn trong một môi trường xa lạ. Thật vô cùng khổ sở cho một đứa bé phải sống xa gia đình. Tôi luôn cảm thấy bất hạnh. Tôi cũng chẳng hiểu Đạt-Lai Lạt-Ma có nghĩa là cái gì, tôi chỉ cảm thấy mình là một đứa bé như tất cả những đứa bé khác.



#3 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 07:43

Nơi lâu đài mùa đông Potala tại Lhassa với hàng nghìn gian phòng

Mùa đông năm 1940 người ta đưa tôi về lâu đài Potala. Một buổi lễ được diễn ra trong Gian phòng Tiếp tân, nơi được xem là điểm phát xuất của những hành động tốt lành trên cả hai phương diện tâm linh và tạm thời (tức chính trị), và sau đó người ta chính thức phong cho tôi chức vị lãnh đạo tinh thần chăm lo cho toàn dân Tây tạng.

Ngày nay tôi vẫn còn nhớ rõ chiếc ngai thật to gọi là ngai Sư tử, làm bằng gỗ chạm trổ thật tinh vi và khảm đá quý. Hôm ấy lần đầu tiên người ta đặt tôi ngồi vào chiếc ngai này. Ít lâu sau người ta lại đưa tôi đến ngôi chùa Jokhang để thụ phong sa di. Nhà sư Reting Rinpoché cắt tượng trưng vài lọn tóc của tôi. Vị này giữ chức nhiếp chính và tạm thời làm nguyên thủ Quốc gia, chờ đến khi tôi trưởng thành.

Ngoài vị Reting Rinpoché ra, tôi còn có thêm hai vị giám hộ và ba nhà sư phục dịch : một giữ việc nghi lễ, một lo việc bếp núc, một lo việc ăn mặc. Mỗi khi tôi đi đâu thì đoàn tùy tùng đều đi theo. Các vị bộ trưởng và các cố vấn chính phủ ăn mặc lụa là sang trọng bao quanh tôi, họ xuất thân từ các gia đình cao sang và quý phái nhất trong nước.

Mỗi lần tôi rời lâu đài Potala, hàng trăm tùy tùng đi theo. Lúc nào cũng thế, cứ mỗi lần ra khỏi lâu đài là hầu hết dân chúng thủ đô Lhassa tìm đủ mọi cách để được trông thấy tôi tận mắt. Trong bầu không khí yên lặng và những phút giây trang nghiêm đó tôi hòa mình với dân chúng đang vái lạy tôi, lắm khi làm cho tôi phải bật khóc.

Đứa bé và người đầu bếp

Ngày còn ấu thơ tôi rất quý mến người đầu bếp, yêu quý đến độ không muốn xa rời vị này một phút nào. Đôi khi chỉ cần nhìn thấy vạt áo của vị ấy loáng thoáng dưới chân các tấm màn chắn ngang cửa các gian phòng cũng đủ khiến cho tôi vui mừng. Cũng may, ông ta không nề hà gì về thái độ của tôi. Ông hói đầu, gần như không còn tóc, lúc nào cũng tỏ ra dịu dàng và đơn sơ. Ông ta kể chuyện không được hấp dẫn lắm, lại không thích nô đùa, thế nhưng những điều ấy chẳng hề quan trọng đối với tôi.

Tôi vẫn thường thắc mắc về bản chất của nguyên nhân chi phối sự gắn bó giữa vị đầu bếp và tôi, đôi khi tôi cũng liên tưởng đến miếng ăn đã giữ vai trò chủ yếu trong sự tương giao giữa con người với nhau.

Việc học hành của tôi

Cuộc sống của tôi chẳng có gì đặc biệt. Mỗi ngày hai buổi học, mỗi buổi một giờ, ngoài giờ học thì chơi đùa. Lúc vừa được mười ba tuổi người ta bắt tôi phải học theo chương trình dự trù cho các nhà sự chuẩn bị thi tiến sĩ Phật học. Chương trình gồm mười chuyên khoa, trong số này có năm chuyên khoa chính là: lôgic học, tiếng Phạn và văn phạm, y khoa, nghệ thuật và triết học Phật giáo.

Năm chuyên khoa thứ yếu là: thi phú, thiên văn, nghệ thuật sân khấu (kịch nghệ, âm nhạc, ca vũ... ngữ pháp và thuật ngữ. Chương trình học thiếu cân bằng và không thích nghi lắm cho việc đào tạo một người sau này sẽ phải điều khiển một xứ sở trong tương lai nhất là vào thế kỷ XX này. Chương trình học rất thủ cựu, thế nhưng dần dần tôi cũng quen. Thỉnh thoảng cũng được nghỉ hè, vào các dịp này người anh của tôi là Lobsang Samtèm cùng trạc tuổi tôi được phép đến thăm. Thỉnh thoảng mẹ tôi mang cho tôi một loại bánh đặc sản của tỉnh Amdo mà chính tay bà làm lấy.

Ngày lễ Lossar vào dịp đầu Năm Mới

Ngày lễ lớn nhất trong năm là ngày lễ Lossar tức ngày lễ đầu Năm Mới (ngày Tết), vào khoảng tháng hai hay tháng ba Tây lịch. Đối với tôi đấy là dịp được hội kiến công khai với vị Nechung tức là vị lo về sấm truyền cho Quốc gia. Vị này nhập vào vị thần linh của nước Tây tạng là Dorje Drakden và sau đó nói lại cho tôi và cả chính phủ biết về tương lai vận hạn của Quốc gia trong Năm Mới.

Các lời sấm truyền

Khác với những gì mà người ta cố tình hiểu lầm, các vị tiên tri không phải chỉ biết tiên đoán tương lai. Thật ra người ta thường cầu khẩn các vị tiên tri để che chở và chữa bệnh cho họ, tuy nhiên vai trò chính yếu nhất của các vị tiên tri là giúp mọi người hướng vào Dharmam tức Giáo lý Phật giáo, để tu tập. Ngày xưa nước Tây tạng có hàng trăm vị tiên tri như thế.

Ngày nay con số này ít hơn nhiều, thế nhưng riêng chính quyền Tây tạng thì vẫn tiếp tục nhờ đến các vị tiên tri tài giỏi (thí dụ vị tiên tri Lobsang Jigmé đã tiên đoán trước từ năm 1947 là Trung quốc sẽ xâm chiếm Tây tạng và chính vị này cũng đã khuyên Đức Đạt-Lai Lạt-Ma nên rời khỏi Tây tạng vào năm 1959, ghi chú thêm của người dịch).

Trong số này có vị tiên tri của chùa Nechung là được tin cẩn hơn cả. Một trong các vị thần linh hộ trì cho các vị Đạt-Lai Lạt-Ma là Dorje Drakden thường hiển hiện xuyên qua vị tiên tri chùa Nechung. Từ nhiều thế kỷ nay các vị Đạt-Lai Lạt-Ma và cả chính phủ thường hay tham vấn các vị tiên tri chùa Nechung. Ngày nay chính tôi cũng tham vấn nhiều lần trong năm. Tôi quyết định chọn vị tiên tri chùa Nechung vì các lời tiên đoán của vị này tỏ ra rất đúng.

Điều đó không có nghĩa là tôi chỉ biết tuân theo các lời khuyên của vị này, trái lại là khác. Nếu tôi có hỏi vị tiên tri thì đấy cũng tương tợ như khi tôi tham vấn hội đồng Nội các của tôi thế thôi, sau đó tôi còn phải hỏi chính lương tâm của tôi nữa. Nếu hội đồng Kashag (hội đồng bộ trưởng) có thể ví như là hạ viện, thì các bậc thiên nhân sẽ tượng trưng cho "thượng viện" đối với tôi. Khi tôi phải quyết định về một vấn đề nào đó liên quan đến vận mệnh Quốc gia, tôi nghĩ thật hết sức hiển nhiên phải đệ trình lên hạ viện và cả thượng viện.



#4 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 07:49

Y phục nghi lễ của vị tiên tri Nechung

Tại Dharamsala (nơi thiết lập chính phủ lưu vong của Tây tạng trên đất Ấn), vị tiên tri Nechung trụ trì một tu viện riêng. Y phục khi hành lễ của vị này gồm nhiều lớp vải quấn bên trong, bên ngoài là một chiếc áo rộng thêu thùa các biểu tượng cổ truyền, trước ngực đeo một tấm gương nhỏ chung quanh khảm ngọc lam (turquoise) và thạch anh tím (a-mê-tít), bên ngoài lại còn khoác thêm trang phục có cắm bốn lá cờ lớn và ba cờ hiệu biểu dương sự chiến thắng.

Tất cả nặng hơn ba mươi lăm kilô, khi chưa nhập hồn thì người lên đồng đi đứng thật khó khăn vì quần áo và cờ quạt quá nặng. Hơn nữa người ta còn đặt lên đầu vị này một cái mão nặng đến mười lăm kilô. Ngày xưa cái mão này có thể nặng hơn bốn mươi kilô !

Người Trung quốc xâm chiếm Tây tạng vào năm 1950

Biến cố gay go nhất xảy ra cho tôi là trong những năm tháng khi mà tôi còn đang trong tuổi cắp sách đã phải đứng ra gánh vác trách nhiệm lớn lao. Trong suốt thời kỳ ấu thơ tôi chưa từng phải đối đầu với khó khăn nào đáng kể, thế nhưng trong lúc này lần đầu tiên tôi phải một mình gánh vác trách nhiệm, thật quả hết sức nặng nề cho tôi.

Chuyện xảy ra vào năm 1950, lúc ấy tôi vừa mới mười lăm tuổi. Thật ra thì người Trung quốc cũng đã khởi sự thâm nhập vào lãnh thổ Tậy tạng từ trước, thế nhưng vào năm 1950 họ mới ồ ạt xâm chiếm khắp nơi. Riêng tôi thì ngoài việc học hành và tu tập ra tôi không có một kinh nghiệm nào về chính trị cũng như ngoại giao.

Lời kêu gọi Liên Hiệp Quốc của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma

"...Thế giới chỉ quan tâm đến tình hình Triều tiên, nơi mà toàn thể liên quân quốc tế đang ra sức chống trả các cuộc tấn công. Trong khi đó những biến cố tương tợ đang xảy ra ở nước Tây tạng xa xôi thì không hề có ai thèm chú ý đến...Sử dụng quân đội và vũ khí chiến tranh để xâm chiếm Tây tạng với mục đích đưa xứ sở đó vào quỹ đạo cộng sản Trung quốc là một sự xâm lăng trắng trợn. Cho đến khi nào mà dân tộc Tây tạng còn bị sáp nhập vào Trung quốc bằng vũ lực, đi ngược với ý chí và không có sự thỏa thuận của dân tộc ấy thì sự xâm lăng Tây tạng hiện nay là một bằng chứng hùng hồn cho thấy kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu. Vì thế chúng tôi kêu gọi các quốc gia trên thế giới can thiệp dưới danh nghĩa của chúng tôi để ngăn chận sự xâm lược của Trung quốc.

Bản tuyên ngôn này được hội đồng bộ trưởng và Quốc hội Tây tạng đồng ký tên. Làm tại Lhassa ngày hai mươi bảy tháng chín năm Canh Dần, tức ngày 7 tháng 11 năm 1950. Lời kêu gọi trên đây không gây ra một tiếng vang nào.

Vị lãnh đạo không đối thủ của sáu triệu người dân Tây tạng vừa mới mười lăm tuổi

Tình hình ngày càng trở nên tệ hại hơn, đã đến lúc đa số phải đứng về phía vị Đạt-Lai Lạt-Ma. Vì lý do có nhiều chính kiến bất đồng nên chính phủ phải nhờ đến sấm truyền. Vị tiên tri của chùa Nechung khệ nệ dưới sức nặng của chiếc mũ trên đầu và đang trong tình trạng cực kỳ căng thẳng (nhập hồn) tiến đến chỗ tôi ngồi và đặt lên đầu gối tôi một chiếc kata (khăn quàng bằng lụa trắng làm quà hiến dâng), trên chiếc khăn có viết một câu như sau: "Thời đại của nó đã hết".

Từ nhiều năm nay, vị tiên tri công khai xem thường chính phủ thế nhưng lại tỏ ra rất cung kính đối với tôi. Lúc bấy giờ tôi mới mười lăm tuổi thế nhưng tôi đã trở thành vị lãnh đạo của sáu triệu dân Tây tạng đang chuẩn bị một cuộc chiến không tránh khỏi được. Tình thế quả thật không có lối thoát, thế nhưng tôi phải làm tất cả những gì có thể làm được trong quyền hạn của tôi để tránh thảm họa có thể xảy ra.

Lời tiên đoán của vị tiền nhiệm của tôi

Vào năm 1933 vị tiền nhiệm của tôi là Thupten Gyatso, tức vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII qua đời và để lại di chúc cho biết chắc chắn và rõ ràng là một ngày nào đó sẽ xảy ra một mối nguy hiểm cộng sản vô cùng khiếp đảm cho xứ sở. Từ lúc ấy Ngài đã hiểu rằng không thể nào chống trả bằng sức mạnh hai nước láng giềng to lớn là Trung quốc và Ấn độ, vì thế Ngài đã kêu gọi hai nước láng giềng nhỏ bé là Nepal và Bouthan cùng hợp tác với Tây tạng thành lập và huấn luyện một quân đội chung.

Thật ra cũng phải thú nhận đấy không phải là một cách thực thi chính sách tuyệt đối bất bạo động. Các nước láng giềng làm ngơ trước đề nghị này. Trên phương diện thuần túy chính trị cũng phải công nhận đấy là một biện pháp quá đỗi lo xa. Vi tiền nhiệm của tôi thật bén nhạy và đã cảm thấy những chuyển động sau này của thế giới. Thế nhưng người ta lại không tin vào lời Ngài nói. Các người có quyền hành không thực thi theo lệnh của ngài.

Đơn độc chống lại Trung quốc

Với sự thoả thuận của các vị trách nhiệm trong tăng đoàn và của hội đồng Kashag (hội đồng bộ trường), tôi quyết định đưa một số phái đoàn đại biểu ra ngoại quốc: Hoa kỳ, Anh quốc, Nepal, và cả Trung quốc để cố gắng thương thảo yêu cầu Trung quốc rút quân. Phái đoàn duy nhất đến được nơi dự kiến lại là phái đoàn được gởi đi Trung quốc. Các phái đoàn khác đều bị từ chối không nước nào tiếp rước. Sự thất vọng quả thật chua chát. Có phải là người Mỹ đã thay đổi thái độ đối với chúng tôi hay chăng? Tôi vẫn còn nhớ lại nỗi lo buồn khi nhận thấy điều ấy: rồi đây người dân Tây tạng phải đơn độc đương đầu với sức mạnh của cộng sản Trung quốc.

Trên đường từ Lhassa đến Bắc Kinh xuất hiện một pho tượng đầu trâu

Người Trung quốc đề nghị với chính phủ Tây tạng hãy gửi sang Trung quốc một vài chức sắc để quan sát và đánh giá tận mắt cuộc sống của người dân trên đất mẹ Trung quốc tươi đẹp và vinh quang đến mức độ nào. Sau đó ít lâu, vào khoảng năm 1954, tôi lại đích thân được mời sang Trung quốc. Biết đâu nhờ dịp này tôi sẽ gặp được Mao Trạch Đông. Nhiều người Tây tạng không tán đồng chuyến đi này của tôi vì họ e sợ có thể tôi sẽ bị giữ luôn ở Trung quốc hoặc tính mạng tôi cũng có thể bị hăm dọa. Riêng tôi thì không hề sợ gì cả. Tôi quyết định lên đường. Đoàn tùy tùng lên đến năm trăm người, trong số này có gia đình tôi, hai vị giám hộ của tôi và cả hội đồng Kashag. Lhassa cách Bắc kinh ba ngàn cây số.

Vào những năm 1954 các phương tiện lưu thông nối liền hai quốc gia chưa có. Trên chặng đường đầu tiên tôi quyết định chọn ngôi chùa Ganden làm trạm dừng chân thứ nhất và tôi vô cùng nôn nóng muốn đến ngay nơi này. Chúng tôi lưu lại đấy vài hôm. Thật không còn nghi ngờ gì cả, trước khi rời ngôi chùa tôi trông thấy pho tượng đầu trâu tượng trưng cho vị thần linh phù trợ xứ Tây tạng có vẻ rất khác lạ không giống như lần đầu tiên trước đây khi tôi trông thấy. Đầu pho tượng gục xuống giống như có vẻ tùng phục, mặt pho tượng quay về hướng Đông và hiện lên sự hung tợn. Sau này trên đường lưu vong người ta kể lại cho tôi nghe trong một ngôi miếu nhỏ thuộc ngôi chùa Ganden có một bức tường bỗng nhiêm rướm máu.



#5 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 07:54

Ngài Pan-chen La-Ma

Tương tợ như trường hợp của các vị Lạt-Ma, các vị Pan-chen Lạt-Ma cũng là các vị tái sinh thuộc các cấp bậc cao. Pan-chen Lạt-Ma là vị lãnh đạo tinh thần chỉ dưới quyền của vị Đạt-Lai Lạ-Ma mà thôi, thế nhưng các vị này trên dòng lịch sử chưa từng bao giờ nắm giữ một quyền hành dân sự nào cả.

Khi đến tỉnh Sian thì vị Pan-chen Lạt-Ma tháp tùng với phái đoàn chúng tôi. Vị này mới mười sáu tuổi và lớn lên trong một hoàn cảnh vô cùng rối rắm. Một hố sâu chia cách hai vị tiền nhiệm trực tiếp của chúng tôi trước đây. Vị tiền nhiệm Pan-chen Lạt-Ma trải qua phần lớn đời mình trong vùng cận biên với Trung quốc do người Trung quốc kiểm soát và vị này đã chết tại đấy. Người Trung quốc tiến cử vị thay thế do chính họ lựa chọn trong vùng, trong khi đó thì có hai ứng viên khác đã được lựa chọn trong phần lãnh thổ Tây tạng. Nhiều cuộc thương thảo đã diễn ra thế nhưng sau cùng thì ứng viên do người Trung quốc lựa chọn được công nhận là vị hóa thân đích thực, lúc đó vừa được mười một hay mười hai tuổi.

Việc giáo dục của vị này hoàn toàn trong tay người Trung quốc, trước hết dưới chế độ Tưởng Giới Thạch, sau đó là chế độ cộng sản. Tất nhiên đấy là một lợi điểm cho người Trung quốc, họ có thể mượn danh nghĩa của vị lãnh đạo tinh thần người Tây tạng để tuyên bố bất cứ gì. Nếu vị này và những người tùy tùng theo về với chính nghĩa Tây tạng từ trước thì thảm họa Tây tạng dù có xảy ra cũng không đến đỗi quá tệ hại đến thế. Tuy nhiên không nên hoàn hoàn toàn đổ lỗi cho vị Pan-chen Lạt-Ma. Vì quá trẻ và thường xuyên chịu sức ép nặng nề của ngoại bang nên vị này không làm gì khác hơn được.

Mao Trạch Đông

Trong chuyến công du đầu tiên của tôi tại Trung quốc, tôi được vị Thủ tướng và phó chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung quốc là Chu Ân Lai và một vị nữa là Chu Tế (Chu Teh) đón tiếp. Cả hai tỏ ra rất thân thiện. Nếu tôi nhớ không lầm thì hai hay ba hôm sau, lần đầu tiên tôi gặp chủ tịch Mao. Cuộc gặp mặt xảy ra trong một buổi họp công khai. Phía chủ nhân giữ ý tứ quá đỗi cẩn thận. Sự lo âu của họ lây cả sang chúng tôi, khiến chúng tôi cũng hoảng kinh. Riêng chủ tịch Mao thì có vẻ hoàn toàn thoải mái và thư giãn. Ông ta không có vẻ gì là một người đặc biệt thông minh. Thế nhưng khi bắt tay tôi cảm thấy ông ta có một sức thu hút thật mạnh. Chẳng những ông ta là người thân thiện mà còn rất tự nhiên.

Chúng tôi hội kiến với nhau ít nhất mười hai lần. Trước hết phải ghi nhận là trên phương diện thân thể ông ta là người khác thường. Da tuy sậm đen thế nhưng nước da bóng loáng. Hai bàn tay cũng bóng loáng giống như nước da trên người, ngoài ra tôi cũng nhận thấy hai bàn tay có một vẻ đẹp nào đó, ngón cái rất thanh nhã. Ông ta phát biểu bằng những câu ngắn và ăn nói rất chậm. Cử chỉ cũng chậm. Cách ăn mặc tương phản với phong cách của ông ta : quần áo có vẻ mòn nhẵn. Bộ đồng phục cũng tương tợ với quần áo của những người Trung quốc bình thường, chỉ trừ màu sắc là khác. Uy quyền toát ra từ toàn thân của ông và mỗi khi xuất hiện đều làm cho mọi người chung quanh phải kính nể.

Chu Ân Lai và Lưu Thiếu Kỳ

Ngoài Mao ra tôi còn thường xuyên gặp Chu Ân Lai và Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shao Ch'i). Trong khi Lưu tỏ ra rất trầm tĩnh và nghiêm trang thì Chu lại tươi cười, khả ái và có đầu óc hơn, nhất là sự lễ độ của Chu được đẩy đến mức khiến người khác phải lo ngại không còn biết có nên tin vào ông ta hay không. Không có gì thoát khỏi sự chú ý của Chu.

Khrouchtchev, Boulganine và nhà thông thái Nerhu

Vào dịp lễ kỷ niệm năm thứ năm thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung quốc, người ta giới thiệu tôi với Krouchtchev và Boulganine. Hai vị này không gây được một ấn tượng nào đối với tôi. Dầu sao thì hai ông này cũng không thể so sánh với nhà thông thái (pandit) Nerhu đã thân hành đến Bắc kinh khi tôi còn lưu ngụ tại đó. Nhìn từ xa ông ta (Khroustchev) có vẻ khá nhã nhặn, thăm hỏi mọi người rất tự nhiên. Thế nhưng khi tôi bắt tay ông ta thì ông ta sững sờ và bất động. Ông ta không tìm được lời nào để nói và đôi mắt đờ đẫn không hồn. Tôi vô cùng thất vọng vì tôi có ý định hỏi ông ta về thái độ của quốc gia ông đối với Tây tạng như thế nào.

Hội kiến tay đôi với Mao

Trong một buổi hội kiến tay đôi với Mao, ông ta nói với tôi như sau : "Tây tạng là một nước lớn. Quý vị có một lịch sử tuyệt vời. Cách nay đã lâu chính quý vị đã từng xâm chiếm một phần lớn lãnh thổ Trung quốc. Thế nhưng hiện nay quý vị đang trong tình trạng chậm tiến, và chúng tôi muốn giúp quý vị đuổi kịp sự chậm trễ đó". Thật khó tin, thế nhưng hình như ông ta rất thành thực khi nói lên những lời nói ấy. Ý nghĩ về một sự hợp tác với Trung quốc bỗng mang lại sự phấn khởi cho tôi. Càng suy nghĩ đến chế độ Mác-xít, tôi lại càng nhìn thấy nhiều phẩm tính tốt. Đấy là một chế độ nêu cao công lý và sự công bằng đối với tất cả mọi người, một phương thuốc bá bệnh. Khiếm khuyết duy nhất mà tôi thấy là chế độ ấy chỉ biết đến khía cạnh đơn thuần vật chất của sự hiện hữu con người.

Karl Marx và chế độ Mác-xít

Nếu tìm hiểu về cuộc đời của Karl Marx và nguồn gốc làm phát sinh ra chủ nghĩa Mác-xít, thì người ta sẽ thấy rằng Marx đã từng gánh chịu thật nhiều khổ đau trong suốt cuộc đời mình, vì thế lúc nào ông cũng muốn chứng minh cho mọi người thấy mình là một nhà vô địch quyết chiến đấu để lật đổ giai cấp tư sản. Ông chỉ nhìn thấy thế giới này dưới khía cạnh của sự kình chống. Dựa trên bản chất của mô hình quá sơ đẳng đó, toàn thể phong trào cộng sản đã bị sụp đổ. Trái lại nếu biết xây dựng theo mô hình của ngàn xưa, dựa trên nền tảng của từ bi và lòng nhân ái thì có lẽ mọi sự đã phải khác hơn nhiều.

Du hành xuyên qua Trung quốc cộng sản

Vào mùa đông năm 1954, tôi và đoàn tùy tùng du hành xuyên qua Trung quốc để chứng kiến tận mắt những tiến bộ tuyệt vời trên phương diện vật chất và kỹ nghệ. Tôi rất khâm phục những gì người cộng sản đã thực hiện được, nhất là trong lãnh vực kỹ nghệ nặng. Tôi ước mong xứ sở tôi cũng thực hiện được những tiến bộ như thế.

Lời khuyên của Mao

Cuộc hội kiến với Mao vào mùa xuân năm 1955 và cũng rất có thể đấy là lần hội kiến cuối cùng. Mao ngỏ lời khuyên tôi nên cai trị như thế nào, phải tổ chức các buổi hội họp như thế nào, làm thế nào để thăm dò được sự suy nghĩ của người khác, làm sao giải quyết những vấn đề khó khăn... Sau đó ông ta đến bên cạnh tôi và nói với tôi như sau : "Thái độ của ông rất tốt, ông có biết không. Tôn giáo là liều thuốc độc. Trước nhất là các nhà sư và các nữ tu sống độc thân, chủ trương đó của tôn giáo không thể giúp gia tăng thêm dân số. Ngoài chuyện đó ra tôn giáo còn kiềm hãm sự tiến bộ. Hai nạn nhân trước mắt ông đấy : đó là Tây tạng và Mông cổ". Lúc đó mặt tôi hình như nóng bừng lên và bất chợt tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi.

Trở về Lhassa

Trở về Lhassa vào tháng sáu năm 1955, tôi được hàng ngàn người đón rước giống như trước kia. Sự hiện diện của tôi mang lại phấn khởi cho dân chúng và riêng tôi cũng cảm thấy lạc quan hơn khi nghĩ đến Mao đã công khai bày tỏ sự tin tưởng đối với tôi, điều đó đã gián tiếp nâng vị thế của tôi cao hơn một chút trước cái nhìn của những người đại diện Trung quốc tại địa phương.



#6 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 07:56

Thiền định tại cung mùa hè

Thật thế tôi không đủ sức bày tỏ tất cả niềm hân hoan của tôi khi được trở lại cung Norbulingka. Phía bên ngoài và sát bên cạnh tường thành là trại quân Trung quốc, ngày đêm họ canh chừng chúng tôi, thế nhưng bên trong vòng thành khung cảnh vẫn an bình và tráng lệ. Chúng tôi vẫn tiếp tục thực hành nghi lễ và gần như không bị quấy rầy gì cả.

Những lời tiên đoán của vị tiên tri Nechung

Vào đầu năm 1956 và vào dịp lễ Lossar (ngày Tết), tôi gặp vị tiên tri Nechung, đây là cuộc gặp gỡ vô cùng quan trọng. Vị này tuyên bố như sau : "Viên ngọc báu giúp thực hiện được mọi ước vọng (một trong các cách gọi vị Đạt-Lai Lạt-Ma của người dân Tây tạng) sẽ rạng ngời tại Tây phương". Ngay trong lúc đó tôi chỉ hiểu rằng phải vượt sang Ấn độ, thế nhưng về sau này tôi mới hiểu lời tiên tri ấy hàm chứa những ý nghĩa sâu xa hơn.

Công cuộc kháng chiến của người Tây tạng

Một biến cố xảy ra vào mùa hè khiến tôi rất đau buồn, từ trước đến nay tôi chưa bao giờ đau buồn đến thế. Liên quân chiến đấu dành độc lập vừa gặt hái được vài kết quả đáng kể : phá được một vài đoạn cầu đường ngăn chận bớt sức tiến quân của các đạo quân Trung quốc. Thế nhưng đúng như sư tiên đoán của tôi : quân đội Trung quốc trả đủa một cách thật khủng khiếp. Thế nhưng tôi vẫn không ngờ được là họ lại dùng cả phi cơ oanh tạc ngôi chùa Lithang ở tỉnh Kham. Hay được tin này tôi bật khóc. Tôi không ngờ con người lại có thể độc ác đến thế. Sau trận oanh tạc đó họ tra tấn và tìm giết vợ con các chiến binh kháng chiến, các nhà sư và nữ tu sĩ thì bị tra tấn thật dã man chưa từng thấy.

Mao chính thật là kẻ đã hủy diệt Đạo Pháp

Trong thuở thiếu thời và vào lúc tuổi đời còn trẻ thế mà tôi đã phải chứng kiến những cảnh tượng như thế, thật vậy đấy là các biện pháp đàn áp quá sức tàn bạo - đốt chùa, tàn phá các công trình nghệ thuật, đóng đinh, xẻ thịt, chặt chân tay, mổ bụng, cắt lưỡi - tất cả những thứ ấy không còn cho phép một sự hợp tác nào có thể hình thành được nữa. Những cảnh ghê rợn đó đã xảy ra trên quê hương tôi và tôi tin chắc rằng Mao là một người "hủy diệt Đạo Pháp".

Khó khăn của một vị lãnh đạo tâm linh và tạm thời (tức thế tục) trong thời kỳ chiến tranh

Tình cảnh trở nên tuyệt vọng. Tất cả mọi cố gắng tìm kiếm một giải pháp hòa bình không mang lại một kết quả nào. Chúng tôi rơi vào vòng lẩn quẩn giữa sự trừng phạt độc đoán và sự phẫn uất của dân chúng. Sự thối chí xâm chiếm lòng tôi. Từ nghìn xưa bổn phận của vị Đạt-Lai Lạt-Ma là mang lại hạnh phúc cho đất nước Tây tạng, ngày nay thật không thể nào kham nổi trách nhiệm đó. Trong vị thế phải giữ hai vai trò, tức vừa là vi lãnh đạo tinh thần vừa là người cai trị tạm thời, tôi phải chận đứng mọi hình thức bạo động trong dân chúng, thế nhưng người Trung quốc trong khi đó lại tìm đủ mọi cách để ly gián tôi với dân chúng.

Ví như người dân Tây tạng có đánh mất lòng tin nơi vị lãnh đạo chính trị của mình đi nữa, thì họ cũng không được phép đánh mất lòng tin đối với vị lãnh đạo tinh thần. Tôi có thể ủy nhiệm trách vụ chính trị cho người khác kể cả việc từ chức, thế nhưng một vị Đạt-Lai Lạt-Ma không bao giờ từ bỏ uy quyền lãnh đạo tâm linh ; thật ra thì tôi cũng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ấy.

Chính trong lúc cực kỳ tuyệt vọng tôi lại nhận được giấy mời sang Ấn độ dự lễ Bouddha Jayanti (tức lễ Phật đản) đánh dấu hai ngàn năm trăm ngày sinh của Đấng Thế Tôn.

Du hành Ấn độ

Vì các nhu cầu chính trị và tôn giáo tôi nhất quyết phải du hành sang Ấn với bất cứ giá nào. Chẳng phải nước Ấn là quê hương của Đấng sáng lập ra Phật giáo, nguồn gốc mang lại trí tuệ cho chúng ta hay sao ? Dù mang nhiều khác biệt thế nhưng Tây tạng cũng không khác gì người con của nền văn minh Ấn độ. Trên phương diện chính trị thì đấy cũng là một dịp may cho tôi rút lui, ít nhất cũng được một thời gian ngắn nào đó, ra khỏi sự bang giao vô bổ và những cuộc bàn thảo vô tích sự với người Trung quốc. Ngoài ra tôi cũng hy vọng là nhân dịp này tôi có thể tìm đưọc sự cố vấn của Nerhu và của các nhà lãnh đạo dân chủ, họ đều là đệ tử của Mahatma Gandhi.

Trước đây xứ sở chúng tôi đã từng bang giao lâu dài và thân thiện với chính quyền Anh quốc tại Ấn độ. Đó cũng là mối dây liên hệ duy nhất giữa chúng tôi và thế giới Tây phương. Thế nhưng từ khi quyền hành được chuyển giao cho chính quyền Ấn, thì mọi bang giao chính trị giữa chúng tôi và Ấn độ cũng tan biến nhanh chóng như tuyết gặp nắng. Vì thế tôi phải quyết định nối lại sự bang giao đó. Tôi không thể chấp nhận một xứ Tây tạng hoàn toàn bị cô lập trên phương diện chính trị. Tôi rời Lhassa vào cuối tháng 11 năm 1956, và vui mừng nghĩ đến sẽ được tự do đi lại không còn lo sợ người Trung quốc.

Ngài Mahatma Gandhi

Buổi sáng đầu tiên khi đến New Delhi một đám đông người tu tập đón rước tôi, ngay sau đó tôi đến viếng Raijghat là nơi hỏa táng Mahatma Gandhi. Trong khi đang tụng niệm trên triền dốc thoai thoải đưa xuống bờ sông Yamuna thì bỗng hiện lên trong lòng tôi một niềm tiếc nuối thật sâu xa không được gặp Gandhi lúc ngài còn sống, thế nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hân hoan khi nghĩ đến cuộc đời của ngài là cả một tấm gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Tôi từng xem ngài - và vẫn còn xem ngài - như một vị lãnh đạo Quốc gia lão thành biết đặt lòng vị tha lên trên quyền lợi cá nhân. Giống như ngài, tôi tin một cách vững chắc rằng bất-bạo-động là khí giới chính trị hữu hiệu nhất.

Hội kiến với nhà thông thái Hehru

Trong lần hội kiến đầu tiên với nhà thông thái Nehru, tôi giải thích thật chi tiết cho ông ta hiểu là người Trung quốc đã xâm lăng nước Tây tạng an bình của chúng tôi như thế nào và tôi đã phải cố gắng như thế nào để tìm một sự thỏa thuận với họ khi mà tôi hiểu rằng không có một quốc gia nào sẵn sàng ủng hộ chúng tôi đòi lại quyền độc lập cho xứ sở của chúng tôi. Lúc đầu ông ta cố gắng nghe tôi nói một cách rất lễ độ, thế nhưng sau đó lại từ từ chuyển sang thái độ lơ là.

Sau cùng thì ông ta nói với tôi là ông ta hoàn toàn hiểu tôi thế nhưng lại nói thêm : "Tuy nhiên ông cũng phải hiểu rằng nước Ấn không thể giúp ông được". Tuy thế tôi vẫn cứ đề cập với ông ta ý định của tôi xin tị nạn tại Ấn. Về điểm này Nehru cũng thoái thác : "Ông phải trở về xứ sở của ông và tìm cách thỏa thuận với người Trung quốc". Tôi phản kháng lại là tôi đã cố gắng hết mức thế nhưng người Trung quốc đã làm cho tôi thất vọng.

Trước khi rời Delhi tôi hội kiến lần cuối cùng với Nerhru. Kết quả thật minh bạch : nước Ấn không thể giúp gì cho Tây tạng. Nehru còn khuyên tôi nên nghe theo lời Chu Ân Lai và khi trở về Lhassa thì nên về thẳng không được ghé Kalimpong, một thành phố ở Bắc Ấn, theo lời mời của những người Tây tạng tị nạn tại đây. Thế nhưng sau khi tôi nài nỉ ông ta về điều khoản này thì bất ngờ ông ta lại thay đổi hẳn ý kiến và tuyên bố rằng : "Dù sao thì nước Ấn cũng là một nước tự do. Bất cứ gì ông dự đinh thực hiện không trái với luật pháp Ấn độ".

Hai người em của tôi liên lạc với các chính trị gia Ấn độ có cảm tình với chúng tôi và cùng với vị cựu Thủ tướng chính phủ của tôi trước đây cả ba đều cố gắng thuyết phục tôi nên ở lại luôn tại Ấn. Cả ba đều thỉnh cầu Kashag (hội đồng bộ trường) khuyên tôi không nên trở về nước. Tôi nhất định không nghe ; tôi nghe theo lời khuyên của Nehru và căn cứ vào lời hứa hẹn của Chu Ân Lai để cố gắng thêm một lần nữa hợp tác với người Trung quốc xem sao. Thế nhưng trên đường về Lhassa lòng tôi vẫn nặng trĩu lo buồn.

Lhassa trờ thành một thùng thuốc súng

Tình trạng khủng hoảng ngày càng lộ liễu hơn và sau cùng đã bộc phát vào những tháng sau cùng của năm 1958, lúc đó Liên quân chiến đấu cho tự do đang bao vây Tsethang, một đồn quân quan trọng của Quân đội Nhân dân Giải phóng Trung quốc. Dân số Lhassa tăng lên gấp đôi vì người dân chạy nạn từ khắp nơi đổ về, tôi cảm thấy nếu mà họ tham gia vào việc đánh nhau thì nhất định sẽ không còn một hy vọng nào tái lập được hòa bình. Thùng thuốc súng có nguy cơ sẽ nổ tung bất cứ lúc nào, thế nhưng trên thực tế lại không có gì xảy ra. Tôi cố tập trung vào việc tu học suốt những tháng dài băng giá của mùa đông.



#7 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 08:01

Tiến sĩ Phật học

Đầu năm 1959, tôi rời Norbulingka (cung mùa hè ở Lhassa) để đến ngôi chùa Jokhang tham dự lễ Monlam và đấy cũng là dịp tôi phải dự thi lần cuối cùng để lấy bằng tiến sĩ. Khi đến nơi thì đã có khoảng hai mươi lăm đến ba mươi ngàn nhà sư đã tụ họp từ trước để đón rước tôi, họ bị tràn ngập bởi đám người thế tục thật đông đảo kéo về từ những nơi xa xôi và hẻo lánh trên toàn thể đất nước Tây tạng.

Suốt ngay hôm đó trước sự chứng kiến của một cử tọa gồm nhiều ngàn người, tôi phải tranh luận với các học viên cùng khóa về các chủ đề thuộc Lôgic học, Khoa học luận (Epistemology), Madhyamaka (Trung Quán Tông) và Prajnaparamita (Bát-nhã Ba-la-mật-đa : tức trình bày về giáo lý và kinh sách Đại thừa). Sau đó các học giả Phật học hạch hỏi tôi về năm chuyên ngành chính yếu. Thật là một ngày nhọc mệt, thế nhưng ban giám khảo đều nhất trí chấm đậu và tuyên bố tôi xứng đáng nhận chức Geshe, tức tiến sĩ Phật học.

Một nghìn năm văn hiến biểu dương sự vinh quang lần cuối cùng

Ngày 5 tháng 3 tôi rời chùa Jokhang để trở lại cung mùa hè trong cảnh nhộn nhịp. Các người cận vệ ăn mặc đồng phục sáng chói bao quanh chiếc kiệu của tôi, theo sau là hội đồng bộ trưởng và giới quý phái ở Lhassa, tất cả ăn mặc thật lộng lẫy. Tiếp theo sau là các vị trụ trì và các vị lạt-ma tiếng tăm nhất trong nước, sau hết là hàng nghìn và hàng nghìn người dân Tây tạng. Đấy là nền văn hiến của hơn một nghìn năm không gián đoạn đang biểu dương lần cuối cùng sự vinh quang của mình trên một đoạn đường sáu cây số chia cách hai tòa kiến trúc.

Đi xem một tuồng hát

Trước chuyến du hành đến chùa Jokhang, người Trung quốc thúc hối tôi phải dự kiến một buổi trình diễn kịch nghệ, thế nhưng họ không hé môi thảo luận trước với chúng tôi nghi thức sẽ được tổ chức như thế nào, tuy nhiên tôi vẫn chấp nhận trên nguyên tắc sẽ tham dự vào ngày 10 tháng ba. Sau khi trở về Lhassa, chúng tôi được biết là buổi trình diễn sẽ được tổ chức bên trong trại quân của người Trung quốc đóng cách cung mùa hè chưa đầy ba cây số .

Chỉ cần nêu lên ý nghĩ một vị Đạt-Lai Lạt-Ma đích thân đi đến một nơi như thế dù với mục đích nào đi nữa cũng là một điều không thể hình dung được (người tu hành không xem hát xướng). Bất cứ ai cũng đều nhận thấy lời mời ấy chứa đựng đầy những điều đáng nghi ngờ, nhất là tôi lại nghĩ thêm đấy là một sự kiện mới lạ chưa từng xảy ra, có nghĩa là tôi phải bước vào bên trong trại quân của người Trung quốc không một người cận vệ đi theo.

Đúng ngày hôm đó, vào lúc tinh sương tôi tản bộ như thường lệ trong khu vườn của cung Norbulingka, vẻ đẹp của một buổi sáng mùa xuân làm cho tôi quên khuấy đi những nỗi lo lắng trong lòng. Bỗng nhiên những tiếng hò hét vang lên từ phía bên kia bức tường : dân chúng Lhassa hét to lên cho tôi nghe thấy là họ kéo nhau đến đây để cứu tôi. Đám người ngày càng đông thêm, người ta bảo với tôi là phải đến ba mươi ngàn người.

Khi các thành viên chính phủ tràn vào Lâu đài, tôi nghe thấy họ nói với nhau : "Người Trung quốc ra khỏi Tây tạng ! Nước Tây tạng của người Tây tạng !". Tôi bảo hội đồng bộ trưởng hãy thông báo với vị đại tướng Trung quốc là tôi không thể tham dự buổi trình diễn được nữa. Tôi có cảm giác đang đứng giữa hai ngọn núi lửa sẵn sàng nổ tung bất cứ lúc nào. Một bên là dân tộc tôi cương quyết, nhất trí và dứt khoát phản đối chế độ Trung quốc, một bên là quân đội của một lực lượng chiếm đóng vô cùng hùng mạnh và hung hãn. Trong trường hợp chạm trán giữa hai bên : hàng ngàn người dân sẽ bị sát hại một cách tàn bạo.

Cuộc nổi loạn tại Lhassa

Những ngày sau đó tình trạng trở nên hoang mang cùng cực. Vị đại tướng Tan Kuan-Sen cho biết đấy là một sự "phản bội" và lên án chính phủ Tây tạng đã tổ chức các cuộc khuấy động chống lại chính quyền Trung quốc. Người ta đồn là đang có một cuộc giàn quân nhằm phá tan cung Norbulingka. Khí thế của đám đông có vẻ như cuồng loạn. Tôi phải lưu lại nơi này hay nên bỏ trốn ?

Tôi tham vấn vị tiên tri, lại thêm một lần nữa vị này lập lại câu trả lời trước đây : tôi phải ở lại để cố gắng duy trì sự đàm thoại cởi mở với người Trung quốc. Thế nhưng đây là lần đầu tiên tôi do dự, tôi muốn tìm trong câu trả lời của vị tiên tri một quyết định nào khác hơn. Và rồi đến ngày 16 tôi nhận được lá thư thứ ba và cũng là lá thư cuối cùng của vị đại tướng Tan Kuan-Sen. Đấy là bức tối hậu thư cho biết quân đội Trung quốc đang chuẩn bị tấn công vào đám đông và oanh tạc Norbulingka.

Cuộc sống lưu vong

Hừng đông ngày 17 tháng ba năm 1959, phút cuối cùng đã gần kề. Tiếng đồn cho biết các đạo quân tăng cường không vận từ Trung quốc đã đến nơi.

Về phía người Tây tạng thì một đám đông đang phẫn nộ, mang gậy, dao, kiếm và cả vài khẩu súng, họ đang bao quanh cung mùa hè với hy vọng giải cứu "người gia hộ cho họ", chẳng qua vì sinh mạng của vị Đạt-Lai Lạt-Ma là những gì quí giá nhất đối với họ. Họ quyết tâm lưu lại và sẽ chết ở đấy.

Tình thế trở nên hoàn toàn tuyệt vọng. Tôi lại hỏi vị tiên tri thêm một lần nữa. Lần này thì tôi vô cùng ngạc nhiên vì vị này thét lên :" Đi ngay ! Đi ngay tối hôm nay !". Vị tiên tri đang trong tình trạng nhập hồn ghi lên giấy thật chi tiết cách thức (hóa trang) thoát ra khỏi Norbulingka và cả lộ trình vượt biên. Vào đúng lúc đó một biến cố xảy ra hình như có ý nhấn mạnh thêm lời sấm truyền : hai quả đại pháo rơi đúng vào cửa bắc của khu vườn Bảo châu. Tôi và các bộ trưởng tham vấn các vị lãnh đạo đại diện cho dân thì tất cả đều nhất loạt sẽ ra sức giúp đỡ chúng tôi và bảo toàn bí mật.

Khi trời vừa sụp tối, tôi thân hành đến nơi chính điện thờ vị Mahakala, tức vị thần linh hộ mệnh của tôi. Tôi dâng lên một tấm kala (khăn quàng bằng lụa trắng) và lưu lại một lúc trước bàn thờ để nguyện cầu. Cửa chính của cung có một bờ thềm. Tôi đi một vòng và dừng lại ở mép thềm để hình dung cuộc hành trình của tôi khi đến nước Ấn và tôi lại quay trở lại phía cửa để tượng trưng cho sự trở về quê hương Tây tạng của tôi.

Sau đó tôi ra đi giữa một đêm giá buốt, mặc một chiếc quần và khoác lên người một áo tơi dài, cặp kính bỏ vào túi, trên vai đeo khẩu súng, hai người cận vệ đi theo, và sau đó lại có thêm một người hầu cận nhập bọn. Như thế đó tôi rời vòng thành của lâu đài như một chiến sĩ Tây tạng thật bình dị. Hướng về nước Ấn, tôi bước vào con đường lưu vong.

Bures-Sur-Yvette, 10.03.11
Hoang Phong chuyển ngữ


#8 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 09:43

Chương II

QUÊ HƯƠNG TÂY TẠNG VÀ CUỘC SỐNG LƯU VONG

Sự thật mạnh hơn đầu mũi súng

Từ khi rời khỏi Tây tạng, tôi xin tị nạn tại Ấn độ. Vào các năm 1949-1950 nước Cộng hòa Nhân dân Trung quốc xua quân xâm lược quê hương tôi. Suốt mười năm, tôi giữ chức vụ lãnh đạo chính trị và tinh thần cho dân tộc tôi và tôi đã cố gắng hết sức để tái lập một nền bang giao hòa bình giữa hai quốc gia ; thế nhưng việc đó tỏ ra không thể nào thực hiện được. Mặc dù không muốn rời bỏ quê hương thế nhưng phải thú nhận rằng tôi chỉ có thể phục vụ hữu hiệu cho quê hương tôi từ bên ngoài.

Tôi phải chịu sống xa quê hương suốt bốn mươi năm qua, từ lúc Trung quốc khởi binh xâm lăng Tây tạng cho đến bây giờ. Từ đó đến nay chúng tôi vỏn vẹn chỉ có lòng quyết tâm - tức là sự thật - để thương thảo với người Trung quốc. Mặc dù chính sách tẩy não cùng đủ mọi hình thức khủng bố và tuyên truyền đã được mang ra sử dụng, thế nhưng sự thật vẫn hoàn toàn là sự thật. Về phía chúng tôi, chúng tôi chẳng có tiền nong lại cũng chẳng biết tuyên truyền là gì, và thật thế chúng tôi chẳng có gì cả ngoài tiếng kêu gọi yếu ớt của mình. Thế nhưng phần đông mọi người không mấy ai tin vào những lời oang oang của người Trung quốc mà chỉ tin vào tiếng nói thật thấp bé của chúng tôi. Sức mạnh phát sinh từ ý chí của những con người bình dị biết đâu cũng có thể thay cho đầu mũi súng.

Nguyên nhân của sự hung hăng nằm trong các kiếp sống quá khứ

Điều đó rất đúng đối với một cá thể - trong một kiếp sống nào đó một cá thể cảm nhận được tác động phát sinh từ nghiệp của chính mình - thế nhưng điều đó cũng đúng đối với một nhóm người, một gia đình, một dân tộc. Sự thật hiển nhiên đó gắn liền một cách chặt chẽ với giáo lý Phật giáo của chúng tôi.

Chúng tôi tự hỏi có phải cộng nghiệp đã đưa đẩy chúng tôi lâm vào hoàn cảnh kháng cự mang lại các thảm họa này hay không ? Giáo lý Phật giáo cho biết luôn luôn phải phân biệt thật rõ đâu là nguyên nhân và đâu là hoàn cảnh (tức cơ duyên). Muốn tìm hiểu nguyên nhân chính yếu đưa đến sự xâm lăng gây ra cảnh khổ đau mênh mông này thì phải nhìn vào các kiếp sống trước, và đấy không nhất thiết là do người Tây tạng mà ra. Biết đâu nguyên nhân là do những hành tinh khác, những thiên hà khác ? Tất cả đều có lý. Không có một biến cố nào có thể xem là độc lập, không liên hệ gì với các biến cố khác. Cái chuỗi dài vô tận của nguyên nhân và hậu quả gần như không thể nào phân tích nổi , thế nhưng nó vẫn thật sự hiện hữu.

Đối với hoàn cảnh (cơ duyên), thì nhất định người Tây tạng phải nhận lấy trách nhiệm về phần mình. Vì bị vô minh chi phối nên họ bất cần phần còn lại của thế giới, không quan tâm đến Trung quốc, Ấn độ, tình trạng căng thẳng chính trị trên thế giới, những biến động do thế chiến thứ hai mang lại... Nhiều người Tây tạng nghĩ rằng xứ sở của họ là một xứ sở tuyệt vời, thoát ra ngoài quy luật chung và cả dòng chảy của thời gian. Một dân tộc ngay thẳng biết tuân thủ luật pháp, thực hành nghi lễ đều đặn, nhất định phải được an toàn. Một số chức sắc mang trọng trách bảo vệ xứ sở tin tưởng vào các vị bảo hộ siêu hình. Tất cả những thứ ấy là những gì hoàn toàn sai lầm không thể mang ra để đối đầu với định mệnh.

Khi quân cộng sản tràn sang biên giới của đất nước chúng tôi, các vị quan chức cao cấp chỉ biết giao phó bổn phận chống giữ bờ cõi cho thần linh. Có một vị chức sắc trấn an tôi là không có gì phải e ngại, thánh thần sẽ bảo vệ chúng tôi trước sự tấn công của người Trung quốc. Tất cả mọi chuyện xảy ra hình như đều mang chủ đích muốn tôi phải tin vào đấy, tin vào những lời người ta nói với tôi, vào tuổi trẻ của tôi, vào sự kiện người ta đã chọn lựa tôi, sự giáo dục cẩn thận từng li từng tí dành cho tôi, đời sống của tôi trong lâu đài Potala, tuổi thanh niên của tôi... May mắn thay, tôi đã biết mở mắt thật sớm. Quý vị có thể tưởng tượng được không ? Giữa thế kỷ XX này, người ta cầu nguyện để chống lại súng đại bác ? Chính phủ tin vào thần linh, bất chấp những lời tiên tri và sấm truyền. Các vị chức sắc nào có chịu trách nhiệm gì đâu !

Một trong những sai lầm của xã hội Tây tạng

Không nên xem Phật giáo Tây tạng cao siêu hơn các Phật giáo khác. Không như các nhà sư Tây tạng, các nhà sư tại Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan tu hành thật nghiêm túc, và cho đến ngày nay họ vẫn giữ được truyền thống khất thực đã có từ hai ngàn năm trăm năm trước, khi Đức Phật và các đệ tử của Ngài còn tại thế.

Các vị lạt-ma Tây tạng của chúng tôi mang những tên thật dài và rỗng tuếch, đôi khi thật khó đọc. Những người tu hành Tây tạng không quan tâm gì đến chiếc áo cà-sa màu vàng mà chính Đức Phật đã mặc mà chỉ nghĩ đến những chiếc áo mang các dấu hiệu cho thấy cấp bậc của những vị khoác những chiếc áo ấy. Về sau này khi các vị thầy Ấn độ bắt đầu đội mũ màu đỏ thì trên Tây tạng các đệ tử của các vị ấy cũng quay ra chú ý đến cái mũ màu đỏ mà quên đi những gì thiết thực hơn. Đấy là một lỗi lầm rất nghiêm trọng trong xã hội Tây tạng.

Niềm tin của tôi

Mặc dù quốc gia Tây tạng ngày nay đang phải trải qua một giai đoạn tồi tệ nhất trong lịch sử lâu dài của mình và quả thật đấy là những gì hết sức và hết sức đáng buồn, thế nhưng tôi vẫn vững tin rồi sẽ vượt thoát được tình trạng đó.

Người Trung quốc di dân đến Tây tạng

Đối với tình trạng hiện nay, một trong các vấn đề gay go hơn hết, trầm trọng hơn hết là việc di dân Trung quốc vào Tây tạng, tình trạng này sẽ còn kéo dài thêm từ mười đến mười lăm năm nữa. Người dân Tây tạng trở thành thiểu số trên quê hương của họ, cũng giống như tình trạng xảy ra ở Nội Mông (Mông cổ đàng trong), tại nơi này dân chúng địa phương chỉ vỏn vẹn có ba triệu, trong khi đó người Trung quốc di dân đến đây là mười triệu.

Trong vùng Đông Turkestan (tức Tân cương, một vùng tự trị của Trung quốc gồm dân địa phương là Duy Ngô Nhĩ và người Hán di dân đến đây, ghi chú thêm của người dịch), số dân chúng người Trung quốc gia tăng mỗi ngày. Tại Tây tạng dân địa phương gồm sáu triệu, trong khi số người Trung quốc di dân lên đến bảy triệu rưởi. Thật là một vấn đề vô cùng nghiêm trọng.

Kiên nhẫn và bao dung thế nhưng không thể nào chấp nhận ách cai trị của Trung quốc

Thiết nghĩ muốn xét đoán một trường hợp nào đó cũng nên căn cứ vào các đặc tính cá biệt của trường hợp ấy. Tha thứ hay kiên nhẫn không có nghĩa là phải chấp nhận bất cứ gì và bất cứ ai. Trong trường hợp Tây tạng, danh từ "giải phóng" bao hàm cả ý nghĩa của một sự khổ đau mênh mông. Tuy nhiên, tôi vẫn xem các nhà lãnh đạo Trung quốc là những con người, những người láng giềng thuộc một dân tộc từng có một lịch sử lâu đời, đã đạt được một nền văn minh cao độ. Tôi kính trọng họ và không hề oán hận họ.

Biết suy nghĩ như thế sẽ giúp chúng ta xóa bỏ những cảm tính tiêu cực và phát huy được sự kiên nhẫn.

Nói như thế không có nghĩa là tôi chấp nhận ách cai trị của Trung quốc. Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để chống lại mọi áp bức, thế nhưng hành động của tôi không mang một mảy may hận thù nào. Tôi nghĩ rằng người Tây tạng phản ứng trước nghịch cảnh bằng phương cách trên đây là một chuyện tự nhiên không ai có quyền cấm họ. Nếu cố gắng với tất cả khả năng của mình và nhất là thành thật với chính mình thì rồi đây ta sẽ tìm thấy niềm vui sướng khi gặt hái được kết quả. Nếu không thì cũng chẳng có gì để hối tiếc cả.





#9 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 09:47

Phát lộ lòng từ bi đối với người Trung quốc

Trước cảnh người Trung quốc thực thi chính sách diệt chủng mang lại đau thương, thì những người Tây tạng chúng tôi đáng lý ra phải nổi giận thế nhưng chúng tôi đã cố gắng phát động thật mãnh liệt lòng từ bi hướng vào họ vì chúng tôi nghĩ rằng chẳng qua họ làm như thế chỉ vì họ bị chi phối bởi vô minh. Dù trong lúc này họ không gánh chịu những khổ đau hiển nhiên và ngay tức thời thế nhưng đấy chỉ là vấn đề thời gian, sớm hay muộn họ sẽ phải gánh chịu hậu quả phát sinh từ những hành động của họ.

Sự chống đối của người Tây tạng

Ngay cả trường hợp nếu như những thiệt hại mà người cộng sản Trung quốc gây ra cho Tây tạng và cả Trung quốc được đền bù xứng đáng bằng các kết quả tích cực ngang hàng với sự tàn phá, thì nhất định tôi phải tin chắc là họ cũng sẽ có đầy đủ khả năng góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, dù cho họ không cần đến lòng từ bi thúc đẩy họ đi nữa. Thế nhưng trên đất nước Tây tạng, người Trung quốc chỉ biết tra tấn và tàn phá triệt để - đóng cửa chùa, giam cầm các vị đại sư, cấm đoán tín ngưỡng Phật giáo, giam giữ hoặc xử tử hình những người tu tập - thế nhưng người dân không hề đánh mất niềm hy vọng và sự quyết tâm của họ. Tôi nghĩ rằng đấy là nhờ vào tinh thần Phật giáo.

Chúng tôi chỉ mong được tự trị và không còn dám mơ ước tái lập một nền độc lập

Đất nước Tây tạng đã từng độc lập hàng bao thế kỷ. Ngày nay nền độc lập đó không còn nữa. Chúng tôi đành phải nhìn mọi sự trước mặt. Chúng tôi chỉ xin được tự trị, không còn dám ước mơ một nền độc lập. Chúng tôi chỉ mong được thương thảo dựa trên sự tương kính. Các điều kiện không còn giống như trước, chúng tôi sẵn sàng chấp nhận những gì mà Đặng Tiểu Bình đã nêu lên : "Một quốc gia hai chính thể" .

Thế nhưng người Trung quốc lại không hành động theo chiều hướng đó. Ít nhất là trong lúc này. Áp lực quốc tế thật hết sức cần thiết. Nhất là áp lực đó không nên suy giảm vì người Trung quốc rất nhạy cảm về vấn đề này. Mỗi lần tôi phát biểu trước công chúng hoặc du hành trên thế giới, luôn luôn có người Trung quốc đến tham dự. Đôi khi tôi cũng đàm thoại với họ và họ tỏ ra rất khả ái. Thái độ đó cho thấy họ từng tán đồng những hành động của tôi, tuy rằng trên báo chí thì họ lại kết án tôi mang tham vọng cá nhân, nuôi dưỡng tinh thần chống-cách-mạng hoặc muốn tái lập một nền chính trị thần quyền. Tôi rất lạc quan vì chính nghĩa Tây tạng rất chính đáng và Trung quốc sẽ không thể nào tự tách rời mình ra khỏi thể chế tự do mãi mãi được.

Không thể bịt miệng Sự thật

Chúng tôi là người Tây tạng, chúng tôi yêu thương quê hương chúng tôi, văn hóa của chúng tôi, và chúng tôi có quyền bảo vệ những thứ ấy. Chúng tôi hy vọng rất nhiều vào sự thay đổi thái độ của người láng giềng vĩ đại của chúng tôi là nước Cộng hòa Nhân dân Trung quốc. Thế nhưng quá khứ dạy chúng tôi phải thận trọng. Tuy nhiên tôi cho rằng sự quyết tâm và ý chí con người biết đâu cũng đủ sức để đương đầu với mọi hình thức áp bức và sự xâm lăng từ bên ngoài.

Chương trình tái lập hòa bình của tôi

Để có thể phát huy sự hiểu biết tốt đẹp và nối lại mối bang giao hài hòa giữa người Trung quốc và người Tây tạng - người Trung quốc gọi đấy là sự thống nhất đất mẹ quê hương - tức là những gì thật cần thiết để phát huy sự tương kính và tái lập tình trạng phi quân sự, thì trước hết phải giảm bớt số quân lính Trung quốc, sau đó rút toàn bộ quân đội ra khỏi Tây tạng. Điều ấy thật tiên quyết.

Nếu muốn duy trì nền hòa bình trong vùng và đồng thời phát huy tình hữu nghị giữa hai quốc gia đông dân nhất là Ấn độ và Trung quốc, thì nhất thiết phải giảm bớt sức mạnh quân sự cả hai bên dãy Hy-mã-lạp sơn. Vì lý do đó, một trong những giải pháp mà tôi đề nghị là nước Tây tạng sẽ trở thành một vùng bất-bạo-động. Mọi người đều biết là trên đất Tây tạng có những nơi chất chứa cặn bã phóng xạ và những xưởng chế tạo vũ khí hạt nhân. Đây là một vấn đề thật trầm trọng. Tây tạng cũng bị nạn phá rừng tạo ra mối nguy hại trầm trọng cho môi sinh. Sau hết là sự tôn trọng nhân quyền vì đấy cũng là một vấn đề không thể tránh né được. Trên đây là những biện pháp mà tôi nêu lên trong chương trình tái lập hòa bình của tôi. Quả thật đấy là những vấn đề thiết yếu.

Người Trung quốc điếc đặc không nghe thấy tiếng nói của chúng tôi thế nhưng họ rất nhạy cảm trước áp lực quốc tế

Khi các đề nghị hòa bình của tôi được công bố vào cuối tháng 9 năm 1987, thì người Trung quốc phản ứng một cách bất thuận lợi và kết án tôi là tên-phản-động. Chuyện đó gây ra nhiều cuộc biểu tình tại Tây tạng, kéo theo các cuộc đàn áp.

Tôi nghĩ rằng người Trung quốc đại diện cho một Quốc gia thật văn minh ít nhất là theo cách của họ. Thế nhưng họ đơn thuần chỉ biết có vũ lực. Họ không hề biết đến sự thực là gì. Trong một vài trường hợp họ nói thẳng thừng với chúng tôi : "Quý vị ở bên ngoài Tây tạng, và cho đến khi nào quý vị vẫn còn bên ngoài thì quý vị không có một quyền hạn gì đưa ra những đề nghị trong các lãnh vực ấy".

Quý vị có thấy không, người Trung quốc là những người điếc đặc ; họ điếc ngay cả với tiếng nói của họ. Trong thế giới bên ngoài, số người ý thức được vấn đề Tây tạng ngày càng đông hơn. Chỉ vì lỗ tai của các người bạn Trung quốc của tôi hơi nặng cho nên mỗi khi chúng tôi hét to lên những chuyện ấy thì chỉ tội làm khàn tiếng chúng tôi mà thôi. Chính vì thế mà những đề nghị trên đây tôi không đưa ra tại Bắc kinh mà chỉ nêu lên cho toàn thế giới biết. Tóm lại thái độ của người Trung quốc chỉ có thể trở nên tích cực hơn với áp lực của thế giới bên ngoài.


#10 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 09:49

Người Trung quốc và Phật giáo

Trung quốc là một xứ sở tuyệt đẹp. Trong tâm hồn người Trung quốc Phật giáo thật gần gũi, không mới lạ như trường hợp đối với người phương Tây. Người Trung quốc có truyền thống theo Phật giáo, đất nước Trung quốc có nhiều thánh địa thiêng liêng, nhiều chùa chiền. Tôi cũng tin rằng nếu người Trung quốc được tự do theo về với Phật giáo, và nhờ đó thế hệ trẻ được thừa hưởng những lợi ích mà Phật giáo mang lại, và khi đã hội đủ được các điều kiện thuận lợi thì tôi sẽ sẵn sàng góp phần của tôi.

Quyền sống còn của người Tây tạng

Chúng tôi người Tây tạng cũng tương tợ như người Trung quốc, chúng tôi có một gia tài văn hóa độc nhất. Sáu triệu dân Tây tạng chúng tôi sống còn đến ngày hôm nay thiết nghĩ cũng xứng đáng được xem ngang hàng với người dân Trung quốc trong quyền hạn được phép bảo tồn cá tính của mình, nhất là chúng tôi không hề làm gì sai trái đối với bất cứ ai.

Kiến tạo lại những gì đã bị người Trung quốc tàn phá

Mặc dù sự hủy diệt Phật giáo dưới chính thể Trung quốc không kéo dài như dưới triều đại của vua Lang-Dat-Ma (hoàng đế Tây tạng) vào thế kỷ XI, thế nhưng sức tàn phá rộng lớn hơn nhiều. Dù đủ sức hay không thì rồi đây chúng tôi cũng phải tự gánh vác lấy trách nhiệm tái thiết lại những gì đã bị người Trung quốc triệt để tàn phá.

Biến cao nguyên Tây tạng thành một thánh địa của hòa bình

Chúng tôi không phải là một dân tộc đông người và hùng mạnh, thế nhưng lối sống của chúng tôi, văn hóa của chúng tôi và tôn giáo của chúng tôi đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều. Nhờ đó trong những thời kỳ khó khăn và khổ đau lớn lao chúng tôi vẫn luôn giữ vững được con đường hòa bình và tự tìm lấy cho mình sự can đảm cần thiết dựa trên tình thương yêu và lòng từ bi.

Dân tộc Tây tạng luôn thiết tha mong mỏi khi hoàn cảnh cho phép sẽ nhận lấy trách nhiệm biến căn nhà của mình là cao nguyên Tây tạng trở thành một thánh địa của hòa bình, nơi đó con người và thiên nhiên cùng sống với nhau trong sự hài hòa và trong sáng.

Vì lý tưởng bất-bạo-động

Thí dụ trường hợp chẳng may tôi phát lộ một cảm tính oán hận, giận dữ hay hận thù nào đó đối với người Trung quốc thì ai thua thiệt đây ? Nhất định tôi sẽ là người thua thiệt, tôi đánh mất hạnh phúc của tôi, tôi ngủ không yên, ăn không ngon, trong khi đó sự oán giận của tôi nào có chạm gì được đến người Trung quốc. Càng tự dày vò mình quá đáng càng khiến cho mình mất đi khả năng mang lại hạnh phúc cho những người chung quanh.

Mặc cho người ta cứ chỉ trích tôi : riêng tôi lúc nào cũng cố gắng giữ lấy niềm hân hoan cho mình. Nếu muốn xả thân vì tự do và công lý một cách hữu hiệu thì không được giận dữ và có ác ý. Nếu biết giữ sự trong sáng và hành động với một tấm lòng chân thật thì ta sẽ hoàn tất được khối việc trong khoảng thời gian ba mươi hay năm mươi năm còn lại của đời mình. Nếu như tôi đã đạt được một vài kết quả tích cực nào đó trong tinh thần trên đây, thì tôi nghĩ rằng đấy chẳng qua một phần cũng nhờ vào quyết tâm của tôi đã chọn con đường bất-bạo-động, con đường đó được thúc đẩy bởi một niềm tin vững chắc, đấy là sự tin tưởng vào tình huynh đệ giữa con người với nhau.

Sự tin tưởng của tôi đối với truyền thống ngàn năm của dân tộc Tây tạng

Tôi tin vào công lý và sự quyết tâm của con người. Lịch sử lâu dài của toàn thể nhân loại đã chứng minh cho thấy ý chí con người mạnh hơn là một khẩu súng. Chẳng phải lịch sử của dân tộc Tây tạng đã chứng minh cho thấy quốc gia của họ đã đứng vững từ hai mươi thế kỷ nay nhờ vào sự hòa giải với Trung quốc, Ấn độ, Nepal, Mông cổ và các tập thể con người khác hay sao ? Dù cho giai đoạn hiện nay là một trong những giai đoạn khó khăn nhất, thế nhưng niềm tin sâu xa của tôi luôn giúp tôi hy vọng dân tộc Tây tạng, văn hóa và tín ngưỡng của dân tộc đó sẽ sống còn và sẽ tìm thấy một sự phồn vinh mới. Không một giây phút nào tôi đánh mất lòng tin ấy.

Người phát ngôn của dân tộc tôi bị giam hãm giữa cảnh núi non

Người Tây tạng nào lại chẳng muốn tôi quay về với họ trên quê hương Tây tạng, thế nhưng tôi thường nhận được những thông điệp gửi đi từ Tây tạng khuyên tôi không nên trở về trong tình trạng hiện nay. Họ không muốn tôi trở thành một kẻ múa rối để cho người Trung quốc giật dây, tương tợ như trường hợp của ngài Pan-chen Lạt-Ma. Ngoại trừ những lúc ngủ ngoài ra không một giây phút nào trong ngày tôi lại không nghĩ đến hoàn cảnh của dân tộc tôi đang bị giam hãm giữa bối cảnh im lặng của núi non.

Khi lên giường và nếu đêm hôm ấy là một đêm trăng sáng thì tôi không khỏi liên tưởng đến vòm trăng trên bầu trời nhìn xuống dân tộc tôi đang bị giam hãm giữa núi đồi Tây tạng. Dù chỉ là một người tỵ nạn, thế nhưng tôi được tự do, tự do cất lên tiếng nói của dân tộc tôi. Trong thế giới tự do, tôi cảm thấy hữu ích hơn trong vai trò của một phát ngôn viên. Tôi hoạt động hữu hiệu hơn từ bên ngoài quê hương tôi.


#11 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 09:52

Những người Tây tạng chúng tôi nào khác gì những kẻ du lịch

Những người Tây tạng chúng tôi nào khác gì những kẻ du lịch trên địa cầu này, giống như những người từ một hành tinh khác đến đây ! Và nếu đã là một kẻ du lịch thì những gì quan trọng khi viếng thăm một xứ sở khác là phải biết giữ mình là một người tốt, không xúi giục người chung quanh gây ra những chuyện rối rắm.

Một ngày trong đời tôi

Thức dậy vào bốn giờ sáng, tức khắc tôi tụng ngay bài kinh Ngagk-djinlap, tức là bài kinh hồi hướng tất cả những gì tôi thực hiện được bằng ngôn từ, bằng tư duy và hành động kể cả sự sinh hoạt trong ngày hôm nay của tôi để hiến dâng cho người khác trong mục đích giúp đỡ họ. Sau đó, để tránh cái rét tôi làm một vài động tác thể dục, tôi tắm rửa và nhanh nhẹn mặc quần áo.

Tôi thiền định đến bốn giờ rưỡi sáng. Sau đó nếu trời đẹp tôi ra vườn. Những giây phút đầu tiên trong ngày mang rất nhiều ý nghĩa đối với tôi. Ngước lên cao, bầu trời thật rạng rỡ, tôi trông thấy từng vì sao và cảm thấy sự vô nghĩa của tôi trong vũ trụ này. Đấy là sự cảm nhận mà người Phật giáo chúng tôi gọi là "vô thường". Sự cảm nhận ấy giúp tôi tìm thấy sự thư giãn. Lắm khi tôi cũng chẳng suy nghĩ gì cả, giữa buổi hừng đông tôi lắng nghe chim hót để tìm thấy niềm hân hoan trong lòng.

Sau đó tôi vừa nghe tin tức trên đài BBC World Service vừa ăn sáng.

Từ sáu đến chín giờ sáng tôi ngồi thiền. Trong lúc ngồi thiền, người Phật giáo chúng tôi cố gắng phát động những ước vọng chân chính mang lại sức mạnh cho chúng tôi : đấy là lòng từ bi, sự tha thứ và lòng bao dung. Tôi thiền định từ sáu đến bảy lần mỗi ngày.

Từ chín giờ cho đến trước khi ăn trưa, tôi học hỏi và nghiên cứu kinh sách. Phật giáo rất thâm sâu, dù đã nghiên cứu suốt đời thế nhưng vẫn còn rất nhiều điều tôi còn phải học. Ngoài ra tôi cũng cố gắng đọc thêm các sách của các vị thầy Tây phương. Tôi muốn học hỏi thêm thật nhiều về triết học và khoa học phương Tây.

Đôi khi tôi cũng ngưng đọc để làm những việc vặt, từ ngày nhỏ tôi rất say mê các vật dụng cơ khí, tôi sửa được đồng hồ tay, đồng hồ treo tường, hoặc đôi khi tôi mang cây đã ương sẳn trong nhà kính để trồng xuống đất. Tôi thích nhất là hoa phi yến (delphidium) và hoa tulip, tôi rất thích nhìn chúng mọc.

Khoảng 12 giờ đến 12 giờ 30 tôi dùng bữa trưa, đôi khi không phải hoàn toàn là rau trái thế nhưng tôi vẫn thích ăn chay hơn.

Sau đó là các sinh hoạt chính thức, tôi tiếp xúc với hội đồng Kashag (hội đồng bộ trưởng), các thành viên của Hội đồng nghị sĩ đại diện cho dân chúng, hoặc tiếp những người từ Tây tạng đến đây với giấy phép đi lại do người Trung quốc cấp hoặc đi chui. Thật quá buồn thảm cho tôi khi nghe họ kể chuyện, hầu như tất cả đều gặp những chuyện đau buồn và họ đã khóc với tôi.

Sáu giờ chiều là giờ uống trà. Là người tu hành tôi không dùng cơm chiều . Bảy giờ tối là giờ xem truyền hình. Tôi thích xem các chương trình về văn minh Tây phương và các phóng sự thật tuyệt vời về cảnh vật thiên nhiên của đài BBC (Anh quốc).

Sau đó đến giờ ngủ và trước khi lên giường tôi thiền định và tụng niệm, chủ yếu là cầu khẩn Quán-Thế-Âm Bồ-tát (Avalokiteshvara) vị thánh hộ mệnh của xứ Tây tạng, tôi cầu xin Ngài hãy bảo trợ cho dân tộc tôi. Khoảng 8 giờ hay 8 giờ 30 tối thì tôi lên giường.


#12 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/10/2012 - 09:55

Chiếc áo của người tu hành

Tôi mặc chiếc áo màu nâu đỏ của những người tu hành. Chiếc áo không thuộc loại tốt và đã được vá. Nếu như chiếc áo may bằng vải tốt và nguyên một mảnh thì còn bán lại được và may ra còn vớt vát được đồng nào. Đằng này với chiếc áo của tôi thì đành chịu. Sự nghèo nàn đó làm gia tăng thêm ý nghĩa của sự khinh thường của cải tạm bợ trong thế gian này.

Tuổi thọ của tôi

Theo các giấc mơ của tôi thì tôi có thể sống tối đa 110 hay 113 tuổi. Thế nhưng làm gì tôi sống được đến đấy. Tuy thế tôi cũng có thể sống đến chín mươi tuổi, giữa tám mươi và chín mươi. Sau cái tuổi đó tôi sẽ trở nên vô dụng, một vị Đạt-Lai Lạt-Ma già nua nào còn có giá trị gì nữa.

Đức tin của tôi thật đơn giản

Bất cứ một hành động ý thức và cân nhắc nào đều cần đến một động cơ thúc đẩy. Đối với trường hợp của tôi thì đức tin của tôi thật đơn giản : động cơ quan trọng hơn hết thúc đẩy hành động của là tình thương, và lòng tốt là triết lý của đức tin ấy.

Phải bảo tồn sức mạnh để chống chỏi với khổ đau

Động cơ thúc đẩy tôi là sự an lành của tất cả chúng sinh, thế nhưng trên một bình diện thứ yếu hơn tôi cũng phải cố gắng hướng vào sự cứu giúp người Tây tạng. Khi năm mươi ngàn người thuộc bộ tộc Shâkya bị giết hại, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tuy là người thuộc bộ tộc ấy thế nhưng không phát lộ sự đau đớn. Ngài chỉ tựa người vào một gốc cây rồi thốt lên rằng : "Hôm nay tôi cảm thấy khá buồn vì năm mươi ngàn người thuộc bộ tộc của tôi bị giết hại".

Riêng Ngài thì không hề hấn gì. Sự thể là như thế. Ngài thừa hưởng nguyên nhân và hậu quả phát sinh từ nghiệp của chính Ngài. Không thể làm gì khác hơn được. Đấy là cách suy nghĩ đã giúp tôi trở nên can đảm hơn và tích cực hơn, thế nhưng đấy tuyệt nhiên không phải là cách làm mất đi sức phấn đấu và lòng quyết tâm đương đầu với bản chất toàn cầu của khổ đau.

Đặc tính của người Tây tạng

Chính vì quyết tâm phụng sự nhân loại mà tôi đứng ra bênh vực cho chính nghĩa Tây tạng. Cho đến thế kỷ vừa qua quê hương chúng tôi vẫn còn là một quê hương an bình với một nền văn hóa thật độc đáo. Nếu như chúng tôi có chậm tiến trên phương diện vật chất đi nữa, thì trên phương diện tâm linh hay nói theo một số người thì đấy là sự nẩy nở tinh thần, chúng tôi rất phong phú. Chúng tôi là người Phật giáo và nền Phật giáo mà chúng tôi hằng tu tập là một trong các nền Phật giáo toàn diện nhất.

Hơn nữa chúng tôi đã duy trì được sự tích cực và sinh động cho nền Phật giáo đó xuyên qua nhiều thế kỷ. Không phải chỉ nhân danh một người Tây tạng mà đúng hơn với tư cách một con người, tôi mạn phép nghĩ rằng chúng ta cũng nên bảo tồn nền văn hóa đó và xứ sở đó vì những cống hiến mà nền văn hóa và xứ sở đó đã từng mang lại cho thế giới này.

Lòng nhân từ khác thường của người dân Tây tạng

Một cuộc sống an bình và tiến bộ và một tinh thần đạo đức xây dựng trên các giá trị tâm linh phải luôn đi đôi với nhau. Từ lâu trước khi có cuộc xâm lăng của người Trung quốc vào năm 1950, vua chúa Tây tạng đã soạn thảo luật pháp căn cứ vào nền đạo đức Phật giáo. Nhiều người trên thế giới thường cho rằng người Tây tạng nhân từ và khả ái một cách lạ thường. Tôi không thấy một nguyên nhân nào khác hơn để giải thích cho khía cạnh đặc biệt đó của người Tây tạng ngoài tinh thần bất-bạo-động của Phật giáo đã in sâu vào nền văn hóa của họ đã từ ngàn năm.

Sự ôn hòa trong tánh khí của người Tây tạng

Tây tạng là một quốc gia mênh mông, dân số lại thưa thớt. Sống trong bối cảnh đó đòi hỏi con người phải có một tinh thần tương trợ thật cao. Trong một lãnh thổ đông dân, người ta thường có xu hướng ngờ vực những người láng giềng, xem láng giềng như những đối thủ phải tránh xa. Trên Tây tạng, chúng tôi luôn cảm thấy sự bao la của không gian, nếu triết lý Phật giáo còn tác động thêm vào sự cảm nhận ấy thì nhất định đấy là những lý do có thể giải thích tại sao người dân Tây tạng lại mang một tính khí ôn hòa như thế.

Sự hài hòa trong gia đình người Tây tạng

Tôi không muốn nói là không có chuyện hung bạo xảy ra trong gia đình Tây tạng. Tuy nhiên, nếu có một sự hung bạo nào xảy ra nhất định sẽ làm cho mọi người kinh ngạc vì không mấy khi họ trông thấy. Chuyện ly dị cũng hiếm hoi. Mỗi khi chuyện ấy xảy ra thì mọi người chung quanh đều cảm thấy bối rối và bất an.

Trong khung cảnh truyền thống của xã hội Á châu, sự liên hệ trong gia đình có vẻ tốt đẹp hơn so với xã hội Tây phương. Chúng tôi đặt nặng sự hiếu thảo và quan tâm nhiều hơn đến các mối liên hệ họ hàng cũng như sự hài hòa trong gia đình.

Người Tây tạng hiền hòa từ bản chất

Mặc dù chịu ảnh hưởng của lịch sử và mang ít nhiều tánh khí của người chiến sĩ, thế nhưng từ bản chất người Tây tạng lại rất hiền hòa. Đối với họ không có gì tồi tệ hơn là vai trò của người lính : dưới mắt họ người lính chẳng khác gì một một tên đồ tể.


#13 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/10/2012 - 20:06

Nghệ thuật tranh luận

Phép biện chứng (dialectic) hay nghệ thuật tranh luận giữ một vị thế quan trọng trong nền giáo huấn nơi chùa chiền Tây tạng. Hai đối thủ luân phiên nêu lên câu hỏi, họ sử dụng cử chỉ tay chân để phụ họa và nhấn mạnh thêm cách trình bày các luận cứ của họ. Sự linh hoạt tâm thần giữ một vai trò quan trọng trong cuộc đấu trí, bên nào dồn đối thủ vào chỗ không trả lời được sẽ làm cho mọi người chung quanh cười ồ và sẽ được họ kính phục. Trò chơi tranh luận trên đây rất được ưa chuộng ngay cả đối với những người Tây tạng không được học hành nhiều. Ngày xưa không phải là một chuyện hiếm hoi khi thấy các đoàn người du mục hay các người nông dân từ xa lên tận Lhassa để suốt ngày ngồi xem mê mải các nhà bác học trổ tài tranh biện với nhau trong sân các tu viện.

Tánh tình vui vẻ của người Tây tạng

Nói chung người Tây tạng nổi tiếng là vui vẻ. Đấy là một trong các nét đặc thù của tánh tình người Tây tạng. "Thế sự bí mật của bạn là gì ?", đấy là loại câu hỏi thường được nghe thấy, câu hỏi biểu lộ bản tính vui nhộn của người Tây tạng. Dù thuộc giới học rộng hay mù chữ người Tây tạng chúng tôi có thói quen khi gặp nhau hay gọi nhau là "má" hay là "bố". Cứ đến Tây tạng sẽ nghe thấy họ gọi nhau như thế. Tôi nhận thấy sự đồng hóa người khác với một lý tưởng từ bi (cha hay mẹ của mình) như trên đây là một cách mang lại sự vui sống cho chúng tôi.

Sự quyết tâm của người Tây tạng

Bất chấp sự đàn áp tàn bạo của người Trung quốc, toàn dân Tây tạng lúc nào cũng tỏ ra kiên quyết. Tất nhiên đôi khi chúng tôi cũng cảm thấy buồn. Lại càng buồn hơn khi chúng tôi nghe kể lại là nhiều người Tây tạng dù phải sống trong cảnh cơ hàn và thường xuyên bị khủng bố thế nhưng lúc nào họ cũng một lòng tin tưởng vào chúng tôi và trông chờ chúng tôi. Điều đó thúc dục chúng tôi phải gánh vác một trọng trách thật nặng nề. Đôi khi chúng tôi cảm thấy buồn. Họ quá tin tưởng và quá trông chờ nơi chúng tôi. Thế nhưng những gì chúng tôi thực hiện được thật là vô nghĩa. Hành động của chúng tôi có giới hạn. Chúng tôi cố gắng tối đa và làm bất cứ gì có thể làm được để cố duy trì một sự thúc đẩy trong sáng. Thế nhưng thành công hay không lại là chuyện khác.

Sự lợi ích của giải Nobel về hòa bình

Năm 1989 tôi đoạt giải Nobel hòa bình, nhờ biến cố đó nhiều người biết đến vấn đề Tây tạng. Họ lấy bản đồ ra xem và thắc mắc : "Nước Tây tạng ở vào chỗ nào ?"

Tất nhiên là giải Nobel giúp tôi dịp may đến gần với nhiều vị lãnh đạo Quốc gia. Một số vị chính thức tiếp đón tôi. Một số khác, chẳng hạn như Tổng thống Mittérand chỉ tiếp tôi với tư cách cá nhân - chẳng qua thì cũng vì áp lực ngoại giao cả. Dù sao đi nữa, mọi sự trở nên dễ dàng hơn trước khi tôi cần tiếp xúc hay đàm thoại với những người có trọng trách. Thật vậy, giải Nobel đã giữ một vai trò tích cực trong các cuộc thương thảo với người Trung quốc.

Vấn đề trở về Tây tạng

Tôi không nghĩ rằng có thể trở về Tây tạng trong kiếp sống này. Thế nhưng không hề gì. Vấn đề quan trọng hơn chính là sự tự do hành động. Dù với tư cách Đạt-Lai Lạt-Ma hay vị thế của một người tu hành mang tên là Tenzin Gyatso thì tôi vẫn luôn ước mong được tự do hành động hầu góp phần giúp đỡ tối đa dù bằng cách này hay cách khác cho dân tộc Tây tạng cũng như cho tất cả các dân tộc khác.

Căn cứ vào khía cạnh đó nếu tôi thấy có nhiều may mắn thực hiện được hoài bão của tôi bên ngoài Tây tạng, thì tôi sẽ lưu lại bên ngoài. Nếu dịp may thành công ngang nhau thì tôi sẽ chọn giải pháp trở về, trở về Tây tạng mà cũng có thể là trở về Trung quốc. Mối quan tâm của tôi là làm thế nào mang lại kết quả tốt nhất thế thôi. Tất nhiên không nên quay về Tây tạng hay Trung quốc nếu như sự trở về ấy chỉ mang lại thiệt hại mà không giúp được gì thiết thực.

Các khía cạnh tích cực của tình trạng lưu vong

Một trong các khía cạnh tích cực trong hoàn cảnh lưu vong là chúng ta có thể nhìn về xứ sở của mình dưới một góc cạnh khác hơn. Chẳng hạn, đối với trường hợp Tây tạng, tất cả những nghi lễ dành cho tôi trước đây trong thời kỳ tôi còn trẻ nay đã mất hết ý nghĩa. Ngày nào cũng thế từ đầu năm đến cuối năm nghi lễ cầu kỳ kéo dài bất tận và các người chung quanh thì xem các nghi lễ ấy thật nghiêm trọng. Các nghi thức chi tiết đó chi phối cuộc sống của chúng tôi trong từng ngày, mọi người phải thận trọng trong từng lời nói và cử chỉ.

Sự bỏ chạy và sau đó là những gì phải làm - các cuộc đấu tranh để lôi kéo sự chú ý của các quốc gia khác, các cuộc du hành và các buổi phát biểu - đã lôi tôi trở về với thực tế. Cũng phải thú nhận là cuộc sống lưu vong đã giúp tôi khám phá ra phần còn lại của thế giới này, giúp tôi tiếp xúc với các dân tộc khác, biết thêm các tín ngưỡng khác. Quả thật không có gì hữu ích bằng.

Nước Ấn đã đón nhận chúng tôi. Chúng tôi thiết lập một cuộc sống mới tại Dharamsala trong một xứ tự do, điều đó mang lại những điều kiện thuận lợi cho những sự tiếp xúc trên đây. Thật vậy khó có thể thực hiện được những việc ấy trên đất nước Tây tạng vào những năm của thập niên năm mươi. Thật vậy chính những khó khăn trong giai đoạn chuyển tiếp trên dòng lịch sử lâu dài của Tây tạng đã làm nảy sinh cả một ngành nghiên cứu mới mà người ta gọi là "Tây tạng học".

Không biết bao nhiêu thế kỷ đã bám rễ quá sâu vào quê hương xứ sở và có thể đó là lý do đã làm lu mờ cái cảm tính tự nhiên về dân tộc tính của chúng ta. Những mối dây buộc chặt chúng ta vào mảnh đất quê hương trở thành những gì quá hiển nhiên, hình như không ai có thể tước đoạt được. Thế nhưng bỗng một thứ gì đó vụt hiển hiện ra và đặt trở lại vấn đề cho các mối dây liên hệ đó, chúng ta chợt nhận thấy một sự tàn nhẫn vô liêm sỉ, đấy là việc sử dụng sức mạnh tàn bạo trước sự mong manh của chúng ta. Thế rồi chúng ta phải ra đi và chỉ còn nhìn thấy quê hương từ xa, quê hương đó bị chiếm đóng, bị tàn phá. Thế nhưng cũng lạ, chúng ta lại nhận thấy quê hương nào có biến mất đâu, nó vẫn còn nguyên trong lòng chúng ta, và chúng ta cảm thấy mình vẫn là người Tây tạng. Thế rồi chúng ta lại tự hỏi : là người Tây tạng là thế nào ?

Tenzin Gyatso, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma XIV, có phải là vị Đạt-Lai Lạt-Ma cuối cùng ?

Đôi khi người ta hỏi tôi rằng có phải tôi là vị Đạt-Lai Lạt-Ma cuối cùng hay không ? Rất có thể. Vì hai lý do sau đây. Lý do thứ nhất thuộc lãnh vực chính trị. Người Trung quốc từ ba mươi lăm năm nay vẫn lập đi lập lại là tôi mang tham vọng tái lập một đế quốc già nua của thời xa xưa, vớt vát lại một số người hầu cận, một số ưu đãi nào đó và nhiều ngàn gian phòng trong lâu đài Potala. Tôi trả lời với họ là thể chế Đạt-Lai Lạt-Ma đâu còn thuộc thẩm quyền của tôi nữa. Đấy là chuyện của những người Tây tạng. Tôi đã khẳng định nhiều lần với họ như thế.

Nếu một ngày nào đó xứ Tây tạng phục hồi lại được nền độc lập của mình, hay chỉ đơn giản là một nền tự trị - đấy cũng là sự mong mỏi chân thành của tôi - thì chuyện ấy cũng sẽ phải xảy ra một cách dân chủ. Trong trường hợp đó người dân Tây tạng sẽ còn muốn tiếp tục thể chế Đạt-Lai Lạt-Ma nữa hay không ? Họ sẽ tự trả lời cho câu hỏi ấy. Nếu đa số biểu quyết chống lại, tôi sẽ rút lui. Trong trường hợp này tất nhiên tôi sẽ là vị Đạt-Lai Lạt-Ma cuối cùng.

Lý do thứ hai mang tính cách lịch sử nhiều hơn. Nếu nhiều người cho rằng không thể tách rời thể chế Đạt-Lai Lạt-Ma ra khỏi dân tộc Tây tạng thì chuyện ấy nhất định hoàn toàn sai. Trước thế kỷ XV, đất nước Tây tạng vẫn trường tồn không cần phải có Đạt-Lai Lạt-Ma. Tình trạng đó biết đâu cũng có thể xảy ra ngày mai. Tôi xin long trọng tuyên bố điều này : chính quyền tương lai của Tây tạng phải được bầu cử một cách dân chủ.


Bures-Sur-Yvette, 13.03.11

Hoang Phong chuyển ngữ


Sửa bởi hiendde: 06/10/2012 - 20:15


#14 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/10/2012 - 20:21

Chương III

Thế giới của chúng ta ngày nay

Quy luật của thế giới

Yêu - ghét, lợi - hại, khen - chê, vinh - nhục là tám mối lo toan chính yếu trói buộc sự sống của con người trong thế gian này.

Các diễn viên của lịch sử

Lịch sử nhân loại nhìn từ một khía cạnh nào đó chính là lịch sử của tư duy con người. Các biến cố lịch sử, chiến tranh, sự tiến bộ về mọi mặt, các thảm kịch..., tất cả phản ảnh bản chất hoặc tiêu cực hoặc tích cực của tư duy con người. Các danh nhân, các nhà cách mạng, các tư tưởng gia..., đều là các vĩ nhân đại diện cho những tư duy tích cực. Thảm kịch, bạo ngược, chiến tranh tàn khốc... phát sinh từ những tư duy tiêu cực.

Tóm lại những gì xứng đáng cho con người quan tâm chính là những tư duy tích cực mang lại sức mạnh cho mình và làm giảm bớt các tư duy tiêu cực. Nếu cứ mặc cho sự giận dữ, hận thù tha hồ hoành hành chúng ta sẽ đánh mất tất cả. Nếu biết suy nghĩ thì nào có ai mong muốn sự mất mát.

Thế kỷ XX

Thế kỷ XX mang một tầm quan trọng rất lớn trên bình diện lịch sử của toàn thể hành tinh này. Một cuộc đua tranh toàn bộ và ráo riết đã và đang xảy ra giữa hòa bình và chiến tranh, giữa sức mạnh tâm linh và vật chất, giữa dân chủ và độc tài. Trong phần sau của thế kỷ sức mạnh hòa bình đang thắng thế. Sự kiện đó đã xác định sức mạnh của tinh thần bất-bạo-lực mà Mahatma Gandhi và Martin Luther King đã quảng bá. Dù là một siêu cường trang bị vũ khí có sức tàn phá khủng khiếp chủ trương chính sách thù nghịch, thế nhưng trên thực tế vẫn phải khép mình trước sức mạnh của bất bạo động. [đây là những phát biểu của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong bối cảnh hậu bán thế kỷ XX]

Các lãnh tụ ngày nay

Ngày nay người ta nhận thấy các nhà lãnh đạo trên thế giới thật vô cùng can đảm họ dám thực hiện những điều xấu xa. Thật ra đấy cũng không phải do họ cố ý, tất cả chỉ vì họ quá sức mưu mẹo và khôn lanh mà ra. Tôi nghĩ rằng các thể chế chính trị tệ hại tức là những thể chế không được xây dựng trên công lý, đều phát xuất từ những quan điểm thiển cận. Nếu các chính trị gia có một tầm nhìn thiển cận đương nhiên họ cũng chỉ đủ sức để nhìn thấy những giá trị thiển cận và hời hợt. Có lẽ vì thế mà họ có đủ "can đảm" để thực thi những việc thật tồi tệ.

Chiến tranh chỉ là một cuộc tàn sát

Thật vô cùng nguy hiểm nếu không nhìn thấy khổ đau của chúng sinh có giác cảm, dù là bất cứ chúng sinh nào. Ngay trong thời kỳ chiến tranh, cũng nên nghĩ đến nỗi khổ đau của người khác - kể cả đối với người mà ta muốn trừng phạt, dù điều đó có làm cho ta bực dọc [vì bắt buộc phải thương hại kẻ thù]. Chiến tranh chỉ là một cuộc tàn sát. Ngày nay tính cách máy móc của chiến tranh trở nên tệ hại hơn nhiều. Nếu chiến tranh cố tình làm ngơ trước khổ đau của người khác trong mục đích vơ vét một số lợi lộc vụn vặt lại còn tệ hại hơn nữa.

Những tiện nghi vật chất quá đáng

Phần lớn những khó khăn trên thế giới phát sinh từ các mục tiêu vật chất quá cao của các quốc gia phát triển [lấn lướt các giá trị tinh thần]. Các quốc gia này gây ra hiểm họa tàn phá tài nguyên thuộc di sản chung của nhân loại [ngụ ý những tài nguyên tinh thần], những tài nguyên ấy trong quá khứ đã từng khuyến khích con người biết giữ sự liêm khiết, biết thương người, và nhất là khuyên con người biết quan tâm đến lãnh vực đạo đức và tinh thần.

Mang lại hòa bình bằng cách biến cải nội tâm

Khí giới không phải chỉ để cất vào thùng, khi đã được sản xuất thì sớm muộn cũng sẽ có người sử dụng.

Nếu vũ khí thật sự giúp cho chúng ta mang lại hòa bình lâu dài quả thật không có gì đáng mừng hơn, chúng ta hãy biến các nhà máy thành các cở xưởng sản xuất vũ khí ngay đi. Chúng ta hãy dồn hết vốn liếng để chế tạo vũ khí, nếu tin chắc nhờ đó chúng ta sẽ thực hiện được hòa bình lâu dài. Thế nhưng đấy là một sự không tưởng. Xây dựng hòa bình bằng cách biến cải nội tâm của chính mình là những gì vô cùng khó khăn, thế nhưng đấy là cách duy nhất có thể mang lại một nền hòa bình lâu dài trên thế giới. Tôi nghĩ rằng dù trên thực tế và trong thâm tâm của mỗi người hướng nhìn đó khó có thể mang ra thực hiện, thế nhưng chúng ta cũng nên cố gắng thử xem sao. Vì thế mỗi khi đến bất cứ nơi nào tôi cũng nói lên quyết tâm ấy.


#15 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/10/2012 - 20:22

Phật giáo đang thu hút thế giới Tây phương

Toàn bộ hệ thống giáo dục của chúng ta đang gặp khủng hoảng. Hệ thống giáo dục đó không còn hội đủ sức thích ứng. Thẳng thắn mà nói sự khủng hoảng đó còn ảnh hưởng đến các lãnh vực kỹ nghệ và chính trị nữa. Sự khủng hoảng của giáo dục dường như vượt khỏi sự tiên đoán và khả năng kiểm soát của chúng ta. Càng ngày tôi càng gặp nhiều người trong ngành kinh doanh chú ý đến Phật giáo. Có thể quý vị không tin lời tôi nói, thật vậy trước đây chúng tôi không hề trông thấy mặt doanh nhân nào thế nhưng hôm nay họ tìm chúng tôi, hỏi han chúng tôi và tỏ ra vô cùng quan tâm đến những giá trị tinh thần mà chúng tôi quảng bá.

Đối với tôi, Tây phương có vẻ như bị thu hút bởi Phật giáo ! Đấy là một sự kiện khá mới mẻ nhất là trong khoảng vài năm nay, sự thu hút đó tuy không ngoạn mục nhưng khá hiển nhiên, có lẽ nhờ vào hai niềm tin, thứ nhất là niềm tin vào tinh thần bất-bạo-lực, thật vậy bạo lực ngày càng trở thành một sức mạnh, thứ hai là niềm tin vào khái niệm về sự tương liên [lý duyên khởi] nêu lên trong giáo lý nhà Phật từ hàng ngàn năm trước [sự tương liên cho thấy trách nhiệm của mỗi người nhất là những người kinh doanh đối với cộng đồng xã hội]

Chiến tranh

Thời gian gần đây quan niệm về chiến tranh có vẻ như thay đổi. Suốt thế kỷ XX cho đến khoảng năm 1970 người ta vẫn quan niệm khi xảy ra một cuộc tranh chấp thì nó chỉ có thể chấm dứt bằng một sự chiến thắng. Một quy luật muôn thuở không sai chạy là : chánh nghĩa bao giờ cũng thuộc vào người chiến thắng, sự chiến thắng của họ chính là dấu hiệu cho thấy Trời hay vị thánh nhân nào đó đứng về phía họ.

Ngay cả vào thời của Mahatma Gandhi người mà tôi rất tôn kính, người ta vẫn có xu hướng xem bất-bạo-lực như một thứ gì hèn yếu, bất lực, biểu hiện của sự hèn nhát. Ngày nay cách nhìn đó đã thay đổi, bất-bạo-động được đánh giá như một hành động tích cực biểu dương một sức mạnh thật sự. Nước Nam Phi và cả Arafat và Rabin tại Trung đông đã chọn giải pháp đó.

Nguồn gốc của chiến tranh nằm trong tâm thức con người

Trong quá khứ sức tàn phá của chiến tranh không đến nỗi quá tàn khốc. Ngày nay khả năng tàn phá của chiến tranh vượt khỏi trí tưởng tượng của con người. Cứ nhìn vào các thứ khí giới khiếp đảm sẽ hiểu ngay. Thế nhưng khí giới không thể tự chúng châm ngòi gây ra một cuộc chiến. Cái nút bấm khơi động một cuộc chiến nằm bên dưới ngón tay của con người, và khi ngón tay ấn xuống ấy là do tác động của tư duy. Nếu nhìn mọi sự vật sâu xa hơn ta sẽ thấy nguyên nhân của chiến tranh nằm bên trong con người, chính tâm thức của chúng ta làm phát sinh ra hành động. Vì thế trước hết nên kiểm soát tâm thức của chính mình.

Quy luật của vũ khí

Lúc tôi vừa được mười lăm tuổi, tôi đã biết đến sức mạnh vô nhân đạo của chính trị. Tôi từng sống dưới chế độ đế quốc thật khắc nghiệt, nhìn thấy sự tham lam vô độ của các cuộc chiến xâm lăng, chịu đựng sự thống trị của "vũ khí". Trong thời còn trẻ cộng sản đối với tôi có một sức quyến rũ nào đó. Lúc ấy tôi nghĩ rằng Phật giáo và cộng sản cũng có thể hợp tác được. Thế nhưng tôi hết sức thất vọng trước những mâu thuẫn không thể hiểu nổi trong nền chính trị Trung quốc, nhất là trong các khẩu hiệu tuyên truyền cuồng nhiệt và trong các phương pháp đầu độc tinh thần.

Sự điên rồ của con người

Có nên vin vào lý do chúng ta suy nghĩ khác nhau để tạo thêm khó khăn cho nhau hay không ? Chúng ta còn phải đương đầu với cái chết, sự già nua, các thảm họa thiên nhiên...và vô số những khổ đau khác mà chúng ta chưa giải quyết được. Như thế chưa đủ hay sao ?

Nhân loại chỉ gồm có một gia đình

Trải qua không biết bao nhiêu thế kỷ, con người sử dụng đủ mọi cách để giết nhau, gây cho nhau đủ mọi thứ tệ hại và thực thi những hành vi bạo ngược. Điều đó ngày càng mang lại nhiều khó khăn hơn, nhiều khổ đau hơn, nhiều nghi kỵ hơn, khiến hận thù và chia rẽ trở nên trầm trọng hơn. Ngày nay đã đến lúc phải suy nghĩ sâu xa hơn về những giá trị thật sự của con người. Nói cách khác là đến lúc phải cùng nhau nêu cao các phẩm tính chung nơi con người chúng ta.

Bất bạo lực

Trên thực tế, ta có thể sử dụng bạo lực để đạt được mục đích, thế nhưng đồng thời ta cũng mang lại khổ đau cho người khác. Dù giải quyết được một khó khăn nào đó nhưng đồng thời ta cũng gieo thêm hạt giống làm phát sinh ra một khó khăn khác. Phương pháp tốt nhất để vượt lên khó khăn là mổ xẻ và tìm hiểu những khó khăn đó trong sự tôn trọng con người. Một mặt ta nên nhượng bộ một phần nào đó, một mặt phải cân nhắc thật cẩn thận. Có thể chúng ta không hoàn toàn được toại nguyện, thế nhưng chúng ta cũng có thể nhường nhịn nhau đôi chút. Biết đâu một chút nhường nhịn cũng tránh được những mối nguy hiểm lớn lao cho tương lai.

Chính sách bất bạo lực

Phải biết dung hòa giữa chính trị và ahimsa (bất-bạo-lực). Cứ nhìn vào thế kỷ của chúng ta sẽ rõ : không biết bao nhiêu trường hợp cho thấy sự hung bạo được sử dụng như một phương pháp quản lý sinh hoạt con người. Tình trạng đó xảy ra sau các cuộc chiến trên thế giới, đủ mọi phương pháp được đem ra thử nghiệm như : san bằng các thành phố, tàn sát các tập thể con người, thiết lập các chế độ đày đọa và khống chế con người, áp dụng khủng bố... Thế nhưng vì bản chất quá sức thiển cận nên tất cả các phương pháp đó đều thất bại, và sẽ còn tiếp tục thất bại.

Đấy là những gì đi ngược lại sức mạnh của lòng tốt, sự rộng lượng và bản chất đích thực của con người. Hãy lấy người Do thái và Palestin làm thí dụ, họ thù hận nhau trong suốt bốn mươi năm nay. Dù các nhóm cực đoan của cả hai bên cố tình gây ra chết chóc và thù hận, nhưng rồi một ngày nào đó họ cũng phải giảng hòa với nhau. Cổ vũ hận thù chỉ mang lại hận thù, hung bạo là vị trọng tài tồi tệ nhất.







Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |