Jump to content

Advertisements




TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO - Quyển 5


60 replies to this topic

#31 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/08/2012 - 11:17

31. Con nhền nhện

Ngày xưa, có một vị sư tọa thiền rất chuyên cần tinh tấn. Trải qua nhiều năm tu tập, một ngày nọ trong lúc tọa thiền, sư thấy một con nhện to bự giăng tơ trước mặt ông. Càng lúc nó càng lớn và xích tới gần ông một chút, cho đến khi nó án ngữ cả vòm trời tâm thức. Tám cái chân của nó giăng ra đe dọa, như sẵn sàng vồ lấy nhà sư mà nuốt chửng. Bốn mắt nhìn nhau quái đản, kinh hoàng. Sư nhiếp tâm chánh niệm, nhưng hình ảnh con nhền nhện càng rõ hơn. Mở mắt đã thấy rõ mà nhắm lại rõ hơn bội phần.

Sư toát mồ hôi hột, định thần quán không quán giả. Nhưng quán không mà con nhền nhện vẫn có sờ sờ ra đó, quán giả thì đã đành là giả nhưng mà... run vẫn cứ run. Sư bèn đổi pháp môn, quay ra niệm Phật, bắt ấn giữ quyết, trì niệm thần chú cầu chư Phật Bồ Tát, Thiên Long bát bộ đến cứu mình ra khỏi con nhền nhện ác ôn này. Nhưng, mặc dù sư đã bắt ấn đủ kiểu, mật niệm đủ thứ thần chú nổi tiếng trừ tà rất linh nghiệm, mà con nhền nhện vẫn cứ ỳ ra đấy, càng lúc càng gần nhà sư hơn, càng đe dọa hơn.

Sư đành phải chịu thua, xả thiền đứng dậy. Hình ảnh ghê rợn của con nhền nhện trong thời thiền định vẫn ám ảnh sư. Sư trở nên thẫn thờ suy nhược như người mất hồn. Quá đau khổ, nhà sư đi đến vị thầy trình bày tự sự. Vị thầy hỏi sư:

- Bây giờ ông tính thế nào?

- Bạch Thầy, con đã làm đủ mọi cách, nhưng con nhền nhện vẫn trơ trơ ra đó. Con nghĩ rằng, phải giết quách nó đi mới tu hành được, con định bụng, sẽ để sẵn một con dao bén. Chờ nó tới thì con đâm cho nó một dao rồi đời.

- Ông tính vậy cũng được, nhưng trước khi đâm con nhền nhện, ông hãy gạch dấu chữ thập bằng phấn trắng ở ngay cái chỗ mà ông định thọc con dao. Vào thời tọa thiền kế tiếp ông sẽ đâm nó cũng không muộn.

Vị sư nghe lời, cáo từ thầy trở về tọa thiền. Lần này ông thủ sẵn một viên phấn trắng, chờ con nhền nhện xuất hiện, ông cầm phấn gạch ngay một dấu chữ thập vào bụng nó. Sau khi xuất định, ông trở lại yết kiến vị thầy, bày tỏ ý chí cương quyết giết con nhền nhện vào giờ tọa thiền kế tiếp. Vị thầy bảo:

- Ðược nhưng ông hãy vén áo cho tôi xem thử. Vị đệ tử ngạc nhiên nhưng đành phải vâng lời thầy. Ông mở áo ra cho thầy xem, và lạ thay trên bụng mình, ông bỗng thấy một dấu chữ thập bằng phấn trắng... do chính ông đã gạch, ông nhân đó hoát nhiên đốn ngộ.

THÍCH NỮ TRÍ HẢI

“Thông thường chướng ngại mà ta nghĩ là ở ngoài tới kỳ thật nó ở ngay trong ta. Khi tách biệt nó và ta xem nó như thù nghịch, muốn hủy diệt nó, thì coi chừng ta hủy diệt ngay chính mình”.





Thanked by 2 Members:

#32 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/08/2012 - 11:20

32. La Vân Châu

Thuở Phật còn tại thế, có một thầy Tỳ kheo số phận hẩm hiu, từ lúc mới sanh cho tới khi tu hành chứng quả, chưa khi nào thầy được một bữa no lòng. Vì thiếu sinh tố dinh dưỡng, nên người thầy trông ốm o, lều khều, nước da mét mét, trong lòng lúc nào cũng đói meo, thật thiểu não.

Tuy trong lòng trống trơn như vậy, nhưng thầy vẫn siêng năng tu hành. Mỗi sáng thầy dậy thật sớm, cần mẫn trong công việc của chúng tăng, rồi sau đó thầy đắp y, mang bát vào thành khất thực. Thầy lần lượt đến nhà này đến nhà kia, hết xóm này đến xóm khác, nhưng chẳng ai cúng cho thầy một tí đồ ăn nào cả. Ðến đâu họ cũng đóng cửa, hoặc lẩn tránh nơi khác, cho đến khi hết buổi, thầy buồn bã ôm bát trở về.

Có khi năm bảy hôm mới được một bữa tàm tạm để cầm hơi. Dù vậy, thầy không bao giờ nản lòng, thối chí, thầy biết do nghiệp lực nhiều đời của thầy đã tạo, nên thầy càng dõng mãnh tinh tiến tu hành hơn. Ðối với bổn sư của thầy, Ngài Xá Lợi Phất, thầy hết lòng hầu hạ, đối với các vị Trưởng lão kỳ túc, thầy luôn luôn tôn kính, đối với bậc ngang hàng hoặc nhỏ hơn, thầy luôn luôn từ hòa nhu thuận. Ai cũng mến thầy, nhưng vì nghiệp lực chẳng ai giúp gì được cho thầy.

Một hôm thấy thầy mệt lả vì cơn đói hoành hành, Ngài Xá Lợi Phất sau khi khất thực về dành phần cho thầy, nhưng thương thay, cơm vừa để vào bát liền hóa thành đất bùn. Ngài Mục Kiền Liên thấy thế liền vận thần thông cho cơm vào bát, nhưng oan nghiệt lạ, từ trên không một con chim to tướng bay rớt xuống gắp phần cơm đi mất, thần thông của Ngài Mục Kiền Liên cũng không làm sao thắng được nghiệp lực, đành đứng mà nhìn. Ðến phiên Ngài Ca Diếp, thương lòng, đem cơm đến và tự mình bốc cơm đưa vào miệng cho thầy, nhưng cơm vừa đến miệng, thì miệng thầy tự nhiên ngậm lại chẳng chịu hả ra, nên không ăn được.

Từ nơi Tịnh Xá, Ðức Thế Tôn biết được tình trạng của thầy La Vân Châu như vậy, Ngài đi đến và dùng bi lực trao đồ ăn cho thầy, nhờ bi lực của Thế Tôn, đồ ăn ấy trở thành vị cam lồ, thầy vừa đưa vào miệng đã thấy một niềm hoan lạc vô biên. Sau khi dùng cơm xong, Ðức Thế Tôn nói pháp cho thầy nghe, quá cảm xúc tấm lòng đại bi của Phật, thầy thọ nhận pháp vi diệu ấy với cả thân tâm, hoát nhiên chứng quả A La Hán.

Các thầy Tỳ kheo chứng kiến cảnh ấy rất lấy làm cảm kích, bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn, La Vân Châu tu hành như vậy, nhưng vì sao mà không khi nào thầy được no lòng cho đến khi chứng quả?

- Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên La Vân Châu phải chịu đói khát, mà từ vô lượng kiếp, La Vân Châu đã phải chịu rồi. Khi thì làm ngạ quỷ, khi thì súc sanh, khi thì người, trải qua 500 kiếp không khi nào no lòng, nhưng đến hôm nay, nhờ thầy tinh tấn tu hành, chứng quả A La Hán thầy mới hết nghiệp.

Này các Tỳ kheo, quả báo như thế cũng chỉ vì từ vô lượng kiếp La Vân Châu đã lấy trộm đồ ăn của một vị Bích Chi Phật, do quả báo ấy mà phải chịu đói khổ nhiều đời.

GIỚI ÐỨC

“Nỗi khổ bị thiêu trong ba đường dữ, nỗi khổ con lạc đà, con lừa chở nặng, nỗi khổ bị đói khát áp bức chưa gọi là khổ. Si mê không học, không biết hướng đi mới gọi là khổ”.



Thanked by 1 Member:

#33 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/08/2012 - 11:33

33. Phật ấn với Ðông Pha

Tô Ðông Pha, quan Hàn Lâm học sĩ triều Tống, nổi tiếng là người học rộng nghe nhiều, tài hoa lỗi lạc. Ỷ tư chất thông minh, ông xem mọi người dưới tầm con mắt, thường làm những bài văn với tính cách trào lộng để mai mỉa tình đời. Ðối với đạo Phật, ông lại còn tỏ ra thái độ khinh rẻ, không tin, thẳng lời bài bác.

Một độ, nhân đi phó nhậm ở Chiết Giang, nghe danh sư Phật Ấn ở đỉnh Vân Cư là bậc học thông ba tạng, Tô Ðông Pha liền nảy ra ý định đến viếng cửa thiền, mục đích để trêu chọc lão Hòa Thượng này chơi. Ðến đây tôi xin tạm dừng câu chuyện thăm viếng ấy lại, để lược thuật cho quí vị biết tướng mạo và hành vi của vị tăng ở núi Vân Cư ra thế nào?

Phật Ấn thiền sư, vóc người cao lớn, mập mạp. Trên mặt ngài luôn luôn nở nụ cười, mỗi khi tiếp chuyện với khách. Về ngôn ngữ, Sư nói rất trôi chảy tài tình, khiến cho người đối thoại phải lặng thinh khâm phục. Sư có nhiều hành động khác thường, đến như rượu thịt là giới cấm trong nhà Phật, sư cũng không từ. Nhưng với bao nhiêu cử chỉ ấy, tất cả Tăng đồ và tín đồ thời bấy giờ không ai dám bài bác, và nhận thấy ở nơi sư có một cái gì siêu phàm hay làm cho người đời tỉnh ngộ, mà kẻ dung thường không thể bắt chước.

Cho nên, hành vi khác lạ của sư được nhiều người ghi chép bằng nhiều bài thi, trong ấy có những câu :”Viễn Công cô tửu yêu Ðào Lịnh, Phật Ấn thiêu trư đãi Tử chiêm” (Ngài Huệ Viễn mua rượu mời Ðào Uyên, minh sư Phật Ấn nướng thịt đãi Tô Tử Chiêm). Ðây là hành vi của bậc đại triệt, đại ngộ, tùy cơ giáo hóa. Những vị tăng sĩ nào chưa được như thế, không nên khen ngợi bằng lối bắt chước, cũng đừng vội chê bai.

Xin tiếp tục câu chuyện trước. Khi Tô Ðông Pha đến non Vân, sư Phật Ấn còn đang ngồi tịnh trong phương trượng, nghe thị giả thưa:

- Có quan Hàn Lâm học sĩ đến.

Sư vui vẻ chào hỏi và mời khách ngồi. Sau khi đáp lễ xong, Tô Ðông Pha liền mở lời vấn nạn:

- Bạch Hòa Thượng! Xin cho tôi hỏi một câu.

- Vâng, tôi cũng xin tùy chỗ hiểu biết để hầu chuyện cùng ngài.

- Bạch, tôi muốn mượn thân tứ đại của Hòa Thượng làm tòa ngồi, có được chăng?

Một nụ cười nở trên môi, Phật Ấn thiền sư đáp:

- Nếu bần đạo trả lời không suông, xin theo tôn ý, bằng trái lại, ngài sẽ tính thế nào?

- Tôi xin đem chiếc đai ngọc, một vật quí của vua ban cho, để đáp tạ Hòa Thượng.

- Bần đạo tứ đại vốn không, ngũ uẩn chẳng có, vậy ngài lấy chi làm tòa ngồi.

Tô Ðông Pha sửng sốt hồi lâu, không trả lời được, đành phải mở đai ngọc giao cho Phật Ấn thiền sư. Sư thâu nhận, rồi bảo thị giả vào trong đem chiếc áo bá nạp ra tặng cho quan Hàn Lâm học sĩ. Tô Ðông Pha gắng gượng tiếp lấy và làm bài kệ trình lên rằng:

Căn tối đành ngơ trước máy thần

Nặng vì thân bịnh vướng đai cân!

Muốn khuyên khất thực nhà ca kỹ?

Nên mới nhường cho áo núi Vân.

Ðoạn, hai người cùng nhau tiếp chuyện rất thân mật. Từ khi được gặp Phật Ấn thiền sư và sau mấy phen ngài chiết phục, Tô Ðông Pha trở nên bạn thân của vị Tăng phi thường ấy. Trong thời gian đó, ông lại được quen với một vị sư khác. ngài Hoành Sơn Cốc. Khi rảnh việc Tô Ðông Pha thường mời hai bạn đến nhà thết tiệc khoản đãi, hoặc cùng đi dạo ở những nơi thắng cảnh. Nhưng, trong ba người, chỉ có sư Phật Ấn là mạnh ăn nhất. Vì thế, Tô Ðông Pha, Hoành Sơn Cốc thường bị cụt hứng và thường chịu lép trong những cuộc vui.

Một hôm, Ðông Pha bảo người nhà sửa sang con thuyền và sắm sẵn gỏi ngon rượu tốt, rồi mời riêng Sơn Cốc thiền sư cùng mình mở cuộc lãng du trên dòng nước. Không dè ngài Phật Ấn hay được việc ấy, lén đến mé sông trước, và dở ván ngồi lẳng lặng dưới khoang thuyền. Sơn Cốc, Ðông Pha đến sau thờ ơ không hay biết chi cả, bảo trạo phu gay chèo để phát khởi cuộc du trình.

Lúc ấy nhằm ngày rằm. Hoàng hôn đã trở về từ lâu nên mặt sông thu yên tĩnh. Vào khoảng đầu hôm, chị Hằng lộ dáng đứng trên dãy non Ðông, như bàng hoàng giữa vầng Ngưu Ðẩu. Hàng cây bên bờ sông in bóng dài trên bãi cát. Một ngọn gió mát từ đâu thoảng lại, thổi phất phơ tà áo vị thiền sư trí tuệ và trang học sĩ tài hoa. Thuyền từ từ tách khỏi bến ra giữa lòng sông, thả xuôi theo dòng nước. Ði không lâu, chiếc du thuyền rẽ vào một mặt hồ to rộng, bao la. Bấy giờ, những thức ăn uống được sắp bày trên thuyền, dưới gương nga tỏa sáng. Trước khi nhập tiệc, Ðông Pha bảo Sơn Cốc:

- Chúng ta mỗi người hãy làm bốn câu thi tức cảnh, hai câu sau lấy trong sách Tứ thơ và kết cuộc bằng chữ “tai”. Nếu ai làm không được phải bị phạt ba chén rượu. Và, bước đầu tôi xin nhường cho Ngài.

Lộ vẻ tươi cười, thiền sư đáp:

- Thế thì còn chi thú vị bằng! Tôi xin lĩnh ý.

Bấy giờ con thuyền đang từ từ rẽ nước. Cánh bèo theo gợn sóng tan ra, lộ dáng mấy con cá lội thấp thoáng. Sơn Cốc trông thấy liền ngâm:

Phù bình bác khai
Du ngư xuất lai
Ðắc kỳ sở tai!
Ðắc kỳ sở tai!

(Bèo nổi tan ra, Dáng cá lội qua
Phải cảnh nó a! Phải cảnh nó).

Ðông Pha vỗ tay khen:

- Hay! Hay lắm! Thật là tuyệt!

”Rồi, vẻ mặt trầm ngâm ông nhìn khắp chung quanh để tìm câu gợi tứ. Chợt trông lên trời thấy áng mây trắng bay qua để lộ màu thỏ bạc, ông liền đọc:

Phù vân bác khai
Minh nguyệt xuất lai
Thiên hà ngôn tai?
Thiên hà ngôn tai?

(Mây nổi qua mau, Trăng tỏ lộ màu
Trời nào nói đâu, Trời nào nói đâ?)

Sơn Cốc cũng vỗ tay khen:

- Mấy câu vừa rồi ý nghĩa siêu thoát lắm! Không biết ngài có nhận được mùi thiền trong ấy chăng?

Ðông Pha không đáp, yên lặng tủm tỉm cười. Ðoạn, hai người cùng rót rượu để tán thưởng cho nhau và sắp sửa vào tiệc. Nhưng, Phật Ấn thiền sư đã dở ván, từ dưới khoang thuyền chun lên, vừa đọc lớn:

Phù bản bác khai
Phật Ấn xuất lai
Nhơn yên sưu tai?
Nhơn yên sưu tai?

(Ván lót dở cao, Phất Ất ra mau
Người giấu được nào? Người giấu được nào?).

Ðọc xong sư điềm nhiên ngồi chễm chệ trước tiệc, quơ đũa không mấy chốc, thức ăn đã hết sạch. Sơn Cốc và Ðông Pha dở khóc dở cười, nhìn nhau ngơ ngẩn. Những việc trớ trêu tương tự như thế, thường xảy đến với Tô Ðông Pha, nhưng cũng do đấy, ông càng nghĩ càng khâm phục sư Phật Ấn.

Khách đa tài phần nhiều hay đa tình, Ðông Pha có bảy người thiếp rất đẹp. Một hôm, trong cơn đàm thoại, Phật Ấn thiền sư bảo ông rằng:

- Tôi nghe ngài có nhiều thê thiếp, mà tôi lúc này thiếu người hầu hạ, không biết ngài có vui lòng cho tôi mượn một nàng không?

Ðông Pha cười nói:

- Hòa Thượng đã muốn, tôi đâu dám chẳng vâng lời.

Sau khi về đến nhà Ðông Pha cho gọi thiếp thứ bảy ra bảo:

- Hôm nay, Phật Ấn thiền sư hỏi tôi mượn một cô hầu. Vậy nàng hãy sửa soạn để đi đến chùa cho sớm.

Người thiếp tỏ vẻ không bằng lòng, thưa:

- Ông ấy đã tu hành, sao còn nói gở như thế?

Ðông Pha bảo:

- Người quân tử đã hứa, tất phải nhớ lời. Nàng nên vì tôi chịu phiền đi đến xem Hòa Thượng sử sự ra sao?

Khi người thiếp đến chùa, Phật Ấn thiền sư ra tiếp, đưa vào cho an nghỉ một phòng. Ðoạn, sư bắt bảy cái lò gần đấy, quạt lửa than cháy đỏ rồi suốt đêm bước qua bước lại trên lò. Sáng ra, thiền sư bảo xa phu gác xe đưa mỹ nhân trở về. Sau khi về đến nhà, người thiếp thuật rõ lại hành vi của sư Phật Ấn trong đêm vừa qua. Ðông Pha nghe xong, thầm nghĩ: “Ðây chắc là thiền sư ngụ ý bảo: ta có bảy nàng hầu như bảy lò lửa, hành vi bước qua có phải tỏ rằng mình đã thoát khỏi vòng ái dục rồi chăng?” Nghĩ đến đó, ông dường như tỉnh ngộ.

Về sau, do sự hóa độ của Phật Ấn thiền sư, Tô Ðông Pha lần lần hồi tâm trở về với đạo Phật. Khi lớn tuổi, ông mướn thợ vẽ một bức tượng A Di Ðà, đi đâu thường mang theo mình. Có ai hỏi, ông đáp:

- Bức tượng này là công cứ của tôi đấy.

Giữa Phật Ấn và Ðông Pha còn lắm đoạn kỳ quan. Theo lời truyền thuyết ở các sách tàu, Tô Ðông Pha là thân sau của giới thiền sư, cũng là bạn đồng tu học của vị tăng núi Vân Cư từ kiếp trước. Trong tiền thân Phật Ấn thiền sư đã đắc đạo. Ngài tái sanh làm vị tăng với mục đích nhắc nhở người bạn tiền duyên trở lại con đường giác ngộ. Ðiều này, nên tin hay không ở đây không thành vấn đề bàn luận. Chúng ta chỉ nên biết rằng hành vi của ngài Phật Ấn không những có ý nghĩa với Tô Ðông Pha, mà với tất cả bao nhiêu người đồng tâm trạng, cảnh ngộ như ông.

TRÍ HIỀN


Thanked by 2 Members:

#34 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 08:52

34. Thiếp nguyện hai điều

Túp lều xiêu vẹo ấy, cô lập bên triền đồi thấp, sau đồi là một dãy trường sơn.

Ðây là gia đình của hai mẹ con thiếu phụ nghèo, sống với nghề trồng hoa. Nhưng tiếp luôn mấy năm hoa bị mất mùa và hư luôn cả giống. Gia đình trở nên túng thiếu, đến nỗi người con gái của thiếu phụ nay đã 16, 17 tuổi mà áo xống không đủ che thân. Người mẹ hy sinh cho con, bà thường xuống núi làm thuê và dặn con đừng ra đường.

Hôm ấy, vua nước A Kỳ La Nại đi săn, khi ngang qua đồi của Trinh Nữ (tên người con gái) bỗng một con chim ưng rất lớn, đậu ngay trên chòi tranh, tiếng kêu thanh thót, vua giương cung bắn, chim chết rơi ngay vào nhà nàng, thấy quan quân vào tìm chim, Trinh Nữ hổ thẹn, núp kín trong cửa và cầm chim quăng ra. Trong đám quân hầu, có vị tướng sư khi vào lượm xác con chim, thoạt nhìn cánh tay của bần nữ rất đẹp. Ông tấm tắc khen ngợi, biết không phải người thường.

Năm sau Hoàng hậu băng hà, vua sai sứ tìm người đức hạnh bốn phương. Song mãi chưa tìm được người như ý.

Vị tướng sư nhớ ngày đi săn vào nhà Trinh Nữ, mới đem việc ấy tâu vua. Vua y lời, sai sứ đến tận nhà nàng. Gặp lúc thiếu phụ đi vắng, Trinh Nữ thấy khách đến xôn xao, nàng lại cả thẹn vào núp trong nhà.

Sứ giả đứng ngoài cửa gọi ba, năm lần, nàng không trả lời, thoáng thấy có bóng nàng, mà gọi không lên tiếng, Tướng sĩ cả giận xẵng tiếng:

- Bần nữ có nhà không, ra đây!

Trinh Nữ ở trong nhà nói vọng ra:

- Các ông là ai? Dám đường đột vào nhà con gái, đi ra mau.

Sứ thần bảo:

- Quốc vương sai ta đến đòi nàng, nàng là người hèn hạ, sao dám đuổi sứ nhà vua?

- Quốc Vương đòi tôi có việc gì? Ðòi để trị tội ư? Tôi tuy nghèo hèn, nhưng không làm gì phạm đến phép nước cả, còn nếu đòi tôi để sung vào tam cung lục viện, thì các ông là bộ hạ của tôi, sao dám thất lễ?

Không biết làm thế nào, sứ thần về tâu lại. Vị tướng sư tâu vua:

- Bần nữ không phải người thường, thật đáng ngôi mẫu nghi thiên hạ.

Vua sắc trăm quan sắm đủ lễ nghi, và 500 cung nữ đem xa giá đến đón nàng.

Trăm quan đem xe giá, heo dê... đủ lễ, chuông khánh vang đường. Khi đến túp lều tranh, sứ giả xuống xe, vào làm theo lễ Quốc Mẫu.

Bần nữ theo mẹ ra tiếp sứ và nhã nhặn:

- Cảm phiền quan liêu, ngàn dặm đến đây đón tôi. Tôi tự thẹn mình nghèo hèn thô lậu. Sắc không đẹp bằng hoa Mạn đà, hoa Ưu đàm, tiếng không được thanh tao như đàn cầm, đàn sắc, đức độ không bằng Thánh nhân, trí thức tầm thường, nay phiền quan liêu đến đón, tôi thật cảm kích vô cùng.

Sứ giả và quan Khâm mang đồ sính lễ ra: vàng bạc, ngọc ngà, gấm, nhung, sô nhiễu... 500 thể nữ người dâng áo mão, kẻ mang chuỗi anh lạc và sửa soạn cho nàng xong. Ngắm lại quả là một bậc sắc nước hương trời, lạc loài nơi thôn dã. Phước diện và cử chỉ của nàng thật xứng bậc Mẫu Nghi.

Trinh Nữ cùng mẹ lên kiệu hoa. Xe giá rầm rộ kéo đi như một đạo ngự.

Khi xe giá nàng vừa đến cung vua, thì tự nhiên cửa ngọ môn mở rộng, trong chánh điện có hào quang chiếu sáng, mọi người cho là điềm lành của nước.

Vua mặc triều phục, thân hành ra nghinh tiếp, khi thấy bần nữ sắc đẹp lộng lẫy khả ái, vua rất yêu mến và sanh tâm kính trọng. Năm ngàn phu nhân ra lạy mừng, ai thấy Hoàng Hậu cũng đều sinh tâm kính trọng. Vua sắc phong Hoàng hậu cho nàng ngay. Trinh Nữ vào cung bảy ngày bảy đêm, nàng không ngủ, chỉ vui chơi với các phu nhân và cung nữ. Tâm nàng thanh tịnh không bợn chút nhiễm ô, nên đối với đức vua nàng thường lánh mặt. Vua sai người đến thăm hỏi, và xin ra mắt. Nàng bảo các phu nhân thưa lại:

- Bình sanh tôi có hai điều nguyện: một là được làm Hoàng hậu hai là được gặp Phật. Nay được một, còn một chưa được gặp Phật.

Vua bảo:

- Hoàng hậu cho ta gặp mặt, ta sẽ sai người đi mời Phật cho.

Hoàng hậu:

- Nếu tôi chưa gặp Phật thì tôi chưa thể gặp vua được.

Vua tức mình, thân hành xuống cung Hoàng hậu.

Hay tin vua xuống, Hoàng hậu vào phòng đóng kín cửa.

Vua nổi xung đứng ngoài phòng bảo:

- Ngươi là kẻ hạ tiện, sao dám trái ý trẫm.

Hoàng hậu:

- Vẫn biết thiếp là kẻ hạ tiện, nhưng đã về với Quốc Vương thì thiếp cũng là bậc Mẫu nghi. Nghiệt là thiếp đã nguyện được yết kiến Phật trước, mới gặp vua sau. Vậy xin bệ hạ tha tội cho.

Vua càng tức mình:

- Ta đủ oai thế, nếu kẻ nào trái ý ta, thì cứ như phép nước trị tội.

Hoàng hậu:

- Vua là bậc Chí Tôn cầm quyền trăm họ, song trị tội trăm họ cho đúng đạo. Còn nếu chỉ vì ai trái ý mình thì trị tội, ai vừa ý thì ban thưởng, cái ấy thiếp thấy kẻ phàm phu còn chưa làm thay, huống là thiên tử.

Vua giận lắm hét lên:

- Thuận ý ta thì còn, trái ý ta thì chết!

Hoàng hậu cũng không vừa:

- Thiếp cũng có nguyện của thiếp, nếu được như nguyện thì sống, bằng không như nguyện, thì chết cũng không sợ.

Nghe Hoàng hậu nói quả quyết vua nguôi giận và bỏ nhỏ:

- Thế làm sao gặp Phật được?

Hoàng hậu:

- Ðức Phật hiện ở nước Xá Vệ, nếu thỉnh Phật thì qua thỉnh.

- Trẫm sợ bách quan cười trẫm.

- Sao lại cười? Bệ hạ cứ thỉnh Phật về, Phật thăng tòa thuyết pháp, bách quan được thấy Phật, nghe pháp thì sanh hoan hỷ, đời đời còn được phước đức vô lượng.

- Thôi, Hoàng hậu an tâm, trẫm sẽ sai người sắm đủ phẩm vật để đi thỉnh Phật.

Sắm sửa xong, vua cho người tin với Hoàng hậu để sai người đi. Hoàng hậu bảo:

- Ðức Phật là đấng chí tôn chí thượng, thỉnh Phật thì Ðại Vương phải thân hành đi, chứ không thể ai thay được.

Vua tức lộn ruột:

- Nếu ta đi thỉnh thì ta đi, đây ngươi muốn thỉnh thì ngươi đi, chứ ta không đi.

Hoàng hậu:

- Ðại vương tuy tôn quý, nhưng thiếp nay là vợ của Ðại vương, nếu thiếp đi thỉnh Phật thì sao bằng đại vương đi, nay Ðại vương cố chấp không chịu đi thỉnh Phật thì thiếp không phải là người của Ðại vương.

- Ta với ngươi chưa thành phu phụ, sao gọi là người của ta, ta nhất định không đi.

Biết ý vua đã cương quyết. Nàng làm thinh và từ đấy u sầu bỏ ăn bỏ ngủ.

Vua nghe tin, sợ nàng quyên sinh hoặc trốn đi, nên cho người canh phòng cẩn thận, bốn cửa đều có người coi giữ.

Bỗng một hôm, cung nhân hốt hoảng báo tin là Hoàng hậu biến đi đâu mất.

Vua hoảng sợ, cho người bủa tìm khắp nơi. Trong hoàng cung tiếng khóc như ri, náo động cả nước, vì câu chuyện Hoàng hậu mất tích.

Vua rất hối hận, buồn bã bảo các phu nhân:

- Bởi vì trẫm không chịu nghe lời đi thỉnh Phật, bây giờ biết sao cho thấy được Hoàng hậu. Thấy vua có vẻ hối hận, đệ nhị phu nhân tâu:

- Hoàng hậu thật không phải người thường. Nên đã biến hình ẩn tích đâu đây, nay sự việc đã như vầy, thì theo ý thiếp, Ðại vương nên thân hành đi thỉnh Phật, may ra nhờ oai lực của Phật mà Ðại vương có thể gặp lại Hoàng hậu cũng nên.

Vua đành nghe lời và sắm sửa xe giá lễ vật rồi thân hành qua nước Xá Vệ.

Khi đến nơi, vua đảnh lễ, bạch Phật:

- Ðệ tử là quốc vương nước A Kỳ La Nại, tên A Ca Ðạt Lưu xin đảnh lễ yết kiến Ðức Thế Tôn.

Ðức Phật rất hoan hỷ và hỏi thăm quốc dân, quốc sự được yên ổn thái bình chăng?

Vua bạch:

- Ðệ tử nhờ đức độ của Tiên vương để lại, nên dân sự được yên ổn. Nay đệ tử đến đây yết kiến Như Lai và thỉnh Phật từ bi khuất thần qua nước hèn của đệ tử, để cho trăm họ được chiêm ngưỡng.

Ðức Phật hứa khả. Vua về rồi, Ðức Phật liền vận thần thông qua nước A Kỳ La Nại.

Vua cùng văn võ ra khỏi thành mười dặm, cung thỉnh Phật vào cung lên pháp tòa. Vua cùng đình thần cùng cung nhân thể nữ đều ra đảnh lễ Phật.

Gặp Phật, vua càng nhớ lại Hoàng hậu, nên tâm hồn vơ vẩn đâu đâu.

Ðức Phật hiểu ý liền hỏi:

- Như Lai thấy được trong lòng đại vương không vui, phải chăng vì Hoàng hậu mất tích?

Vua đem sự tình đầu đuôi bạch Phật.

Ngài mỉm cười liền lấy tay chỉ. Vua theo ngón tay Phật thì quả nhiên thấy Hoàng hậu đương phủ phục một bên của Ðức Phật: đồng thời mọi người đều thấy. Tất cả hoàng cung rất vui mừng.

Vua và Hoàng hậu cùng thiết trai cúng dường.

Phật thọ trai xong. vua đảnh lễ và bạch:

- Hoàng hậu xuất thân trong gia đình bần tiện, nay lại được làm Mẫu nghi thiên hạ, lại có thần thuật ẩn hiện như các vị La Hán, là do nghiệp báo, và phước duyên gì?

Ðức Như Lai mỉm cười rồi thuật lại tiền kiếp:

- Hoàng hậu từ kiếp xa xưa, vốn người nước Ca La Việt, là một vị trưởng giả giàu có, sang trọng vô cùng. Nhưng tánh lại xan lẫn keo kiệt, bà lại bóc lột, lấn công lấn của... của kẻ khác, không hề cho ai một đồng nhỏ, lại áp chế hiếp đáp đồng loại. Vì nhân keo kiết, bóp chặt, lấn hiếp người nên nay bị quả báo nghèo khổ bần tiện. Song Ca La Việt tánh ưa đọc sách, học hỏi nên nay được trí tuệ hơn người.

Sau được gặp chánh pháp mới biết cúng dường, nhưng tâm chỉ ưa cúng dường mà chẳng chịu bố thí, sau nhờ gặp thiện tri thức khuyến hóa lần lần bớt niệm xan lẫn. Ca La Việt và Ðại vương là hai người thân thiết, nay thành phu phụ. Ðại vương bảy phen sanh loài trời, Ca La Việt bảy phen làm tiên nữ. Ðại vương bảy phen sanh vào kiếp nhân gian, Ca La Việt cũng nguyện sanh theo. Hai người kiếp kiếp theo nhau, nguyện đồng sanh tử. Và cuối cùng được gặp Như Lai nên đều được giải thoát.

Vua nghe Ðức Phật dạy tiền sự của mình, thì rất vui mừng đảnh lể Phật và phát nguyện thọ lãnh năm điều cấm giới, lấy mười điều thiện để dạy muôn dân.

Hoàng hậu mở ba kho báu giúp dân nghèo, và mở trường dạy phụ nữ những nghề nghiệp thiện, nhất là trau dồi tư tưởng và hành động trong sạch. Những ngày trai tiết Hoàng hậu tu “Bát quan trai” và luôn luôn tập cho cung nhân tu các hạnh lành, nhờ đức độ của Vua và Hoàng hậu nên ngoài trăm họ được an cư lạc nghiệp, trong muôn lòng hòa thuận tin yêu.

Một hôm Vua cùng Hoàng hậu nhân xem hoa quỳnh nở. Hoàng hậu bỗng giác ngộ thế sự mong manh nên liền xin Vua xuất gia.

Vua bảo:

- Ái khanh là bậc mẫu nghi thiên hạ, nay cạo đầu làm sa môn, trẫm sợ trăm quan chê cười.

Hoàng hậu tâu:

- Trước thiếp đã có vô số bậc mẫu nghi, nhưng khi chết chỉ đem theo một mớ tội lỗi của nghiệp phú quý, thiếp nghĩ mà ghê sợ. Vì vậy thiếp chỉ lo vua Diêm Vương không nể mặt, chứ chẳng sợ trăm quan chê cười. Huống nữa, xưa nay kẻ nữ nhân như lửa dữ, như rắn độc... Người trí sợ nữ nhân như rắn độc, lửa dữ, vì sao? Rắn độc, lửa dữ chỉ hại sắc thân một đời, nữ nhân làm hại muôn kiếp trầm luân, sống thì mất thanh danh, chết thì làm quỉ ô uế. Chính thiếp tiền thân một kiếp xa xưa cũng là nam tử, song chỉ vì mê ly nữ sắc nên vô lượng kiếp trở lại nữ nhân. Nữ nhân thật đáng sợ vậy.

Biết ý chí cương quyết của Hoàng hậu, vua phải bằng lòng.

- Khanh là người tiên cốt, nay lại ngộ được Phật tâm, quyết chí ly trần, trẫm xin tùy hỷ. Trẫm tự thẹn mình là nam tử, nhưng chót lỡ vương mang ngôi báu bên mình. Vì thái tử còn nhỏ mà quý phi chưa phải là bậc đảm đang quốc sự được. Chứ thật ra huỳnh bào ngọc ấn nặng nề triền phược, làm sao bằng một mảnh cà sa?

Ðược lịnh vua cho xuất gia, Hoàng hậu liền triệu tập tất cả Thái tử, quý phi, cung nữ... rồi dịu dàng dạy vẻ ân cần:

- Nhất là việc trau dồi tâm đức, bỏ các việc ác, làm các hạnh lành và thừa sự quốc vương nuôi dạy thái tử... ta nguyện sớm thành Chánh giác sẽ trở về độ các ngươi.

Ba ngàn cung phi đều cảm động, khóc rống lên, tiếng ảo não trong hoàng cung thấu đến cõi trời Ðao Lợi, vua Ðế Thích thân hành đem cà sa và bình bát xuống cúng dường.

Hoàng hậu tức thời rụng tóc, liền thành Sa môn, thân mặc cà sa vận thần thông giữa hư không.

Tất cả hoàng cung rất đỗi kính phục. Vua A Ca Ðạt Lưu thấy vậy hoan hỷ kính tán:

- Hoàng hậu phước đức đồ sộ như núi diệu cao, trẫm rất vui mừng.

THÍCH NỮ THỂ QUÁN

“Phật động lòng thương kiếp đọa đầy

Hóa thân làm tuyết bốn trời bay

Kết hoa sáu cánh sen mười trượng

Giọt tịnh bình xoa dịu đắng cay”.



Thanked by 2 Members:

#35 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 08:57

35. Công đức cúng dường Xá Lợi

Ngày xưa, trong thời kỳ giáo pháp Ðức Phật Ca Diếp, lúc ngài đã nhập niết bàn, các Phật tử quyết định kiến tạo một bảo pháp bằng vàng thật vĩ đại, chiều cao một do tuần, để tôn thờ Xá Lợi của Ngài.

Thuở ấy, có một tín nữ ngoan đạo. Nàng sống thật hạnh phúc dưới mái ấm gia đình, tất cả tình thương nàng đều dành cho cô con gái xinh đẹp và ngoan ngoãn của nàng tên là Sê Sa Va Ti. Trong các dịp lễ lớn nàng thường cùng cô con gái đến dâng hương lễ Phật. Một hôm đến chùa thấy thợ bạc nấu vàng cho chảy ra, rồi đúc thành từng viên gạch một, cô con gái lấy làm ngạc nhiên hỏi mẹ:

- Thưa mẹ, thợ bạc đúc vàng thành viên gạch để làm gì?

Người mẹ đáp:

- Người ta đúc vàng thành gạch, xây cất bảo tháp để tôn thờ Xá Lợi của Phật.

Sê Sa Va Ti nghe mẹ bảo như thế rất hoan hỷ, nàng phát tâm trong sạch với Ðức Phật. Nàng thưa với mẹ:

- Thưa mẹ, con muốn hùn phước bằng sợi dây chuyền nơi cổ con để góp phần vào việc xây dựng bảo tháp, mẹ nghĩ sao?

Nghe con phát tâm bồ đề như thế, người mẹ đáp:

- Lành thay, lành thay, thật quý báu, mẹ vô cùng hoan hỷ trước sự phát tâm của con gái yêu quý của mẹ.

Nàng liền đem sợi dây chuyền đến hùn phước.

Kiếp đó, khi nàng lâm chung, nhờ phước báo cúng dường sợi dây chuyền để xây bảo tháp, nàng được thọ sanh vào cõi trời, hưởng lạc thú nơi tiên cảnh.

Ðến thời giáo pháp Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, nàng giáng trần thọ sanh trong xứ Na Lan Ðà tên là Sê Sa Vát Ti. Tuy mới 15 tuổi nhưng dung nhan thật diễm lệ, tánh tình lại ngoan hiền, nàng được mọi người yêu mến.

Cũng tại xứ Na Lan Ðà, có một vị Trưởng giả đang giàu có, bỗng trở nên nghèo khổ, vì bao nhiêu ngọc ngà, châu báu thọ hưởng cha mẹ để lại đều biến thành đá.

Một hôm, ông trưởng giả nghĩ ra phương cách, làm cho những viên đá vô dụng kia sẽ trở thành châu báu như cũ. Ông bèn đem những viên đá ra chợ bán với niềm tin nếu gặp người có phước đức, tất cả những viên đá này sẽ trở thành châu ngọc.

Ngày kia nàng Sê Sa Vát Ti vâng lời mẹ, đi chợ mua dầu. Khi bước vào chợ, cô trông thấy một gian hàng trưng bày toàn vàng bạc châu báu chiếu sáng rực rỡ. Sê Sa Vát Ti bước đến gần để xem cho kỹ và ngạc nhiên cô hỏi người chủ hàng:

- Thưa ông chủ, vì lẽ gì mà ông đem vàng bạc, ngọc ngà chất đống trên sập này như vậy. Ðáng lẽ, tất cả những của này phải gìn giữ cẩn thận trong tủ, trong kho mới phải.

Ông trưởng giả nghe vậy, lấy làm mừng rỡ, biết rằng đã gặp được người hữu phước. Ông không vội trả lời mà hỏi lại Sê Sa Vát Ti:

- Cô em ở đâu? Con cháu của ai?

Sê Sa Vát Ti lễ phép đáp:

- Thưa ông, cháu là con của một người nông dân ở xứ này.

Ông trưởng giả vội vàng gom góp tất cả vàng bạc ngọc ngà cho vào bao, rồi mời Sê Sa Vát Ti cùng về nhà ông. Ðến nơi ông mới giải thích với nàng:

- Trước đây, tôi là một vị trưởng giả giàu sang bậc nhất trong xứ này. Nhưng bỗng nhiên tôi trở thành nghèo khổ, vì tất cả châu báu của tôi đều biến thành đá cả. Vì thế, tôi mới đem một số đá này ra chợ với hy vọng tìm người hữu phước, tất cả của cải này kể như cho cô em hết, vì cô em là người đầy đủ phước đức, xứng đáng được hưởng tài sản này.

Nói xong, ông trưởng giả hướng dẫn nàng Sê Sa Vát Ti đến kho chứa vàng bạc châu báu cho nàng xem. Khi đến nơi, nàng chỉ nhìn qua, tất cả của cải đều hoàn lại thành châu ngọc lóng lánh muôn màu như cũ.

Sau đó, ông trưởng giả và Sê Sa Vát Ti trở về nhà luôn dịp để diện kiến song thân nàng, ông trưởng giả kể lại cho cha mẹ Sê Sa Vát Ti nghe. Sau cùng ông ngỏ lời xin được chọn nàng làm con dâu. Phụ thân của Sê Sa Vát Ti hết sức hân hoan trước lời cầu hôn của ông trưởng giả nên tán thành. Rồi những thiệp hồng mang tin vui đến thân bằng quyến thuộc. Nhà cửa được trang trí treo đèn kết hoa rực rỡ. Ngày vu quy, Sê Sa Vát Ti lên xe hoa trong tiếng pháo đì đùng.

Nàng sống hạnh phúc bên chồng và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ chồng.

Cũng trong thời gian ấy, dân chúng trong khu vực sông Hằng sống yên vui dưới ánh đạo vàng của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nơi đây, đạo nghĩa trọng hơn bạc vàng. Hình bóng của bậc tu hành được tôn kính hơn quyền chức. Trong hàng môn đồ của Ðức Phật, có Tôn giả Xá Lợi Phất là vị đại đệ tử đức hạnh và trí tuệ tuyệt vời.

Một hôm, sau buổi thiền định, Ngài nhận thấy tuổi thọ của Ngài sắp hết. Ngài vào đảnh lễ Ðức thế Tôn, từ giã và xin phép về xứ Na Lan Ðà để nhập niết bàn nơi đây, đồng thời cũng để tế độ song thân của Ngài hãy còn lầm lạc trong vòng tà kiến ngoại đạo.

Về đến Na Lan Ðà, đại đức Xá Lợi Phất sau khi thức tỉnh được song thân trở về với chánh pháp, nương tựa dưới bóng mát Phật, Pháp, Tăng, Tôn giả liền nhập niết bàn ngay trong phòng mà Ngài đã chào đời.

Sau một tuần lễ để cúng dường và chiêm ngưỡng, chư Phật tử quyết định lễ hỏa táng di thể của Ngài Xá Lợi Phất thật long trọng và trang nghiêm.

Khi ấy nàng Sê Sa Vát Ti đã có mang đứa con đầu lòng của nàng hơn chín tháng. Lúc hay tin lễ hỏa táng nhục thân của vị Tôn giả mà nàng hằng kính mến sắp cử hành, Sê Sa Vát Ti liền xin phép cha mẹ chồng đến tế lễ trước kim quan.

Cha mẹ chồng tìm đủ lý lẽ để cản ngăn vì biết rằng nàng cũng sắp sinh nở. Nhưng Sê Sa Vát Ti có ý chí và đức tin vững mạnh, nàng cương quyết vì tín ngưỡng tham gia cuộc lễ, cuối cùng ông bà trưởng giả phải vị nể tán thành.

Nàng cùng những gia nhân thân tín, mang lễ vật đến hoa đài, nơi đang quàng kim quan của đại đức Xá Lợi Phất.

Khung cảnh hoa đài lúc ấy rất náo nhiệt, dân chúng chen chúc lễ bái lần cuối cùng trước khi hỏa táng.

Nàng Sê Sa Vát Ti cùng đoàn tùy tùng mang lễ vật đến, nàng được mọi người nhường lối đi, vì trong xứ ai cũng kính mến nàng giàu lòng nhân ái và đức hạnh. Nàng bày lễ vật trước kim quan rồi thành kính dâng cúng.

Nhờ phước báo này, sau khi lìa trần, Sê Sa Vát Ti được thọ sanh vào cung trời Ðao Lợi. Nàng hưởng an vui hạnh phúc trong một cung điện bằng vàng cẩn ngọc vô cùng tráng lệ có hàng chư thiên nữ hộ giá.

Ngày nọ, tiên nữ Sê Sa Vát Ti chợt nhớ đến tiền kiếp của mình, nàng hiện xuống Kỳ Viên tịnh xá, yết kiến Ðức Thế Tôn.

Lúc ấy Ðức Thế Tôn đang tiếp kiến đại đức Va Bha Sa Gi The Ra, bỗng thấy hào quang muôn sắc, chiếu sáng thật xinh đẹp, rồi tiên nữ Sê Sa Vát Ti xuất hiện đảnh lễ Thế Tôn, bà thuật lại đầy đủ chi tiết về tiền thân của mình.

Nhân cơ hội ấy, Ðức Thế Tôn thuyết một thời pháp tán dương công đức sự cúng dường Xá Lợi Phất.

GIỚI ÐỨC

“Bố thí là kho châu báu thường theo người.

Bố thí là nhóm điều vui, trừ đau khổ”.





Thanked by 1 Member:

#36 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 09:02

36. Gọi Phật bằng bạn

Một mùa an cư, sau khi mãn hạ, Ðức Thế Tôn du hành một mình thăm viếng các trú xứ của những Tỳ kheo, để biết lối sống của họ, việc tu hành tiến thoái của họ. Chính nhân những cuộc du hành này mà đã có lần Ngài tâm sự với thị giả Nàgita :

- Này Nàgita, mỗi khi đi ngang một làng mạc mà thấy một am cốc của Tỳ kheo, thì dù vị ấy đang ráo riết thiền tọa, Như Lai vẫn không hài lòng về trú xứ của vi ấy. Vì Sao? Vì vị ấy có thể bị phụ nữ, trẻ con, người lớn trong làng đến phiền nhiễu, tán chuyện, làm cho vị ấy không thể chứng đắc những pháp chưa chứng và có thể thối thất những pháp đã chứng. Trái lại mỗi khi trông thấy một vị Tỳ kheo ở trong rừng, dưới gốc cây, thì dù vị ấy đang tựa gốc cây mà ngủ gục, Như Lai vẫn hài lòng, nghĩ rằng: Tỳ kheo này sau khi hết cơn buồn ngủ, có thể tiếp tục tọa thiền không bị ai quấy rối. Y sẽ chứng đắc những pháp chưa chứng đắc.

Trong cuộc du hành chúng ta đang nói đến, khi Ðức Thế Tôn đi ngang một làng nọ thì trời đã sẩm tối. Ngài ghé vào một nhà thợ gốm xin trú ngụ. Không một ai biết đấy là đấng giác ngộ, vì Ngài làm như một vị tỳ kheo thông thường giản dị, không có tùy tùng thị giả. Ngài ngỏ lời với thợ gốm:

- Này thợ gốm, tôi có thể nghỉ lại nhà người một đêm không?

Thợ gốm nhìn Ngài đáp:

- Sa môn muốn ở lại cũng được, nhưng đã có một vị xuất gia đến trước cũng đang nghỉ tại đây. Xin hiền giả hãy ngỏ lời với vị ấy, nếu ông ta đồng ý thì hiền giả cứ tự nhiên.

Ðức Thế Tôn bước vào trong gặp một tỳ kheo trẻ đang ngồi, Ngài hỏi:

- Hiền giả, tôi muốn ở lại đây một đêm, có phiền gì cho người chăng?

- Ồ thưa hiền giả, không có gì phiền. Nhà thợ gốm rất rộng.

Thế Tôn bèn trải thảm cỏ, ngồi kiết già. Vị Tỳ kheo cũng ngồi kiết già ngồi tọa thiền cho đến quá nửa đêm. Ðức Thế Tôn quán sát cử chỉ của Tỳ kheo thanh niên ấy, lấy làm hài lòng. Ngài nghĩ: “Thanh niên này có những cử chỉ tín thành. Ta hãy hỏi chuyện y”. Và Ngài mở lời:

- Này bạn, nhân danh ai mà bạn đã từ bỏ gia đình, sống đời khất sĩ? Ai là thầy của bạn?

Tỳ kheo đáp:

- Ồ bạn ơi, có Sa môn dòng họ Thích Ca đã từ bỏ ngai vàng để trở thành một ẩn sĩ. Thiên hạ đồn rằng Ngài đã đạt Chánh Giác, được tôn xưng là Phật, Thế Tôn. Chính nhân danh con Người cao cả đó mà tôi đã xuất gia. Bậc Thế Tôn ấy là Ðạo sư của tôi. Tôi thích sống như Người.

- Vậy con người cao cả đó, Ðức Phật, Thế Tôn ấy, bây giờ ở đâu?

- Này bạn, có một đô thị ở phía bắc gọi là Xá Vệ, chính nơi đó Ðức Thế Tôn đang ngự tòa.

- Bạn có khi nào bạn thấy đấng Thế Tôn ấy chưa? Bạn sẽ nhận ra Ngài nếu gặp Ngài không?

- Bạn ơi! Làm sao tôi có được cái diễm phúc ấy? Tôi chưa bao giờ trông thấy Ngài, chỉ mới nghe danh của Ngài thôi. Nhưng chính vì Ngài mà tôi bỏ tục xuất gia, sống đời không nhà. Tôi chưa được gặp Ngài thì làm sao mà nhận ra Ngài được?

Ðức Thế Tôn suy nghĩ: “Thanh niên này đã nhân danh ta mà xuất gia. Vậy ta hãy thuyết pháp cho y”. Rồi Ngài dạy:

- Hỡi khất sĩ, tôi sẽ giảng pháp cho bạn, hãy lắng nghe.

- Ðược bạn cứ nói đi.

Ðức Thế Tôn thuyết pháp cho vị Tỳ kheo ấy về cấu tạo của con người gồm bốn đại, năm uẩn, trong đó không có cái gì là ta hay của ta, toàn là những kết hợp vay mượn bên ngoài, biến chuyển luôn luôn để đi đến hoại diệt. Do nhận thức chân chính ấy, khi mắt tiếp xúc với sắc, tai với âm thanh... và những cảm thọ như dễ chịu, khó chịu... vị Tỳ kheo không tham đắm, không ghét bỏ vì quan sát những cảm thọ ấy không phải là ta, không phải của ta. Vị ấy sẽ có thái độ “huệ xã” (giải thoát nhờ trí huệ) không còn vọng tưởng được sự bất động. Khi dứt được những vọng tưởng như vậy, vị Tỳ kheo ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh.

Ðức Thế Tôn dùng âm thanh vi diệu như tiếng hót chim Ca Lăng Tần Già để thuyết pháp cho vị Tỳ kheo ấy, khích lệ ông, làm cho ông hân hoan phấn khởi với những lời pháp của Ngài, như thể được nếm vị cam lồ bất tử. Nghe xong thời pháp của Thế Tôn, vị Tỳ kheo biết ngay đấy chính là đấng A La Hán Chánh Ðẳng Chánh Giác ông đang ngưỡng mộ tôn thờ. Ông sửa lại y, quì gối chắp tay bạch:

- Bạch Thế Tôn, con thật ngu si đã gọi Ngài là bạn. Xin Thế Tôn cho con sám hối tội lỗi.

- Này Tỳ kheo, vì ngươi không biết nên không gọi là tội lỗi.

THÍCH NỮ TRÍ HẢI

“Ai lơ lửng như thuyền nan không bến

Ai hận đời không một chút tình thương

Ai thấy mình sao lạnh lẽo thê lương

Mơ kiếp sống đượm mùi hương giải thoát

THÌ ÐÂY:

Mắt Thế Tôn nhìn xa ngoài muôn dặm

Lòng Thế Tôn như bể thẳm xanh màu

Tay hiền từ đốt đuốc giữa đêm thâu

Với pháp nhũ đầy vàng châu cảm mến”.





Thanked by 1 Member:

#37 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 09:12

37. Ðạo trời báo phục

Ở đất Tân Châu, thuộc huyện Cổ Thành, có một người họ Trương, tên Thiện Hữu, thường ngày ăn chay, niệm Phật, hay bố thí rộng rãi, ai cũng khen là người hiền đức. Vợ ông họ Lý, tên Trương, người ta thường gọi là Lý thị, lại là người tính tình thô bạo, kiến thức hẹp hòi, chỉ thích thu vào mà không muốn bỏ ra một đồng một cắc. Ðôi vợ chồng tính tình xung khắc, nhưng ăn ở thuận hòa, biết nhường nhịn lẫn nhau. Họ chẳng có con cái, nhà ít người, nên xài phí chẳng tốn kém gì nhiều. Với huê lợi thu được quanh năm, họ dành dụm để riêng được một số tiền từ hai đến ba trăm quan tiền, đem cho vay lấy lời. Cuộc sống của họ do đó có bề sung túc, chẳng phải lo lắng khổ nhọc.

Ở cách nhà họ chừng mười dặm đường, có một người đàn ông tên là Triệu Ðình Ngọc, nhà nghèo nhưng ăn ở tốt. Khi mẹ chết, anh ta chẳng có tiền làm đám tang. Anh ta nghe phong phanh Trương Thiện Hữu là người dư bạc dư tiền, liền có ý nghĩ muốn đến ăn trộm một mớ để lo đám tang cho mẹ.

Anh ta suy đi tính lại, lưỡng lự đến hai ba ngày. Rồi một đêm kia, anh ta lén đến nhà họ Trương đào một lỗ hổng dưới chân tường, lấy được một số tiền năm sáu chục lượng bạc. Về nhà, anh ta nhờ người chọn một ngày lành, làm lễ mai táng mẹ. Anh ta mua gạo, nếp, nhang, đèn, chuẩn bị mọi thứ hết sức đầy đủ, gửi giấy báo tang khắp hết bà con, thân thích, bạn bè, mướn dàn nhạc, nhà giàn. Rồi anh ta tự mình mặc sô gai, làm đám tang mẹ vô cùng trọng thể.

Ðôi khi nghĩ lại việc làm bất chính của mình, anh ta cho mình vốn không phải là một tên trộm, mà chẳng qua là không có tiền chôn mẹ, nên trong phút chốc trót quên lời dạy của người xưa “Bần nhi bất khả phú tang” (người con trai nghèo không nên chôn cất theo lối nhà giàu). Dẫu sao, anh ta cũng thấy mình đã làm một việc trái với lương tâm và lẽ phải, là đi ăn trộm tiền bạc của kẻ khác!

Trong khi anh ta nghĩ thầm như vậy, thì ở nhà Trương Thiện Hữu sau khi đêm bị mất trộm, sáng ngày Thiện Hữu phát giác ra, mình đã bị lấy mất năm sáu chục lượng bạc. Ông liền nghĩ thầm: “Tiền bạc, của cải là phù vân, nay tụ mai tán. Mất phần này, được phần khác, chẳng nên lo rầu!”.

Nghĩ như vậy, ông thản nhiên, không buồn giận, tự an ủi lấy mình rằng: “Sự việc phải như vậy thôi! Lời tục thường nói: “Nếu con không chết của không mất, thì trời cũng giáng hỏa tai hay đạo tặc mà thôi”.

Trái lại, vợ ông là Lý thị, với đầu óc cạn hẹp, cứ đau xót trong lòng không nguôi, cằn nhằn luôn miệng suốt ngày:

- Nếu số tiền ấy không bị mất trộm, mình còn làm được bao nhiêu công chuyện. Ðem cho vay cũng lời biết mấy, để mất trộm oan uổng như thế này, tiếc ơi là tiếc.

Một ngày nọ, trong lúc bà ta đang cằn nhằn, bỗng nghe trước ngõ nhà có tiếng trống đánh vang lên, bà ta nghĩ thầm: “Ðây không hẳn là tiếng trống báo thúc thuế, vì tháng này đâu phải là tháng ba hay tháng chín”. Chẳng hiểu ra làm sao, bà ta liền chạy ra ngõ nhìn kỹ thì thấy một nhà sư đi hóa duyên, muốn tìm gặp Trương Thiện Hữu. Bà ta trở vào cho chồng hay. Thiện Hữu bước ra cung kính hỏi han nào là nhà sư từ đâu tới, đến đây có việc gì cần, đi hóa duyên ở đâu về, và làm sao biết đến mình? Nhà sư đáp:

- Bần đạo tu ở chùa Ngũ Ðài Sơn. Từ mấy năm nay, Phật điện bị đổ nát, hết nơi này đến nơi khác tiếp tục xụm xuống. Ngày qua ngày, gió mưa xối xả xuống cả tượng Phật, khiến bần đạo không thể an tâm ngồi ngó cảnh điêu tàn ấy. Nhưng nhà chùa chẳng có lợi tức nào, mà sự tu bổ quá lớn lao, bần đạo không nỡ điềm nhiên ngồi nhìn, bất đắc dĩ phải xuống núi đi khuyến giáo quanh vùng, cầu xin sự giúp đỡ của thiện nam tín nữ quý thiện tâm quân tử, để mong trùng tu lại Phật đường. Bần đạo đã chịu khó lần hồi gom được số bạc một trăm lượng, nhưng vẫn chưa thấm vào đâu. Vả lại, còn nhiều tín chủ thành tâm đóng góp mà chưa thu nhận được, cho nên bần đạo phải đi thu hết các nơi ấy cho xong.

Hiện nay, với số lớn mang theo trong người, bần đạo sợ bọn bất lương biết được mà cướp đoạt mất. Vì thế, bần đạo muốn tìm một nơi tín cẩn, an toàn để gởi nhờ. Tục ngữ có câu “Nhân tâm a thổ bì, thập nhân cửu bất tri” (Lòng người thường giấu dưới da bụng, mười người hết chín người không biết rõ) cho nên bần đạo chưa biết ai để gởi số tiền lớn này. Dọc đường đi, bần đạo nghe người ta đồn tín chủ đây là người chí thiện, ăn chay, niệm Phật, phát tâm làm lành, ai ai cũng đều rõ. Bần đạo quyết tâm tới đây gặp tín chủ để gởi số bạc này tạm thời trong ít lâu. Khi nào bần đạo đã thu góp đầy đủ các nơi, sẽ xin trở lại lấy đi, hợp với số bạc nọ, bần đạo trở vế núi lo tu bổ Phật điện. Bần đạo xin tín chủ cho biết ý kiến thế nào ?

Trương Thiện Hữu đáp:

- Ðó là một việc thiện, xin nhà sư chớ ngại. Nếu nhà sư muốn gởi bạc lại đấy, điều đó cũng như cất vào tủ của nhà chùa vậy. Tôi xin hứa sẽ giữ gìn chu đáo, không có gì sai suyển cả. Lúc nào nhà sư xong việc, xin cứ trở lại đây mà lấy bạc về.

Nói xong, hai đàng kiểm cân lượng của số bạc, niêm phong cẩn thận. Trương Thiện Hữu bèn gọi vợ ra trao tay bảo cất giữ cho thật kỹ. Họ Trương muốn mời nhà sư ở lại dùng cơm, nhưng nhà sư nói:

- Xin đừng lo việc cơm nước, bần đạo cần phải đi ngay, vì nhiều công việc quá gấp rút.

Trương Thiện Hữu nói:

- Tôi đã trao số bạc cho nhà tôi cất giữ. Khi nào nhà sư trở lại lấy nếu tôi đi vắng, tôi sẽ dặn nhà tôi trao lại cho nhà sư chẳng sai.

Nhà sư cảm ơn họ Trương rồi cáo từ ra đi.

Thế nhưng, khi Lý thị cầm được số bạc này trong tay, mụ ta vui vẻ như nở gan nở ruột, tự bảo thầm:

- Tuyệt quá! Tuyệt quá! Thật là hên! Ðêm trước chỉ mất trộm ngót sáu chục lượng, mà nay ông sư này lại mang đến những cả trăm lượng, quả là ta lời gấp bội!

Một hôm Trương Thiện Hữu sắp lên chùa Ðông Ngạc hành hương để cầu xin được cho sanh một đứa con trai đầu lòng, gọi vợ ra dặn rằng:

- Tôi đi vắng rồi, nếu có nhà sư chùa Ngũ Ðài Sơn hôm nọ đến lấy số bạc gởi, dù tôi chưa về đến, bà cũng đem số bạc ấy trao lại cho ông đầy đủ. Nếu ông muốn ở lại nghỉ, bà nên dọn một bữa cơm trưa. Ðó là bà làm một việc ân đức vậy.

Bà vợ đáp:

- Tôi đã rõ cả rồi mà!

Dặn dò xong, Trương Thiện Hữu lên đường. Hai ba hôm sau, nhà sư thu tiền xong, trở lại nhà họ Trương, xin được thu hồi gói bạc.

Lý thị nói:

- Nhà tôi đi vắng. Còn tôi chẳng biết, có ai đến gởi số bạc hay không. Thưa lão sư, lão sư có gõ lầm cửa nhà không ạ?

Nhà sư đáp:

- Cách mấy hôm trước đây, chính tay tôi đã trao số bạc tận tay ông Trương Thiện Hữu, ổng mang vào nhà và nói đã đưa cho vợ ổng cất giữ rồi. Sao hôm nay bà lại nói như vậy?

Lý thị thề nói:

- Nếu chính tôi nhìn thấy số bạc của lão sư thì mắt tôi trào máu ra mà chết!

Nhà sư nói:

- Bà nói như thế là có ý giấu giếm số bạc của tôi rồi.

Lý thị đáp:

- Nếu tôi giấu số bạc của ông, thì xin cho tôi rơi xuống 18 từng địa ngục.

Nhà sư nghe mụ ta thề thốt nặng lời như vậy, biết mụ ta là con người xảo quyệt, có ý trở mặt chiếm đoạt số bạc của mình gởi. Người tu hành chẳng dại đi gây chuyện to tiếng với một phụ nữ, không biết xử lý thế nào, nhà sư liền chắp tay than thở:

- Nam Mô A Di Ðà Phật! Của bố thí kia, bần đạo đã đi lượm lặt từ chỗ này đến chỗ khác, thu góp lại từng đồng từng chữ, tự nguyện không dám tiêu xài, nhịn ăn, nhịn uống để đem về tu bổ Phật đường. Bần đạo đã đem gởi cho nhà bà vậy mà bà dám làm việc mờ ám cả lương tâm, chiếm đoạt bạc của bần đạo, chẳng hề xót thương đến một kẻ tu hành già nua tuổi tác! Dẫu bà có giỏi hành động trong bóng tối, con mắt của các thần linh cũng đã soi thấu. Rồi đây, tuần hoàn báo oán, không ai tránh khỏi đâu, bà ơi!

Than thở, kể lể một hồi, nhà sư bỏ ra đi.

Bốn năm ngày sau, Trương Thiện Hữu đi hành hương trở về, hỏi vợ:

- Nhà sư có trở lại lấy số bạc không?

Lý thị đáp không do dự:

- Sau hôm ông đi một bữa, nhà sư trở lại lấy bạc, tôi đã hai tay nâng túi bạc lên trả cho nhà sư rồi!

Trương Thiện Hữu tin ngay lời vợ. Lời tục có nói: “Lời nói khéo, kéo được lòng”, bởi vậy Trương Thiện Hữu còn khen vợ:

- Chu tất như vậy thì hay lắm!

*

Hai năm sau, Lý thị sanh được một đứa con trai, đặt tên là Khất Tăng. Năm sau nữa, lại sanh thêm một trai, đặt tên là Phước Tăng.

Từ ngày sanh con trai đầu lòng, vợ chồng Thiện Hữu làm ăn càng ngày càng phát đạt, tiền bạc tuôn vào như nước. Khi lớn lên Khất Tăng làm lụng siêng năng, chịu khó thức khuya dậy sớm, ăn xài hết sức tiết kiệm, bòn chắt từng đồng tiền. Chỉ trong mấy năm, cả nhà trở nên khá giả.

Trái lại người con thứ là Phước Tăng tính nết tương phản vô cùng. Anh ta chỉ biết ăn chơi hoang đàng, rượu chè, cờ bạc, xài phí như ném tiền qua cửa sổ, không một chút tiếc nuối. Hằng ngày chủ nợ đến đòi nheo nhéo trước cửa, anh ta vẫn thản nhiên. Thiện Hữu là người biết trọng danh dự, đâu có thể chịu cho người ta đến lăng mạ con trai trước mặt mình! Ông phải dốc tiền ra bồi thường, trả hết kẻ này đến kẻ khác.

Một đàng nhìn thấy công lao khó nhọc của đứa con cả, một đàng chứng kiến sự hoang phí của đứa con thứ, Thiện Hữu hết sức đau lòng. Ông bèn quyết định chia gia tài ra làm ba phần: một phần cho người con cả, một phần cho người con thứ, còn một phần dành cho hai vợ chồng già. Rồi ai lo phận nấy. Kẻ nào phung phá cứ tự do cho tới khi hết của, khỏi phiền lụy đến kẻ khác.

Khi gia tài được chia xong, Phước Tăng phung phí của cải y như lấy nước sôi dội vào nước đá lạnh, như gió mạnh thổi tan mây. Chỉ non nửa năm, tất cả gia sản của cậu ta hoàn toàn hết sạch. Áo quần chẳng còn cái nào lành lặn để mà mặc, không có một túp lều để ở. Vợ chồng Thiện Hữu thấy tình cảnh con thứ như vậy, vừa quá tức giận, vừa đau lòng, muốn bỏ chết cho rảnh mắt. Nhưng, lời người xưa đã nói: “Hùm dữ không ăn thịt con”, hai vợ chồng đành đem phần chia của mình san sẻ dần dần cho con, đến không còn gì hết.

Thế là ba phần gia tài, Phước Tăng đã phá hết hai, lại còn mon men muốn chiếm nốt của anh để xài phá cho sướng tay. Trước hoàn cảnh ấy, Khất Tăng hết muốn gìn giữ gia tài, tức giận không nhịn được, ngã xuống thành bệnh nan y, thầy thuốc không ai chữa được.

Trương Thiện Hữu quá đau khổ, than thở:

- Ðứa con giỏi bệnh nặng, đứa con hư lại mạnh khoẻ. Trong có mấy năm trời, nhà ta phải đến nỗi này! Phải chi đứa con thứ thay chỗ cho đứa con cả thì đâu đến nỗi nào!

Chẳng bao lâu Khất Tăng thở hơi cuối cùng. Vợ chồng Thiện Hữu thương khóc đứa con giỏi giang, cần kiệm, buồn khổ chẳng còn làm gì được. Còn Phước Tăng thấy anh chết lại hết sức vui mừng, thầm nghĩ số gia tài rồi sẽ về mình hưởng trọn.

Lý thị vừa thương con cả, vừa giận con thứ, lòng thổn thức ân hận, khóc từ sáng đến chiều, hai con mắt bật ra máu tươi dầm dề, chẳng bao lâu cũng chết luôn.

Phước Tăng thấy mẹ chết, trong lòng chẳng hề buồn khổ, mà bề ngoài cũng chẳng nhỏ một giọt nước mắt tỏ tình thương xót. Mặc dầu còn đang mặc tang phục sô gai, cậu ta vẫn rong chơi các nơi tửu điếm trà đình, ngày đêm miệt mài trong cuộc truy hoan. Lần hồi kiệt sức, Phước Tăng mang bệnh lao mà chết.

Trong một thời gian ngắn, phải chịu ba cái tang liên tiếp, Trương Thiện Hữu trở nên si dại, lắm lúc tự nghĩ thầm:

- Con cái sinh ra tai quái ấy, ắt phải có tiền căn nào mới khiến gia đình gánh chịu chết chóc thảm thương như thế! Tục ngữ đã có câu: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo!” (làm thiện được trả thiện, làm ác được trả ác). Nếu như việc làm thiện hay ác mà chưa thấy trả, đó là tại chưa đến cái giờ để nhận lãnh đó mà thôi! Hiện tại, cả đời ta chưa hề làm một việc ác nào, mà ngày nay phải chịu trả như thế này?

Trăn trở mãi với cái nghiệp chướng ấy, có lúc Thiện Hữu suy nghĩ:

- Ta đã đi hành hương cầu tự mới sinh được hai đứa con ấy. Thế mà Diêm Vương nỡ rước đi hết cho đành. Ta phải lên Ðông Ngục miếu, tố cáo việc này với thần linh, thử xem sự thực ra sao, kẻo lòng ta vô cùng ấm ức!

Một hôm, Thiện Hữu dậy thật sớm, mua nhang đèn, rồi đi thẳng lên miếu Ðông Ngục. Ðến nơi, ông vào quỳ mọp trước linh vị, khấn vái:

- Tôi là Trương Thiện Hữu, tuổi đã già, trọn đời chưa làm hại ai, luôn luôn thờ kính thần Phật, cứu giúp kẻ khốn cùng. Vậy mà Diêm Vương nỡ đang tâm cướp đoạt mạng sống của vợ con tôi, khiến cho tôi hôm nay phải sống cảnh cô đơn, nghèo khó và già nua như thế này. Tôi thật khốn khổ vô cùng tận, xin cúi lậy thần linh giải giùm nỗi oan ức của tôi. Nếu quả như tôi có tội, tôi cam chịu hết.

Khấn xong, Thiện Hữu khóc rống lên, té nhào xuống đất, bất tỉnh nhân sự. Ông ta nằm yên trong giấc ngủ mê, mơ màng thấy mình đến trước mặt Diêm Vương. Diêm Vương hỏi:

- Này Thiện Hữu, sao lão đến Ðông Ngục miếu tố cáo ta?

Thiện Hữu đá :

- Vì ngài nhẫn tâm đoạt tính mạng hai đứa con và vợ tôi, khiến tôi ngày nay phải trơ trọi khốn khổ như thế này! Bất đắc dĩ tôi phải cầu tôn thần quang minh chính đại xét xử cho tôi khỏi hàm oan.

Diêm Vương phán:

- Hàm oan hả? Lão muốn gặp hai đứa con của lão không?

Thiện Hữu đáp:

- Dạ, tôi hết lòng mong muốn, xin ngài cho phép.

Diêm Vương liền sai quỷ sứ đi gọi ngay hai đứa con của Thiện Hữu. Trong nháy mắt, Khất Tăng và Phước Tăng đến trước mặt cha.

Thiện Hữu vui mừng cực độ, hớn hở quay qua bảo Khất Tăng:

- Con ơi! Con hãy theo cha về nhà đi con!

Khất Tăng đáp:

- Tôi nào có phải con của ông đâu, mà về! Tôi nguyên trước là Triệu Ðình Ngọc, vì lấy trộm của ông mấy chục lượng bạc, nên phải thác sanh vào nhà ông để trả món nợ ấy. Tôi đã đền cho ông thập bội rồi! Tôi với ông có phải là cha con đâu!

Thiện Hữu nghe con cả nói thế, bèn nhẫn nhịn quay qua Phước Tăng nói:

- Anh con đã trở mặt nói nó là người dưng nước lã, vậy thôi con trở về với cha đi con.

Phước Tăng lạnh lùng đáp:

- Tôi cũng vậy, nào phải con ông đâu! Tôi là kẻ đến đòi nợ ông, đòi xong nợ là tôi đi. Có thế thôi!

Thiện Hữu ngạc nhiên to tiếng bảo:

- Mày nói sao? Cả đời tao có vay ai đâu, mà bảo là tao thiếu nợ? Tụi bay không muốn về thì thôi, đừng hòng đặt chuyện!

Phước Tăng cười ngạo mạn:

- Ông có nhớ nhà ông đã đoạt của nhà chùa đến ngót trăm lượng bạc không? Nay lại chối leo lẻo. Nè, sổ sách còn ghi đây! Ông có biết tôi là ai không? Tôi là quỷ La Sát, trước đây nhà sư trụ trì chùa Ngũ Ðài Sơn, đã bị vợ chồng ông toa rập cướp đoạt số bạc mà Hòa Thượng đã khổ công thu thập của bá tánh để làm chùa đấy! Bởi lẽ đó Diêm Vương cho tôi đầu thai vào nhà ông đòi lại, và đã phá tan tài sản của nhà ông cho đúng luật quả báo. Tôi nào phải con ông đâu mà về?

Thiện Hữu nghe nói tới đó liền hoảng hốt, run lẩy bẩy, nói ấp úng:

- Trời ơi! Tôi lại đi cướp của nhà chùa sao? Ðể tôi hỏi lại vợ tôi là Lý thị xem sự thật ra thế nào?

Diêm Vương ngồi trên ngai, biết rõ ý của Thiện Hữu, liền ra lệnh cho quỷ sứ mở cửa hỏa ngục, dẫn Lý thị lên hầu.

Một lát sau, Thiện Hữu thấy Lý thị bước ra, tay chân đều bị xiềng, cổ mang gông, bước chân đi không nổi, bọn quỷ sứ phải nắm dây sắt lôi đi đến trước mặt Diêm Vương.

Thoạt trông thấy vợ, Thiện Hữu kinh hoàng, mồ hôi ra dầm dề, toàn thân nổi da gà, mở miệng hỏi nhỏ:

- Bà đó phải không? Tại sao bà chịu cực hình khốn khổ như vầy?

Lý thị bật khóc, nói:

- Ông nó ơi! hồi ở dương gian tôi đã chiếm đoạt số bạc của nhà sư chùa Ngũ Ðài Sơn. Sau khi chết, tôi đã bị liệng xuống 18 từng địa ngục, chịu xiềng xích, chết lần chết mòn như vầy! Ðau đớn lắm ông ơi!

Nói rồi, mụ ta níu lấy áo chồng, khóc rống lên rất thảm thiết.

Diêm Vương ngồi trên ngai, cầm cái chày linh đập xuống bàn nghe chát lỗ tai. Trương Thiện Hữu giật mình thức dậy, mới biết là mình đã trải qua một cơn ác mộng. Ông hoàn hồn, bình tĩnh một hồi, rồi lau sạch nước mắt suy nghĩ, hiểu rõ nguyên do nghiệp chướng của mình phải trả đúng theo lẽ báo ứng tự nhiên của trời đất.

Sau đó, Trương Thiện Hữu trở về nhà, thu xếp mọi việc xong xuôi, từ giã xóm làng, ăn mặc nâu sồng, vào chùa tu cho đến lúc trăm tuổi già.

NGUYỄN VĂN Y

"Của làm ra để trên gác

Của cờ bạc để ngoài sân

Của phù vân để ngoài ngõ".



Thanked by 1 Member:

#38 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 09:19

38. Ngũ Xú Nương

Thuở ấy tại một xóm nghèo trong khu tồi tàn của xứ Ấn Ðộ, có một cô gái đến tuổi cập kê, mệnh danh là Ngũ Xú Nương vì cô quá xấu. Sắc của cô đủ năm vẻ xấu của mặt mày, hai tay và hai chân nên được mệnh danh là như vậy. Trẻ con mới thấy mặt cô đều phải khóc vì sợ hãi. Nhưng cô có một xúc giác rất êm ái, đến nỗi ai động đến người cô đều cảm thấy khoan khoái vô cùng. Trẻ con thấy cô đều khóc, nhưng được cô ẵm lên thì không muốn rời ra nữa, bởi vì sự xúc chạm đến cô gây cho chúng một cảm giác êm ái lạ lùng, không khác gì được ấp ủ trong vòng tay của mẹ.

Tại sao cô lại chịu một số phận kỳ quái như vậy? Là vì kiếp trước cô là con gái một người thợ gốm nghèo. Một hôm, có vị Tỳ kheo đi khất thực tới nhà, cô đã không cúng dường mà lại xua đuổi vị ấy bằng những lời chua ngoa. Vị Tỳ kheo trước sự ngu si của cô bé động lòng từ bi muốn gieo cho cô một ít phước lành của sự bố thí, bảo cô:

- Nếu cô không có cơm để bố thí thì cho bần tăng một ít đất sét vậy.

Cô gái vào lấy một ít đất sét nắn đồ gốm đem ra cho vị Tỳ kheo mà bảo:

- Ðó! Ði cho khuất con mắt cho rồi. Cái ông lỳ lợm.

Do lời mắng nhiếc và thái độ bực tức của cô khi bố thí, kiếp này cô phải bị quả báo là nhan sắc xấu xí vô cùng. Nhưng do sự bố thí đất sét cho vị Tỳ kheo kiếp này cô được quả báo có một xúc giác êm dịu thần tiên.

Vì quá xấu, nên tuổi đáng lấy chồng mà cô vẫn được nhàn nhã rong chơi với bọn trẻ con suốt ngày trong xóm. Bấy giờ đức vua có thói quen giả dạng thường dân đi vào các khu đông đúc để xem xét dân tình mà chỉnh đốn đời sống của họ. Một hôm vua đến xóm Ngũ Xú Nương vào lúc xẩm tối. Ngũ Xú Nương đang chơi bịt mắt bắt dê với tụi trẻ. Nàng bịt mắt quơ tay chụp bọn nhỏ đang hò la né tránh. Ðức vua giả dạng đi qua bị nàng quơ trúng. Ngũ Xú Nương hớn hở reo lên:

- Thằng Cột!

- Không phải!

- Thằng Kèo!

- Không phải!

Nàng tiếp tục gọi tên năm bẩy đứa đều trật lất, bèn thả tay ra. Trong lúc đó Ðức vua như chết điếng cả người vì sự khoái lạc thần tiên. Ngài chưa bao giờ thưởng thức một sự xúc chạm nào êm ái kỳ diệu như vậy, dù đang sống trong nhung lụa gấm vóc, được đoanh vây bởi vô số cung nữ nhan sắc diễm kiều. Trước sự xúc chạm của Ngũ Xú Nương lần đầu tiên, Ngài bỗng thấy bao nhiêu phi tần đều vô dụng nên cho về vườn hết, Ngài chỉ cần một nàng này là đủ.

Nhà vua giả dạng mặc dù đã được Ngũ Xú Nương thả ra vẫn đứng trơ trơ như phỗng đá ... Không muốn rời chân. Ngài đứng nhìn nàng tiếp tục trò chơi bịt mắt bắt dê trong bóng mờ. Cho tới khi trời tối, bọn trẻ thấm mệt giải tán, Ngũ Xú Nương đủng đỉnh về nhà. Vua lẽo đẽo theo chân cô gái. Vừa đi vừa tưởng tượng nhan sắc của nàng chắc là chim sa cá lặn, vì sự xúc chạm của nàng êm ái như thế. Vua muốn đến tận nhà nhìn cho rõ mặt hơn, nhưng ngài nhất quyết đặt cô gái lên ngôi chánh cung hoàng hậu.

Vừa đi ngài vừa hỏi cô bé (vua vẫn giả bộ thường dân):

- Này em, qua muốn hỏi em về làm vợ, em có bằng lòng không?

Cô bé cười lớn:

- Ha ha! Ông muốn cưới tôi hả? Cha mẹ tôi nghèo lắm, không có gì cho ông đâu! Chưa bao giờ ai hỏi tôi như vậy cả.

- Qua không cần của hồi môn, tiền bạc gia tài chi cả. Qua chỉ muốn sống gần em thôi.

Cô bé vẫn cười nói hồn nhiên, chẳng tỏ chút gì e lệ:

- Ha ha, cái ông này thật kỳ! Ông hỏi mẹ tôi đi. Tôi không biết!

- Vậy em đưa qua về nhà hỏi mẹ nhé?

- Ðược, ông cứ đi theo tôi.

Vua mừng khấp khởi đi theo cô bé về nhà. Vừa bước vô căn nhà lá lụp sụp, cô bé đã gọi lớn :

- Mẹ ơi! Có cái ông này muốn cưới con về làm vợ đây nè!

- Tốt! Thằng nào mà nó mê cái nhan sắc của mày đó, chắc cũng là đồ ma chê quỷ hờn, thần sầu quỷ khốc mới thèm vào cái thứ mày!.

Bà mẹ vừa nói vừa bưng cây đèn dầu đi ra để giữa nhà. Dưới ánh đèn leo lét, vua thấy ra mặt mày Ngũ Xú Nương, thất kinh hồn vía. Nhưng bùa lực sự xúc của nàng vẫn mãnh liệt nơi vua, vua nhất quyết cưới nàng dù nàng xấu hơn Chung Vô Diệm. Trong phút chốc, vua đã định đoạt xong chương trình vì say mê nàng quá đỗi. Chương trình ấy là, hằng ngày sau khi công việc triều đình xong xuôi, ngài sẽ cải dạng thường dân về nhà nàng vào lúc chiều tối, sáng sớm mai trở về cung. Như vậy vua được sống với nàng mà khỏi bị chê cười, ngài chắc chắn nếu rước Ngũ Xú Nương về cung, thì triều đình sẽ cho ngài đã loạn trí mới tuyển vào ngôi chánh hậu một Chung Vô Diệm như thế.

Bởi vậy vua đề nghị với bà mẹ như vầy:

- Thưa bác, cháu muốn cưới cô em này, nhưng cháu chưa có nhà riêng xin bác cho cháu tạm “gởi rể”. Ban ngày cháu đi làm, tối về nhà vợ. Khi nào đủ tiền sắm nhà cháu sẽ đưa nàng đi.

- Ðược, nếu ông chịu cưới nó thì tốt lắm, mà nhà tôi nghèo, ông cũng thấy đó, tôi không có đồng xu nào cho nó đâu!

- Không hề gì, thưa mẹ!

Ðược lời như cởi tấm lòng của hai bên. Từ đó nhà vua tối tối lại về nhà Ngũ Xú Nương. Ngài xem túp lều tồi tàn này còn hơn muôn vàn lầu son gác tía, vì nơi đó ngài được sống với những xúc giác kỳ diệu như ở cõi trời.

Một thời gian khá lâu trôi qua, vua thấy thật bất tiện nếu cứ phải giả dạng lần mò về nhà nàng mỗi chiều như thế. Nhưng ngài không xa Ngũ Nương được. Ngài nghĩ cách đưa nàng về cung lên ngôi hoàng hậu mà khỏi bị ai chê cười là đồ ngu. Bởi thế, ngài bày ra một mưu kế lạ lùng.

Một hôm, Ngũ Xú Nương đang ngồi buồn rầu thì vua về. Ngài hỏi:

- Tại sao em buồn vậy?

- Tại vì cha em bịnh, muốn ăn một bát cháo tôm cua mà em không tiền mua đồ nấu cháo.

- Tưởng là gì! Mai anh sẽ gánh về một gánh cháo tôm cua cho cha, muốn ăn bao nhiêu cũng được.

Vua nhân cơ hội ấy, mua một nồi cháo tôm cua tại nhà bà bán cháo ở chợ, đặt vào một đầu gánh, đầu kia vua lấy cái vương miện quý giá, gắn đầy hột xoàn năm ly của Ngài gói cẩn thận bỏ vào một cái thúng, trên phủ đầy lá chuối. Rồi gánh về nhà cô gái mà dặn:

- Ðây, anh mua cháo tôm cua về cho cha đó. Ðầu gánh này là cháo tôm cua, đầu kia muốn tôm cua rùa ếch cóc nhái chi cũng có cả. Khi nào cần mua thì cứ lấy ra.

Cô gái được nồi cháo thì mừng quýnh, không vội để ý thúng lá chuối kia. Nàng dẹp nó vào một nơi, đem cháo cho cha ăn. Cả nhà cũng được một bữa ăn khoái thích.

Hôm sau trở về cung, vua hô hoán cái vương miện, vật quốc bảo đã biến mất, và ra lịnh các quan phải mở cuộc truy tầm. Triều đình nhốn nháo phái người đi tìm lục soát khắp nơi trong hoàng thành đều không có. Vua đề nghị:

- Trong thành không có thì tìm ra ngoài thành, ở những khu tồi tàn xem kẻ gian có tẩu tán tài sản về đó không.

Ban điều tra vâng lời, lục soát đến khu tồi tàn của Ngũ Xú Nương. Họ vào đến nhà nàng, lục tới thúng lá chuối tìm được cái vương miện, bèn bắt trói cả ông bà. Hai ông bà một mực kêu oan. Quan điều tra hỏi:

- Vậy thì cái thúng này của ai?

- Ðó là của thằng rể tôi đem tới.

- Thằng rể ở đâu?

- Không biết! Hắn nói không có nhà, đi cả ngày tới tối mới trở về đây. Có thể là một thằng trốn lính. Các ông chờ tới tối sẽ gặp.

Ban điều tra ở lại chờ mãi không thấy thằng rể xuất hiện. Bà mẹ cô gái đấm ngực la làng:

- Hắn có lẽ đã nghe động tịnh nên chuồn thẳng rồi! Oan ơi là oan, hỡi trời, hỡi đất!

- Vậy bà hãy tả hình dáng mặt mày thằng rể cho tôi nghe.

- Làm sao tôi thấy rõ mặt mày hình dáng hắn? Nhà nghèo, dầu hôi khan hiếm, tối chỉ thắp một ngọn đèn leo lét một lát là tắt. Thằng rể tôi thì tối mịt mới về khi tôi đã ngủ. Mà có thức thì tối quá cũng không thấy rõ được, mắt già lem nhem.

Họ bèn hỏi tới Ngũ Xú Nương:

- Còn cô, mặt mũi hình dáng chồng cô ra sao, hãy tả ra nghe.

- Tui cũng không thấy rõ được. Ảnh thường về lúc đã tối mịt, đèn lu tui cũng lờ mờ lắm.

- Vậy thì làm sao cô nhận được chồng cô.

- Sờ người thì biết.

Cả ban cười rộ. Họ không biết giải quyết ra sao nên cho người về tâu vua. Vua phán:

- Vậy thì ta đã có cách bắt thủ phạm. Các ngươi hãy trả tự do cho vợ chồng nhà đó.

Vua bàn với các quan rằng, theo lời khai của cô gái, sờ người thì biết được chồng cô. Vậy hãy làm một cái chòi như cái phòng bỏ phiếu ở giữa công trường cho cô gái đứng vào trong, chừa một lỗ vừa thò bàn tay vào thôi. Xong xuôi, hãy bắt tất cả đàn ông ở tuổi có thể lấy vợ, tới đưa bàn tay vào cho cô gái sờ. Gặp bàn tay nào cô gái cho trúng là chồng cô thì đó là thủ phạm đã đánh cắp vương miện. Ðình thần đều cho nhà vua cao kế và thực hành ngay.

Ðúng ngày, tất cả nam nhi từ 18 đến 45 tuổi nối đuôi tới đưa tay cho cô gái sờ. Nhà vua cũng dự cuộc. Sau một ngày, cô đã sờ hàng ngàn bàn tay đưa vào, song không người nào trúng (mỗi người khi được cô gái cầm tới tay đều cảm thấy sung sướng vô ngần, không còn ham muốn gì hơn trên đời này nữa). Cuối cùng, khi nhà vua đưa tay vào, Ngũ Tú Nương la lên:

- Ðây đúng là tay chồng tôi!

Cả triều đình ngơ ngác. Khi ấy họ mới hiểu ra mưu mẹo của vua, bởi vì ai cũng công nhận cái hạnh phúc tối cao do sự xúc chạm của nàng thì chỉ có nhà vua là xứng đáng hơn cả. Vì chính họ cũng quên mất vẻ xấu xí của nàng sau khi được bàn tay nàng sờ đến.

Triều đình tuân lệnh làm lễ tuyển Ngũ Xú Nương vào ngôi chánh cung, mà không còn bận tâm đến vẻ xấu xí của nàng, đồng thời cũng không cho là vua điên, sau cuộc thử thách ấy.

THÍCH NỮ TRÍ HẢI

“Khoái lạc vật chất trong đời sống quả thật vô số kể, vừa êm dịu vừa ngọt ngào và quyến rũ, dưới đủ hình thức dục lạc làm lòng người say đắm, hãy nhận chân hiểm họa của nó. Ðồng thời cũng cho chúng ta thấy: những kẻ có quyền thế thường lạm dụng uy quyền và dùng những mưu mô xảo quyệt để hợp thức hóa dục vọng xấu xa của mình”.



Thanked by 2 Members:

#39 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 10:35

39. Có Niết Bàn không?

Ngày xưa có một con cá, vì nó là loài ở nước, nên dĩ nhiên cuộc đời chỉ sống trong nước, và ngoài nước ra, nó không biết gì hết.

Một hôm nó đang nhởn nhơ bơi lội trong hồ, tình cờ gặp một con rùa mà nó đã quen từ trước, đi du lịch trên đất liền về. Nó liền chào:

- Chào anh! Ðã từ lâu tôi không gặp anh. Vậy xưa rày anh ở đâu?

- Ồ, tôi đi du lịch từ trên đất liền về. Trên ấy mặt đất khô ráo quá!

- Ðất khô? Anh nói cái gì lạ vậy? Tôi chưa bao giờ thấy nơi nào kỳ lạ như vậy. Lẽ nào lại có đất khô?

- Xin thề rằng tôi không nói đùa với anh đâu. Nhưng nếu quả tình anh không thể tin được thì tùy anh, không ai ngăn cản được anh. Nhưng dù sao, tôi cũng mới từ đó về.

- Này, anh cố gắng diễn lại cho hợp lý hơn. Tôi nghĩ rằng: cách diễn đạt của anh chưa được rõ ràng lắm. Anh vui lòng cho tôi biết đất mà anh nói đó, nó giống như cái gì trong thế giới chúng ta nào? Nó có ẩm ướt không?

- Không, nó không ẩm ướt.

- Thế nó có mát dịu và lạnh không?

- Nó không mát, không dịu mà cũng chẳng lạnh.

- Thế nó có trong suốt để cho ánh sáng xuyên qua được không?

- Không, nó không trong suốt và ánh sáng không thể xuyên qua được.

- Thế nó có mềm và dễ bị ép để cho tôi có thể quậy vi và đi lại dễ dàng trong ấy không?

- Không, nó không mềm, không bị dồn ép dễ dàng và trong ấy, anh cũng không thể bơi lội được.

- Thế nó có lưu động và đổ thành thác được không?

- Không, nó không lưu động và cũng không đổ thành thác được.

- Vậy thì nó có dâng lên để tạo thành những mũi sóng bạc đầu được không?

- Không, tôi chưa bao giờ thấy nó dâng lên thành làn sóng cả.

Ðến đây, con cá vênh váo tự đắc than rằng:

- Tôi đã từng nói với anh rằng đất mà anh nói đó là không phải cái gì cả. tôi cũng vừa hỏi anh về đất ấy và với câu hỏi nào anh cũng trả lời rằng không. Ðất anh nói đã không phải bất cứ cái gì tôi nêu ra, vậy thì đất hẳn là ngoan không. Anh đừng tìm cách bịp tôi nữa.

- Tốt! Anh đã quả quyết rằng không có đất liền. Tôi cũng không có cách nào hơn là cứ để anh tiếp tục tin như anh đã nghĩ. Nhưng một mai, có ai khác hơn tôi và đủ sức phân biệt cho anh thấy sự sai khác giữa đất và nước, ngày ấy anh sẽ thấy rằng anh chỉ là một con cá ngốc.

THÍCH THIỆN HOA

“Niết bàn là một cái gì tuyệt đối không dung Ngã. Niết bàn không có hạn lượng, không có nơi chốn, vì Niết Bàn vô tướng – Vô tướng nên khó vào. Muốn vào Niết bàn ta cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc, nên ta không thể mang thêm một hành lý nào mà hy vọng vào Niết bàn được cả. Cái thân ta cũng không mang theo được, mà cả ý niệm về tôi, về ta cũng không thể mang theo được. Cái ta càng to thì càng xa Niết bàn. Nên biết rằng: Hễ Hữu Ngã là luân hồi mà VÔ NGÃ LÀ NIẾT BÀN”.





Thanked by 1 Member:

#40 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 22:37

40. Ân oán

Hồi xưa tất cả cỏ cây và sinh vật đều biết nghe cũng như biết nói. Con người thì có trí khôn, nên được tôn chúa tể vạn vật. Núi rừng trùng điệp bao la, là giang sơn của Chúa Sơn Lâm. Cọp, đứng đầu trong các loài thú dữ, mà theo luật cung cầu là “Vật dưỡng nhân”. Như thường ngày, cọp nương theo đường mòn đi dọc về ngang, bất thần một hôm chui đầu vào rọ! Chiếc bẫy rọ được giương lên, ngụy trang khéo léo của nhóm người đi săn. Bẫy sập xuống nhốt gọn Chúa Sơn Lâm. Cọp cố sức vùng vẫy gào thét, mà không có cách nào thoát ra khỏi bẫy, đành thu mình nằm trong bẫy rọ, đầu óc Cọp hoang mang lo sợ! Bất ngờ, nghe tiếng động, từ hướng trước mặt, Cọp giương đôi mắt nhìn.

Ô kìa... may mắn thay, bóng dáng một nhà sư, Cọp vội cất tiếng than:

- Ông Sư ơi! Là người tu hành ông làm ơn làm phước cứu tôi thoát khỏi bẫy rập này, ơn đức ấy muôn đời tôi ghi nhớ.

Xúc động từ tâm, vị tu sĩ kia vội vàng mở cửa rọ cho Cọp thoát thân. Ðiều ngạc nhiên hơn, vừa thoát ra khỏi bẫy, Cọp rùng mình gầm rống lên vang dội, đôi mắt như hai tia lửa hung tợn chầm chập nhìn thẳng vào nhà sư hiền từ đức độ... Cọp hằn học căm tức lớn tiếng:

- Loài người các ông ác độc lắm, đánh bẫy định bắt ta ăn thịt. Nay thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng, ta phải giết ông để trả thù, xác ông là miếng mồi ngon cung cấp cho bao tử ta sau hai ngày đói khát.

Nhà sư nét mặt bình thản hiền lành trả lời:

- Thế gian là cõi tạm, sống ở thác về, luật tạo hóa nhiệm mầu, hễ có sanh là lẽ dĩ nhiên phải có tử, nào ai lột da sống hoài mà không chết. Chết là giải thoát kiếp con người trên cõi ô trược này, có điều tôi muốn phân trần với Chúa Sơn Lâm tiếng tăm lừng lẫy lại giết chết một kẻ tu hành. Vì muốn cứu mạng sống của Chúa Sơn Lâm, kẻ này có lỗi với người thợ săn, mở bẫy thả ngài. Mai sau tôi chết rồi, những sinh vật bé nhỏ hơn nó coi thường việc đối xử hẹp hòi của Ngài, biết đâu ngài không khỏi tủi thẹn với cỏ cây sông núi.

Cọp nghe xuôi tai nên nói:

- Thôi được, tạm để cho ông yên, nhưng ta ra điều kiện thế này: ông cùng ta đi hỏi xem ba nhân chứng khác nhau. Nếu cả ba mà đồng ý: “Loài người các ông ác” thì tôi xẻ xác ông, ông có chịu không?

Nhà sư đáp:

- Mô Phật, tôi xin bằng lòng.

Ðầu tiên, gặp trâu đang ăn cỏ. Cọp cất tiếng hỏi:

- Trâu ơi! Ta hỏi câu này, loài người hiền hay ác, Trâu trả lời ta nghe thử?

Trâu nói:

- Lòng dạ con người độc ác khó đo lường. Người bắt tôi làm lụng suốt ngày hết đi cày đến kéo xe, chở từ hột lúa cho người ăn. Tôi làm thì nhiều mà người bố thí cho một mớ rơm khô để ăn đắp đổi sống qua ngày. Ðến khi kiệt sức còn da bọc xương người không thương, tham lợi bán tôi cho lò thịt. Nơi đây tôi chịu cực hình đau đớn họ lóc từng miếng thịt để chia nhau ăn, thậm chí đến tấm da người đem đóng giày bịt trống. Loài người quá ác độc nhẫn tâm.

Ðến lượt thứ hai, gặp cây me, Cọp hỏi:

- Me ơi! Ta muốn biết tiếng nói chân thật của me, mi thấy loài người Hiền hay Ác?

Suy nghĩ giây lâu cây me trả lời:

- Loài người Ác Thiện lẫn lộn. Khi tôi còn bé, người vun phân tưới nước tôi đến tươi tốt trưởng thành. Những tưởng khi lớn lên trả trái cho người để đền đáp ơn săn sóc. Khổ thay, trái chưa kịp chín đến thời kỳ cung cấp, người trèo lên bẻ đại bức càn để ăn tươi nuốt sống, làm cho thân xác ủ ê lá rụng, cành gãy! Suy đi tính lại, loài người Thiện ít, mà Ác lại nhiều hơn.

Ðến nhân chứng cuối cùng. Cọp gặp chú khỉ con. Vì khiếp oai Cọp nên Khỉ thập thò nhìn lén! Cọp gọi khỉ lại, hỏi y như hai câu hỏi lần trước, chú khỉ nhíu mày, nét mặt nhăn nheo khó nghĩ! Hồi lâu Khỉ trả lời:

- Việc đời khó đo lường, mà cũng khó nói, trời đất đang yên lặng nhưng bỗng đâu chốc lát giông gió nổi lên, lòng dạ người ta vô cùng khó hiểu. Nhưng tôi muốn biết vì sao Chúa Sơn Lâm lại hỏi tôi câu này?

Khỉ hỏi ngược lại, Cọp bèn thuật lại việc bị mắc rọ cho khỉ nghe, chăm chú nghe xong câu chuyện Khỉ đáp:

- Vừa nghe ngài kể là một việc, còn sự thật có hay không lại là một việc khác. Vì đầu óc non nớt của tôi, khi nào thấy được tận mắt tôi mới tin là sự thật.

Cọp gầm lên:

- Chú Khỉ không tin thì leo lên lưng ta cõng chú đến đó cách đây một dặm đường.

Khỉ bằng lòng theo Cọp cùng vị Sư. Tại đây Cọp chỉ vào bẫy rọ phân trần với Khỉ.

- Lúc đó ta bị kẹt trong ấy!

Khỉ hỏi:

- Rồi làm sao mà ngài ra được?

Cọp trả lời:

- Chú mày ngu quá. Lúc ấy cái nắp bẫy được giương lên.

Khỉ gật đầu ra điều hiểu biết:

- Bây giờ đâu ngài làm lại tôi xem nắp bẫy sập ra làm sao?

Muốn cho Khỉ thấy tận tường, Cọp nhờ nhà sư dở nắp bẫy lên, đoạn chui vào bẫy rọ. Nắp sụp lại! Khổ thay, Cọp bị mắc lừa chú Khỉ con bé nhỏ kia. Sự việc xảy ra y như lúc Cọp vừa mắc bẫy, Khỉ nhìn về nhà Sư hỏi:

- Còn nhà Sư lúc đó ở đâu?

Cọp cướp lời:

- Ông từ hướng trước kia đi lại.

Nghe xong Khỉ nói:

- Giờ đây sự thật đã hiển nhiên rồi, thì giờ rất quí báu. Bậc tu hành thì đường thẳng ông cứ việc đi, xem như chẳng có việc gì xảy ra, lo chi thêm nhiều phiền lụy.

Hướng về phía Cọp, Khỉ nói:

- Phần tôi nhỏ bé lại yếu đuối, không giải quyết được việc gì, phiền Chúa Sơn Lâm chờ dịp may khác, biết đâu lại cũng có người đến cứu ông. Tôi cầu mong trời đất phò hộ ông nhiều sức lực để đương đầu với sư tử, mãng xà, kiếu ông, tôi xin tạm biệt!

Cọp nghe xong nổi giận gầm vang rền cả núi rừng. Mặt trời vừa chen lặn, trả về núi rừng một vẻ âm u.

HUỲNH VĂN BỘ

“Bóng ai bỗng hiện trên non vắng

Lửng thửng trên đồi một vị sư

Ta gắng hỏi sư, sư chẳng đoái

Mắt nhìn mây trắng vẫn trầm tư”.





Thanked by 1 Member:

#41 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 22:40

41. Tôn giả Xá Lợi Phất

Trong kinh tạng Pàli, Tôn giả Xá Lợi Phất chiếm địa vị quan trọng hàng đầu, chỉ đứng sau Phật. Nhiều kinh được mở đầu với câu cổ điển “Như vậy tôi nghe”, mà người thuyết kinh thay vì đấng giác ngộ, thì lại chính là bậc Thánh đệ tử uyên bác ấy đại lao cho Ngài. Có khi đức Ðạo Sư thăng pháp tòa, chỉ trình bày một bài kệ ngắn gọn, rồi lui về am thất của Ngài. Trong những dịp như vậy, chúng ta thường gặp Tôn giả Xá Lợi Phất xuất hiện khai diễn ý nghĩa lời dạy súc tích của Phật và cuối cùng, chính Phật đã xác chứng cho lối giải thích của Tôn giả bằng một câu còn giá trị hơn tất cả những lời khen tặng:

- Nếu các ông hỏi ta, ta cũng giải thích như Xá Lợi Phất!

Tôn giả Xá Lợi Phất (Sàriputra, dịch nghĩa là Thu Tử) là con trưởng trong một gia đình thuộc thế cấp Bà La Môn giàu nhất làng Upatissa, gần Nàlanda ngày nay. Upatissa cũng là tên được đặt cho Ngài khi sơ sinh. Mẹ Ngài tên Sarì. Trong bốn người con trai Ngài được mang tên của mẹ, trong khi một người em của Ngài lại có tên của cha là Vagantaputra. Tôn giả có ba em trai và ba em gái, về sau đều theo Ngài xuất gia đắc quả A La Hán. Những tiểu sử của các vị này được tìm thấy trong “Trưởng lão Tăng kệ” và “Trưởng lão Ni kệ”.

Ba người em trai của Tôn giả có tên tuần tự như sau: Cunda (Thuần Ðà) Upasena và Revata (Ly bà da). Ba em gái của Tôn giả là: Càlà, Upacàlà, và Sìsùpacàlà. Ly Bà Ða là vị đệ tử thiền định đệ nhất của Phật. Vì Ngài là con út, bà mẹ rất cưng quý không muốn cho xuất gia nên tìm cách cưới vợ cho Ngài rất sớm. Vào ngày hôn lễ, không may cho hai gia đình, cậu bé tình cờ thấy bà ngoại già 120 tuổi của cô bé, và trực nhận lý vô thường, trong phút chốc cậu đâm ra chán ngấy tất cả cảnh hoa lệ giả dối của cuộc phù sinh, và muốn thoát ly bằng mọi giá.

Ðược anh cả yểm trợ, cậu út chuồn ngả sau giữa lúc đám tiệc linh đình, và trực chỉ đi đến một ngôi tịnh xá, xuống tóc xuất gia. Ít năm sau khi nhập đạo, vào một mùa an cư, trên đường đi bái yết Phật, Tôn giả dừng chân ở một khu rừng cây Kha-disa (cây gai) và tại đây Ngài đắc quả, nên ngày sau Ngài được hiệu là “Ly Bà Ða ở rừng gai”. Ngài được Phật khen là người xuất sắc nhất trong những vị yêu thích độc cư ở núi rừng.

Em trai giữa tôn giả là Upasena hay Vagataputta là vị tỳ kheo được Phật khen ngợi có hạnh hoan hỷ đệ nhất. Ngài từ trần sau khi bị rắn độc cắn, như được ghi trong một kinh của Tương Ưng bộ.

Người em kế là Cunda (Thuần Bà) được mệnh danh chú tiểu Thuần Bà ngay cả khi thọ giới, vì để phân biệt với Trưởng lão Ðại Thuần Ðà. Khi Tôn giả Xá Lợi Phất nhập diệt, chính vị này đã hầu cận Ngài và mang di vật của Ngài trở về thông báo với Ðức Phật và Thánh chúng.

Ba người em gái của Tôn giả cũng xuất gia sau khi đã lập gia đình mỗi người có một người con. Những người con trai này đã theo học với Tôn giả Ly Bà Ða. Chính Tôn giả Xá Lợi Phất, vào một dịp đến thăm người em út của Ngài lâm bệnh, đã gặp các cháu và khen ngợi hạnh kiểm tốt đẹp của họ, như được tìm thấy trong Trưởng lão Tăng kệ 42, phần luận số.



Thanked by 1 Member:

#42 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 22:44

42. Hạnh - Nhẫn - Nhục

Mặc dầu cả bảy anh em Tôn giả đều xuất gia theo Phật, bà mẹ Tôn giả vẫn giữ đạo Bà La Môn, và có thái độ thù nghịch với Phật giáo và tất cả những người liên hệ. Bà thù hận sa môn Gotama đã cướp hết đàn con của bà. Vào một năm gặp thời đói kém, Tôn giả Xá Lợi Phất đưa 500 vị Tỳ kheo đến khất thực tại nhà bà Sàrì, bà vừa bày thức ăn bà vừa lằm bằm nguyền rủa. Ðể thực phẩm vào bát Tôn giả, bà mắng:

- Ngu ơi là ngu! Nhà cao cửa lớn, ruộng vườn thẳng cánh cò bay thì không chịu ở, lại bỏ mà đi đầu đường xó chợ, ngủ bụi ngủ bờ, ăn cơm thừa cơm cặn của người ta.

Tôn giả vẫn yên lặng cùng Chúng Tăng thọ thực. Ăn xong, Tăng đoàn cùng theo Tôn giả im lặng trở về tịnh xá. Ðại đức La Hầu La nhỏ nhất trong Tăng đoàn thóc mách thuật lại cho Phật nghe mọi sự đã chứng kiến tại nhà bà thí chủ nọ. Phật nhân đó thốt bài kệ sau đây, được ghi trong kinh Pháp cú, phẩm Bà La Môn:

Ðầy đủ đức hạnh không nóng giận

trì giới thanh tịnh không nhục nhiễm

thì chỉ ngay thân này là cuối cùng

không bị tiếp tục sanh nữa

Người như thế ta gọi là Bà La Môn.

(danh từ Bà La Môn ở đây chỉ người cao thượng)

Hạnh nhẫn nhục của tôn giả được Phật và những vị đồng phạm hạnh không ngớt tán dương. Một hôm, một người đang đề cập về các đức tin của tôn giả.

- Trưởng lão Xá Lợi Phất của chúng ta có hạnh nhẫn nhục chẳng ai bì. Ngài chẳng tức giận ai bao giờ.

Khi nghe thế, một người Bà La Môn lên tiếng:

- Vô lý! Ai mà khỏi có lúc tức giận. Ðấy là vì không ai khiêu khích ông ta thôi.

Mọi người phản đối:

- Không phải vậy đâu, cư sĩ.

Người Bà La Môn kia nói:

- Ðể tôi có cách chọc ông ta tức giận cho coi.

Người ta đồng ý chờ xem. Ngờ đâu, người Bà La Môn ấy chực khi Tôn giả vào thành Xá Vệ khất thực chạy theo đấm một đấm như búa bổ vào lưng Tôn giả. Tôn giả vẫn thản nhiên không quay lui, chỉ lên tiếng hỏi khẽ:

- Cái gì thế.

Và tiếp tục bước. Người kia sanh tâm hối hận, đến trước tôn giả sụp lạy xin sám hối. Tôn giả hoan hỷ tha thứ ngay. Người kia bạch:

- Bạch tôn giả, nếu Ngài đã tha thứ cho con, xin thỉnh Ngài về nhà con thọ thực, và hôm nay trở đi, xin Ngài cho con được cúng dường Ngài thường xuyên.

Nói xong, y đỡ lấy bình bát trên tay Tôn giả và đưa Ngài về nhà. Nhưng có một bọn người đã vây lấy người Bà La Môn ấy, sẵn gậy gộc cầm tay, và bạch Tôn giả:

- Bạch Ngài, xin Ngài giao tên ác ôn đó cho bọn con sửa trị một mẻ.

- Tại sao?

- Bạch, nó đánh Tôn giả! Chúng con phải bửa đầu nó ra!

- Kẻ ấy đánh các ông, hay đánh ta?

- Bạch, đánh Tôn giả.

- Vậy thì y cũng đã xin lỗi ta rồi. Các ông hãy đi đi.

Vào một dịp, Phật ngự tại Kỳ Viên tịnh xá, Tôn giả bị một tỳ kheo vu khống, vì vị này phẫn nộ bất mãn. Khi các Tỳ kheo đến từ giã sau mùa an cư, Tôn giả luôn luôn gọi tên thân mật từng vị Tỳ kheo, nhưng vị này lại không được Tôn giả nhắc đến tên, do nhân duyên ấy, vị này nổi lên phẫn nộ và bất mãn, nghĩ rằng: “Tôn giả đã không thăm hỏi ta như những người khác”. Ðang lúc tức giận, Tôn giả đi ngang lại đụng chéo y vào người ông một cái, làm cho ông càng thêm tức, đến kiện với Phật.

- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Xá Lợi Phất luôn luôn nghĩ mình là đệ tử số 1 của đấng Ðạo sư, đã đánh con một tát gần điếc lỗ tai, thế mà không thèm nói gì, đã bỏ đi một bước.

Ðức Phật cho gọi Tôn giả Xá Lợi Phất. Thay vì phủ nhận sự vu cáo, Tôn giả đã rống lên tiếng sư tử giữa hội chúng với một bài pháp hùng hồn xác chứng Ngài đã thoát ly vĩnh viễn sân hận, có sức chịu đựng những mạ lỵ phỉ báng như đất nhận đồ phế thải. Vị Tỳ kheo ngập tràn hối hận, xin Ngài tha thứ tội lỗi. Trước đức Ðạo sư, Tôn giả thốt lên những lời đầy khiêm cung:

- Bạch Thế Tôn, con tha lỗi vị Ðại đức, và con xin vị ấy hãy tha lỗi cho con nếu con có làm gì phật lòng người ấy.

Ðức Phật bảo chúng đệ tử đang vây quanh Ngài:

- Này các Tỳ kheo, Xá Lợi Phất và những người đã chứng đắc như ông không bao giờ ôm lòng hận thù ai. Tâm ông lớn như đại địa, vững như trụ đồng và an tĩnh như mặt nước ao thu.



Thanked by 1 Member:

#43 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 22:47

43. Lòng nhớ ơn

Trước khi xuất gia, Tôn giả đã nhờ Trưởng lão Assaji mà ngộ đạo, đạo lý duyên sanh và tìm đến Ðức Phật để tham học. Tôn giả nhớ ơn vị ấy suốt đời. Khi cùng ở một tịnh xá, Ngài luôn luôn đảnh lễ Assaji sau khi đảnh lễ đức Ðạo sư, và khi Assaji ở chùa khác, Tôn giả thường hướng về ngôi chùa ấy mà đảnh lễ sau khi đảnh lễ Phật.

Khi Phật ở Xá Vệ trong Kỳ Viên tịnh xá có một người Bà La Môn nghèo khổ làm vườn, quét dọn để kiếm ăn. Phật quán thấy ông ta có thể đắc quả, nên hỏi trong đại chúng có ai nhớ đã chịu ơn của người Bà La Môn kia lần nào không.

Ngài Xá Lợi Phất thưa rằng, có lần Ngài khất thực trong thành Vương Xá, người Bà La Môn kia đã sớt cho Ngài một muỗng đồ ăn của y đã xin được. Phật bảo:

- Vậy ông hãy độ y xuất gia.

Dưới sự hướng dẫn của Tôn giả, chẳng bao lâu người này đắc quả A La Hán.



Thanked by 1 Member:

#44 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/08/2012 - 22:52

44. Bậc thiện tri thức

Tôn giả Xá Lợi Phất là bậc thiện tri thức của tất cả mọi người. Ngài được tất cả yêu kính không những vì trí tuệ siêu phàm mà còn vì đức khiêm cung và lòng từ bi hiếm có. Ngài không bao giờ tỏ ra mình là bậc thượng thủ trong giáo hội của Phật. Trong tịnh xá Kỳ Ðà Lâm, Tôn giả luôn luôn vấn an thăm hỏi những vị thượng tọa già yếu bịnh tật, và mỗi khi ra khỏi độc cư thiền định Ngài thường đi một lượt quanh khu tịnh xá, quét dọn lại những nơi bừa bãi, để du khách khỏi chê cười đệ tử Phật ở dơ.

Mỗi khi theo Phật du hóa một vùng xa, Tôn giả thường đi sau cùng, sau khi thu xếp cho những vị Tỳ kheo yếu bịnh. Cũng vì lẽ ấy mà có bận Tôn giả đến nơi đã định khi quá nửa đêm, không có chỗ nào dành cho Tôn giả, Tôn giả đành ngồi nghỉ tạm ngoài trời, dưới một gốc cây. Khi Ðức Phật biết rõ việc này, Ngài liền chế định, phải dành chỗ sẵn cho những bậc tôn túc trưởng thượng.

Thông thường, những người quá thông minh xuất chúng phải trả giá thiên tài của họ bằng nỗi cô đơn. Nhưng Tôn giả Xá Lợi Phất lại là một ngoại lệ. Ngài có rất nhiều bạn, có thể nói Ngài là bạn của tất cả, kể từ Ðức Phật trở xuống.

Nhiều kinh điển Pali đã ghi lại những cuộc luận đàm kỳ thú giữa Tôn giả Xá Lợi Phất với những bực Thánh đệ tử khác. Chính đức Ðạo sư dường như cũng ưa nói chuyện với Tôn giả hơn với những người khác. Ngài thường gọi: “Này Xá Lợi Phất” mỗi khi thuyết pháp. Thật là một địa vị đáng thèm.

Ðức tính thứ nhất làm cho mọi người yêu kính là Tôn giả: biết thấy ưu điểm của người khác. Một lần, khi Tôn giả đang thiền định ngoài khoảng trống, có một con qủy chơi xấu, đến đánh một cú như trời giáng vào đỉnh đầu. Nhưng do định lực sâu xa Tôn giả không bị giao động. Khi Ngài xuất định, Tôn giả Mục Kiền Liên đến hỏi:

- Hiền giả có hề gì không?

Xá Lợi Phất đáp:

- Không sao cả thưa Hiền giả. Tôi chỉ bị nhức đầu chút ít.

Kỳ diệu thay! Thật kỳ diệu thay năng lực thần thông siêu việt của Hiền giả Mục Kiền Liên, có thể thấy được mặt mày con quỷ ấy.

Tôn giả Mục Kiền Liên và Tôn giả Xá Lợi Phất là đôi bạn chí thiết từ nhỏ, ra đời cùng một ngày, trưởng thành trong một môi trường sang quý như nhau. Trong lúc tham dự một cuộc vui huyên náo kéo dài nhiều đêm, đôi bạn cùng một lúc khởi tâm nhàm chán thế tục với những lớp sơn lừa phỉnh của ngũ dục tạm bợ và cùng nhau đi tìm thầy học đạo. Trước hết, họ theo Sanjaya một tu sĩ ngoại đạo nổi danh ở thành Vương Xá.

Với sự gia nhập của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, uy tín của Sanjaya càng tăng gấp bội, và những thanh niên thuộc danh gia vọng tộc cũng nối gót hai ngài đến thọ giáo với Sanjaya. Trong một thời gian ngắn, đôi bạn đã học xong tất cả những gì Sanjaya có thể trao truyền, nhưng vẫn không tìm thấy đâu là con đường đưa đến giải thoát. Họ phải từ giã Sanjaya và sau này, khi được gặp Phật, nghe giáo lý của Ngài, họ sung sướng trở về khuyên Sanjaya theo Phật. Khi ấy Sanjaya nói một câu điển hình của hạng thầy dốt nát như ông:

- Ðịa vị của ta không cho phép ta làm một người học trò được. Ngươi tốt hơn nên ở lại với ta. ta sẽ chia cho một nửa đồ chúng mà lãnh đạo.

Xá Lợi Phất thưa:

- Thưa thầy, tôi không hiềm gì phải làm một học trò suốt đời, bao lâu chưa tìm ra được con đường giải thoát sanh tử. Và một đấng giác Ngộ không thể gì gặp được! Xin thầy hãy cùng đi với chúng tôi!

- Trong thiên hạ, kẻ ngu nhiều hơn hay kẻ trí nhiều hơn?

- Thưa thầy, kẻ ngu bao giờ cũng nhiều hơn người trí.

- Vậy thì hãy để những người trí đến với Sa môn Gotama, còn kẻ ngu sẽ theo ta.

Khi đôi bạn ra đi, một nửa đồ chúng của vị thầy cũng đi theo họ đến quy y Phật, hai vị Tôn giả đã trở thành đôi cánh của một con chim đại bàng. Hai vị đối với đấng Ðạo sư là hai cánh tay đắc lực trên đường hoằng pháp đến nỗi khi hai Ngài nhập Niết bàn, Ðức Phật đã thốt ra:

- Hội chúng từ nay đối với ta thật trống rỗng.

Qua lời dạy ấy, chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của hai bậc Thánh đệ tử ấy đối với đức Ðạo sư và đối với chánh pháp.

Một đức tính khác làm cho Tôn giả Xá Lợi Phất được tất cả đồ chúng của Phật yêu kính là Ngài biết tôn trọng ý kiến của mọi người. Ngài không bao giờ tự cho là trí tuệ đệ nhất để áp đảo kẻ khác bằng lý luận. Trong những cuộc luận đàm Tôn giả thường hỏi ý kiến từng người, để họ tự do phát biểu, và khi có sự bất đồng Ngài rủ mọi người cùng đi đến yết kiến Phật để xin đức Ðạo sư giải quyết, chứ không bao giờ tự cho ý kiến mình đúng, thiên hạ đều sai.

Một kinh của Trung bộ III kể, vào một đêm rằm, trăng sáng vằng vặc chiếu xuống khu vườn cây Sa La nơi Tôn giả đang trú ngụ. Ðêm khuya, trăng tỏ, hương hoa đang mùa rộ nở cùng với sương đêm tỏa ngát không gian. Cảnh thật xứng với người: một cuộc hội kiến giữa những bậc thượng thủ đến thăm Tôn giả Xá Lợi Phất. Tôn giả mở màn cho cuộc pháp thoại bằng một câu hỏi, cũng vừa là một lời chào:

- Ðêm thanh, trăng tỏ, vườn Sa La khả ái thơm nức một mùi hương như thiên giới, chư Hiền nghĩ sao, vị Tỳ kheo nào, theo ý chư Hiền, sẽ là người làm sáng chói khu vườn (tức một mẫu Tỳ kheo lý tưởng trong Phật giáo phải như thế nào?)

Tôn giả A Nan đáp:

- Theo tôi, một vị Tỳ kheo làm sáng chói khu vườn là vị nào đa văn đệ nhất.

Tôn giả Ca Diếp:

- Vị Tỳ kheo sáng chói khu vườn là vị trì khổ hạnh đầu đà đệ nhất.

Tôn giả Mục Kiền Liên:

- Tôi thì cho rằng vị Tỳ kheo làm sáng chói khu vườn, chính là vị nào thành tựu biện tài số một.

Tôn giả Ly Bà Ða:

- Ý kiến của tôi thì, vị Tỳ kheo làm sáng chói khu vườn phải là người thiền định bậc nhất.

Khi tất cả mọi người đều cho ý kiến, Tôn giả Mục Kiền Liên giục bạn:

- Hiền giả nghĩ sao? Ý kiến của người nào đúng? Và ý Hiền giả như thế nào về một vị Tỳ kheo làm sáng chói khu vườn?

Tôn giả Xá Lợi Phất đáp:

- Vị Tỳ kheo nào chế phục được tâm, không bị tâm chế phục. Vị Tỳ kheo nào, buổi sáng muốn trú tâm như thế nào, có thể an trú tâm như thế ấy vào buổi sáng. Buổi trưa vị ấy muốn an trú tâm nào vị ấy cũng có thể làm như ý muốn vào buổi trưa. Buổi chiều, buổi tối cũng vậy.

Như một vị vua hay đại thần có một tủ đầy áo đẹp, và khi vị ấy sáng muốn mặc áo nào, trưa muốn mặc áo nào, chiều muốn mặc áo nào đều có thể làm theo ý muốn của mình. Cũng thế, đối với một vị Tỳ kheo đã chế phục được tâm ý, không bị tâm chế phục. Một vị Tỳ kheo như thế, này Hiền giả, sẽ làm sáng chói khu vườn Sa La khả ái này. Nhưng này chư Hiền, chúng ta hãy đi đến đảnh lễ đấng Ðạo sư để thỉnh giáo về vấn đề này.

Khi Ðức Phật nghe thuật lại ý kiến của từng vị. Ngài dạy rằng mọi người đều trả lời đúng theo địa vị khả năng của mình. Tuy nhiên, Ngài thêm ý kiến của Ngài theo đó:

- Vị Tỳ kheo sáng chói khu vườn chính là vị nào sau khi đi khất thực về, sau khi chánh niệm thọ thực xong, rửa chân rồi trải tọa cụ ngồi thiền cho đến khi nào không còn lậu và móng khởi.

Ðiểm lý thú trong kinh này là ở chỗ khi mới nghe qua, chúng ta thấy dường như mỗi vị tự đề cao cá nhân vậy, song kỳ thật không thế. Mỗi người phát biểu cái lý tưởng mình muốn đạt, cho nên ngài A Nan, con người ưa đa văn, tôn trọng học vấn, đương nhiên phải cho đa văn là nhất. Ngài Ca Diếp cho hạnh đầu đà là lý tưởng của xuất gia, nên Ngài mới chuyên môn hạnh ấy. Mục Kiền Liên yêu thích biện tài, muốn phát triển mặt ấy, nên cho rằng thành tựu biện tài là nhất. Ly Bà Ða chú trọng thiền định cũng thế, vì cho thiền định là lý tưởng.

Câu đúc kết của Phật rất ý vị ở chỗ, cái điều Ngài cho là lý tưởng chính là những việc làm rất thường, không có gì quái dị phức tạp, thế mà lại rất khó, chỉ có Phật mới thành tựu trọn vẹn được. Ðó là những việc như ăn cơm, rửa chân, trải tọa cụ ra ngồi... những việc Phật làm khi mở đầu kinh Kim Cang. Như vậy, ta thấy rõ Phật muốn ám chỉ đạo là rất giản dị, đó là cái tâm bình thường (bình thường tâm thị đạo), nhưng đồng thời quả thật cái việc “thường” ấy lại khó khăn gấp bội những việc “phi thường” của các bậc đa văn, biện tài, trí tuệ.

Tôn giả Xá Lợi Phất lại còn một đức tính khá thu hút tất cả những bậc đồng phạm hạnh ấy là khiêm tốn và hâm mộ những tài đức khác. Kinh Trạm Xe (TB II) kể, có vị Tôn giả là Phú Lâu Na được Phật và chúng Tỳ kheo ở chung luôn luôn tán thán về giới hạnh không thiếu sót, yêu thích độc cư, tinh tấn, tri túc, thiểu dục, đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến và là người thường khuyến khích người khác tu những hạnh kể trên. Khi nghe như vậy, Tôn giả Xá Lợi Phất vô cùng hoan hỷ mong muốn có ngày sẽ gặp được Tôn giả. Phú Lâu Na đến yết kiến Phật và lui về ở một nơi lân cận. Các vị Tỳ kheo báo tin cho Ngài Xá Lợi Phất biết để đi thăm. Ðến nơi, Tôn giả bắt đầu hỏi chuyện:

- Hiền giả, hiền giả vì mục đích gì mà sống phạm hạnh với Ðức Ðạo sư? Phải chăng vì mục đích thành tựu giới thanh tịnh?

- Không phải vậy, hiền giả.

- Vì mục đích kiến thanh tịnh?

- Không phải vậy, hiền giả.

- Vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?

- Không, hiền giả, phi đạo.

- Vì mục đích Ðạo tri kiến thanh tịnh?

- Cũng không, hiền giả.

- Vì mục đích Ðạt tri kiến thanh tịnh?

- Cũng không, hiền giả.

Khi ấy Tôn giả Xá Lợi Phất nói:

- Hiền giả, tôi hỏi cái gì hiền giả cũng đáp không phải mục đích ấy mà hiền giả sống phạm hạnh. Vậy thì, hiền giả sống phạm hạnh vì mục đích gì?

- Hiền giả, với mục đích vô thủ trước Niết bàn.

Xá Lợi Phất hỏi tiếp:

- Có phải Giới thanh tịnh là vô thủ trước Niết bàn?

Phú Lâu Na đáp không. Hỏi tâm thanh tịnh, cũng đáp không, lần lượt hỏi bảy thanh tịnh, cũng đáp không phải là vô thủ trước Niết bàn. Khi ấy, Xá Lợi Phất hỏi lại:

- Trong bảy thanh tịnh, hiền giả đều nói không có cái gì là vô thủ trước Niết bàn, nghĩa là làm sao?

Phú Lâu đáp:

- Hiền giả, nếu Thế Tôn dạy giới thanh tịnh là Vô thủ trước Niết bàn thì Vô thủ trước ấy cũng đồng đẳng với Hữu thủ trước (chấp vào giới), về sáu thanh tịnh kia cũng vậy. Và nếu Thế Tôn dạy cái gì ở ngoài bảy pháp ấy là Vô thủ trước Niết bàn, thì kẻ phàm phu cũng gọi là Bát Niết bàn, vì phàm phu không có bảy pháp ấy. Hiền giả, tôi lấy một ví dụ. Như vua Ba Tư Nặc đi từ Xá Vệ đến Sàveta qua bảy trạm xe. Khi vua đến nơi bằng chiếc xe của trạm thứ bảy, đình thần ra đón và hỏi có phải nhờ chiếc xe này mà vua đi từ Xá Vệ đến hay không. Khi ấy, vua phải trả lời thế nào mới đúng? Xá Lợi Phất đáp:

- Dĩ nhiên vua phải nói, đã đi từ trạm thứ nhứt đến trạm thứ hai bằng một cỗ xe khác, lần lượt đổi xe ở mỗi trạm cho đến cỗ xe cuối cùng này.

- Hiền giả, cũng như vậy với bảy thanh tịnh. Giới thanh tịnh chỉ có mục đích đạt được Tâm thanh tịnh, Tâm thanh tịnh là để đạt đến Ðoạn nghi thanh tịnh, Ðoạn nghi thanh tịnh là để đạt đến Ðạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, Ðạo phi đạo tri kiến thanh tịnh là để đạt đến Ðạo tri kiến thanh tịnh, Ðạo tri kiến thanh tịnh là để đạt đến Tri kiến thanh tịnh. Tri kiến thanh tịnh là để đạt đến Vô thủ trước Niết bàn.

Nghe xong, Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Tôn giả Phú Lâu Na:

- Tôn giả tên gì? Các vị đồng phạm hạnh gọi Tôn giả như thế nào?

- Tên tôi là Phú Lâu Na, các bạn gọi tôi là Di Ða La Ni Tử.

- Thật vi diệu thay hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được một bậc đệ tử đa văn của đấng Ðạo Sư giải, và vị ấy là Tôn giả Phú Lâu Na. Thật hạnh phúc cho chúng tôi được thân cận thăm viếng Tôn giả.

Khi ấy, Tôn giả Phú Lâu Na hỏi lại:

- Còn hiền giả tên chi, các vị đồng phạm hạnh gọi hiền giả như thế nào?

- Tên tôi là Tích Sa, các vị đồng phạm hạnh gọi tôi là Xá Lợi Phất.

Một bất ngờ kỳ thú! Tôn giả Phú Lâu Na muốn bật ngửa người vì ngạc nhiên, không ngờ nãy giờ mình múa rìu qua mắt thợ! Nhưng ông thợ này quá khiêm tốn dễ thương. Ngài Phú Lâu Na ngợ đi một hồi mới bảo:

- Tôi đang nói chuyện với bậc đệ tử được xem ngang hàng với đức Ðạo sư mà không biết! Nếu tôi biết Ngài là Tôn giả Xá Lợi Phất, thì tôi đã không nói nhiều như vậy.



Thanked by 1 Member:

#45 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 22/08/2012 - 01:07

45. Những ngày cuối cùng

Sau một mùa an cư ở làng Beluva gần Vesàlì, Ðức Thế Tôn tuần tự trở về Xá Vệ, Tôn giả Xá Lợi Phất đến đảnh lễ Ðức Ðạo sư rồi trở về độc cư thiền định. Khi Tôn giả an lành xuất định, Ngài khởi lên ý nghĩ: “Thông thường các đấng Giác Ngộ nhập Niết bàn trước hay các đệ tử trưởng nhập trước?”. Rồi quán sát nội lực của tự thân, Ngài thấy thân dư báo chỉ còn tồn tại bảy ngày. Kế đó Tôn giả tự hỏi: “Không biết ta sẽ xả bỏ báo thân ở chỗ nào? La Hầu La thì nhập diệt ở cõi Tam thập tam thiên, Tôn giả Kiều Trần Như ở trên đỉnh núi Hy Lạp. Còn ta, thì chỗ nào?”

Nghĩ đi nghĩ lại, Ngài bỗng nhớ đến mẹ. “Mẹ ta, mặc dầu là mẹ của bảy vị A La Hán, bà vẫn không có lòng tin đối với Phật, Pháp, Tăng. Bà còn chút duyên nào để sanh khởi tịnh tín chăng?” Tôn giả quán sát một hồi và thấy rằng mẹ có thể chứng quả dự lưu. Rồi Ngài tự hỏi do ai mà bà sẽ được chứng quả? Quán sát bằng thiên nhãn thiền định, Ngài thấy chính do mình mà mẹ sẽ đắc quả. Do đó Ngài quyết định trở về quê cũ để nhập diệt. Tôn giả Thuần Ðà em ruột Ngài, cùng với 500 đồ chúng của Ngài được lệnh thu xếp để theo Ngài về Nàlaka. Ði đến bái biệt vị Ðạo sư lần cuối, Ngài tác bạch:

- Bạch Thế Tôn, xin đấng Thiện Thệ hứa khả cho con: thời gian nhập Niết bàn của con đã đến. Từ đây sẽ không còn luân hồi sanh tử với con. Ðây là lần cuối cùng con đến đảnh lễ Ðức Thế Tôn. Bảy ngày nữa, con sẽ đặt chân đặt thân này xuống, sẽ quăng bỏ gánh nặng này. Xin đấng Ðạo sư hứa khả.

Ðức Thế Tôn im lặng. Nếu Ngài tán thành bằng một câu:

- Ðược, ông hãy nhập Niết bàn đi.

Người ta sẽ cho rằng Ngài khuyến khích sự chết. Nếu Ngài bác bỏ rằng:

- Ông đừng nhập Niết bàn.

Người ta sẽ cho rằng Phật tán thán sự sống. Cho nên Phật yên lặng. Ngài chỉ từ tốn hỏi lại:

- Ông sẽ nhập Niết bàn ở chỗ nào?

Tôn giả thưa:

- Bạch Thế Tôn, tại xứ Ma Kiệt Ðà, trong làng Nàlaka, ở ngay trong cái nhà con đã ra chào đời, con sẽ nhập Niết bàn tại đó.

Khi ấy, Thế Tôn dạy:

- Ông hãy làm những gì ông nghĩ là phải thời. Nhưng từ nay các huynh đệ của ông trong tăng chúng sẽ không còn được thấy một vị Tỳ kheo như ông nữa. Hãy thuyết pháp cho họ một lần cuối cùng.

Tôn giả vâng lịnh, thăng pháp tòa. Với giọng nói trầm tĩnh mà hùng hồn, dung điệu uy nghiêm khả kính, Tôn giả ban bố pháp nhủ cho đại chúng lần cuối cùng. Khi thì Ngài đưa tâm hồn cử tọa lên đến những đỉnh cao tuyệt vời của chân đế, khi thì pháp âm bay lượn là đà xuống tục đế với những thí dụ trước mắt. Khi thì Ngài thuyết pháp bằng cách trực chỉ, khi thì Ngài dùng ẩn dụ. Thuyết xong thời pháp Tôn giả đến đảnh lễ dưới chân Ðức Thế Tôn. Ngài ôm chân Phật, bạch rằng:

- Chính vì ước nguyện được đảnh lễ đôi chân này mà con đã hoàn thành các pháp ba la mật trải qua vô lượng kiếp. Nguyện ước của con nay đã thành tựu. Từ nay sẽ không còn gặp gỡ, bạch Thế Tôn, nếu con có lời nói hay việc làm nào không vừa ý Thế Tôn, xin Thế Tôn tha thứ cho con. Bây giờ đã đến lúc ra đi.

Phật đáp:

- Ta tha thứ cho ông, Xá Lợi Phất. Nhưng ông không có lời nói hay việc làm nào không vừa ý ta. Ông hãy làm những gì ông thấy phải thời.

Ngay khi Tôn giả đứng lên từ biệt Phật đại địa chấn động, trời nổi sấm sét, một đám mây đen lớn trùm khắp như một chiếc khăn tang của hoàn vũ và một trận mưa ào ào trút xuống, như òa khóc trước cảnh ra đi của một bậc Chúng Trung Tôn.

Ðức Thế Tôn bảo đồ chúng đang vây quanh:

- Bây giờ, các con hãy ra đi đưa tiễn bậc huynh trưởng của các con lần cuối.

Toàn thể tứ chúng đều rời Kỳ Viên Tịnh xá chỉ còn lại một mình đức Phật. Họ đi theo Tôn giả từng đoàn lũ lượt càng lúc càng đông vì dân chúng thành Xá Vệ cũng tiếp theo đoàn đưa tiễn, với đầu tóc nhúng nước rũ rượi (dấu hiệu tang lễ thời ấy), họ theo khóc lóc ta thán. Tôn giả ủy lạo quần chúng đang rên siết:

- Ðây là một đoạn đường mà không ai tránh khỏi.

Và Ngài bảo họ trở về. Quay lại Tăng chúng ở Kỳ Viên đang theo đưa tiễn Ngài, Tôn giả căn dặn:

- Bây giờ, chư hiền hãy trở lại Tịnh xá đi. Hãy nhớ chăm sóc đấng Ðạo Sư!

Còn lại 500 đồ chúng, Tôn giả tiếp tục cuộc hành trình. Cuộc du hành kéo dài cả tuần lễ, khiến nhiều người được dịp chiêm bái Tôn giả lần cuối cùng. Khi về đến làng quê trời đã tối. Tôn giả dừng chân dưới một gốc đa đầu làng. Tình cờ, một người cháu của Tôn giả đi mua đồ về, thấy Tôn giả, đến gần chào Ngài, Ngài hỏi:

- Bà ngoại con có nhà không?

- Bạch Tôn giả, có.

- Con hãy trở về báo tin có chúng ta đến. Thưa bà rằng chúng ta sẽ ở trong làng một ngày, và xin bà dọn chỗ cho ta trong phòng ta đã ra chào đời, và sắp đặt chỗ nghỉ cho 500 vị Tỳ kheo.

Cậu bé trở về thuật lại cho thân mẫu Tôn giả. Nghe xong, bà ngẫm nghĩ: “Tại sao con ta lại trở về? Tại sao y bảo dọn chỗ cho đông người quá vậy? Sao lại muốn ở trong phòng chỗ chào đời? Bộ muốn hoàn tục hay sao".Bao nhiêu câu hỏi xoay vần trong đầu óc bà cụ. Nhưng bà vẫn làm theo lời dặn.

Khi Tôn giả về đến nhà, Ngài vào phòng dành sẵn, và bảo các Tỳ kheo hãy đi đến khu vực dành cho họ. Chúng Tỳ kheo vừa đi khỏi, Tôn giả phát đau bụng dữ dội, quặn thắt cả ruột. Ngài đi cầu không ngớt, thị giả đem thùng vào rồi đem ra. Bà mẹ lo âu, thầm nghĩ: “Cha chả, bộ con mình gặp nguy rồi”. Và bà cụ cứ đứng như vậy nhìn về phía phòng Tôn giả suốt đêm không dám đến gần. Trong lúc ấy Tứ Thiên Vương bằng thiên nhãn thấy bậc Ðại Tuệ Xá Lợi Phất sắp nhập diệt, bàn nhau xuống trần để viếng thăm Ngài.

Giữa đêm khuya, gian phòng sáng rực vì dung sắc của vị Thiên Vương chiếu ra. Tôn giả hỏi:

- Ai thế?

- Bạch Tôn giả, chúng tôi là những vị trời Tứ Thiên Vương.

- Các ngài đến đây làm gì?

- Chúng tôi muốn hầu hạ Tôn giả trong cơn bịnh.

- Cám ơn, tôi đã có thị giả. Các ngài đi đi.

Sau khi Tứ Thiên Vương từ biệt, đến lượt Ðế Thích, và sau Ðế Thích là Ðại Phạm Thiên đến viếng thăm Tôn giả. Tôn giả đều cảm ơn bảo họ lui về. Bà cụ suốt buổi quan sát dung sắc thù thắng của những vị khách cõi trời mà lòng cảm thấy quái lạ. Bà tự hỏi: “Ai vậy? Ai mà đối với con ta có vẻ cung kính thế nhỉ?”. Rồi, không cản nổi cơn tò mò, bà đến tận cửa phòng Tôn giả. Tôn giả Thuần Ðà báo tin cho sư huynh, Tôn giả hỏi:

- Tại sao mẹ đến vào giờ khuya khoắt này?

- Ðể thăm con, con ạ! Này, con hãy nói cho mẹ nghe, những người đến đầu tiên là ai thế?

- Thưa mẹ, đó là Tứ Thiên Vương.

Bà mẹ trố mắt:

- Ồ ra, con còn lớn hơn Tứ Thiên Vương kia à?

Tôn giả đáp:

- Họ cũng như những người giữ chùa từ ngày Ðức Thế Tôn đản sanh, họ đã luôn luôn canh gác đêm ngày, gươm đeo lủng lẳng.

- Và kế tiếp họ là ai thế?

- Ðó là Ðế Thích, vua của những vị trời.

- Vậy con lại lớn hơn Ðế Thích à?

- Ông ấy cũng như chú tiểu ôm y bát theo hầu các Tỳ kheo. Khi đấng Ðạo Sư lên cõi trời 33, chính Ðế Thích đã ôm y bát theo hầu Ngài trở về trần thế.

- Ồ, còn sau Ðế Thích là ai nữa?

- Ðó chính là vị Phạm Thiên mà mẹ thờ.

- Ui chao! Thế ra con còn hơn cả vị trời Ðại Phạm của mẹ nữa sao?

- Vâng thưa mẹ, vào ngày đấng Ðạo Sư đản sanh, chính bốn vị trời Ðại Phạm đã đưa lưới báu cõi trời đỡ lấy thánh nhi.

Khi nghe thế, bà cụ suy nghĩ: “Nếu con ta đã có oai thần như vầy, thì bậc thầy của con ta còn oai thần đến bậc nào”. Và khi nghĩ thế, một niềm hoan hỷ tràn ngập thân tâm bà. Tôn giả quán thấy mẹ mình đã phát tâm sinh hỷ lạc đối với Tam Bảo, và đã đến lúc nên thuyết pháp cho bà. Ngài hỏi:

- Mẹ nghĩ gì thế?

- Tôi đang nghĩ rằng, nếu con tôi đã oai thần như vậy, thì đấng Ðạo Sư của người còn oai thần đến mức nào.

Tôn giả Xá Lợi Phất đáp:

- Vào lúc đấng Ðạo Sư đản sanh, lúc Ngài xuất gia, lúc đắc đạo và chuyển pháp luân lần đầu, vào tất cả những dịp ấy, mười phương thế giới đều rung chuyển. Không có ai sánh được với Ngài về phương diện giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến.

Rồi Tôn giả tiếp tục giải thích cho mẹ nghe vì sao Ðức Ðạo Sư đã được xưng tôn là đấng Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn. Nghe xong thời pháp, bà cụ đắc quả dự lưu. Bà hỏi Tôn giả:

- Tại sao, này con Tích Sa yêu dấu, tại sao suốt nhiều năm ròng con đã không ban bố cho mẹ pháp vị cam lồ này.

Tôn giả nghĩ thầm: “Thế là ta báo đền ơn dưỡng dục”. Và Ngài bảo mẹ:

- Bây giờ tín nữ hãy về nghỉ đi.

Khi bà cụ đi khỏi, Tôn giả hỏi Thuần Ðà:

- Bây giờ khoảng canh mấy?

- Bạch Tôn giả, gần tảng sáng rồi.

- Hãy triệu tập chúng Tỳ kheo.

- Thưa vâng, bạch Tôn giả.

Khi chúng Tỳ kheo đến, Tôn giả bảo Thuần Ðà:

- Hãy đỡ ta ngồi dậy, Thuần Ðà.

Sau khi ngồi dậy, Tôn giả nói với chúng Tỳ kheo:

- Này chư hiền, tôi đã sống, du hành với chư hiền trong 40 năm. Trong thời gian ấy, nếu tôi có làm gì, nói gì không vừa ý xin chư hiền tha thứ cho tôi.

Tất cả đồng thanh bạch:

- Thưa Tôn giả, không có một điều bất mãn nhỏ nào Tôn giả đã gây cho chúng con, những người theo Tôn giả như bóng theo hình. Nhưng bạch Tôn giả, xin Tôn giả hãy tha thứ cho chúng con!

Kế đó, Tôn giả quấn y quanh mình trùm cả mặt, nằm xuống hông bên phải. Rồi, cũng như Ðức Thế Tôn đã làm khi Ngài nhập Niết bàn, Tôn giả lần lượt nhập và xuất chín tầng lớp thiền định rồi trở lại nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Sau tứ thiền, Ngài hoàn toàn nhập Niết bàn vô dư y. Ðó là ngày rằm tháng Kattika tức vào khoảng giữa tháng 10 và 11 dương lịch.

Khi được tin, bà cụ không ngớt than khóc cho tới khi mặt trời mọc. Bà mở kho xuất nhiều tiền bạc để làm tang lễ. Quần chúng khắp làng đến nghe thuyết pháp và đảnh lễ thi hài Tôn giả. Bảy ngày sau, lễ trà tỳ được cử hành. Thi hài Tôn giả được đặt trên một giàn hỏa lớn bằng gỗ trầm. Sau khi hỏa táng, Tôn giả A Nâu Lâu Ðà rưới nước thơm dập tắt ngọn lửa. Tôn giả Thuần Ðà thâu nhặt xá lợi bọc vào trong một mảnh y. Liền sau đó, Tôn giả trở về Xá Vệ báo tin cho Phật, mang theo y bát và xá lợi của vị sư huynh. Ðến nơi, Thuần Ðà bái yết thị giả A Nan trước và tác bạch:

- Bạch Tôn giả, Tôn giả Sàriputta đã nhập Niết bàn. Ðây là y và bát của Ngài.

- Hiền giả, về việc này ta hãy đi đến đấng Ðạo sư.

- Thưa vâng, bạch Tôn giả.

Rồi cả hai cùng đi đến Ðức Phật. Sau khi đảnh lễ Phật, họ ngồi qua một phía.

Tôn giả A Nan bạch:

- Bạch Ðức Thế Tôn, chú tiểu Thuần Ðà nói với con rằng Tôn giả Sàriputta đã nhập Niết bàn. Ðây là y bát của Tôn giả. Khi nghe vậy bạch Thế Tôn, con bủn rủn tay chân vạn vật xung quanh con trở nên mờ mịt. Con không còn trông rõ cái gì ra cái gì nữa, khi nghe tin Tôn giả Sàriputta từ trần!

- Sao vậy? A Nan. Khi Xá Lợi Phất từ trần, ông ấy có đem theo bớt đi phần giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến nào của ông chăng?

- Không phải vậy, bạch Thế Tôn. Khi Tôn giả Sàriputta từ trần, Tôn giả đã không đem theo bớt phần giới định tuệ nào của con cả. Nhưng bạch Thế Tôn, Tôn giả đối với con là vị hướng dẫn, một bậc đàn anh, một người hướng đạo, một người đã khích lệ con làm con hoan hỷ, phấn khởi, một người giảng pháp không biết mỏi mệt, một người giúp đỡ kẻ đồng phạm hạnh. Chúng con nhớ xiết bao những lời chỉ giáo bổ ích, linh động và thú vị của Tôn giả!

- A Nan, há tôi không dạy cho ông rằng sớm muộn, chúng ta đều phải chịu sự chia ly với những gì thân yêu gần gũi? Cái gì đã sinh thành tất phải hoại diệt, tan rã. Không phân ly là điều không thể có. Này A Nan cũng như cành lớn của một cây đại thọ vững mạnh đã gãy xuống, Xá Lợi Phất nhập diệt đối với chúng Tỳ kheo thanh tịnh này cũng vậy. Quả thế, A Nan, có tụ hội tất phải có phân ly. Không phân ly là điều không thể có. Bởi thế, này A Nan, hãy tự mình làm một hòn đảo, một chỗ nương cho chính mình, đừng tìm chỗ nương tựa bên ngoài. Hãy lấy chánh pháp làm hòn đảo, lấy chánh pháp làm chỗ nương đừng tìm chỗ nương nào khác.

Rồi Ðức Thế Tôn đưa tay đỡ lấy di cốt của vị Thánh đệ tử thân yêu, và bảo đại chúng:

- Này các Tỳ kheo, đây là di cốt trắng như vỏ ốc của vị Tỳ kheo cách đây không lâu đã xin phép ta để nhập Niết bàn. Vị Tỳ kheo ấy là người thành tựu các hạnh Ba La Mật trải qua vô lượng kiếp. Vị Tỳ kheo ấy là người đã giúp ta chuyển bánh xe pháp. Vị Tỳ kheo ấy là người được chỗ ngồi bên cạnh ta. Vị Tỳ kheo ấy là người trong cõi Tam thiên thế giới không có ai sánh kịp về phương diện trí tuệ, chỉ trừ Ðức Như Lai.

Vị Tỳ kheo ấy là người có trí tuệ lớn, có trí tuệ rộng, có trí tuệ sáng, có trí tuệ sắc bén, có trí tuệ sâu xa. Vị Tỳ kheo ấy ít muốn biết đủ, thích độc cư, không thích đám đông, đầy nghị lực. Vị Tỳ kheo ấy là bậc khích lệ những người đồng phạm hạnh, sẵn sàng chỉ điểm những lỗi lầm. Vị Tỳ kheo ấy khi xuất gia đã từ bỏ một gia sản lớn lao có được nhờ công đức tích lũy từ 500 đời trước. Vị Tỳ kheo ấy là người có hạnh nhẫn nhục như đại địa. Vị Tỳ kheo ấy có tâm bất hại, như một con trâu đực đã cưa hai sừng. Vị Tỳ kheo ấy có tâm khiêm hạ như đồng tử.

Này các Tỳ kheo, hãy nhìn đây xương trắng tro tàn của bậc Ðại tuệ, bậc Quảng tuệ, bậc Lợi tuệ, bậc Minh tuệ ấy, con người ít muốn biết đủ ấy, con người ưa thích độc cư, con người đầy nghị lực ấy! Nhìn đây, xương tàn của một Tỳ kheo đã khích lệ, làm cho phấn khởi đấng Tỳ kheo, sẵn sàng chỉ điểm lỗi lầm cho chúng Tỳ kheo.

Bên bờ sông Hằng, không lâu sau khi hai đệ tử của Ngài nhập diệt, một hôm Ðức Thế Tôn đưa mắt im lặng nhìn khắp tất cả đại chúng vây quanh rồi dạy:

- Hội chúng này, hỡi các Tỳ kheo, đối với ta bây giờ quả thật trống rỗng, khi Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên không còn!

THÍCH NỮ TRÍ HẢI

“Nếu con đòi hỏi mỗi khi đi đến đâu, thiên hạ phải trải chiếu hoa cho bước chân con khỏi bị đau đớn vì gai góc sỏi đá, thì điều đó khó thực hiện. Chi bằng hãy mang một đôi hài nhẫn nhục, thì tha hồ mà xông bờ lướt bụi”.



Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |